HOME LỜI
CHÚA ĐỨC
TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
B. BÍ TÍCH CÔNG GIÁO VÀ BIỂU TƯỢNG
TÔN GIÁO KHÔNG KITÔ
a). Đặc tính của bí tích
Công Giáo
i).
Sinh ân sủng do sự (ex opere operato)
b). Biểu tượng ban ân sủng
nơi tôn giáo không kitô
i).
Ơn công chính ngoài bí tích cho kitô hữu
Bởi
ḷng nhân hậu của Thiên Chúa (ex divina decreta eterna)
ii).
Người Do Thái giáo thời Cựu Ước và hiện
tại
iii).
Người sống trong tôn giáo ngoài kitô
Do
chủ thể (ex opere operantis)
Do ư
định Thiên Chúa (ex divina decreta eterna)
Mệnh
lệnh của Chúa Yêsu phục sinh
Thay lời kết: BIỂU TƯỢNG, ÂN SỦNG VÀ
THÁNH THẦN
Bí
tích là một từ ngữ đa nghĩa,
· nó dùng để chỉ
bảy “dấu chỉ hữu hiệu của ân sủng” của
Giáo Hội Công Giáo (nghĩa là bảy bí tích theo nghĩa
vẫn được dùng);
· nó cũng được
dùng với nghĩa dấu chỉ của “thực tại
vô h́nh” như “Đức Kitô là bí tích nguồn” và “Giáo Hội
là bí tích nguyên thủy”[1];
· nó cũng được dùng,
đặc biệt ở đây, để chỉ những
biểu tượng, tức là dấu chỉ của thực
tại vô h́nh, trong các tôn giáo ngoài kitô.
Một
số tác giả, chẳng hạn như Karl Rahner, đă coi
các bí tích Kitô giáo là những biểu tượng thực[2];
đức Kitô là biểu tượng thực uyên nguyên,
v́ Ngài vừa là biểu tượng vừa là thực tại
của biểu tượng. Như vậy, biểu tượng được gọi là bí tích
theo nghĩa rộng; và chúng ta có thể gọi các biểu
tượng ngoài kitô là bí tích của các tôn giáo ngoài kitô,
và bí tích của Giáo Hội Công Giáo là biểu tượng thực.
Để
thấy tương quan dị đồng giữa bí tích
Công Giáo và bí tích các tôn giáo ngoài kitô, chúng ta sẽ xét những
đặc điểm của bí tích Công giáo và sau đó
của các bí tích ngoài kitô giáo.
K.
Rahner định nghĩa bí tích là lời của Đức
Kitô đặt nơi miệng Giáo Hội, và Lời này
sinh ân sủng do sự[3].
Quan niệm “bí tích là hữu hiệu” này bắt nguồn từ
những suy tư về Lời Chúa của K. Rahner. Ngài
cho rằng:
· Lời Chúa được
kư thác cho Giáo Hội bảo tồn và lưu truyền;
bí tích cũng là lời,
một lời hữu hiệu[4].
Khi nói bí tích là lời hữu hiệu tác giả đă
cho thấy dấu chỉ và biểu tượng cũng thuộc
về lời.
Đức
Yêsu nói: “Hăy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng
cho mọi loài thọ tạo. Ai tin cùng chịu Thanh Tẩy
th́ sẽ được cứu, c̣n ai không tin sẽ bị luận
tội” (Mc.16, 15-16). Đây là mệnh lệnh của đức
Yêsu sau khi Ngài đă phục sinh! Nhưng ngay khi đức
Yêsu bắt đầu rao giảng, Ngài đă dạy các môn
đệ làm thanh tẩy cho dân chúng (Yn.3, 22.26). Vâng lệnh
đức Yêsu Phục Sinh, các tông đồ cũng rao giảng
và ban phép thánh tẩy như trường hợp cho hoạn
quan (Cv.8, 38tt), cho gia đ́nh Cornêliô (Cv.10, 47-48).
Chúng
ta được thanh tẩy trong đức Yêsu Kitô,
chính trong cái chết của Ngài mà ta được thánh
tẩy. Như vậy nhờ thánh tẩy, chúng ta đă
được mai táng làm một với Đức Kitô
trong sự chết, ngơ hầu như Đức Kitô nhờ
bởi vinh quang Cha, đă được sống lại từ cơi
chết, th́ cả ta nữa, ta cũng bước đi
trong đời sống mới (Rm.6, 3-4).
Thanh
tẩy là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ ban
ân thánh do việc cử hành dấu chỉ này. Bí tích có
hiệu lực do sự (ex epere eperato) v́:
· Thiên Chúa là nguyên nhân
chính, nhờ cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là
nguyên nhân ban công nghiệp và nhờ đức tin của
Giáo Hội[5];
· Đức Yêsu đă
thiết lập những dấu chỉ này, và Ngài muốn
những dấu chỉ này ban ân thánh khi được
cử hành theo ư và nhân danh Ngài.
Bí
tích nếu chỉ là một dấu chỉ của thực
tại thiêng liêng, th́ cũng có giá trị như những
biểu tượng khác, hoặc trong Kitô giáo hoặc trong
các tôn giáo ngoài kitô. Điểm khác biệt giữa bí tích
Công Giáo và các biểu tượng khác trong Giáo Hội
Công Giáo và trong các tôn giáo ngoài kitô, là các bí tích Công giáo có hiệu
quả do sự (ex opere operato).
Cái
làm cho bí tích Công Giáo có hiệu quả do sự, là chúng
được đức Yêsu Kitô thiết lập, và
được thiết lập để ban ân thánh cho
con người. Khi Đức Kitô cử hành những dấu
chỉ này, chẳng hạn như Ngài ḥa nước bọt
vào bùn và xức cho người mù, th́ những dấu chỉ
hành vi này ban cho người mù được sáng và
được ơn công chính.
Đức
Kitô thiết lập Giáo Hội để tiếp tục
công việc cứu thế của Ngài nơi trần gian,
nên khi Giáo Hội cử hành các dấu chỉ này, cũng là
Đức Kitô cử hành, và như vậy các dấu chỉ
sinh hiệu quả do chính việc cử hành, nghĩa là “do
sự”.
