HOME LỜI
CHÚA ĐỨC
TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
PHẦN II: ÂN SỦNG CỨU ĐỘ QUA BIỂU
TƯỢNG TRONG CÁC TÔN GIÁO
A. CƠ CẤU CON NGƯỜI
Đ̉I DẤU CHỈ
Tương
giao qua cơ cấu khả giác
Mặc
khải đặc biệt trước Abraham
Mặc
khải cho Abraham và dân Do-thái
B. ĐỨC YÊU: DẤU CHỈ CỨU
ĐỘ NGUỒN
b). Đức Yêsu- bí tích nguyên thủy
nguồn
a). Giáo Hội- dấu chỉ
Đức Yêsu hiện diện
b). Giáo Hội- dấu chỉ t́nh
yêu Thiên Chúa
Do sự
nhờ Đức Yêsu Ki-tô và trong Giáo Hội
D. ÂN SỦNG QUA BIỂU TƯỢNG
NGOÀI KITÔ GIÁO
Kitô
hữu tin rằng các bí tích ki-tô giáo là phương tiện
Thiên Chúa dùng ban ân sủng công chính hóa, ân sủng cứu
độ. Vậy những người không sống trong
kitô giáo, qua phương tiện nào họ nhận lănh ân sủng
cứu độ?
Trong
phần này chúng ta sẽ lần lượt đề cập
đến:
· cơ cấu con người
đ̣i dấu chỉ;
· Đức Yêsu dấu
chỉ cứu độ nguồn;
· Thiên Chúa dùng những dấu
chỉ hay biểu tượng trong các tôn giáo ngoại để
ban ân sủng cho những người sống trong các tôn
giáo đó.
Con
người chỉ triển nở toàn diện khi sống
với tha nhân.
Trong
tương giao với người khác, con người diễn
tả tâm tư t́nh cảm, nguyện vọng, ao ước
khao khát của ḿnh cũng như của người khác qua
trung gian dấu chỉ. Mọi hành vi: nói, viết, vẽ,
điêu khắc, chơi âm nhạc, khiêu vũ, kịch câm,
nheo mắt, giơ tay, siết tay, cười, nh́n cách này
hay cách khác, và ngay cả thinh lặng, hoặc nghiêm nét mặt,...
cũng đều diễn tả tâm tư t́nh cảm, thái
độ của con người[1].
Qua hành vi và cách thức diễn tả của họ, chúng ta
có thể hiểu về người đó, về vũ trụ
quan và cả về Thiên Chúa quan của họ nữa.
Con
người là tinh thần nhập thể, là hồn và xác. Trong
điều kiện tại thế, không có thân xác, không thể
là người trọn vẹn. Để diễn tả con
người của ḿnh, con người phải diễn tả
bằng thân xác và qua “thân xác”. Trong ư nghĩa này, chúng ta có thể
nói: cơ cấu con người
đ̣i dấu chỉ. Tính “dấu chỉ” thuộc bản
chất con người, thuộc yếu tính, chứ không chỉ
là tùy phụ.
Con
người là hồn và xác. Con người tiếp xúc gặp
gỡ tha nhân qua những biểu lộ của thân xác: cử
chỉ, hành động. Ngay chính Thiên Chúa, Đấng tạo
nên con người, khi gặp gỡ con người, cũng
gặp gỡ họ qua thân xác hoặc qua những dấu
chỉ khả giác mà con người có thể tiếp nhận
được[2].
L. Monden nói rất mạnh: “cái thiêng liêng chỉ có thể đến với con người
qua cái khả giác”[3]. Mọi
tiếp xúc giữa Thiên Chúa và con người được
thực hiện nhờ các biểu tượng. Biểu
tượng giúp con người vượt qua khoảng
cách vô tận phân cách cái hoàn toàn tinh thần và cái không bao giờ
hoàn toàn rời lănh vực khả giác.
Con
người muốn biết Thiên Chúa, muốn đạt
đến Ngài bằng lời cầu nguyện hay lễ vật,
muốn loan báo Ngài cho những người khác, v.v..., con
người luôn luôn phải trở về với những
h́nh ảnh tương tự. C̣n chính Thiên Chúa th́ Ngài chỉ
diễn tả Ngài và làm cho con người nhận biết
Ngài qua việc tạo dựng và bằng chính tạo thành khả
thụ đối với giác quan[4].
Với
K. Rahner, con người ngay trong cái thâm sâu nhất của những
hành vi thiêng liêng cũng luôn luôn hành xử như một hữu
thể là thân xác và linh hồn, đến độ những
hành vi thiêng liêng nhất cũng luôn luôn bén rễ trong thân xác
tính. Nói một cách thô thiển hơn, vẫn theo ngôn từ
của K. Rahner, ngay cả chuyển động cao thượng
nhất của t́nh yêu siêu nhiên nhất đối với
Thiên Chúa trong tận thâm sâu của ngôi vị thiêng liêng cũng
liên hệ với tiến tŕnh điện vật lư của
bộ năo. Tiến tŕnh này thuộc lănh vực vật chất,
mỗi yếu tố đều phụ thuộc vào những
yếu tố khác và góp phần vào việc xác định những
yếu tố và biến chuyển ấy[5].
Như vậy, ân sủng của Thiên Chúa cũng luôn luôn mang
tính nhập thể.
Ân
sủng là hành vi t́nh yêu của Thiên Chúa đối với
con người. Cũng như thân xác là hiện thể và
cách thế biểu lộ của linh hồn trong không gian và
thời gian và như vậy trong lịch sử, th́ ân sủng
cũng t́m thấy cách diễn tả thân xác tính trong mỗi
hành vi ân sủng. Hiểu như vậy tất cả ân sủng
siêu nhiên trong hiện thể đều có khía cạnh nhập
thể và lịch sử: chính trong khía cạnh nhập thể
và lịch sử này mà ân sủng làm cho ḿnh hiện diện
và tỏ lộ. Tóm lại ân sủng có cơ cấu gần
như bí tích trong trật tự hiện tại[6].
Đi
thêm một bước nữa, K. Rahner cho rằng, ân sủng
và đặc biệt ân sủng của Đức Kitô- xét
như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người-
mang cơ cấu xă hội, bởi v́ ân sủng của
Đức Kitô được mang xuống cho toàn thể
nhân loại xét như một cộng đoàn, và nó đạt
đến từng cá nhân xét như cá nhân là phần tử của
cộng đoàn, và nguời được thánh hóa cùng
người thánh hóa đều từ một chủng tộc[7].
Với
cái nh́n tổng quát chúng ta thấy rằng: ư kiến chung của
các thần học gia mọi thời đều cho rằng
con người cần dấu chỉ để diễn
đạt, lănh hội và tương giao với con người
và với cả thế giới vô h́nh nữa. Các ư kiến
này bắt nguồn từ kinh nghiệm sống và những
suy tư trên chính con người: con người là hồn
và xác. Chính Thiên Chúa- Đấng tạo dựng nên con người
là hồn và xác- khi Ngài tiếp xúc và thông hiệp với con
nguời, Ngài vẫn tôn trọng cơ cấu con người:
Ngài tiếp xúc với con người với cả thể
xác lẫn linh hồn qua các dấu chỉ khả giác.
Nhằm
thấy rơ hơn cơ cấu con người đ̣i dấu
chỉ, chúng ta sẽ đi t́m luận chứng dựa trên
hữu thể học và trên lịch sử cứu độ.
