HOME LỜI
CHÚA ĐỨC
TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
ÂN SỦNG VÀ BIỂU
TƯỢNG
Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
MỤC LỤC:
D. ÂN SỦNG QUA BIỂU TƯỢNG NGOÀI KITÔ
GIÁO
Biểu
tượng diễn tả kinh nghiệm tôn giáo
Biểu
tượng được hiểu trong nền văn hóa
Lập
trường tích cực dựa vào lịch sử cứu
độ
iii). Lập
trường tích cực từ nhăn quan mặc khải
Chúng
ta đă cùng nhau lược qua lịch sử thần học
và xác tín, Thiên Chúa vui ḷng ban ân sủng cứu độ cho
những người sống ngoài kitô giáo, nghĩa là cho
những người hiện nay sống trong các tôn giáo ngoài
kitô, và ngay cả những người không biết hoặc
từ chối Đức Yêsu và Thiên Chúa mà không phải lỗi
tại họ.
Chúng ta cũng đă t́m hiểu và
nhận thấy Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho
con người hợp với cơ cấu “hồn-xác” của
con người, nghĩa là qua dấu chỉ hoặc biểu
tượng.
Chúng ta cũng đă t́m hiểu và
khẳng định: dù là bất cứ ai nếu được cứu
độ, đều được cứu độ nhờ
Đức Kitô và Giáo Hội của Người.
Bây
giờ chúng ta sẽ xét đặc biệt tới những
người đang sống trong các tôn giáo không phải
kitô giáo, cụ thể những người không tin Đức
Yêsu nhưng không phải do lỗi lầm của họ. Vấn
đề đặt ra: các nghi lễ, dấu chỉ và
biểu tượng nơi các tôn giáo họ đang sống
trong đó, có là những phương tiện Thiên Chúa
dùng để ban ân sủng cứu độ cho họ
không?
Trong
mục này chúng ta sẽ xem xét để có lập trường
về các tôn giáo ngoài kitô, sau đó t́m hiểu hơn về
biểu tượng thực tại vô h́nh, và cuối cùng sẽ
đưa ra kết luận về các dấu chỉ hoặc
biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô.
Tôn
giáo là một định chế đặc biệt có mục
đích thờ phượng tôn kính Thiên Chúa như Ngài
đáng được. Tôn giáo là một tổ chức
xă hội với những phẩm trật, lề luật
và truyền thống, có những tín điều mà các tín hữu
phải tin và tuyên xưng, cũng như có những nghi
thức biểu lộ tâm t́nh thờ kính, tùng phục yêu mến đối
với Thiên Chúa ngơ hầu tín hữu được cứu
độ[1].
Tôn
giáo cũng được coi như một kinh nghiệm về
Đấng không bị điều kiện hóa, nhưng
kinh nghiệm này được nhận qua một hệ thống
biểu tượng thuộc về một nền văn
hóa[2].
Nói đơn sơ hơn, tôn giáo là kinh nghiệm đối
với Tuyệt Đối; kinh nghiệm này có nhờ Tuyệt
Đối diễn tả ḿnh qua nền văn hóa của
người nhận; và người có kinh nghiệm với
Tuyệt Đối cũng diễn tả tâm t́nh thái độ
của ḿnh đối với Tuyệt Đối qua nền
văn hóa của ḿnh.
Có
thể nói lịch sử các tôn giáo được cấu
thành bởi những cuộc thần hiển, nghĩa
là bởi những cuộc tỏ lộ của thực tại
thần linh. Thực tại thần linh đây là cái ǵ
hoàn toàn khác, một thực tại không thuộc về
thế giới của chúng ta.
Vật
thần hiển rất là đa phức, có thể là cục
đá, cái cây, hoặc các tinh tú như mặt trời, mặt
trăng hoặc ngôi sao, hoặc một ḍng nước,
và cũng có thể là con vật, hoặc ngay cả một người[3].
Kinh
nghiệm với Cái-Hoàn-Toàn-Khác qua những cuộc thần
hiển, hoặc với Tuyệt Đối qua những
lần “mặc khải”, không thuộc hoàn toàn do ḿnh, nghĩa
là, không phải ḿnh muốn là được. Hơn nữa,
Cái-Hoàn-Toàn-Khác hoặc Tuyệt Đối được cảm
nghiệm, là cái ǵ khôn ḍ, không thể diễn tả nổi
và không thể diễn tả hết bằng ngôn ngữ. Những người
có kinh nghiệm với Đấng Hoàn Toàn Khác cố gắng
diễn tả Thực Tại này qua những h́nh ảnh,
dấu chỉ khả giác, nghĩa là qua các biểu tượng.
Nói
đến cách diễn tả của con người qua biểu
tượng, qua h́nh ảnh, ta phải nghĩ ngay đến
“nền văn hóa” con người sống trong đó, v́ con
người khi diễn tả, phải diễn tả bằng
nền văn hóa ḿnh sống với những h́nh ảnh,
ngôn từ, biểu tượng. Như vậy để
hiểu được phần nào Đấng Hoàn Toàn Khác
qua kinh nghiệm thần hiển, được diễn
tả bằng ngôn ngữ biểu tượng hoặc thần
thoại xét như một văn loại diễn tả kinh
nghiệm với Thực Tại Hoàn Toàn Khác, chúng ta phải
t́m hiểu kinh nghiệm này qua các biểu tượng trong nền văn hóa h́nh
thành các biểu tượng.
Nếu
chúng ta nh́n tôn giáo là kinh nghiệm
với Đấng Hoàn Toàn Khác được diễn tả
qua những biểu tượng
và thái độ tâm t́nh
đối với Đấng Hoàn Toàn Khác được
diễn tả qua các nghi thức
hợp với nền văn hóa của những người
có kinh nghiệm này, th́ việc t́m hiểu ư nghĩa các
biểu tượng thật cần thiết để hiểu
kinh nghiệm của các tôn giáo!
Lịch
sử thần học cho thấy có nhiều tác giả chủ
trương các tôn giáo ngoài kitô không là phương tiện
Thiên Chúa dùng để cứu độ con người,
nhưng trái lại là công tŕnh của con người, và c̣n
tệ hơn là công tŕnh của ma quỷ.