Suy
luận tương tự, để các bí tích sinh hiệu
quả do sự, các bí tích phải được thừa
tác viên cử hành đại diện Giáo Hội nhân danh
Đức Kitô; và xét dưới khía cạnh chủ thể
lănh nhận bí tích, chủ thể này phải hội
đủ yếu tố mà nếu đức Kitô làm, đức
Kitô đ̣i hỏi để Ngài làm những dấu chỉ
này; hiểu như vậy, chủ thể lănh nhận phải
hội đủ yếu tố Giáo Hội quy định
xét như đại diện Đức Kitô tại trần
gian.
Nơi
thừa tác viên cử hành bí tích,
họ phải là người đại
diện Giáo Hội của Đức Kitô,
và do đó phải làm theo ư Đức
Kitô nơi Giáo Hội,
cụ thể thi hành điều
Giáo Hội xét như đại diện của
Ngài nơi trần thế dạy phải làm.
Nơi
chủ thể lănh nhận bí tích, thụ nhân phải có
đức tin, và hội đủ những điều kiện
Đức Kitô đ̣i hỏi qua Giáo Hội[6]
đại diện Ngài.
Như
đă nói trên, nét đặc trưng của bí tích kitô
giáo là có hiệu quả do sự (ex opere operato), thế c̣n
bí tích nơi các tôn giáo ngoài kitô? Khi nào hay do đâu các
bí tích, biểu tượng nơi các tôn giáo ngoài kitô ban
ân sủng và đặc biệt ân sủng công chính hóa
cho những người sống trong tôn giáo ngoài kitô đó?
Để
giải quyết vấn đề này, đầu tiên sẽ
xét ân sủng công chính được ban cho kitô hữu
ngoài bí tích, rồi tới những người dự ṭng,
và sau đó những tín hữu nơi các tôn giáo ngoài kitô.
Chính nhờ ánh sáng Kitô giáo mà chúng ta có thể giải
đáp câu hỏi về đặc tính của bí tích các tôn
giáo ngoài kitô.
Sách
giáo lư của Giáo Hội Công Giáo dạy, ta có thể
được lại ân sủng thánh hóa nhờ ăn
năn tội cách trọn[7].
Các
thần học gia trường phái Thomas cho rằng chỉ
có một con đường để được
ơn công chính hóa, và coi bí tích như một yếu tố
không thể thiếu trong tiến tŕnh lănh ơn công chính
hóa này[8].
C̣n Duns Scott cho rằng có hai con đường cứu độ
khác nhau, đường này độc lập với
đường kia, một là ngoài bí tích như việc thống
hối ăn năn cách trọn, và một khác là bằng
bí tích phát sinh ơn công chính do sự (ex opere
operato), nhưng không phải con đường thứ
nhất làm cho việc lănh nhận bí tích thành dư thừa
v́ việc này dựa vào quyền Thiên Chúa theo đó ư hướng
thú tội là yếu tố không thể miễn trừ của
tất cả hối nhân đích thực[9].
Theo Duns Scott việc có hai con đường công chính hóa
cho tội nhân, là một dấu chỉ cho thấy ḷng
nhân từ của Thiên Chúa, hơn là chỉ có một con
đường[10].
Cũng theo ông, con đường bí tích là con đường
dễ hơn con đường kia[11].
Với
K. Rahner không có hai con đường cứu độ
nhưng chỉ có một con đường cứu độ
và như vậy không thể đặt vấn đề
nên theo con đường này hay theo con đường
kia. Theo ông, có hai thời điểm chứ không phải hai
đường của cùng một biến cố cứu
độ[12]:
tương tự như “Lời duy nhất có tính cứu
độ và hữu hiệu của Thiên Chúa” có một lịch
sử nhưng có những thời điểm khác nhau, mỗi thời
điểm có giá trị tương ứng với toàn thể
và thời điểm sau không làm thời điểm
trước mất giá trị, th́ cũng vậy biến cố
cứu độ nơi mỗi cá nhân [13].
Để
lănh nhận bí tích, để bí tích có thể sinh hiệu
quả do sự cho thụ nhân, chủ thể lănh nhận
phải hội đủ những điều kiện
do Giáo Hội đại diện Chúa Kitô quy định. Chẳng
hạn nơi bí tích ḥa giải, để có thể lănh
nhận ân sủng công chính hóa sau khi phạm tội, thụ
nhân phải có ḷng thống hối; nếu thiếu ḷng
thống hối này, bí tích không sinh hiệu quả, nghĩa
là không ban ơn công chính hóa cho họ. Như vậy ngay nơi bí tích, yếu tố chủ
thể lănh nhận cũng rất quan trọng. “Thiên Chúa
đă sinh ta chúng ta không hỏi ư kiến chúng ta
nhưng Ngài không thể cứu độ chúng ta nếu
chúng ta không đồng ư”; chính yếu tố chủ thể
(ex opere operantis) làm cho chủ thể được ân sủng
công chính hóa[14].
Khi
một kitô hữu lănh nhận ân sủng công chính hóa trước
khi lănh nhận bí tích, không hàm chứa rằng việc
lănh nhận bí tích là dư thừa hoặc không cần thiết,
bởi v́ các bí tích là biểu lộ của đức
tin[15].
Hành vi thống hối đă là tác động của
ân sủng, và nó không chỉ thuần túy là thái độ
nội tâm nhưng c̣n được biểu lộ ra bên
ngoài qua việc quỳ gối cầu nguyện, nghĩa là,
nó đă được diễn tả qua hành động[16].
Việc lănh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích, cũng vẫn là
lănh nhận ân sủng này trong Giáo Hội; và nếu xét chủ
thể lănh nhận như thành phần của Giáo Hội
th́ hậu quả cũng được biểu lộ nơi
Giáo Hội, cụ thể nơi thụ nhân lănh nhận ân sủng,
và cao điểm là lănh nhận bí tích[17].
Các
bí tích ban ân sủng “do sự”; c̣n trường hợp ân sủng
được ban “do nhân”, là ân sủng được
ban nhờ thái độ của thụ nhân; có thái độ
này, là nhờ các biểu tượng ngoài bí tích; và thái
độ này cũng được diễn tả qua những
hành vi biểu tượng như cầu nguyện, làm việc
bác ái.
Do
sự khác do nhân ở chỗ, cũng tương tự như
trước khi đức Yêsu Kitô xuất hiện, con
người cũng được ân sủng thánh hóa, cũng
được cứu độ nhưng con người vẫn
phải chờ biến cố đức Yêsu dù họ
không biết, và chỉ với biến cố đức
Yêsu Kitô con người mới biết rơ ḿnh đă
được cứu độ và được cứu
độ nhờ đức Yêsu Kitô; con người có
thể được ơn công chính hóa trước khi
lănh nhận bí tích nhưng con người vẫn chưa biết
rơ ḿnh được điều này, và chỉ khi lănh nhận
bí tích, người ta mới biết rơ ḿnh đă
được công chính hóa[18].