Trước
tiên chúng ta xác định rơ hơn về ư niệm dấu
chỉ, biểu tượng.
Dấu
chỉ- tiếng Latin là signum, và tiếng Hylạp là shmeion:
· P. Foulquié định
nghĩa: Cái cho phép phán đoán hay thấy trước hoặc
biết trước cái ǵ đó, hoặc, cái tiêu biểu hay
hành động khả giác cho biết ư tưởng hoặc
tỏ lộ điều ao ước[8].
· L. Leahy định nghĩa
cách đơn sơ hơn: “gọi là dấu chỉ mọi
thực tại khả giác mang ư nghĩa”[9].
Một
số người cho rằng dấu chỉ thuộc về
sự vật, và sự vật nội tại nơi dấu
chỉ, tuy nhiên sự vật và dấu chỉ không cùng hiện
hữu và trùng khít nhau cách hoàn toàn và chính xác[10].
L.
Leahy cho rằng dấu chỉ được cấu thành
trong cơ cấu nội tại bởi một yếu tố
khả giác và một ư nghĩa, bởi một yếu tố
khả giác và một yếu tố siêu khả giác là ư nghĩa;
ư nghĩa này làm một với cái khả giác nhưng xác
định và vượt trên cái khả giác[11].
Biểu
tượng, đôi khi được gọi là biểu hiệu,
dấu hiệu.
· A. Drexel định nghĩa:
biểu tượng là dấu chỉ của một vật
ǵ đó, chẳng hạn trái tim là biểu tượng của
t́nh yêu[12].
· L. Leahy cho rằng: biểu
tượng là một dấu chỉ loại suy mà ư nghĩa
đầu tiên th́ rơ ràng, nhưng ư nghĩa thứ hai cần
được giải thích th́ mới rơ[13].
Chẳng hạn chữ phép rửa (baptême): nghĩa đầu
tiên là d́m xuống nước, và nghĩa thứ hai biểu
hiệu cái chết và phục sinh của kitô hữu
được tham dự cái chết và sự phục sinh của
Đức Kitô.
· Với A-M. Roguet, biểu
tượng là một hữu thể cụ thể có thực,
là một bản chất tự nó có giá trị, nhưng
được tháp nhập vào nó một tương quan chỉ
một khách thể hoàn toàn khác; nói cách khác biểu tượng
là một dấu chỉ khả giác một dấu chỉ
suy lư[14].
Cũng theo A-M. Rouguet, sự phân biệt giữa dấu chỉ
và biểu tượng không hoàn toàn rơ ràng[15].
· Theo lời đầu
sách của Symbole trong Recherches et débats, biểu tượng
đầu tiên không là một sự vật nhưng là dấu
chỉ của sự vật được diễn dịch
cách trừu tượng hoặc giả tưởng trong một
trật tự khác trật tự của nó. Chẳng hạn
cái vô h́nh, cái ở xa, cái thiêng liêng được chỉ thị
nghĩa là được loan báo và tỏ lộ trong những
biểu tượng khả giác, gần gũi, được
tưởng tượng và có thể tưởng tượng
h́nh dung được, như vậy tư tưởng
được biểu thị bởi ngôn ngữ, linh hồn
được biểu thị bởi thân xác nhưng tư
tưởng không là ngôn ngữ và hồn cũng không là xác...[16].
· Ernst Cassirer cho rằng
không thể giản lược biểu tượng vào dấu
chỉ v́ dấu chỉ và biểu tượng thuộc hai
thế giới khác nhau: dấu chỉ thuộc thế giới
vật lư, c̣n biểu tượng thuộc thế giới
nhân linh[17].
Biểu tượng là thế giới của con người,
chứ loài vật không biết đến biểu tượng[18].
V́
những bất đồng của các tác giả về việc
xác định đâu là dấu chỉ và đâu là biểu
tượng, các tác giả hay đúng hơn những người
chịu trách nhiệm ra số Symbole trong Recherches et Débats XII
(1959) đă đề nghị dành riêng chữ biểu tượng
cho những dấu chỉ mà bản chất bí ẩn của
những cái được chỉ chống lại những
phân tích rời rạc, chẳng hạn như thần thoại,
ẩn dụ thi ca, cử chỉ và lời thánh. Và như vậy
không dùng từ biểu tượng để chỉ những
dấu chỉ nhân tạo, và những cái mà dấu chỉ
và cái được chỉ chỉ có tương quan ngoại
diện hoặc do thói quen hoặc do quy ước[19].
Như vậy biểu tượng là dấu chỉ mà cái
được chỉ thuộc về một trật tự
khác, chẳng hạn cái vô h́nh, thiêng liêng. Nếu chấp nhận
đề nghị này, tất cả bí tích kitô giáo đều
là biểu tượng, nhưng c̣n hơn biểu tượng
nữa; nói theo ngôn từ của K. Rahner th́ các bí tích là những
biểu tượng thực! Nhưng một điều
chúng ta phải biết; không phải mọi người
đều chấp nhận điều này, và như vậy,
có những tác giả dùng từ “dấu chỉ” mà những
tác giả khác lại dùng từ “biểu tượng”
nhưng cả hai đều là một thực tại!
K.
Rahner cho rằng hữu thể tự ḿnh thiết yếu
có tính biểu tượng v́ hữu thể thiết yếu
phải tự diễn tả để t́m được
yếu tính của ḿnh[20].
Thực vậy, hữu thể có tính đơn nhất và
đa phức, trong tính đơn nhất này, đa phức
diễn tả hữu thể.
Thường
trong khoa hữu thể học, người ta cho rằng
tính đa phức là đặc tính của hữu thể hữu
hạn; nhưng với tính đơn nhất của Thiên
Chúa, chúng ta vẫn thấy sự phân biệt thực các
ngôi vị- dù rằng chỉ là sự phân biệt
tương quan- và như vậy dưới khía cạnh nào
đó vẫn có tính đa phức nơi Thiên Chúa, nghĩa là
nơi hữu thể trọn vẹn tṛn đầy[21] vẫn
có tính đa phức.
Như
vậy chúng ta thấy tính đa phức của hữu thể
không là một giới hạn của hữu thể
nhưng ngược lại- với gương mẫu của
Ba ngôi Thiên Chúa- tính đơn nhất của hữu thể
được thể hiện tṛn đầy trong yếu tố
đa phức. Những yếu tố đa phức của
hữu thể có sự tương hợp sâu xa với nhau
trong tính đơn nhất của hữu thể, bởi v́
chúng liên kết với nhau nhờ tính đơn nhất này[22].
Hữu
thể được nói là đơn nhất không phải
do nhiều yếu tố đa phức nơi hữu thể
được đặt cạnh bên nhau, nhưng do chính
cái một nguyên thủy liên kết tất cả những yếu
tố đa phức “tương hợp” với nhau, diễn
tả nhau, bởi v́ tất cả chúng cùng được
liên kết trong cái một, tính đơn nhất của hữu
thể.
Hiểu
sự tương hợp của những yếu tố
đa phức trong hữu thể như là biểu tượng
của nhau và của chính hữu thể, chúng ta có thể
đi đến kết luận: hữu thể có tính biểu
tượng do chính nó, bởi v́ nó thiết yếu diễn
tả chính ḿnh[23].