Một
số họ dựa vào các đoạn Kinh Thánh sau để
nói rằng các tác giả linh ứng có câu trả lời
tiêu cực về giá trị cứu độ của các
tôn giáo ngoại: 1V.11, 1-13; Jer.2, 26-29; 10, 1-16; Bar.6,
7-72; Ys.40, 18-20; 44, 9-20; 46, 6tt; Tv.105; 113, 10-16; Kng.13,
1-14.20; 15, 6-19; 1Mac.1, 41-64; 2Mac.4, 1-11[5].
Đầu
tiên chúng ta phải nhận rằng vấn đề các tôn
giáo ngoài kitô không là một vấn đề được
các tác giả linh ứng nhắm bàn cách trực tiếp; hơn
nữa, để xem thực sự tác giả Kinh Thánh có muốn
khẳng định rằng các tôn giáo ngoài kitô không có
giá trị cứu độ hay không, chúng ta phải hỏi
những chuyên gia về khoa chú giải Kinh Thánh.
Riêng
về 1V.11-13, bản văn nói về việc Salomon mê con
gái các dân ngoại và để ḷng mê theo các thần ngoại
lai, chính v́ lư do đó mà Thiên Chúa đă chia cắt xứ
sở ra làm hai. Bản văn này coi các thần dân ngoại
thờ kính đối nghịch với Yavê Thiên Chúa của
C̣n
bản văn Jer.2, 26-29; 10, 1-16 châm biếm các ngẫu
tượng của dân ngoại bằng gỗ bằng
bạc bằng vàng. Chúng ta hiểu được điều
này dễ dàng v́ đây chính là điều Yavê Thiên Chúa cấm
dân
Một
số tác giả dựa vào thơ thánh Phaolô gửi tín hữu
Rôma để kết án các tôn giáo ngoài kitô. “Quả vậy,
từ trời sự thịnh nộ của Thiên Chúa
được mặc khải ra trên mọi sự vô đạo
và bất chính của những kẻ lấy bất
chính hăm cầm sự thật. V́ chưng lộ hiện rồi
nơi họ những ǵ biết được về
Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa đă bày tỏ cho họ. V́ từ
buổi tạo thành vũ trụ, những ǵ nơi Người,
mắt xác thịt không thể thấy th́ trí khôn nh́n ngắm
được nơi công việc Người làm: quyền
năng hằng có và thần tính của Người, khiến
họ vô phương chữa ḿnh. V́ rằng họ
đă biết Thiên Chúa, họ lại đă không tôn vinh
Người như Thiên Chúa, hay không tạ ơn Người,
nhưng họ đă ra hư luống trong các suy tưởng
của họ, và ḷng ngu muội của họ đă ra tối
tăm. Trong khi họ huênh hoang ḿnh khôn ngoan, th́ họ
đă ra điên rồ. Và họ đă tráo đổi vinh
quang Thiên Chúa bất hoại với loài người hư
nát, và bao cầm thú, cùng rắn rít (Rm.1, 18-23)”. Ở
đây thánh Phaolô bàn về tội lỗi của con người,
đă không theo đường lối của Thiên Chúa
nhưng bẻ quặt đường lối của Ngài
theo kiểu của ḿnh; cũng tương tự, tác giả
sách Khởi nguyên (Kn.3, 1tt) cho rằng tội của Adam là
muốn trở nên thần linh bằng sức riêng của
ḿnh, độc lập với Thiên chúa; nhưng vấn
đề hệ tại t́m hiểu xem các tôn giáo ngoài
kitô là công tŕnh của Thiên Chúa hay của con người,
nếu các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của con người
th́ vấn đề đă được giải quyết;
cụ thể cho đến giờ chúng ta không chứng minh
được như vậy.
Lịch
sử cho thấy, nhiều tôn giáo xuất hiện trước
Do thái giáo và Kitô giáo, và các kitô hữu cũng đă sống
chung đụng với những tín hữu của các
tôn giáo này; thời đầu tiên trong Cựu Ước
và Tân Ước các tác giả không bàn trực tiếp về
các tôn giáo ngoài kitô, nếu có dịp th́ các tác giả chỉ
nhắc qua thôi; thời các giáo phụ cũng vậy; việc nghiên
cứu về các tôn giáo ngoài kitô chỉ xuất hiện
trong những thế kỷ gần đây[6].
Dù
các giáo phụ không đặt câu hỏi về các tôn giáo
như chúng ta đang đặt hôm nay, nhưng đôi
khi các ngài cũng bàn về khía cạnh chân lư trong các tôn
giáo ngoài kitô. H. Kraemer đă tóm tắt lập trường
của các giáo phụ như sau:
· Lập trường thứ
nhất cho rằng các điều hay và tốt nơi các tôn
giáo là do công tŕnh của logos spermatikos.
· Lập truờng thứ
hai chủ trương rằng những ǵ tốt đẹp
và chân thật nơi các tôn giáo khác là do các tôn giáo ấy
lấy những ǵ tốt đẹp và chân thật
nơi Do Thái giáo hoặc Kitô giáo.
· Lập truờng thứ
ba cho rằng những ǵ được coi là chân thiện mỹ
nơi các tôn giáo khác chỉ có vẻ là chân thiện mỹ
thôi, chứ thực ra đó là công tŕnh của ma quỷ,
v́ không có chân thiện mỹ nơi các tôn giáo ngoài kitô[7].
Trong
thời sơ khai của Hội thánh, có kẻ khi tiếp
xúc với các tôn giáo ngoại đă có khuynh hướng
“hoá đồng tôn giáo”, họ cho rằng Zarathoustra,
đức Phật và đức Kitô chỉ là một thực
tại. Hội Thánh Byzantine đă kết án những
người chủ trương như vậy: “coi
là ngoại đạo những ai nói rằng Zarathoustra,
Phật, Kitô, Mani và Mặt Trời là một và cùng là một
sự. Coi là ngoại đạo những ai nhận thuyết
luân hồi, nghĩa là sự chuyển di linh hồn của
một thân xác này vào một thân xác khác”[8].
Giáo
phụ Tatien sinh khoảng năm 120 tại Assyrie, là môn
đệ thánh Justin ở Roma, được huấn
luyện về văn chương và triết lư tại
đó. Tatien không bàn về tôn giáo nhưng qua thái độ
của ông đối với triết gia, ta thấy ông rất
nghiêm khắc; ông kết án các triết gia, cho rằng họ đă
rơi vào mọi loại tật xấu, sai lầm và mâu thuẫn.