Ân
sủng của Thiên Chúa đă hoạt động
nơi con người khi lănh nhận bí tích; và tùy thuộc
thái độ của thụ nhân, ân sủng c̣n
được biểu lộ cách hữu h́nh ra bên ngoài, và
người lănh nhận bí tích có sự chắc chắn
chủ quan lẫn khách quan về ân sủng ḿnh nhận
được. C̣n khi người ta nhận lănh ơn
công chính ngoài bí tích[19],
ân sủng của Thiên Chúa cũng hoạt động
nơi người ấy, giúp người ấy chuẩn
bị lănh nhận ân sủng công chính hóa, và chính Thiên Chúa
ban ân sủng công chính hóa khi Ngài thấy được,
và rồi ân sủng này cũng được biểu lộ
ra qua những dấu chỉ biểu tượng bên
ngoài. Người nhận lănh ân sủng thánh hóa ngoài bí
tích, có thể có sự chắc chắn chủ quan nhưng
sự chắc chắn này có thể không hoàn toàn.
Một
người lănh nhận ân sủng công chính ngoài bí tích hay
đúng hơn là trước bí tích, là do ḷng
thương xót nhân từ của Thiên Chúa và nhờ thái
độ thống hối được biểu lộ
qua việc đọc kinh cầu nguyện, công tác bác
ái. Chúng ta dùng từ ngữ “do nhân” (ex opere operantis) để
chỉ đặc tính trường hợp được
ân sủng công chính ngoài hoặc trước bí tích.
Người
dự ṭng có thể đă được ân sủng công
chính hóa trước khi lănh nhận bí tích Rửa Tội
do thái độ của họ (ex opere operantis), và như
vậy nếu họ chết trước khi lănh nhận bí
tích rửa tội, họ được cứu độ.
Các nhà thần học và ngay cả huấn quyền giải
thích việc lănh nhận ân sủng công chính hóa trưóc
khi lănh bí tích rửa tội bằng phép rửa bởi
Thánh Thần, bằng ḷng ao ước lănh bí tích (votum
sacramenti), bằng hành vi bác ái.
Trẻ
con chết trước khi lănh nhận bí tích rửa tội,
dù cho cha mẹ là kitô hữu hay lương dân, nếu
c̣n mắc tội tổ tông các em cũng không được
hưởng tôn nhan Chúa, nhưng chắc chắn “Thiên Chúa
không thể nào để cho bao nhiêu trẻ con phải
hư mất đời đời”[20]. Như
vậy phải chăng Thiên Chúa nhân từ tha thứ tội
tổ tông cho các em v́ đức tin của Giáo Hội?
Vấn
đề này liên hệ đến quan niệm về tội
tổ tông, về tiến tŕnh thành người của
thai nhi, về ḷng nhân từ của Thiên Chúa. Những trẻ
chết khi Hêrôđê muốn giết hài nhi
Yêsu, được gọi là các thánh anh hài; các em nhỏ
được rửa tội trong gia đ́nh Công giáo nhờ
đức tin của cha mẹ, được lên thiên
đàng; c̣n các em nhỏ khác th́ sao? đức tin của
Giáo Hội có tác động đến các em không? Thiên Chúa
có thua ḷng nhân từ của chúng ta không, nếu chỉ là
người mà chúng ta c̣n nghĩ rằng các em đó phải
được hưởng kiến Thiên Chúa?
Trong
quan niệm nhân học cho rằng ơn gọi con người là
được sống hạnh phúc với Thiên Chúa, ngay cả
trong t́nh trạng sa ngă hiện tại? Và nếu Giáo Hội
khẳng định những người chưa rửa
tội có thể được cứu độ khi họ
sống theo lương tâm ăn ở ngay lành, c̣n các em
bé và các thai nhi- các em chưa thể biểu lộ đức
tin của ḿnh qua hành động, đó không là lỗi tại
các em- như vậy chúng ta có lư để cho rằng các em
có thể được cứu độ. Các em
được cứu độ v́ Thiên Chúa là Đấng
vô cùng nhân từ và công bằng, v́ Đức Kitô đă
chết cho tất cả mọi người, kể cả
các thai nhi trong bụng mẹ. Nếu quả các em
được cứu độ, các em được cứu
độ không cần nhận lănh bí tích và cũng không cần
qua biểu tượng nữa, dù là biểu tượng tự
nhiên.
Kitô
hữu tin rằng những tín hữu Do Thái giáo thời Cựu Ước
được cứu độ nhờ ḷng tin vào Thiên
Chúa (Kn.15, 6), nhờ việc thực thi lề luật
như cách thể hiện đức tin vào Thiên Chúa, nhờ
phép cắt b́ như bí tích xóa tội nguyên tổ[21] cũng
như nhờ các bí tích khác[22],
và đặc biệt vẫn nhờ đức Yêsu Kitô và
trong Giáo Hội.
Cũng
như người Công giáo được lại ân sủng
thánh hóa sau phạm tội nhờ lănh bí tích ḥa giải hoặc
nhờ ḷng thống hối thật, tín hữu Do Thái
giáo sau khi cắt b́ mà phạm tội lănh nhận ân sủng
thánh hóa nhờ nghi lễ xá tội trong ngày lễ xá tội
hằng năm (Lv.16, 33) hoặc nhờ các nghi lễ hay
qua các biểu tượng khác.
Thiên
Chúa cho dân
Tiên
tri Natan và câu chuyện dụ ngôn của tiên tri là lời
biểu tượng để vua David nhận biết lỗi
lầm và thống hối; và chính ḷng thống hối đă
làm Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của David (2Sam.11,
13).
Những
lời của tiên tri Natan và biến cố lưu đày của
dân
Những
biến cố, biểu tượng, và ân sủng,
được ban cho dân
Tương
tự như kitô hữu nhận lănh ân sủng công chính hóa
ngoài bí tích, và tín hữu Do thái giáo nhận lănh ân sủng
công chính hóa trong nhiệm cục cứu độ tiền
ki-tô giáo, ân sủng Thiên Chúa tác động nơi những
người sống trong các tôn giáo ngoài kitô qua các biểu tượng nơi các tôn giáo họ
sống hoặc qua những biểu tượng tự
nhiên, để họ có tâm t́nh thống hối và
thái độ xứng hợp, hầu Thiên Chúa ban ân sủng
công chính hóa cho họ khi Ngài muốn.