Ta
có thể tóm những lư luận trên như sau: đa phức
đến từ đơn nhất như sự thống
nhất uyên nguyên- xét như hữu thể tự biểu lộ
trong đơn nhất tính- hoàn thành hữu thể; đa phức
xét như đến từ đơn nhất uyên nguyên,
tương hợp với nhau cách nào đó và biểu lộ
hữu thể. Như vậy hữu thể- với tính
đơn nhất và đa phức- có tính biểu tượng,
v́ hữu thể- với tư cách là hữu thể- phải
diễn tả và hoàn thành chính ḿnh!
Hữu
thể là một phạm trù dị nghĩa. Nó không hoàn toàn
giống nhau. Hữu thể có những mức độ hiện
hữu khác nhau tùy mức độ phản tỉnh trên
chính nó. Nói cách khác, hữu thể nhận biết và
được nhận biết tùy mức độ hữu
thể thể hiện (in tantum est ens cognoscens et cognitum in
quantum est ens actu). Trong mức độ hữu thể có và
thể hiện hữu thể của ḿnh, hữu thể có
tính “biểu tượng” đối với chính ḿnh. Nghĩa
là hữu thể diễn tả và phản tỉnh trở về
trên chính nó.
Như
vậy tính “biểu tượng” không chỉ được
quan niệm như sự tương hợp giữa hai hữu
thể khác nhau do một quan sát viên thứ ba khẳng định
có sự tương hợp giữa hai hữu thể,
nhưng đúng hơn tính biểu tượng nơi hữu
thể chủ yếu hệ tại hữu thể trở
thành khác ḿnh nhưng vẫn là ḿnh trong sự nhận thức
và t́nh yêu. Sự diễn tả ḿnh- và là cái tính biểu
tượng của hữu thể diễn tả ḿnh- là một
cách nhận biết về chính ḿnh, khám phá ra ḿnh[24].
Bây
giờ xét đến một hữu thể được
nhận biết bởi một chủ thể khác. Việc
một chủ thể nhận biết một hữu thể
khác, không chỉ hệ tại nơi chủ thể nhận
biết, nhưng c̣n hệ tại nơi hữu thể
được nhận biết nữa: ens est cognitum et
cognoscibile in quantum ipsum est actu. Nghĩa là hữu thể
được nhận biết bởi v́ nó có tính biểu
hiệu không chỉ đối với nó nhưng c̣n đối
với hữu thể khác nữa[25].
Đến
đây chúng ta có thể nói: biểu hiệu thực, là sự
hoàn thành chính ḿnh của một hữu thể nơi một
hữu thể khác, sự hoàn thành này là chính cấu tố của
hữu thể [26].
Với
quan niệm về biểu tượng như là cách diễn
tả và sự thể hiện của hữu thể, của
hiện sinh như trên, chúng ta có thể đi đến kết
luận:
· Agere sequitur esse. Nếu
hữu thể vừa thiêng liêng vừa thể xác, th́ hoạt
động cũng vừa thuộc trí tuệ vừa thuộc
khả giác. Chủ thể không thể hoạt động
trong một lănh vực mà nó không thuộc trật tự này
cách hữu thể[27].
· Hành vi cứu độ
của Thiên Chúa đối với con người, từ
lúc khởi đầu cho đến lúc kết thúc, luôn
được thực hiện như thế này: Thiên Chúa
là thực tại cứu độ được ban cho
con người và được con người lănh nhận
trong biểu tượng. Và hơn nữa biểu tượng
không tiêu biểu cho thực tại như vắng mặt,
nhưng thực tại hiện diện và được
biểu lộ bởi biểu tượng (mà chính thực
tại đă tạo thành biểu tượng)[28].
Tắt
một tiếng, với suy luận về hữu thể
chúng ta khẳng định được rằng con
người cần biểu tượng để diễn
tả và lănh hội chủ thể và tha thể, thực tại
khả giác cũng như thiêng liêng, và ngay cả ơn cứu
độ.
Luận
chứng lịch sử cứu độ về cơ cấu
con người đ̣i dấu chỉ, nghĩa là, Thiên Chúa
ban ơn cứu độ cho con người qua các dấu
chỉ, không có ư muốn nói chúng ta chứng minh điều
này, nhưng đúng hơn giúp chúng ta thấy trong lịch sử
cứu độ, Thiên Chúa đă nói với con người
qua các dấu chỉ, và con người đă đáp lại
tiếng nói của Thiên Chúa qua dấu chỉ hoặc biểu
tượng bằng đức tin, nghĩa là Thiên Chúa cứu
độ con người qua dấu chỉ.
Vào
thế kỷ thứ IV-V, thánh Augustin cho rằng cơ cấu
bí tích cần thiết và là phương thế Thiên Chúa dùng
để cứu độ con người, ngay cả trong
thời Cựu ước. Ngài viết:”Đừng tưởng
trước khi lập phép cắt b́, Thiên Chúa đă không dùng
một bí tích nào để trợ giúp, v́ ngay trong thời kỳ
này, con người cũng đă tin vào một Đấng
trung gian phải đến; tuy nhiên bí tích này là ǵ Kinh
Thánh không muốn nói tới”[29].
Thánh
Thomas vào thể kỷ XIII cho rằng “con người cần
cơ cấu bí tích v́ ba lư do, lư do thứ nhất là theo
bản tính con người: cái riêng của bản tính
con người là nhờ vào thể xác và cái khả giác
mà đi vào cái thiêng liêng”[30].
Tuy nhiên thánh Thomas cho rằng con người chỉ cần
cơ cấu bí tích sau khi con người phạm tội dù
trước lẫn sau Đức Yêsu[31],
c̣n trước khi con người phạm tội th́ không cần cơ
cấu bí tích; Sở dĩ như vậy v́ Ngài coi bí tích
như phương dược tẩy rửa tội,
nên không có tội th́ không cần bí tích[32].
Để
hiểu rơ hơn về khái niệm biểu tượng- bí
tích, chúng ta xét tới sự kiện mặc khải. Mặc
khải là hành vi Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài và
chương tŕnh cứu độ con người của
Ngài cho con người. Có thể nói, ngay công tŕnh tạo
dựng cũng là dấu chỉ Thiên Chúa hiện hữu, dấu
chỉ của t́nh yêu Thiên Chúa đối với vũ
hoàn và đặc biệt là con người.
Kinh
thánh cũng nói về việc Thiên Chúa mặc khải qua tự
nhiên: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
thanh không kể ra sự nghiệp tay Người; Ngày
này nhắc nhở cho ngày khác, đêm này truyền tụng
cho đêm kia” (Tv.18, 2-5).
Dân
ngoại cũng có thể biết về Thiên Chúa qua thiên
nhiên. Thánh Phao lô viết: “V́ chưng những ǵ có thể
biết về Thiên Chúa th́ đă nên hiển nhiên nơi họ
rồi, bởi chính Thiên Chúa đă tỏ cho họ thấy.
Từ khi vũ trụ được tạo thành, những
điều ẩn khuất nơi Người, họ
có thể lấy trí khôn mà chiêm ngắm được
nơi các công việc của Người quyền phép
vô thủy vô chung và thần tính của Người...”
(Rm.1, 19-20).