Théophile
d' Antioche cũng vậy, Ngài bài bác các triết gia bằng cách
chưng ra những sai lầm và nghịch lư của họ[9].
Thái
độ của các ngài chúng ta cũng có thể hiểu
được nếu chúng ta đặt ḿnh vào bầu
khí hộ giáo lúc đó: các triết gia ngoại giáo
đang châm biếm và đả phá Kitô giáo; v́ thế các Ngài
bênh vực đạo giáo và cho thấy những sai lầm
của họ đứng từ lập trường của ḿnh.
Sở dĩ chúng ta đưa hai ngài vào lập trường
những người có câu trả lời tiêu cực cho
vấn đề thần học các tôn giáo, v́ nếu
thái độ của các ngài đối với các triết
gia c̣n vậy, huống hồ là đối với các
tôn giáo ngoài kitô.
Thánh
Augustin, thần học gia lỗi lạc vào bậc nhất
của Hội Thánh, sinh khoảng năm 354 ở Numide tại
Tagaste, cho rằng các triết lư có những giá trị
đích thực, nhưng nó có được như vậy là
do nó chiếm đoạt cách bất chính những giá trị
đích thực của Kitô giáo. Dựa vào quan niệm
này của Augustin, nhiều người cho rằng những
tôn giáo ngoài kitô cũng có những giá trị tôn giáo
đích thực, nhưng giá trị đó là do các tôn giáo
ngoài kitô chiếm đoạt cách bất chính nơi Hội
Thánh kitô giáo[10].
Để nhận định lời nói trên của Augustin
cách đúng đắn, chúng ta phải nhớ rằng
ngài đă có thời gian khá dài sống theo hết các triết
lư này đến triết lư khác và cuối cùng Ngài mới
trở lại tin đức Kitô, ngài chỉ được
rửa tội năm 387, nghĩa là 33 năm sống trong lầm lạc.
Đối
với Fulgence de Ruspe, các tôn giáo ngoài kitô không có giá trị
cứu độ, và thậm chí những người sống
ngoài Giáo Hội Công Giáo đều phải sa hỏa ngục:
“Không có ǵ phải nghi ngờ rằng không chỉ những
lương dân mà tất cả những người Do Thái,
tất cả những người lạc giáo và ly giáo,
những người chết ngoài Giáo Hội Công Giáo, sẽ
sa vào lửa đời đời đă được sắm
sẵn cho ma quỷ và các thần của nó”[11].
Đọc các lời này của Fulgence de Ruspe, chúng ta nhớ
đến câu châm ngôn thần học “extra ecclesiam nulla
salus”. Câu châm ngôn này đă được Giáo Hội chính thức
giải thích như chúng ta đă thấy ở trên.
Thánh
Thomas, một thần học gia vĩ đại của
Giáo Hội Công Giáo sinh năm 1225 tại Roccasecca, đă
đặt vấn đề về nghi lễ của
dân ngoại. Theo thánh nhân, các nghi lễ của dân ngoại
không có sự thật cũng không có lợi ích chút nào,
nhưng để có một ích lợi lớn hơn
th́ có thể dung thứ các nghi lễ của dân ngoại
với mức độ[12].
Một
số người dựa vào nguyên tắc của thánh Thomas
“bonum ex integra causa, malum ex quocumque defectu” để kết
luận rằng: mọi tôn giáo ngoài kitô tự bản chất
là xấu, nghĩa là nó không nằm trong chương
tŕnh của Thiên Chúa, và do đó không là phương tiện
Thiên Chúa dùng cứu độ con người[13].
Luther
và những người thuộc phe cải cách chủ
trương tất cả các tôn giáo kể cả Công giáo, đều xấu v́ đó là
nỗ lực của sức con người nhằm
đặt đến sự cứu độ[14].
Luther đă theo nguyên tắc: chỉ do sức con người
th́ không thể đạt tới sự cứu độ.
Adam và Evà xưa cũng muốn trở thành thần minh
độc lập với Thiên Chúa, và như thế hai
ông bà đă phạm tội. Nếu tôn giáo chỉ là nỗ lực của con người
để đạt tới sự cứu độ, th́
tôn giáo không là phương tiện cứu độ, mà
hơn nữa đó c̣n là một tội. Điều cần
lưu ư: những người sống trong các tôn giáo ngoài
kitô vẫn chờ mong sự cứu độ như cái ǵ ngoài ḿnh.
Vào
thế kỷ XIX, theo Gustave Thils, một số tác giả
coi tôn giáo ngoại là các tôn giáo tôn thờ ngẫu tượng,
chẳng hạn như:
P. Aubry: “Văn minh Trung hoa dưới
mọi quan điểm, gần như là một sự dị
hợm, không chỉ phản kitô giáo nhưng c̣n phản nhân
bản nữa. Tôn giáo của người Trung Hoa thật kỳ
quặc, phi lư, lố bịch nhất thế giới... Các
tu sĩ là giai cấp đê tiện, bị khinh bỉ, vô
tri, hư thối! Các nghệ thuật không được
biết, nó không hiện hữu. Trong các chùa và các lâu đài,
có vài h́nh tượng được vẽ hay điêu khắc
về ma quỷ và các con vật kinh khủng, kỳ quái”[15];
J. Witte cũng coi tôn giáo ngoài kitô
là sai lầm, tội lỗi và hư vong[16];
Một số nhà truyền giáo cũng
có cái nh́n tiêu cực về các tôn giáo ngoại. Những
người này đi rao giảng và thường gặp sức
phản kháng chống tin mừng đức Yêsu Kitô từ
các tôn giáo. Nói cách khác, các tôn giáo ngoại ngăn cản
người ta tiếp nhận và đến với Đức
Yêsu Kitô[17].