Khác
với bí tích kitô giáo, v́ là dấu chỉ được
đức Yêsu Kitô thiết lập và Ngài muốn những
biểu tượng này ban ân sủng do việc cử hành
(ex opere operato), các biểu tượng nơi các tôn giáo
ngoài kitô là phương tiện ban ân sủng cho những
người sống trong các tôn giáo này tùy thuộc
thái độ của họ (ex opere operantis).
Các
biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô ban ân sủng
cho những người sống trong các tôn giáo này tùy ở
thái độ của họ (ex opere operantis), tùy Thiên Chúa
theo ư muốn và dự định của Ngài (ex divina decreta
eterna).
Những
người lănh nhận ơn công chính hóa ngoài bí tích kitô
giáo, có thể có sự xác tín chủ quan về ân sủng nhận
được; và sự xác tín khách quan có thể có khi
ân sủng công chính hóa được biểu lộ ra
bên ngoài qua các biểu tượng, chẳng hạn hành vi
bác ái, đời sống lương thiện, yêu mến
tha nhân đồng loại, những cảm nghiệm về
Tuyệt Đối.
Trong
nhăn quan kitô và nhân bản không bị lệch lạc, nhận lănh
ân sủng công chính hóa qua bí tích kitô giáo là con đường
đơn sơ và dễ dàng nhất, và thụ nhân có sự xác
tín chủ quan lẫn khách quan về ân sủng ḿnh
được nhận.
Đối
với kitô hữu, truyền giáo là loan báo cho muôn dân biết
Thiên Chúa yêu thương con người, và Ngài muốn
cho tất cả được thông dự sự sống
vĩnh cửu của Ngài.
Thiên
Chúa yêu thương con người đến độ
ban Con Một của Ngài cho con người, tức là đức
Yêsu Kitô (Yn.3, 16). Với biến cố Yêsu Kitô, tất cả
được biến đổi. Con người, nhờ
đức Yêsu Kitô, đă thấy rơ ư nghĩa cuộc sống
của ḿnh, biết rằng ḿnh được Thiên Chúa yêu
thương, biết rằng ḿnh sẽ được cứu
độ, sẽ được thông phần hạnh phúc vĩnh
cửu của Thiên Chúa nếu ḿnh tin vào đức Yêsu
Kitô (Yn.3, 16).
Truyền
giáo là loan báo tin mừmg đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu Kitô chính là Tin Mừng cho tất cả
nhân loại; không có Ngài, không có ơn cứu độ;
và có Ngài tất cả được đổi mới, tất
cả được hạnh phúc, tất cả
được tham dự sự sống Thiên Chúa.
Truyền
giáo có thực sự cần thiết không khi các tôn giáo ngoài
kitô cũng có những biểu tượng, qua đó
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho những người
thuộc tôn giáo đó?
Câu
trả lời thật đơn sơ rơ ràng: dù các tôn
giáo ngoài kitô có là phương tiện cứu độ cho
những người sống trong đó, dù các tôn giáo
ngoài kitô có những biểu tượng qua đó Thiên
Chúa vẫn dùng để ban ân sủng cứu độ cho
họ, th́ việc truyền giáo “loan báo đức Yêsu
cho những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô” là một
chuyện rất cần thiết và không thể miễn trừ.
Sau đây là những lư do buộc các kitô hữu phải truyền giáo.
Kitô
hữu là người có niềm vui lớn lao vô cùng: “Đức
Yêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người v́ yêu
thương chúng ta, Ngài đă chết và sống lại
để chúng ta cũng được sống lại với
Ngài, Ngài muốn cho con người được thông
chia sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa”. Khi một
người có niềm vui, họ thường đem
chia sẻ với những người xung quanh, với
những người thân, với những người họ
yêu mến. Như vậy nếu một kitô hữu xác
tín niềm tin của ḿnh, chắc chắn họ phải chia
sẻ Tin Mừng này cho những người họ yêu, cho
những người thân, cho những người
xung quanh họ. Nếu họ không chia sẻ Tin này, th́ e rằng
đây không phải là một Tin Mừng thật, hoặc
họ không có t́nh yêu đối với những người xung
quanh và với những người thân, và nếu vậy họ không
giống Thiên Chúa là Đấng yêu thương mọi
người và muốn chia sẻ niềm vui, sự sống
của Ngài với con người.
Đức
Yêsu Kitô sau phục sinh, đă truyền cho các môn đệ mệnh
lệnh “các con hăy đi khắp cả thiên hạ rao giảng
Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu
thanh tẩy sẽ được cứu, c̣n ai không tin
sẽ bị luận tội” (Mc.16, 15-16//).
Thánh
Thần của đức Yêsu Phục Sinh cũng đă tách
riêng Phaolô và Barnaba để sai các ngài đi rao giảng
tin mừng đức Yêsu cho người Do Thái, và sau
đó cho dân ngoại (Cv.13, 2.46). Phaolô đă xác tín ơn
gọi rao giảng Tin Mừng của Ngài: “khốn
cho tôi, nếu tôn không rao giảng Tin Mừng “ (1Cor.9,
16).
Mệnh
lệnh đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc, làm
thành tính công giáo của Giáo Hội: “Vậy các con hăy đi
thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy
chúng nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy chúng tuân giữ
hết mọi điều thầy đă truyền cho
các con” (Mt.28,18-19). Giáo Hội đă nhận lănh sứ mạng
như đức Yêsu nhận lănh từ Cha: “như Cha
đă sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Yn.20, 21).
Đức
Yêsu Kitô là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và con người (1Tm.2, 5), Ngài là Lời Thiên Chúa nhập
thể làm người (Yn.1, 14), nên Ngài là bí tích nguồn
ban ân sủng cho con người (Yn.1, 18). Giáo Hội,
được Thánh Thần đức Yêsu Kitô hướng
dẫn, là bí tích phổ quát ban ơn cứu độ cho
con người[23],
cho tất cả mọi người thuộc mọi quốc
gia ngôn ngữ. Nếu Giáo Hội không truyền giáo, Giáo
Hội không c̣n tư cách đại diện Chúa Kitô nữa,
không c̣n là bí tích phổ quát nữa, và như vậy Giáo
Hội không c̣n là Giáo Hội nữa.