Thiên
Chúa mặc khải cho con người, Ngài cũng luôn mặc
khải qua các dấu chỉ khả giác. Nói cách khác,
chính qua những dấu chỉ khả giác này mà con
người nhận biết Thiên Chúa và chương tŕnh của Thiên
Chúa đối với con người. Những dấu chỉ
khả giác chỉ thực tại siêu việt, có thể
được một số đông người
coi như biểu tượng. Thiên nhiên, tạo thành, trở
thành dấu chỉ của Thiên Chúa, cho thấy Thiên Chúa
hiện hữu, Thiên Chúa yêu con người.
Con
người không chỉ nhận biết Thiên Chúa và t́nh yêu của
Ngài đối với con người qua dấu chỉ
khả giác, nhưng ngay thái độ tâm t́nh của con
người đối với Thiên Chúa cũng được
diễn tả qua những hành vi khả giác, chẳng hạn
như qua việc thờ lạy, thái độ cung kính,
việc dâng lễ vật tế lễ.
Abel
và Cain dâng lễ vật cho Thiên Chúa là hoa quả mùa màng
và chiên cừu, Noe cũng dâng lễ vật để tỏ
tâm t́nh tạ ơn và thờ lạy Thiên Chúa (Kn.1-11)[33]. Như vậy, Kinh thánh đă
nói về việc Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài
và chương tŕnh của Ngài cho con người trước
khi Thiên Chúa tuyển chọn và gọi Abraham, và cũng
cho thấy con người diễn tả tâm t́nh thái độ
của ḿnh đối với Thiên Chúa.
Trong
tương quan hai chiều này, cả Thiên Chúa lẫn con
người đều dùng những dấu chỉ khả
giác; sở dĩ vậy để con người có thể
lănh hội được điều Thiên Chúa muốn diễn
tả, và v́ con người phải diễn tả tâm
t́nh thái độ của ḿnh bằng những cử chỉ
và những ǵ khả giác.
Bây
giờ chúng ta xét đến thời điểm Thiên Chúa tuyển
chọn Abraham để h́nh thành một dân tộc, chuẩn
bị cho Lời Thiên Chúa nhập thể cứu độ
con người.
Dân
Israel tin rằng Thiên Chúa đă tuyển chọn và gọi
tổ phụ Abraham, đă giải phóng họ khỏi ách nô
lệ Aicập, và vẫn hằng hiện diện và nói
với họ qua các biến cố và tiên tri trong ḍng lịch
sử.
Với
những người đặc biệt như Abraham, Ysaac,
Yacobï, Môsê và các tiên tri, các vị này vẫn tiếp
xúc với Thiên Chúa qua trung gian khả giác:
· Yavê Thiên Chúa đă hiện ra
cho Abraham dưới dạng ba người và đă
được ông thiết tiệc (Kn.18)[34];
· Môsê gặp gỡ Thiên
Chúa qua bụi gai bốc lửa nhưng không tàn (Xh.3, 1tt.).
Cắt
b́ (Kn.17, 9tt; Lv.12, 3; Yos.5, 2.) được những người
thời sau này coi như một bí tích đối với dân
Biến
cố xuất hành là biến cố làm nên dân tộc
Biến
cố vào đất hứa là biến cố cho dân Israel tin
rằng Thiên Chúa đứng về phía dân và chính Ngài
đă ban đất Canaan cho dân.
Với
các tiên tri trong ḍng lịch sử cũng như với biến
cố lưu đày, dân Israel tin rằng Thiên Chúa Yavê vẫn
hiện diện với họ, Ngài trừng phạt khi
họ ĺa bỏ Ngài và tha thứ khi họ ăn năn thống hối... Cây
“thức sớm” (Yer.1, 11), cái nồi (Yer.1, 13), tiên tri mang
ách (Yer.27), chính cuộc sống của tiên tri (Hôsê),
đă thành biểu tượng cho dân và cho cả tiên tri
nữa.
Qua
ḍng lịch sử dân tộc
Như
vậy khi xét những hành vi tỏ ḿnh của Thiên Chúa, chúng
ta đi đến kết luận:
· Thiên Chúa vẫn tỏ
ḿnh ra cho dân qua những dấu chỉ khả giác;
· con dân
“Chỉ
có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Đấng
Trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: Đức Yêsu,
Đấng đă thí ḿnh làm giá chuộc thay cho mọi
người” (1Tm.2, 5-6).
Xét
dưới khía cạnh hữu thể, để làm trung
gian giữa Thiên Chúa và con người, ngôi vị trung
gian đó phải vừa là Thiên Chúa vừa là con người.
Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể: “Lời
đă ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa... Lời
đă thành xác phàm và đă lưu trú nơi chúng tôi” (Yn.1,
1.14). Như thế, Đức Yêsu xét như Thiên Chúa nhập
thể, theo bản tính, là trung gian giữa Thiên Chúa và con
người cách tuyệt hảo.
Khi
khẳng định mầu nhiệm Đức Yêsu có hai bản tính-
thiên tính và nhân tính, Huấn Quyền cũng trích dẫn
1Tm.2, 5 và khẳng định Đức Yêsu là Đấng
Trung Gian, v́ Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người[36].
Truyền thống giáo phụ cũng có những luận
chứng theo khía cạnh hữu thể[37] về
Đức Yêsu là trung gian.
“Mọi
sự đều đă được Cha ta trao phó cho Ta, và
không ai biết được Con trừ phi có Cha; và cũng
không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ
được Con khấng mặc khải cho” (Mt.11, 27).
Đức Yêsu là trung gian mặc khải, Ngài là Đấng
mặc khải Thiên Chúa Cha và chương tŕnh cứu
độ con người.
Con
người có thể diễn tả tâm t́nh ư định
qua hành vi cử chỉ, hoặc bằng cái nheo mắt
hoặc nụ cười hoặc bằng cử điệu...,
và bằng lời nói của ḿnh. C̣n Thiên Chúa, Ngài đă mặc
khải cho chúng ta về chính Ngài và chương tŕnh của
Ngài qua ngôi Lời, là ngôi vị Thiên Chúa. “Ngày xưa nhiều
lần và nhiều cách Thiên Chúa đă nói với cha
ông nơi các tiên tri, nhưng đến thời sau hết-
tức là trong những ngày này- Người đă nói với
chúng ta nơi Người Con” (Dt.1, 1). Đức Yêsu là chóp
đỉnh mặc khải v́ Ngài là Lời Thiên Chúa.
Với
Đức Yêsu, Thiên Chúa đă cho chúng ta thấy:
· Thiên Chúa là t́nh yêu
(1Yn.4, 8.16), và Thiên Chúa đă yêu thế gian đến độ
ban Con Một Người cho chúng ta (Yn.3, 16);
· ư định từ
muôn đời muôn thuở là thu tóm vạn sự vạn
vật dưới một đầu mối là Đức
Yêsu (Eph.1, 9tt);
· ư định cứu
độ mọi người (1Tm.2, 4);
· Đức Yêsu là
đường dẫn chúng ta tới với Thiên Chúa Cha;
Ngài chính là sự thật và sự sống. Ngài nói: “Ai thấy
Ta là thấy Cha” (Yn.14, 6.9). Sự sống đời
đời và hạnh phúc vĩnh cữu là được
sống với Thiên Chúa, được hiệp thông với
Người, thế mà Đức Yêsu nói: Ai thấy Ta
là thấy Cha, không ai đến được với
Cha mà lại không qua Ta- chúng ta thấy rơ thêm một lần
nữa Ngài là Trung Gian cứu độ duy nhất. Không
nhờ Ngài th́ không ai được cứu độ.