Ở
thế kỷ XX này, một số anh em Tin lành như Karl
Barth và H. Kraemer lấy lại quan điểm về các tôn
giáo của Luther:
“Tất cả các tôn giáo xuất
hiện như một toan tính tự công chính hóa và tự cứu
rỗi của con người. Nói cách khác, tôn giáo là những
nỗ lực của con người nhằm xác định
ḿnh trước Thiên Chúa và nhằm từ chối hay cho thấy
ḿnh không thể nhận ân sủng của Thiên Chúa là Đấng
ban sự công chính cho kẻ vô đạo. Mặc khải lột
mặt nạ tất cả các tôn giáo, vạch cho thấy sự
không cần thiết của mọi tôn giáo, nghĩa là sự
bất lực bẩm sinh của con người nhằm
đẻ ra chân lư, nỗi bất lực này sự phát triển
tôn giáo của con người xác chuẩn... Như vậy,
mọi tôn giáo đều là h́nh thức thờ ngẫu
tượng hay nỗ lực tự công chính hóa nhờ việc
làm, là sự kiêu ngạo... Những điều này là những
cây mọc trên đất kitô giáo...”[18].
Sau
đây chúng ta tóm lại những luận chứng cho rằng
các tôn giáo ngoài kitô không là phương tiện Thiên Chúa dùng
để cứu độ con người sống trong các
tôn giáo đó:
· Các tôn giáo ngoài kitô
ngăn cản người ta tiếp nhận và đến
với Đức Yêsu Kitô. Quan niệm này thường
đến từ những nhà truyền giáo. Hiện tượng
tiêu biểu là đạo Hồi[19].
· Tôn giáo ngoài kitô hoàn toàn
là công tŕnh của con người muốn tự ḿnh công
chính hóa, nghĩa là con người muốn độc lập
với Thiên Chúa[20].
· Giáo lư sai lầm không thể
dung hợp với giáo lư kitô giáo, chẳng hạn thuyết
luân hồi... Những việc làm “vô luân” nếu nh́n dưới
nhăn quan kitô giáo, chẳng hạn việc giao cấu với
nữ tế trong các tôn giáo Hylạp, hoặc việc dâng
người để tế thần.
Trên
đây chúng ta đă xét những luận chứng nhằm khẳng
định các tôn giáo ngoài kitô không có giá trị cứu độ;
nhưng nếu chấp nhận kết luận này chúng ta thấy
vẫn c̣n những dữ kiện khó giải thích, chẳng
hạn có những nhà thần bí nơi các tôn giáo ngoài kitô[21],
cũng như những điểm tương đồng
về giáo lư của những tôn giáo ngoài kitô với Kitô giáo,
chẳng hạn niềm tin vào Đấng Tuyệt Đối,
khẳng định con người cần được
cứu độ, dạy con người phải làm lành
lánh dữ... Chính những điểm này đă làm phát sinh
quan điểm tích cực về các tôn giáo ngoài kitô trong ḍng
lịch sử thần học.
Tương
tự như những người chủ trương “tiêu
cực” về các tôn giáo ngoài kitô đă làm, những người
chủ trương lập trường “tích cực” cũng
nại vào Kinh Thánh để biện minh cho lập trường
của ḿnh.
Kinh
Thánh ngay khởi đầu cho thấy Cain và Abel đă dâng
lên Thiên Chúa những lễ vật là hoa trái của cây cối
và thú vật (Kn.4, 3-4). Các tôn giáo cũng có những nghi lễ
để biểu lộ tâm t́nh thái độ của con
người đối với Thiên Chúa.
Khi
Thiên Chúa đă cứu Noe và gia đ́nh ông thoát khỏi bị
tiêu diệt trong lụt hồng thủy, Ngài nói: “Phần
Ta, này Ta lập giao ước của Ta với các
ngươi và ḍng giống các ngươi đến sau
các ngươi, cùng với mọi sinh mạng sống với
các ngươi, với chim chóc, thú vật, dă thú với
các ngươi, tóm lại mọi vật đă từ
tàu đi ra, mọi sinh vật trên đất. Ta lập giao
ước của Ta với các ngươi: mọi loài
có xác sẽ không c̣n bị nước hồng thủy tiểu
trừ. Sẽ không c̣n có hồng thủy đến hủy
diệt cơi đất. Và Thiên Chúa phán: Này là dấu giao
ước Ta đặt giữa Ta với
các ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở với
các ngươi, đời đời măi măi.” (Kn.9, 8-12).
Như vậy chúng ta thấy giao
ước Thiên Chúa kư với Noe ở đây là giao ước
chung cho tất cả mọi người, mọi sinh vật
trên đất chứ không chỉ với con cái Israel như
ta thấy những giao ước tiếp sau được
nói từ chương thứ 12 sách Khởi Nguyên trở đi.
Giao ước của Thiên Chúa cho Noe hàm chứa: ơn cứu
độ được ban cho con người ở
ngay trong t́nh trạng này, nghĩa là trước khi có
giao ước với Abraham và ḍng giống ông. Như vậy
trước khi có Do Thái giáo và Kitô giáo, con người
đă được cứu độ nhờ tôn giáo của
họ, nghĩa là nhờ ḷng tin của họ vào Thiên Chúa và
những hành vi phượng tự họ dâng lên Thiên
Chúa!
Thánh
Phaolô trên đường rao giảng, Ngài tới Athêna và thấy
có một tượng thần người ta thờ
kính với danh hiệu “thần vô danh”; dựa vào
đó, Phao-lô đă nói: “Kính thưa quư vị người
Athêna, xét về mọi mặt tôi nhận thấy các
ngài rất sùng tín. V́ ngang qua, tôi ngước mắt nh́n
về các đồ thờ của các ngài, tôi đă gặp
cả một tế đàn trên đó có khắc: KÍNH THẦN
VÔ DANH. Vậy Đấng các ngài không biết nhưng có
kính thờ, th́ này tôi xin loan báo về Người cho
các ngài. Thiên Chúa tạo thành vũ trụ... Người
đă định thời tiết phân minh và cương
giới nơi chốn họ ở, ngơ hầu họ t́m kiếm
Thiên Chúa và họa may rờ rẫm sao mà gặp
được Người. Và quả thực Người
không xa mỗi chúng ta” (Cv.17, 22-24, 26-27).
Ở đây, chúng ta thấy
thánh Phao-lô đề cập tới việc thờ tự
của một dân thành có nghi lễ riêng, đến các
tôn giáo. Ngài không kết án các tôn giáo nhưng muốn
dùng chính tôn giáo để dẫn đưa họ đến
với Thiên Chúa đích thực. Ngài cũng nêu lên những
sai lầm của họ nếu họ nghĩ rằng thần
linh lại giống như vàng, như bạc, như
đá, do nghệ thuật và suy tưởng con người
taọ ra (Cv.17, 29).