Chúng
ta vẫn phải truyền giáo, bởi v́
· chính trong đức
Yêsu Kitô và nhờ đức Yêsu Kitô mà các tôn giáo ngoài
kitô trở thành phương tiện cứu độ;
· chính trong Giáo Hội-
ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ- mà ân sủng
được ban cho những người sống trong
các tôn giáo ngoài kitô, hay những người không theo một
tôn giáo nào, hoặc ngay cả những người vô t́nh
không tin nhận Thiên Chúa, dù rằng qua các biểu tượng
trong tôn giáo ngoài kitô hoặc qua các biểu tượng tự
nhiên.
· Hơn nữa, chúng ta cũng
đă thấy ở trên, các tôn giáo ngoài kitô vẫn có những
sai lầm v́ có những yếu tố thuần túy con người,
v́ các tôn giáo ngoài kitô không được Thánh Thần bảo
đảm việc lưu truyền kinh nghiệm với
Tuyệt Đối, và v́ các biểu tượng tôn giáo
ngoài kitô vẫn có nhiều nét hàm hồ không phản ánh tinh
ṛng Thực Tại Vô H́nh, và đôi khi c̣n làm cho con
người hiểu sai lệch về Tuyệt Đối.
Truyền
giáo không là truyền bá văn hóa Do thái hay Hy lạp hay tây
phương, nhưng là rao giảng tin mừng đức
Yêsu Phục Sinh.
Giáo
Hội không truyền bá một ư thức hệ với những
giải thích về vũ trụ, Thiên Chúa và con người,
nhưng rao giảng tin mừng đức Yêsu Kitô; như vậy
Giáo Hội thích hợp với mọi người và với
mọi nền văn hóa của mọi dân tộc và mọi
thời đại.
Giáo
Hội là Công Giáo, nên Giáo Hội ḥa hợp với mọi
dị biệt của những nền văn hóa khác nhau, nên
Giáo Hội phải t́m hiểu cách suy nghĩ, diễn tả
của từng dân tộc, của từng nền
văn hóa, để loan báo tin mừng đức Yêsu Kitô một
cách thích đáng, và để mọi người dễ
tin nhận hơn.
Hội
nhập văn hóa là t́m hiểu cách suy nghĩ và diễn tả
của từng dân tộc, để tŕnh bày tin mừng
đức Yêsu Kitô theo cách thức suy nghĩ và diễn
tả của dân tộc đó. Nếu chúng ta không hội nhập
văn hóa, không tŕnh bày Tin Mừng theo văn hóa của dân tộc
được rao giảng Tin Mừng, sẽ làm người
ta dễ hiểu lầm Tin Mừng, và hậu qủa
là đa số từ chối Tin Mừng đức Yêsu
Kitô.
Đặc
biệt với những dân tộc châu Á, có nền văn
hóa rất khác với những nước châu Âu, nếu
Tin Mừng không được rao giảng bằng ngôn
ngữ văn hóa các nước châu Á, e rằng không có
bao người tiếp nhận Tin Mừng. Chẳng hạn
việc “thờ cúng tổ tiên”, nếu những người
Công Giáo làm cho người Việt Nam nghĩ rằng theo
đạo là bất hiếu, phải bỏ ông bà, th́
thường họ không chấp nhận theo đạo;
thực sự người Công Giáo tôn kính ông bà cách
khác, chúng ta không bất hiếu, chúng ta vẫn nhớ cầu nguyện
cho ông bà, tổ tiên, cha mẹ chúng ta trong những giờ
kinh nguyện; tuy vậy, chúng ta phải để cho
người Việt Nam tôn kính ông bà theo kiểu của
họ, th́ tin mừng đức Yêsu Kitô mới dễ
được nhiều người chấp nhận; chúng
ta chỉ ngăn cản khi những hành vi tôn kính này
đi ngược lại đức tin mà thôi. Người
Công Giáo Việt Nam nói về ḷng tôn kính ông bà tổ tiên
theo cách thức, theo nền văn hóa của người
Việt Nam; và điều chúng ta nói về ḷng tôn kính tổ
tiên cũng đúng cho những vấn đề khác;
đó là công tác hội nhập văn hóa của Giáo Hội
khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng đức
Yêsu Kitô cho mọi dân tộc.
Giáo
hội khẳng định lập trường với
công đồng Vatican II qua tuyên ngôn về các tôn giáo ngoài
kitô: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những
ǵ là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ngoài
kitô. Với ḷng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy
những phương thức hành động và lối sống, những
huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều
điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội
duy tŕ, nhưng cũng thường đem lại
ánh sáng của Chân Lư, Chân Lư chiếu soi cho hết mọi
người; v́ thế, Giáo Hội khuyến khích con cái
ḿnh nh́n nhận, duy tŕ và cổ động cho những
thiện ích thiêng liêng cũng như luân lư và những
giá trị xă hội văn hóa của các tín đồ
thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối
thoại hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín
đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của
đức tin và đời sống kitô giáo”[24].
Như
vậy chúng ta thấy, Giáo Hội chấp nhận những
ǵ chân thật và tốt lành nơi các tôn giáo ngoài kitô, và
cổ vơ việc đối thoại. Việc đối thoại
hàm chứa niềm tin rằng các tôn giáo ngoài kitô có những
chân lư, có những điều tốt lành. V́ nếu Giáo
Hội nhận rơ các tôn giáo ngoài kitô là phương tiện
của ma quỷ, hoặc là công tŕnh của con người xét
như một thế lực chống lại Thiên Chúa
như một số người trong anh em Tin Lành chủ
trương, th́ chắc Giáo Hội đă thẳng thắn
bài bác và không bao giờ khuyến khích con cái ḿnh đối
thoại cả. Việc đối thoại với các
tôn giáo ngoài kitô hàm chứa phần nào niềm tin rằng các
tôn giáo ngoài kitô cũng là phương tiện Thiên Chúa dùng
để cứu độ con người, nếu
không việc đối thoại chỉ là giả h́nh và thuần
túy “ngoại giao”.
Đối
thoại với các tôn giáo ngoài kitô là để thấy rơ những giá
trị của tôn giáo ngoài kitô, thấy rơ điều hay
điều tốt và cả những điều không thể
dung hợp với đức tin kitô giáo nữa, hiểu biết
hơn về các tôn giáo ngoài kitô, cũng như những
biểu tượng đức tin và những hành vi biểu
lộ niềm tin của họ, hiểu biết cách diễn
tả thực tại thiêng liêng theo nền văn hóa của
dân tộc theo tôn giáo này, và như vậy chúng ta có thể
tŕnh bày đức Yêsu cho những người theo tôn
giáo đó cũng như cho dân tộc này cách thích hợp
hơn.