Tác
giả thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta biết
thêm: Đức Yêsu là trung gian giữa Thiên Chúa và con
người như là vị Thượng Tế, trung
gian của Giao Ước mới (Dt.9, 15;4, 14).
Con
người đến với Thiên Chúa qua các trung gian. Trong
Cựu Ước chúng ta đă thấy Môisê, Aarôn, các tiên
tri và các tư tế đóng vai tṛ trung gian này; đặc
biệt trong lănh vực tế tự, con người diễn
tả tâm t́nh thái độ của ḿnh lên Thiên Chúa qua các lễ
vật hy tế. Tư tế đóng vai đại diện
Thiên Chúa và con người, dâng những lễ tế này
v́ đă được chọn bởi chính việc
được sinh trong ḍng họ Lêvi. Và Thiên Chúa đă
ban ân sủng của Ngài qua những trung gian này.
Ngày
nay “máu của Đức Kitô nhờ Thần Khí hằng có
mà hiến ḿnh làm hy lễ sinh vô t́ tích dâng lên Thiên Chúa, sẽ
tẩy sạch lương tâm ta hơn biết mấy
khỏi các việc chết, mà c̣n phụng sự Thiên
Chúa hằng sống” (Dt.9, 14).
Trong
bí tích thánh thể, Đức Yêsu vừa là của lễ, vừa
là thượng tế dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Khi
truyền phép trong Thánh Thể, linh mục chủ tế
làm nhân danh Đức Yêsu, với tư cách là ngôi vị
Đức Kitô (in persona Christi).
Đức
Yêsu là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Không
có Ngài con người không được cứu độ
v́ Ngài là nguyên nhân cứu cánh của cả hoàn vũ. Tất
cả mọi người khi được cứu độ, được
lănh ơn làm con Thiên Chúa, đều được cứu
độ nhờ bởi Đức Yêsu Kitô, dù người
đó là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, là kitô hữu
hay không. Ngay cả những người không tin Đức
Yêsu, thậm chí không tin Thiên Chúa hiện hữu- nếu
họ được cứu độ- th́ những người
này vẫn được cứu độ nhờ
Đức Yêsu Kitô, trong Đức Yêsu Kitô, và qua Đức
Yêsu Kitô.
“Ngoài
Giáo Hội không có ơn cứu độ”.
“Đức
Yêsu Kitô là trung gian cứu độ duy nhất giữa
Thiên Chúa và con người”.
Thế nhưng những người
sống trong các tôn giáo khác, những người không tin
Đức Yêsu, những người vô thần, vẫn có
thể được cứu độ, và những
người này khi được cứu độ, vẫn
được cứu độ trong Giáo Hội của
Đức Yêsu Kitô và nhờ Đức Yêsu Kitô. Nói cách khác,
tất cả những người được cứu độ
này đều thuộc về Giáo Hội Đức Yêsu Kitô
cách nào đó, và vẫn nhờ Đức Yêsu Kitô để
được cứu độ dù họ biết hay không
biết.
Với
đức tin kitô giáo, Đức Yêsu là Ngôi Lời nhập
thể (Yn.1, 14), là Thiên Chúa làm người.
Ngôi
Lời là Thiên Chúa, hằng hướng về Thiên
Chúa (Yn.1, 1-3); Ngôi Lời là diễn tả của Thiên
Chúa, là cách diễn tả của Thiên Chúa, là biểu
tượng của Thiên Chúa[38].
Khi Thiên Chúa diễn tả, Ngài diễn tả bằng Lời;
Lời là biểu hiệu, biểu tượng, là ngôn từ
của Thiên Chúa.
Lời
đă thành xác phàm (Yn.1,14). Cái vô h́nh thành cái hữu h́nh, vô
hạn thành hữu hạn; Đấng không thể diễn
tả nổi là Thiên Chúa nay đă thành khả giác vật
chất, được diễn tả.
Lời
Thiên Chúa đă thành thân xác khả giác khả tử. Nói cách
khác, Thiên Chúa đă diễn tả chính Ngài bằng cái ǵ
khả giác khả tiếp thu đối với con
người. Đức Yêsu là mặc khải tột đỉnh
của Thiên Chúa, không những cho con người mà cho mọi
tạo thành nữa, v́ Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa;
nếu có tạo thành nào muốn hiểu Thiên Chúa th́ phải
hiểu qua Lời Ngài[39].
Không qua Lời, tạo thành không thể hiểu, và không
thể thông giao với Thiên Chúa.
Đức
Yêsu là h́nh ảnh của Thiên Chúa vô h́nh (Col.1,15). Ngài là h́nh ảnh,
là dấu chỉ, là biểu tượng của Thiên Chúa;
nhưng Ngài không đơn thuần là dấu chỉ hiểu
theo nghĩa dấu chỉ không bao giờ là thực tại,
Ngài cũng không chỉ là biểu tượng hiểu
theo nghĩa biểu tượng là cái ǵ không hoàn toàn là
thực tại; trái lại Ngài là thực tại, là biểu
tượng thực, là dấu chỉ đồng thời
là chính thực tại!
Đức
Yêsu là Lời của Thiên Chúa, là h́nh ảnh của Thiên Chúa,
là biểu tượng thực
của Thiên Chúa; đến độ Ngài nói: “Thầy là
đường, là sự thật và là sự sống... Ai
thấy Ta là thấy Cha” (Yn.14, 6.9). Nói một cách khác,
Đức Yêsu vừa là phương tiện vừa là
cứu cánh, vừa là phương tiện mặc khải vừa
là chính thực tại được mặc khải, là Sự
Thật.
Đức
Yêsu là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt.1, 23). Nơi
Đức Yêsu, Thiên Chúa nhập thể là một người giữa
chúng ta, Thiên Chúa dứt khoát ở với con người.
Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện với
con người; Thiên Chúa không bao giờ bỏ con người
và như thế con người không c̣n có thể nghi ngờ về
t́nh yêu và sự hiện diện của Ngài nữa, v́ Đức
Yêsu chính là Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa đă làm
người, Ngài măi măi là người và không bao giờ
Ngài ngừng là người[40].
Đức
Yêsu, xét như Thiên Chúa nhập thể, là quà tặng
Thiên Chúa ban cho con người. Những quà tặng khác
là những ǵ ngoài Thiên Chúa, c̣n với Đức Yêsu quà
tặng chính là Thiên Chúa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến
độ ban Con Một Ngài cho thế gian” (Yn.3, 16). Thánh
Luca cũng nói: “Hôm nay Cứu Chúa đă được sinh
ra cho các ngươi” (Lc.2,
11).
Đức
Yêsu là dấu chứng cho biết Thiên Chúa yêu thương
con người, nhưng không chỉ thế, Ngài c̣n là bảo
chứng t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Đức Yêsu là bảo đảm cho phần rỗi chúng
ta. Nói một cách b́nh dân của giới bài bạc: khi
Thiên Chúa ban tặng cho con người chính Đức
Yêsu, th́ con người như người chơi bài với
Thiên Chúa, và đă nắm được con tẩy của
Ngài!