Chúng
ta sơ lược qua một vài giáo phụ có cái nh́n thuận
lợi cho các tôn giáo ngoài kitô. Chúng ta chỉ xét thánh Irénée
và thánh Clément ở
Irénée,
giám mục ở Lyon gốc Tiểu Á sinh khoảng 140-202,
là môn đệ của Polycarpe (†155), trong tác phẩm “chống lạc
giáo”, đă viết: “Hăy đến hỡi những kẻ
Cha Ta chúc phúc... Chỉ có một và duy chỉ có một
Thiên Chúa là Cha, và Lời Ngài, Đấng giúp tất cả
theo nhiều đường (variis quidem
dispositionibus), Đấng hoạt động nhiều,
và là Đấng cứu những người được
cứu ngay từ đầu, những người yêu mến
Thiên Chúa và sống Lời Thiên Chúa theo cách thức của
họ”[23].
Phải chăng chúng ta có thể
hiểu từ ngữ “nhiều đường” ở
đây như những đạo, những tôn giáo khác nhau?
Giáo
phụ Clément ở Alexandria sống trong khoảng năm
150-215 đă viết trong những hàng đầu quyển
Stromates: “Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi sự lành, của
những sự lành này th́ Ngài là nguyên lư như Cựu
Ước và Tân Ước, của những sự
lành khác như triết lư, th́ Ngài như hậu quả.
Chính Ngài đă ban triết lư cho người Hylạp trước
khi những người này được gọi. Thực
vậy, triết lư dạy những người Hylạp
như cách thức một thầy giáo, như Lề luật
đă dạy dân Do thái, hướng về Đức Kitô...
Kinh Thánh nêu lên nhiều đường
cứu độ không chỉ cho một người
nhưng cho nhiều người công chính theo, như đă
viết: đường người công chính sáng ngời
như ánh sáng. Như vậy có những giới răn, những
huấn thị (propédeutiques), những đường
và những phương lược cứu độ
đi trước”[24].
Chỗ
khác Ngài viết: “Thiên Chúa chăm sóc tất cả hoàn vũ
v́ Ngài là Chúa của hoàn vũ. Ngài là cứu chúa, không phải
là cứu chúa của người này mà không là cứu
chúa của người khác. Nhưng Ngài đổ tràn hồng
ân của Ngài theo khả năng của từng người,
trên người Hylạp và người mọi rợ,
và cũng như trên người được gọi vào
giờ đă định”[25].
Chỗ
khác nữa Ngài viết: “Thiên Chúa đă ban cho chúng ta một
giao ước mới. Bởi v́ giao ước liên quan
đến người Do Thái và Hylạp đă là giao ước cũ.
Theo ư kiến tôi, thánh Phao-lô đă dạy rơ ràng rằng: cùng
một Thiên Chúa và duy một Thiên Chúa đă được
biết, bởi người Hylạp theo cách người
ngoại, bởi người Do Thái theo cách Do Thái giáo,
nhưng bởi chúng ta cách thiêng liêng...
Thiên Chúa đă ban cho chúng ta hai giao
ước, nhưng đồng thời cho người
Hylạp triết lư hylạp, trong đó Ngài được
tôn vinh bởi người Hylạp...
Bởi v́ cũng như Thiên Chúa muốn
cứu những người Do Thái bằng cách ban cho họ
các tiên tri, th́ cũng vậy Ngài đă chọn những
người thanh cao nhất giữa những người
Hylạp, và đă đặt họ như các tiên tri
trong ngôn ngữ của họ với mức độ nhờ
đó họ có thể nhận biết ḷng nhân từ của
Thiên Chúa”[26].
Như
vậy chúng ta thấy: thánh Clément thành Alexandria đặt
sóng đôi song đối giữa Do Thái giáo và triết
lư Hylạp; dân Do Thái được cứu độ với
các tiên tri, th́ người Hylạp cũng được cứu
độ với triết lư. Dân Do Thái nhận ra ḷng
nhân từ của Thiên Chúa qua giao ước và lề luật,
th́ người Hylạp cũng nhận ra ḷng nhân từ của Thiên
Chúa qua sự khôn ngoan triết lư mà Thiên Chúa ban cho họ;
nói cách khác, triết lư cũng là phương lược cứu
độ cho người Hylạp. Nếu Clément
d'Alexandrie đă đặt song đối giữa triết
lư và Do Thái giáo, thiết tưởng chúng ta cũng có thể
đặt song đối giữa các tôn giáo ngoài kitô và
Do Thái giáo, v́ tôn giáo ngoài kitô cũng là cách cho người
ngoại tôn vinh Thiên Chúa theo cách của họ.
Ở
thời trung cổ, chúng ta sẽ xét hai vị khá nổi tiếng,
đặc biệt khi các ngài bàn về hoặc nói về
tôn giáo ngoài kitô, đó là thánh Bernard và Hồng y Nicolas de
Cusa.
Thánh
Bernard (1090-1153) sinh tại Fontaines les Dijon (Côté d'Or); ngài
thiết lập nhiều tu viện.
Khi
bàn về phép rửa tội, ngài viết: “Ai mà không biết
thuở xưa, có một phương thuốc khác phép rửa
để chống lại tội nguyên tổ.
Đối với Abraham, và ḍng giống
ông, có mầu nhiệm cắt b́ ban kết qủa này cách thần
linh.
Đối với các dân, chúng tôi
cho rằng những người sống trong tín ngưỡng
đă được tha thứ, người lớn bởi
đức tin và các hy lễ, trẻ con th́ bởi đức
tin của cha mẹ”[27].
Với
đoạn văn trên, chúng ta có thể nói thánh Bernard phân những người
được cứu khỏi tội nguyên tổ làm ba loại: loại
thứ nhất là những kitô hữu nhờ phép rửa, loại
thứ hai là dân Do thái với phép cắt b́, và loại thứ
ba là những người sống trong các tôn giáo khác nhờ đức
tin và hy lễ của họ. Ở đây chúng ta dám nói tới
các tôn giáo ngoài kitô v́ thánh nhân có nhắc đến đức
tin và hy lễ. Ngoài Do thái giáo, đă có những người
như Abel, Hênoc, Noê, Melkisêđêc,... Balaam, dâng hy lễ
lên Thiên Chúa.