Việc t́m
hiểu các tôn giáo ngoài kitô rất quan trọng trong việc
truyền giáo, trong việc loan báo Tin Mừng đức
Yêsu Phục Sinh, bởi v́ khi đă thấy rơ giá trị
và ư nghĩa các biểu tượng của các tôn giáo ngoài
kitô cũng như cách diễn tả tâm t́nh tôn gíáo của
dân tộc với nền văn hóa riêng, chúng ta có thể
rao giảng tin mừng đức Yêsu theo những biểu
tượng về thực tại thiêng liêng mà ta đă biết.
Nói một cách khác, chúng ta kitô hóa các biểu tượng[25]
nơi các tôn giáo ngoài kitô nếu có thể được.
Nói
về biểu tượng và ân sủng mà không đề cập
tới Thánh Thần là một thiếu sót lớn, bởi v́
ân sủng là t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con
người, làm cho con người được nên giống
Thiên Chúa.
Thánh
Thần là ngôi vị thứ ba của Thiên Chúa, Ngài là
“hơi thở” của Cha và Con, nhiệm xuất từ Cha
và Con, là t́nh yêu giữa Cha và Con. Ngài được biệt
gán cho nhiệm vụ thánh hóa con người và toàn thể vũ
trụ! Khi trở về cùng Cha, Đức Yêsu đă gởi
Thánh Thần của Ngài trên các tông đồ và toàn thể
Giáo Hội, để Thánh Thần tiếp tục và hoàn tất
chương tŕnh cứu chuộc loài người của
Chúa Cha, được Chúa Con nhập thể thi hành. Có thể
nói tất cả những hướng chiều đi lên với
Thiên Chúa của con người, đều là tác động
của Thánh Thần.
Ân
sủng là tác động của Thiên Chúa nhằm cứu
độ con người, luôn đi trước thái độ
và lời đáp trả của con người! Không phải
chúng ta yêu Thiên Chúa trước, nhưng chính Ngài đă yêu
chúng ta trước và đă phó mạng sống ḿnh v́ ta
(1Yn.4, 19.10). Không ai đến được với Ta nếu
Cha Ta không lôi kéo nó (Yn.6, 44); không ai có thể tuyên xưng Yêsu
là Chúa mà không bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3).
Thiên
Chúa yêu thương thế gian vô cùng, Ngài muốn cứu
độ tất cả mọi người (1Tm.2, 4), muốn
mọi người được nên giống Ngài,
được tham dự sự sống vĩnh cửu của
Ngài. T́nh yêu của Thiên Chúa chan ḥa vũ trụ và tràn ngập
ḷng người, và Thánh Thần T́nh Yêu luôn luôn hoạt
động nơi ḷng mỗi người để lôi kéo
họ tới với Thiên Chúa, để họ được
cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô. Như trước
khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đă yêu
thương từng người chúng ta, cũng vậy
trước khi t́nh yêu ân sủng được biểu lộ
cụ thể, th́ Thiên Chúa đă yêu thương ta trong Thánh
Thần. T́nh yêu đi trước bí tích, biểu tượng.
T́nh
yêu là tương quan liên vị nên cần phải được
diễn tả và biểu lộ. Với con người v́
là hồn và xác, nên t́nh yêu cần và phải được
diễn tả qua những dấu chỉ. Thiên Chúa
đă biểu lộ t́nh yêu của Ngài khi ban Con Một cho
loài người (Yn.3, 16); Đức Yêsu Con Thiên Chúa nhập
thể, cũng đă chấp nhận chết nhục nhă
trên thập giá để biểu lộ t́nh yêu của Ngài
và của Cha cho con người; và Đức Yêsu đă
thiết lập Giáo Hội như đại diện hữu
h́nh của Ngài nơi trần gian, để trở thành dấu
chỉ cứu độ cho con người, bằng việc
loan báo Lời Chúa và cử hành các biểu tượng ban ân
thánh hữu hiệu.
Thánh
Thần Thiên Chúa luôn hoạt động khắp nơi và
trong ḷng mỗi người, nên tất cả mọi hành vi
tốt của con người đều là hành vi siêu nhiên
và có giá trị cứu độ. Mọi hành vi tốt đều
là ân sủng của Thiên Chúa[26]. Thánh
Thần hoạt động rất tự do, không bị giới
hạn trong những cơ cấu và định chế:
“khí muốn đâu th́ thổi, ông nghe được tiếng,
nhưng nào có biết từ đâu mà đến hay lại
đi đâu? cũng vậy với mọi kẻ sinh bởi
Thần Khí” (Yn.3, 8). Hoạt động của Thánh Thần
nơi con người cũng được biểu lộ
ra bên ngoài, chẳng hạn Thánh Thần đă tỏ lộ
hoạt động trong ngày lễ ngũ tuần (Cv.2, 1tt)
dù rằng con người, cụ thể các tông đồ
đă nhận lănh Thánh Thần ngay trong ngày đức Yêsu phục
sinh (Yn.20, 22). Như vậy ân sủng, t́nh yêu của Thiên
Chúa được cụ thể hóa, cũng được
diễn tả qua các dấu chỉ biểu tượng.
Tất
cả là ân sủng[27].
Hoạt động của Thánh Thần T́nh Yêu Thiên Chúa
bao phủ tất cả hoàn vũ và tận trong thâm sâu con
người. Chính Thánh Thần tác động để
con người vươn lên, nhận ra những điều
tốt lành thiện hảo cũng như những
điều không hợp với bản tính con người,
lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, và giúp
con người biểu lộ tâm t́nh của ḿnh qua các biểu tượng,
dấu chỉ thực tại thiêng liêng. Không có ǵ tốt
lành thánh thiện mà ở ngoài Thiên Chúa, mà lại không
được Thánh Thần tác động và hướng
dẫn! Những ǵ tốt lành thánh thiện, những ǵ giúp
con người vươn lên với Thiên Chúa ngay cả
trong các tôn giáo ngoài kitô, đều là hoa trái của Thánh
Thần. Chính Thánh Thần đă giúp những người sống trong
các tôn giáo ngoài kitô gặp gỡ Thực Tại Tuyệt
Đối qua các biểu tượng, thánh hóa và ban cho họ
hồng ân vô giá “trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba
Ngôi” ngay cả khi họ không ư thức.