Lề
luật th́ được ban qua Môsê, nhưng chân lư và ân sủng
th́ được ban qua Đức Yêsu (Yn.1, 17). Có thể
nói, qua Đức Yêsu, Thiên Chúa không c̣n từ chối với
con người điều ǵ nữa; và Ngài ban cho con
người tất cả nơi Đức Yêsu.
Thiên
Chúa ban cho con người tất cả trong Đức Yêsu
và nhờ Đức Yêsu. Đức Yêsu là dấu chỉ
t́nh yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Như vậy chúng ta có thể nói: Đức Yêsu là bí tích
nguồn, v́:
· Chính nhờ Đức Yêsu mà chúng ta được ban
hết ơn này đến ơn khác, và đặc biệt
ơn tha thứ tội khiên, ơn được giao ḥa với
Thiên Chúa, ơn được trở nên con Thiên Chúa[41]...
· Chính trong Đức Yêsu chúng ta nhận lănh mọi
ân sủng, ngay cả ơn được thông hưởng
sự sống của Thiên Chúa, chúng ta cũng lănh nhận
qua Đức Yêsu.
Không
có Đức Yêsu, con người không được yêu và
không có ân sủng; và chỉ với Đức Yêsu, nhờ
Đức Yêsu và qua Đức Yêsu mà chúng ta đưọc
lănh nhận, và được yêu. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu
chúng ta nơi Con Một của Ngài là Đức Yêsu. Tuy
nhiên Đức Yêsu vừa là bí tích vừa là chính thực
tại bí tích.
Chúa
Kitô nhờ Thánh Thần, đă thiết lập thân thể
Người là Giáo Hội như bí tích phổ quát ban
ơn cứu rỗi (LG.48.9; GS.45; AG.5).
Giáo Hội
là
Giáo
hội là bí tích v́ Giáo Hội được Đức Kitô
thiết lập để tiếp tục công tŕnh cứu
độ của Người nơi trần gian; và như
vậy Giáo Hội là dấu chỉ Đức Kitô hiện
diện, dấu chỉ t́nh yêu nhân ái của Thiên Chúa
đối với con người[43].
Như
nơi Đức Yêsu, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là
người, thiên tính và nhân tính không pha trộn và không
phân cách; cũng vậy nơi Giáo Hội, dấu chỉ
và thực tại, yếu tố lịch sử và
Thánh Linh, cũng không phân tách và không lẫn lộn[44].
Như thiên tính không bao giờ rời bỏ nhân tính nơi
Đức Yêsu, th́ Thánh Thần của Đức Yêsu cũng
không bao giờ rời bỏ Giáo Hội[45].
Giáo
Hội được Đức Kitô thiết lập để
thi hành công cuộc cứu độ con người
nơi trần gian. Giáo Hội vừa là bí tích cứu độ
hiểu như dấu chỉ sự hiện diện của
Đức Kitô nơi trần gian, vừa là bí tích hiểu
như phương tiện cứu độ được
thực hiện bởi Đức Kitô. Xét như sự
hiện diện cứu độ của Đức Kitô
nơi trần gian và phương tiện cứu độ
được Đức Kitô thiết lập, Giáo Hội
đại diện Đức Kitô ban các bí tích như những
phương tiện cứu độ. Nói cách khác Đức
Kitô cứu độ nhân loại qua các bí tích mà Ngài đă
thiết lập qua Giáo Hội.
Giáo
Hội là dấu chỉ t́nh yêu của Thiên Chúa đối với
con người, và như vậy là dấu chỉ ân sủng.
Thiên Chúa vô h́nh đă nên hữu h́nh khả giác với con
người qua mầu nhiệm nhập thể; và cũng
phần nào tương tự như vậy, ân sủng
cứu độ của Thiên Chúa, của Đức Yêsu
Kitô, mang khía cạnh nhập thể nhờ mầu nhiệm
Giáo Hội- dấu chỉ sự hiện diện yêu
thương của Đức Yêsu nơi trần gian.
Giáo
Hội thể hiện ân sủng qua những hành vi của
ḿnh. Ân sủng như chân lư, được thể hiện
qua lời giảng dạy của Giáo Hội, được
thích ứng tùy thời và tùy tŕnh độ thiêng liêng của
con người, để dẫn đưa con người
vào chân lư trọn vẹn của Đức Kitô. Ân sủng
như việc hiến thánh con người, được
thể hiện qua việc ban các bí tích. Và ân sủng
như hy tế dâng lên Thiên Chúa, được thể hiện
qua việc cử hành thánh lễ mỗi ngày[46].
Giáo
Hội là dấu chỉ ân sủng t́nh yêu của Thiên Chúa
cho con người. Giáo Hội thể hiện ân sủng
của Đức Yêsu Kitô trong thời điểm hiện
tại qua bí tích mà Giáo Hội cử hành cách đặc biệt
đại diện Đức Kitô. Bây giờ chúng ta xét
kỹ hơn về bí tích kitô giáo.
Giáo
lư về bí tích kitô giáo chỉ được h́nh thành rơ ràng
vào cuối thế kỷ XII, nhưng những quan niệm
về bí tích cách cơ bản đă có ngay từ thời
đầu[47].
Chữ bí tích hiểu theo nghĩa Công giáo được
dịch từ chữ sacramentum của tiếng Latinh, và chữ
sacramentum này cũng được dịch từ chữ musthrion tiếng Hylạp.
Chữ musthrion tiếng Hylạp,
· trong lănh vực phượng
tự của các tôn giáo ngoài kitô, chỉ việc cúng hiến
một người nào đó cho thần linh qua việc nhập
giáo với những nghi thức bí mật;
· với nghĩa về
tri thức, nó chỉ những giáo thuyết bí mật ít
người biết đến;
· với nghĩa thông
thường nó chỉ tất cả những ǵ bí mật
ít người hiểu, cả trong lănh vực tôn giáo cũng
như trong những ǵ thế tục[48];
· trong bản dịch
Kinh Thánh LXX chữ musthrion được dùng để chỉ những
nghi lễ dân ngoại (Kn. 14, 15-23), và cũng được
dùng để chỉ ư định mầu nhiệm của
Thiên Chúa mà con người không thể biết nếu không
có mặc khải;
· trong Tân Ước chữ
musthrion mang nghĩa tri thức, như
“các mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cor.4, 1)[49];
· vào thời các giáo
phụ đầu tiên, đặc biệt trường
Chữ
Sacramentum do động tự sacrare và danh từ sacrum tiếng
Latinh,
· được dùng chỉ
lời thề của lính Roma;
· được dùng chỉ
lời hứa của tín hữu buộc giữ các giới
răn của Thiên Chúa;
· được dùng
để dịch nghĩa chữ musthrion tiếng Hylạp (từ thế
kỷ II sau Công nguyên)[51];
· được
Tertullien dùng để gọi các nghi lễ dân ngoại
cũng như phép rửa và tiệc Thánh Thể của
ki-tô giáo, v́ ông cho rằng có sự giống nhau giữa lời
thề hứa của lính Roma với lời thề của
tín hữu khi lănh phép rửa; Ambrosio cũng dùng chữ sacramentum
để chỉ các nghi thức rửa tội, thêm sức
và thánh thể. Riêng thánh Augustin, Ngài đă góp nhiều công
trong việc sử dụng từ sacramentum cũng
như việc t́m hiểu và đào sâu ư nghĩa của việc gọi
này[52].