Nicolas
de Cusa sinh năm 1401, được phong hồng
y năm 1448, và mất năm 1464. Ngài là thần học
gia có cái nh́n rất tích cực về các tôn giáo ngoài kitô.
Ngài
cho rằng: “Thiên Chúa đă nói với mọi dân tộc qua
những ngôn sứ. Chính các tiến sĩ, tiên tri này dạy
cho mỗi tôn giáo học thuyết và nghi lễ của họ.
Những sự khác biệt này là điều đẹp ḷng
Thiên Chúa và làm rạng ngời vinh quang Thiên Chúa hơn. Tuy
nhiên Kitô giáo hoàn thành cách trọn hảo cái chính yếu của
tôn giáo đích thực: Kitô giáo là cách diễn tả hoàn
hảo nhất của tôn giáo đích thực này”[28].
Lời
tóm trên của Gustave Thils rất chính xác và đúng đắn,
chúng ta cùng nhau đọc tiếp một lời nguyện nữa
của hồng y Nicolas de Cusa để rơ hơn cái nh́n của
ngài:
“Lạy Chúa, Ngài biết một số
lớn sống với nhiều điều trái ngược, và
hầu như tất cả mọi người sống
đời khổ cực, lo lắng, đau khổ và
dưới ách thống trị của những vua chúa; v́ thế
có rất ít người giữa họ có giờ để
đạt tới cái biết về chính họ như họ
muốn. Họ bị thúc đẩy bởi những mối
lo và những công việc trần thế và không thể t́m
Ngài, vị Thiên Chúa ẩn ḿnh. Chính v́ thế Ngài đă gởi
xuống cho dân Ngài những vị vua, những nhà thấu
thị, được gọi là các tiên tri. Một số lớn
trong họ khi hoàn thành trách nhiệm và nhân danh Ngài, đă
qui định những hành vi tôn giáo và những luật
lệ, và đă dạy dỗ dân vô tri. Và họ đă nhận các
luật này như thể Ngài đă nói với họ mặt
đối mặt, như vị Vua của các vua. Họ
đă nhận trong niềm tin rằng họ nghe những luật này,
th́ không phải là nghe các tiên tri nhưng là nghe Ngài
trong các tiên tri.
Với những dân tộc khác nhau, Ngài đă gởi các
tiên tri và những tiến sĩ (thày dạy) khác nhau,
người này ở giai đoạn này, kẻ khác ở
giai đoạn khác. Những điều này ở trong điều
kiện con người, sau thói quen lâu dài đă trở
nên như bản chất không thể đổi, được
bảo vệ như chân lư. Chính v́ thế đă nảy sinh
ra những điều mâu thuẫn đối chọi
nhau, khi mà mỗi nhóm quí chuộng niềm tin của ḿnh
hơn niềm tin của nhóm khác”[29].
Qua
những bản văn được trích trên, chúng ta thấy
rơ cái nh́n và lập trường của hồng y Nicolas
de Cusa. Với Ngài, các tôn giáo hiện diện cho những
dân tộc khác nhau, và các tôn giáo này nằm
trong chương tŕnh của Thiên Chúa. Nói cách khác, các tôn
giáo- dù ngoài kitô giáo- vẫn có giá trị cứu độ, vẫn
là phương tiện cứu độ của Thiên
Chúa cho con người trong những dân tộc và hoàn cảnh
sống, cùng nền văn hóa khác nhau.
Bây
giờ chúng ta xét ư kiến của các thần học gia hiện
đại có cái nh́n tích cực về các tôn giáo ngoài
kitô.
Giá
trị cứu độ của các tôn giáo ngoài kitô là một
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt
với các nước phương đông như châu Á,
nhưng nó vẫn c̣n là vấn đề thần học khá
mới và chưa được nhiều người
bàn tới. Ở đây chúng ta chỉ xét một vài tác giả
đặc biệt.
Tiền
bán thế kỷ XX, Romano Guardini cho rằng: “Đức Yêsu
có những tiền hô, trong thế giới Hy lạp có
Socrate, ở phương đông có đức Phật cũng
như Yoan tiền hô ở xứ Do thái”[30].
Quan
niệm coi Đức Phật là tiền hô của Đức
Yêsu hàm chứa rằng các tôn giáo do những vị
đó khởi lập sẽ tiếp nhận Đức
Yêsu. Và chúng ta cũng đă biết: tất cả những
ǵ giúp nhận ra Đức Yêsu là Kitô, là Con Thiên Chúa, là
Thiên Chúa đều là công tŕnh của Thánh Thần (1Cor.12,
3). Như vậy các tôn giáo ngoài kitô có giá trị cứu
độ.
Đức
Giáo hoàng Piô XII trong bài nói chuyện với các “cô đỡ”
ngày 29.10.1951:
“Một hành vi t́nh yêu có thể
đủ cho một người trưởng thành nhận
ân sủng thánh hóa và bù đắp việc không có phép rửa”[31].
Trong
sứ điệp gởi qua hệ thống truyền thanh
cho hội nghị tại Ernakulam ngày 31.12.1952, Ngài nói:
“Các con hăy làm cho thấy rơ, tất
cả những ǵ là chân thật và tốt đẹp trong
các tôn giáo khác đều t́m thấy ư nghĩa sâu xa và sự
bổ túc hoàn hảo nơi Đức Kitô”[32].
Yves
Congar, thần học gia nổi tiếng, đă trích dẫn
câu của Th. Ohm: “Không có tôn giáo ngoài kitô nào mà ở
đó người ta không t́m thấy một loại, một
dấu vết của t́nh yêu Thiên Chúa”[33].
Chẳng hạn trong Ấn độ giáo cũng có một
giáo phái lấy đức ái (Bakti) làm con đường căn
bản phải thực hành để được cứu
độ.
Karl
Rahner, thần học gia có tầm vóc vào loại lớn nhất
của thế kỷ XX, cũng có quan niệm tích cực
về các tôn giáo ngoài kitô, đặc biệt những tôn
giáo ngoài kitô tiền kitô giáo.