TẤT CẢ CHO VINH DANH CHÚA HƠN
Viết xong 20:40' ngày 06.02.1985
Lễ thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo
Art. Articulus Bài
Art. cit. Articulo
citato Bài đă dẫn
AUG. Augustinô
DS. DENZINGER-SCHONMETZER,
Enchiridion Symbolorum Definitionum et Declarationum de rebus fidei et morum,
HERDER MCMLXIII
Ep. Epistula Thư
E.T. K.
RAHNER, Ecrits Théologiques
F.V. Coll.
FOI VIVANTE
GH.
Ibid. Ibidem Cùng vậy
LG. Lumen
Gentium Hiến Chế Giáo Hội
NK. Ngoài
kitô giáo. Tuyên ngôn của Công Đồng Vatican II về liên lạc của
Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô
op. cit. Opere
citato Sách đă dẫn
p (pp). Trang
(các trang)
PG. J.
P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series graeca, PARISIIS 1857 seq.
PL. J.
P. MIGNE, Patrologiae cursus completus, Series prima
R. ROUET
DE JOURNEL, Enchiridion patristicum, HERDER MCMLXV
S.T. St.THOMAS,
Summa Theologiae
TG. Sắc
lệnh Truyền giáo của Công Đồng Vatican II.
· Trong bài này, kư hiệu
Kinh Thánh dùng theo Cha Nguyễn Thế Thuấn, bản dịch
in bởi D̉NG CHÚA CỨU THẾ 1976.
· Kư hiệu của Công
Đồng Vatican II dùng theo bản dịch của Giáo
Hoàng Học Viện ĐALAT- VIỆT
Ở đây chỉ ghi những
sách hoặc những bài báo đă được trích dẫn.
A. BALCHAND, The salvific value of non-christian religions
according to Asian Christian Theologians’ Writtings in Asian
Published Theological Journals 1965-1970. EAPI-MANILA 1973.
CH.
BAUMGARTNER, La Grâce du Christ, Coll. LE MYSTÈRE CHRÉTIEN,
C.
BIHLMEYER et H. TUCHLE, Histoire de l'Eglise, t. I, SALVATOR 1962
E.
C. BLACKMAN, Faith- Faithfulness, trong INTERPRETER'S DICTIONARY OF THE
BIBLE, vol. II,
ABINGDON PRESS- NEWYORK 1962
LEONARDO
BOFF, Le sacrement de mariage, trong CONCILIUM 87 (1973), pp. 21-31
E.
CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962
Y.
CONGAR, Vaste monde ma paroisse: Vérité et dimensions du salut, TÉMOIGNAGE
CHRÉTIEN 1968- FV.27
ÉTIENNE
CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non-chrétiennes, CERF 1965
M-M.
DAVY, Les symboles et l'histoire, trong LE SYMBOLE, bộ RECHERCHES ET
DÉBATS n. 29, PARIS XII (1959)
JOSEPH
DE FINANCE, Connaissance de l'être: Traité d'ontologie, DDB- PARIS 1966
HENRI
DE LUBAC, Dieu se dit dans l'histoire, CERF 1974 FV. 159.
GILDO DOMINICI, Notes de théologie morale. Les
vertus thélogale, GHHV sans date ni lieu
ANTON
DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày
ANTON
DREXEL, Traité de la grâce du Christ ou L'homme dans le Christ, COLLÈGE
PONTIFICAL SAINT PIE X- DALAT 1972
MIRCEA
ÉLIADE, Le sacré et le profane, GALLIMARD 1965
PAUL
FOULQUIÉ et RAYMOND SAINT-JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique,
PUF- PARIS 1962
A.
GAUDEL, art. “Péché eriginel”, trong DTC XII/1 PARIS 1933
M.
HEINRICHS, Théologie catholique et pensée asiatique, CASTERMAN 1965
HUYỀN
CHÂN, Đạo Phật, PHẬT HỌC VIỆN TRUNG PHẦN-NHA
TRANG 1965
LOUIS
LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈCE PONTIFICAL ST. PIE X- DALAT 1974
éd.
XAVIER LÉON- DUFOUR, Vocabulaire de théologie biblique, CERF- PARIS 1966
YUSE
PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, bđm- ĐALAT 1982
LĂO
TỬ, Đạo Đức Kinh, bản dịch NGUYỄN
DUY CẦN, xb. KHAI TRÍ-SAIGON 1961
GABRIEL
MARCEL, Foi et réalité, AUBIER 1967 FV.38
HENRI
MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE- PARIS 1965
J.
VAN DER MEERSCH, Art. “Grâce”, trong DTC VI/2
LOUIS
MILLET, Le pouvoir du symbolisme, trong Le Symbole, RECHERCHES ET DÉBATS n.29,
PARIS XII (1959)
LOUIS
MODEN, Le miracle- signe du salut, DDB. 1960
G.
MUSCHALEK, La création de l'alliance, Problème des rapports entre
la nature et la grâce,
trong MYSTERIUM SALUTIS
VI, BURNS-OATES 1969
NARADA MAHA THERA, The Buddha and his teachings,
bản dịch của
PHẠM KIM KHÁNH, Đức Phật và Phật pháp, HẠNH
PHÚC- SG.1971
GEOFFREY
PARRINDER, Revelation in other Scriptures, trong STUDIA MISSIONALIA,
vol.20 (1971),
éd. M. DHAVAMONY, sj,
GREGORIANA 1971
É.
PORTALIÉ, art. “Augustin”, trong DTC I/1 PARIS 1923
É.
PORTALIÉ, art: “Abélard”, trong DTC I/1 PARIS 1923
B.
POSCHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966
KARL
RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong
ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t. II, DDB 1960
KARL
RAHNER, La nature et la grâce, trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II,
DDB-PARIS 1963
KARL
RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong E.T., t. IX, DDB. 1968
K.
RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., t. IX, DDB. 1968
K.
RAHNER, Eglise et Sacrements, trong QUESTIONES DISPUTATAE 10, DDB.1970
A-M. ROGUET, Renseignements techniques, trong THOMAS
D’AQUIN, S.T. III, q.60-65, bản dịch của A-M. ROGUET, DESCLÉE
et Cie, PARIS 1945, pp.255-380
HENRI
RONDET, Gratia Christi, BEAUCHESNE ET SES FILS-
HENRI
RONDET, Essais sur la théologie de la Grâce, BEAUCHESNE- PARIS 1964
E.