Bí
tích của Công Giáo,
· theo Augustin, là dấu chỉ
của thực tại thánh[53];
· theo Pierre Lombard (chết
khoảng 1160), là dấu hiệu của ơn Chúa và là
h́nh thái của ơn vô h́nh, đến nỗi bí tích
mang h́nh ảnh của ơn vô h́nh đó và làm phát sinh
chính ơn đó nữa. Vào cuối thế kỷ XII
này, các nhà tiền kinh viện đă nhận biết hậu quả
do sự (ex opere operato) của bí tích[54];
· theo Thomas, là dấu chỉ
của thực tại thánh theo mức độ nó thánh
hóa con người[55];
· với công đồng
Trentô, là h́nh thức hữu h́nh của ân sủng vô h́nh
và có khả năng ban ơn cứu rỗi[56];
· theo cha Antôn Drexel, là
“hành vi biểu tượng có tính tôn giáo của Chúa Kitô
và Giáo Hội, nhờ được Chúa Kitô thiết lập
nên biểu thị ơn thánh hóa con người và ban ơn
đó một cách do sự, cho những ai không cản trở”[57];
K. Rahner lấy lại tư tưởng của truyền
thống, cho rằng bí tích là những dấu chỉ
thánh của ân sủng Thiên Chúa- và hiểu theo mạch văn
ngài viết- là những biểu tượng, phát sinh cái mà
nó chỉ và chỉ cái nó phát sinh[58].
Nét
đặc trưng của bí tích kitô giáo, theo đức tin
Công Giáo, là hậu quả do sự (ex opere operato). Sở
dĩ bí tích Công Giáo có kết quả ban ân sủng do sự,
bởi v́ Đức Yêsu Kitô đă thiết lập và
đă muốn như vậy. Ngài đă thiết lập
Giáo Hội như bí tích ban ân sủng cứu độ
cho con người, và đă thiết lập các dấu chỉ-
hoặc thiết lập chúng qua trung gian Giáo Hội-
để ban ân sủng cứu độ trong Giáo Hội.
Bí
tích, dấu chỉ ban ân sủng cứu độ, sinh hậu
quả do sự khi được thực hiện theo
ư Đức Yêsu, cụ thể là theo ư Giáo Hội, ư thừa tác
viên đại diện Giáo Hội, và ư muốn ngay lành của
thụ nhân.
Đức
Yêsu là trung gian cứu độ duy nhất giữa Thiên Chúa
và con người, v́ “hẳn không có ơn cứu độ
nơi một người nào khác nữa. V́ dưới
gầm trời này, không có một danh nào khác đă được
ban xuống cho nhân loại để phải nhờ vào
đó mà chúng ta trông được ơn cứu thoát”
(Cv.4, 12). Như vậy, khi nói “ngoài Giáo Hội không có
ơn cứu độ”, hoặc nói, “Giáo Hội là bí
tích nguyên thủy hay phổ quát”, chúng ta phải hiểu
Giáo Hội là phương tiện cứu độ, là bí
tích cứu độ nhờ Đức Yêsu Kitô.
Giáo
Hội là bí tích cứu độ v́ Đức Yêsu là bí tích
cứu độ, là bí tích nguồn, là nguyên nhân Thiên Chúa
ban ơn cứu độ cho con người, là nguyên
nhân qua đó và trong đó Thiên Chúa yêu thương con
người.
Khi
chúng ta nói bí tích là phương tiện cần thiết
để được công chính hóa hay được
cứu độ[59],
chúng ta hiểu đó là những phương tiện cần
thiết tùy thuộc chương tŕnh cứu độ của Thiên
Chúa trong Đức Yêsu Kitô, nhờ Đức Yêsu Kitô và do
Đức Yêsu Kitô.
Khi
chúng ta nói các bí tích có hiệu quả do sự (ex opere
operato), hay theo ngôn từ của K. Rahner “các biểu
tượng thực”, nghĩa là bí tích sinh cái chúng chỉ
và chỉ cái chúng phát sinh ra[60],
chúng ta phải hiểu: các bí tích Công Giáo có kết quả
như vậy là do ư định của Thiên Chúa nơi đức
Yêsu Kitô. Ngài muốn các dấu chỉ Ngài thiết lập
sinh ơn thánh. Và như vậy hàm chứa, các dấu chỉ
này chỉ sinh ơn thánh khi nó được cử
hành theo ư Chúa Kitô, thể hiện qua ư Giáo Hội, và cụ
thể nữa là theo ư thừa tác viên đại diện
và nhân danh Giáo Hội.
Chúng
ta đă t́m hiểu về ư định cứu độ hết
mọi người của Thiên Chúa trong Đức Yêsu
Kitô, đă t́m hiểu về con người trong chiều kích
được mời gọi tham dự sự sống thần
linh của Thiên Chúa, và chúng ta đă thấy Thiên Chúa tạo
dựng con người là hồn và xác; và chính trong cơ
cấu “tinh thần qua thể xác” này mà Thiên Chúa ban ân sủng
cứu độ con người. Đến đây chúng ta
có thể kết luận:
· không ǵ bắt buộc
Thiên Chúa phải ban ân sủng cứu độ con người qua
các dấu chỉ khả giác nếu ta nh́n vấn đề
cách tiên thiên;
· nhưng thực tế
Thiên Chúa đă tạo dựng con người là hồn và
xác; Ngài muốn con người là con người trong
cơ cấu “thể xác tinh thần” này, nên Ngài đă
dùng cơ cấu dấu chỉ để biểu lộ
t́nh yêu ân sủng của Ngài đối với con
người; Ngài cũng muốn con người diễn tả
thái độ sống của con người đối với
Ngài và đối với nhau qua cơ cấu “thể xác
tinh thần”.
HOME LỜI
CHÚA ĐỨC
TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] L. LEAHY, Philosophie de l'homme, COLLÈGE PONTIFICAL St. PIE X, ĐALAT 1974, pp. II/1-2
Xem thêm G. SIEWERTH, L'homme et son corps, PLON- PARIS 1957, p. 100
[2] Cf. P. BENOIT. Editorial của CONCILIUM 40 (1968), p. 7
[3] L. MONDEN, sj, Le miracle- signe de salut, DDB. 1960, p. 42
[4] Ibidem, p. 43
[5] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle, trong Écrits théologiques, t. II, DDB. 1960, p. 129
[6] Ibidem, p. 130-131
[7] Ibidem, p. 131
[8] P. FOULQUIÉ, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF- PARIS 1962, p. 672-674.
[9] L. LEAHY, Philosophie de l'homme, DALAT 1974, p. II/6
A-M. ROGUET, Renseignements techniques,
trong Les Sacrements, DESCLÉE et CIE,
“Le signe c'est la pure relation de signification, abstraction faite de la chose qui le soutend, c’est une pure mesure du substitut par le signifié”.
[10] Xem phần Liminaire của Symbole, p. 8 trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959)
[11] L. LEAHY, Philosophie de l'home, DALAT 1974, p. II/6.
[12] A. DREXEL, Bí tích đại cương, GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN-ĐALAT, không ngày, p. 16-17.
[13] L. LEAHY, Ibid.
[14] A- M.