Chúng
ta có thể tóm tắt lập luận của K. Rahner như
sau:
Con người là sinh vật xă hội,
nên tín ngưỡng của con người cũng
được diễn tả cách xă hội, nghĩa là các
tôn giáo như chúng ta thấy ngày nay; có các tôn giáo ngoài kitô
hiện hữu trước Do thái giáo và Kitô giáo là chuyện
tự nhiên.
Thiên Chúa muốn con người
được cứu độ cách siêu nhiên, nghĩa
là, chủ quan được ân sủng hướng dẫn
và khách quan qua phượng tự và các luật luân lư...
Như vậy các tôn giáo ngoài kitô nằm
trong chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa.
Tuy nhiên những tôn giáo ngoài kitô này không có những khách
quan tính của lịch sử cứu độ như nhau[34].
H.
R. Schlette, trong tác phẩm Die Religionen als Thema der
Theologie xuất bản bởi Herder năm 1963 và
được dịch ra tiếng Anh bởi W. J. O'Hara năm
1966 với tựa đề Towards a theology of Religions, đă
bảo vệ lập trường coi các tôn giáo ngoài kitô
nằm trong chương tŕnh Thiên Chúa cứu độ con
người.
Tác
giả phân biệt lịch sử cứu độ thông
thường và lịch sử cứu độ đặc
biệt khi bàn về lịch sử cứu độ. Bởi
v́:
· con người có tính lịch
sử,
· lịch sử thế
trần được nhận là lịch sử thế trần
nếu đứng trên quan điểm lịch sử cứu
độ, và cũng chính lịch sử thế trần
được nhận ra là lịch sử thánh cũng
nhờ đứng trên quan điểm lịch sử cứu
độ.
· Lịch sử thánh, mà
nhờ lịch sử này và đứng trên quan điểm
của lịch sử này mà nh́n lịch sử thế trần
và nhận ra đó là lịch sử thánh, là lịch sử
thánh đặc biệt.
Với lập luận của
Schlette về các tôn giáo ngoài kitô, sự khác biệt giữa
lịch sử thánh thông thường và lịch sử thánh
đặc biệt là điểm quyết định!
H.
R. Schlette cũng dựa vào 11 chương đầu của
sách Khởi Nguyên và cụ thể là ḍng truyền thống
Y để chứng minh cho lập trường của ông.
Tác giả cũng nhận rằng tŕnh thuật này có
tính tâm nguyện, nhằm nối kết lịch sử
dân Israel với nguồn gốc tuyệt đối của
vũ trụ, và những tŕnh thuật này cho chúng ta thấy
có những kinh nghiệm tôn giáo hiện hữu ngoài
Israel.
Dựa
vào giao ước Noê, tác giả cho rằng tương quan
giao ước không chỉ hiện hữu giữa Thiên
Chúa và Israel nhưng cũng đă hiện hữu với những người
không phải là Israel, hơn nữa với mọi người
và ngay cả với mọi sinh vật trên đất nữa.
Như vậy khi suy nghĩ về giao ước Noê, chúng
ta thấy ơn cứu độ có thể được
đạt tới với t́nh trạng của giao ước
này, nghĩa là t́nh trạng “ngoại”.
Lập
luận của H. R. Schlette:
· Con người là một
sinh vật xă hội, nên mọi sinh hoạt của con
người đều mang tính xă hội, kể cả
hành vi tôn giáo, và những hành vi tôn giáo với tính xă hội
này phải có tính cứu độ trừ phi chúng ta chứng minh
chắc chắn rằng ngược lại.
· Lịch sử thánh
thông thường (so với lịch sử thánh đặc
biệt khởi đầu với dân Israel) có thể và
phải được coi là Thiên Chúa muốn, nên các tôn
giáo ngoài kitô phải được coi là điều Thiên
Chúa muốn và thánh hóa, ngay cả với t́nh trạng hiện
tại của các tôn giáo đó[35].
Gút
lại ư kiến của H. R. Schlette: các tôn giáo ngoài kitô là
cách diễn tả xă hội của việc con người
t́m kiếm Thiên Chúa được Thiên Chúa muốn, nên
cũng nằm trong chương tŕnh cứu độ
và là hồng ân của Thiên Chúa. Các tôn giáo ngoài kitô là những
con đường cứu độ, những con đường
cứu độ trong lịch sử thánh thông thường
(so với con đường cứu độ đặc
biệt là Giáo Hội trong lịch sử thánh đặc
biệt)[36].
HOME LỜI
CHÚA ĐỨC
TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Dẫn Nhập Thần Học Mặc Khải Sẽ Sống Nếu Bạn Tin Thiên Chúa Ba Ngôi Tôn Giáo Ngoài Kitô Ân Sủng Và Biểu Tượng
ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG ASVBT1 ASVBT2 ASVBT3 ASVBT4 ASVBT5
Chúc
bạn an vui hạnh phúc.
phamthanhliem
[1] P. FOULQUIÉ & RAYMOND SAINT- JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF-PARIS 1963, chữ religion.
Tự điển PETIT LAROUSSE,
[2] FERNAND CHAPEY, trong Introduction của P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970, p. 21-23.
[3] H. MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE-PARIS 1965, pp. 84-85 trích dẫn M. ÉLIADE, Mythes, rêves et mystères, p. 167.
H. MAURIER cho rằng việc nhập thể nơi Đức Yêsu là thần hiển tối cao.
[4] Phần lớn trong mục này được lấy lại trong
Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, DALAT 1982, bđm,pp. 3-6.
[5] H. R. SCHLETTE, Towards a theology of religions,
[6] Xem M. HEINRICHS, Théologie catholique et penseé asiatique, CASTERMAN 1965, p. 79.
[7] H. KRAEMER, Religion and Christian faith, LONDRES 1956, pp. 54-56 trích bởi G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non chrétiennes, CASTERMAN 1966, pp. 44-45.
[8] PG. 1, 1466 cf. M. HEINRICHS, op. cit., p. 79 ghi chú 11.
[9] F.
CAYRÉ, Précis de patrologie, t.I
cf. G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non chrétiennes CASTERMAN 1966, p. 140.
[10] AUGUSTINUS, De doctrina christiana, l.II, c.40, n. 60 PL.34, col.65 cf. G. THILS, op. cit., p. 43.
[11] FULGENCE DE RUSPE, De fide ad Petrum, 38. 39
trích bởi Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse (vérite et dimension du salut), TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1963, p. 111 F.V. 27
[12] THOMAS, S.T., IIa-IIae, q.10, a.11 cf. G. THILS, op. cit., p. 41.