SCHILLEBEECKX, Le Christ sacrement de la rencontre de Dieu, CERF
1960 FV.133
HEINZ
ROBERT SCHLETTE, Towards a Theology of Religions, bản dịch của W.J.
O'HARA, HERDER-FREIBUG 1966, Coll.
QUESTIONES DISPUTATAE 14
P.
SCHOONENBERG, L'home dans le péché, trong MYSTERIUM SALUTIS VIII,
CERF 1970
OTTO
SEMMEILROTH, Art. “Mediatorship”, trong SACRAMENTUM MUNDI, BURNS-OATES 1969
GUSTAV
SIEWERTH, L'home et son corps, PLON-PARIS 1957
GUSTAVE
THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non-chrétiennes,
CASTERMAN 1966
PAUL
TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970
JEAN TROUILLARD, Symbole et distance, trong Le Symbole,
RECHERCHES ET DÉBATS n. 29,
PARIS XII (1959)
JAN-
HENDRIK WALGRAVE, Un salut aux dimensions du monde,
bản dịch từ
tiếng Hà Lan bởi Emmanuel Brutsaert, CERF- PARIS 1970
CHO VINH DANH CHÚA HƠN
AMDG
AD MAIOREM DEI GLORIAM
Bài kết thúc thời gian học thần học,
xong 20:40’ ngày lễ thánh Phaolô Miki (06.02.85)
HOME LỜI
CHÚA ĐỨC
TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] Cf. E. SCHILLEBEECKX, Le Christ- sacrement de la rencontre de Dieu, CERF 1960, F.V. 133.
Cf. A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV-DALAT, không ngày.
[2] K. RAHNER, Pour la thélogie du symbole, trong E.T., IX, DDB. 1968, p. 34-35
[3] K. RAHNER, Parole et Eucharistie,, trong E.T., IX, DDB.1968, p. 74
[4] K. RAHNER, op. cit., pp. 67-68
[5] A. DREXEL, Bí tích đại cương, GHHV- DALAT không ngày, trg. 62, trích dẫn GABRIEL BIEL, In 4 S., d. 3, q. unica, a. 2
St. AUGUSTIN, In Jon. tract., 80, 3 PL.35, 1840
[6] Với bí tích thánh tẩy, chúng ta thấy rơ điều này; nhưng c̣n với các bí tích khác? Một điều chúng ta lưu ư: người Công Giáo tin có bảy bí tích, nhưng anh em Tin Lành không tin truyền chức và xức dầu, là bí tích! Anh em Chính Thống coi bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức là một! Những bất đồng giữa Chính thống giáo, Công Giáo và Tin Lành, là số bí tích; và hàm chứa vấn đề: Đức Kitô có thiết lập những bí tích mà các giáo phái khác nhau- đều là Kitô giáo- không tin nhận không?! Vấn đề này chúng ta không bàn đến trong phạm vi bài này.
[7] Giáo Lư Công Giáo, TÂN ĐỊNH THIỆN BẢN- SAIGON 1967, số 150, trg. 60.
Sách Bổn dạy những lẽ đạo cần cho được rỗi linh hồn, ĐỊA PHẬN HÀ NỘI- HIỆN TẠI 1957, phần II, đoạn V, điều 2, trg. 76
[8] B. POSHMANN, Pénitance et onction des malades, CERF 1966, Coll. HISTOIRE DES DOGMES, p. 168
[9] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.17, q.1, n.11
cf.B.POSHMANN, op. cit., p. 63
[10] DUNS SCOTT, Ox., IV, dist.14, q. 4, n. 6
cf. B. POSHMANN, op. cit., p.163
[11] Ibidem, n. 7
[12] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle,
trong E.T., II, DDB. 1960, trg. 120
K. RAHNER, Parole et Eucharistie, trong E.T., IX, DDB. 1968 p. 83
[13] Ibidem, trg. 83
[14] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong E.T., II, DDB. 1960, p. 124
[15] Đây là quan niệm của thánh Thomas d'Aquin
K. RAHNER, op. cit., p. 125
[16] V́ ân sủng cũng có tính cách nhập thể, biểu lộ qua thân xác.
[17] K. RAHNER, op. cit., pp. 135.138-139.141-142
[18] Xem thêm K. RAHNER, Eglise et Sacrements,
DDB. 1970, p. 38-39, Coll. QUESTIONES DISPUTATAE 10
[19] Không hàm ư loại trừ việc lănh bí tích.
[20] INNOCENTIUS III, Ep. “Maiores Ecclesiae causas” ad Ymbertum archiep. Arelat., exeunte a.1201; DS. 780/410/
[21] DS.780
[22] DS.1310.1348.1602
[23] VATICAN II, Sắc lệnh Truyền giáo, số 1
[24] VATICAN II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài kitô, số 2
[25] Theo thiển kiến, khái niệm Đạo nơi đạo Lăo là một biểu tượng có thể kitô hóa:
“Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả phi thường Danh”
LĂO TỬ, Đạo Đức
bản dịch NGUYỄN DUY CẦN, KHAI TRÍ- SAIGON 1961, trg. 37
[26] Cf. K.RAHNER, La nature et la grâce,
trong QUESTIONS THÉOLOGIQUES AUJOURD'HUI, t. II, DDB. 1963, p. 33
[27] K. Rahner cho rằng ân sủng là chính Thiên Chúa... và không thể hiểu ân sủng bằng phạm trù “sự vật” dù rằng lịch sử triết học và thần học có diễn tả ân sủng như một thực tại, như một tính chất, như một tùy thể, như một t́nh trạng,...
Sở dĩ lịch sử triết học và thần học phải dùng phạm trù hữu thể để nói về ân sủng, bởi v́ có ǵ “thực” hơn t́nh yêu Thiên Chúa, có ǵ có thể biến đổi con người hữu hiệu bằng t́nh yêu Thiên Chúa,... , và bởi v́ chúng ta phải diễn tả những thực tại cao siêu bằng những hạn từ trừu tượng, nên phải trong tinh thần đó chúng ta mới hiểu được những ǵ triết học và thần học thời trung cổ nói về ân sủng.
Xem K. RAHNER, Ibid., p. 28-29.32.
Cf. CH. BAUMGARTNER, La grâce du christ,