ROUGET, Renseignements techniques, trong
bản dịch Les sacrements, DESCLÉE ET CIE-PARIS 1945, p. 315
[15] Ibidem, p. 314: “Le signe, de même, si on le prend très rigoureusement, c'est l'extrême pointe du symbole, c'est le point par ó le symbole n'est que signe, abstraction faite de sa nature propre. Pris plus largement, le signe, c'est le symbole lui-même en tant qu'il exerce la fonction de signifier, qu'il est sujet de la relation de signification. Et le symbole, de son côté, n'est symbole que parce qu'il se termine en signe...
Le signe pris au sens précis de signification peut encore désigner soit une signification, proprement dite, soit un symbolisme...
La distinction entre signe et symbole que nous voudrions établir n'est pas une distinction totale.”
[16] Xem Liminaire của quyển Symbole, trang 7 trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959).
[17] ERNST CASSIRER, An essay on man, YALE UNIVERSITY PRESS 1962, pp. 32-36.
[18] Ibidem, p. 33.
[19] Xem phần Liminaire của Symbole, p. 8-9 trong RECHERCHES ET DÉBATS XII (1959)
[20] Xem K. RAHER, Pour la théologie du symbole, trong ÉCRITS THÉOLLGIQUE, t. IX, DDB. 1968, p. 13
[21] Ibidem, p. 16
[22] Ibidem, p. 17
[23] Ibidem, pp. 18-19
[24] Ibidem, pp. 19-20
[25] Ibidem, p. 21
[26] Ibidem, p. 25
[27] J. DE FINANCE, Connaissance de l'être- Traité d'ontologie, DDB-PARIS 1966, pp. 405-406
[28] K. RAHNER, Pour la théologie du symbole,
trong ÉCRITS THÉOLOGIQUES, t. IX, DDB. 1968, p. 39
Ghi chú 1: Même la réception du salut de la part de l'esprit libre de l'homme est un acte de tout l'homme, donc aussi corporel: il s'accomplit donc toujours aussi dans le symbole (acte qui est donc toujours aussi historique et social), donc encore “ecclésial”.
[29] AUGUSTINUS, Contra Julianum, 5, 11, 45 R. 1909 (Chữ bí tích ở đây được dùng là sacramentum, nó c̣n có nghĩa là dấu chỉ hoặc biểu tượng). Xem thêm A. DREXEL, Bí tích Đại cương, GHHV- DALAT, không ngày, p. 128
[30]
[31]
[32] Ibidem, a. 2
Nếu chúng ta quan niệm bí tích (dấu chỉ, biểu tượng của ơn thánh vô h́nh) như cơ cấu con người đ̣i hỏi- con người là xác và hồn- th́ bí tích vẫn cần thiết để con người gặp gỡ Thiên Chúa.
[33] Những người sống trong các tôn giáo ngoài ki-tô tin rằng: Thiên Chúa, Đấng Tối Cao đă mặc khải cho họ, và họ cũng dùng những nghi thức tôn giáo để diễn tả tâm t́nh, thái độ sống với Thiên Chúa mà họ tin thờ.
[34] Yavê Thiên Chúa đă hiện ra cho Hagar dưới dạng “thiên thần”. Thiên thần được dùng trong Kinh Thánh Cựu ước, khi th́ để chỉ người được Thiên Chúa sai đến với con người (Kn.16, 7), khi th́ chỉ chính Thiên Chúa (Kn.16,13; 22,15). Xem thêm ghi chú nơi Kn.16,7 trong bản dịch của Cha Nguyễn Thế Thuấn.
[35] Ư kiến
của Augustin (R.1646,1875), Gregôriô Cả (R.2306), Thomas (
[36] Ep.
“Lectis dilectionis tuae” ad Flavianum epis. Constantinopolitanum, sive “Tomus
(I) Leonis”,
DS.293/143/
[37] OTTO SEMMELROTH, art. “Mediatorship”,
trong SACRAMENTUM MUNDI-BURNS&OATES 1969
[38] Xem K. RAHNER, Pour la théologie du symbole, trong ET., t. IX, DDB.1968, pp. 27tt.
[39] Khi Ngôi Lời nhập thể, các thiên thần hiểu hơn về Thiên Chúa. Mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể đă được dấu kín từ đời đời, chỉ được tỏ ra vào thời điểm của nó. Cf. Eph.1, 3tt.
[40] Nhập thể theo kitô giáo không là một hóa thân (avatar) trong Ấn giáo.
[41] Điều này vẫn đúng trước khi Chúa Yêsu được sinh ra v́ biến cố Yêsu Kitô đă là nguyên nhân cứu cánh trong việc tạo dựng của Thiên Chúa.
[42]
W.BULST, “
[43] Đức Yêsu thiết lập Giáo Hội: Ngài đă chọn và gọi nhóm mười hai (Mc 3, 13tt; 6,7tt), cho nhóm 12 ngồi trên ṭa xét xử 12 chi tộc Israel (Mt.19, 28), trao quyền ch́a khóa cho các tông đồ và đặc biệt cho Phêrô (Yn.20, 22-23; Mt.16, 16tt).
Giáo Hội là dấu chỉ của Đức Kitô: xem K. RAHNER, Eglise et sacrements, QUESTTIONES DISPUTATAE 10- DDB.1970, p. 24tt.
[44] K. RAHNER, op. cit, p. 25
[45] K. RAHNER, Eglise et sacrements, QUESTIONES DISPUTATAE 10- DDB 1970, p. 24
[46] K. RAHNER, Piété personnelle et piété sacramentelle,
trong ET., t.II, DDB. 1960, p. 133
[47] Xem A. DREXEL, Bí Tích Đại Cương, GHHV-DALAT không ngày, p. 14
[48] A. DREXEL, op. cit., p. 10
[49] Ibidem, p. 10-11
[50] Ibidem, p. 11
[51] Ibidem, pp. 11-12
[52] A. DREXEL, Bí Tích Đại Cương, GHHV-DALAT không ngày, pp. 12-13
[53] AUG, Epist., 138, 1 PL.33, 527: Sacramentum est sacrae rei signum.
Từ Augustin đến thế kỷ XII đều cho rằng: bí tích là h́nh thức hữu h́nh của ơn thánh vô h́nh. Xem A. DREXEL, op. cit, p. 13
[54] PIERRE LOMBARD, IV Sent., d.1, n.2
Cf. A. DREXEL, op. cit, pp. 13-14
[55] A. ADREXEL. op. cit, p. 14
[56] LEONARDO BOFF, art. “Le sacrement de mariage”,
trong CONCILIUM 87 (1973), trang 23: “Le
sacrement est la forme visible de la grâce invisible, et capable d'opérer
le salut (
Sách Giáo Lư công đồng Trentô, phần 2, chương 1, số 11: “ Bí tích là một sự khả giác nhờ được Thiên Chúa thiết lập mà có khả năng biểu thị và sinh ra sự thánh thiện và sự công chính”. Xem A. DREXEL, op. cit, p. 20.
[57] A. DREXEL, op. cit, pp. 20-21.
[58] Xem K. RAHNER, Pour la théologie du symbole,
trong ET., t.IX, DDB. 1968, pp. 34-35. “Sacramenta efficiunt quod significant et significant quod efficiunt.
[59] DS. 1604. 1864. 2536
[60] Xem K. RAHNER, Pour la théologie du symbole,
trong ET., t.IX, DDB. 1968, pp. 34-35. “Sacramenta efficiunt quod significant et significant quod efficiunt.