[13] THOMAS, S.T., Ia-IIae, q.18, a.4, ad 3 cf. G. THILS, op. cit, p. 42.
[14] H. KRAEMER, op. cit., pp. 67-68 trích bởi G. THILS, op. cit.,p. 45
[15] G. THILS, op. cit., p. 42 trích dẫn P. AUBRY, Les chinois chez eux, DDB.1889
[16] J.
WITTE, Die Christusbotschaft und die Religionen,
[17] JACQUES DOURNES trong UNAM SANCTAM 61, trang 84. Nhưng theo H. R. Schlette, thần học truyền giáo không chỉ đạo thần học về các tôn giáo ngoài kitô mà đúng ra phải ngược lại v́ thần học truyền giáo chỉ xuất hiện ở một thời điểm của lịch sử cứu độ (H.R.SCHLETTE, op. cit., p. 26)
[18] H. KRAEMER, Foi chrétienne et les religions non-chrétinnes, NEUCHÂTEL 1956, pp. 76-77 trích bởi G. THILS, op. cit., pp. 46-47.
[19] Đạo Hồi với Mahomet đă phá hủy nhiều lư thuyết tích cực về tôn giáo, chẳng hạn lập trường coi các tôn giáo như là chuẩn bị cho việc con người đón nhận tin mừng đức Yêsu Kitô.
Đạo Hồi xuất hiện khá trễ trong lịch sử (Mahomet sinh khoảng năm 570 tại La Mecque) và đă phá hủy nhiều thánh đường và cộng đoàn Kitô giáo tại phương Đông. Đạo Hồi coi đức Yêsu chỉ là một tiên tri và thời của Đức Yêsu đă chấm dứt, Mahomet khai trương kỷ nguyên sau cùng.
V́ chủ trương như vậy, nên phần nào sự kiện đạo Hồi cũng làm lung lay quan niệm coi các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của logos spermatikos, hoặc quan niệm coi các tôn giáo ngoài kitô có điểm tới là Kitô giáo.
Xem thêm M. HEINRICHS, op. cit., p. 81.
H. LAMMENS, Mahomet fut- il sincère,
trong RECH. SCIENCCES RELIG., 2 (1911), pp. 25-53.140-166 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 42.
[20] Lập trường này dựa vào quan điểm về công chính hóa, ân sủng và nguyên tội của Luther cùng những người Tin lành.
H. R. Schlette cho rằng không có khẳng định nào của Kinh Thánh nâng đỡ cho quan điểm này. Cf. H. R. SCHLETTE, op. cit., p. 29.
Theo K.Rahner, lịch sử của các tôn giáo không chỉ là thành quả của lư trí và của tội, nhưng cũng c̣n là hoa trái của ân sủng nữa Cf. K. RAHNER, art. “La nature et la grâce”, trong Questions théologiques aujourd’hui, t.II, DDB. 1963, p. 33.
[21] LA COMBE OLIVIER, Râmânuja, Approches de l'Inde, trong CAHIER DU SUD 1949 Ma Mystique naturelle et l'Inde, trong REVUE THOMAISTE 1951.
R. C. ZAEHNER, Hindu and Muslim mysticism, ATHLONE PRESS- LONDON 1957 Mysticism sacred and profane, CLARENDON PRESS- OXFORD 1957.
L. MASSIGNON, La passion de Al-Hallâj, martyr mystique de l'Islam, 2 vol., PARIS 1922.
[22] Mục này phần lớn lấy lại trong Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài Kitô, ĐALAT 1982, bđm. pp. 7- 30.
[23] IRÉNÉE, Adversus Haereses, 4, 28, 2 PG.7, 1062
trích bởi G. THILS, op. cit., p. 65.
[24] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, I, 5 PG.8, 717-720 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 66
[25] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, VII, 2 PG.9, 409-410 trích bởi G. THILS,op. cit., p. 66
[26] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, VI, 3 PG.9, 262 sq., trích bởi M. HEINRICHS, op. cit, p. 106
[27] St. BERNARD, Tractatus de Baptismo, cap.1, n.4 PL.182, 1034, trích bởi G.THILS, op. cit., p. 73
[28] G. THILS, op. cit., p. 50, xem BR. DECKER, Nikolaus van Cues und Friede unter den Religionen, trong J. KOCH, Studien und Texte zur Geistesgeschichte des Mittesalters, t.III, LIEDEN-COLOGNE 1953
[29] NIKOLAUS VON KUES, Ueber den Frieden in Glauben, LEIPZIG 1943, p. 91, trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., p. 81 ghi chú 17
[30] R. GUARDINI, Der Herr, WURZBURG 1949, p. 355, trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., p. 106
[31] PIÔ XII, Diễn từ cho các cô đỡ, ngày 29.10.1951, DC.1951, col.1480, trích bởi Y.CONGAR, Vaste monde ma paroisse, TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968, trang 141, FV.27
[32] Xem Y. CONGAR, op. cit., p. 40, note 1
[33] TH. OHM, Die Liebe zu Gott in den nichtchristlichen Religionen. Die Tatsachen der Religionensgeschichte und die christliche Theologie, KRAILING VOR MUNCHEN 1950, p. 442 cf. Y. CONGAR, op. cit., p. 141
[34] K. RAHNER, art. “Mensch”, trong LEX. F. UND K., col. 292 trích bởi ÉTIENNE CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non- chrétinenes, CERF 1965, trang 46
[35] H. R. SCHLETTE, Towards a Theology of Religions,
LONDON 1966, p. 78-81.
Hiển nhiên chúng ta phải hiểu, các tôn giáo ngoài kitô- xét như những hành động phượng tự của con người dưới tác động của ân sủng được biểu lộ cách xă hội- là điều Thiên Chúa muốn, và như vậy con người được cứu qua những hành động phượng tự đó. Nhưng nếu tôn giáo hiện tại, xét như một hệ thống tự coi ḿnh là đủ (autosuffisant) và đóng kín với Tin Mừng đức Yêsu Kitô, th́ không thể coi là điều Thiên Chúa muốn được.
[36] Những điều được tóm về lập trường của H. R. Schlette, xem đặc biệt H. R. SCHLETTE, op. cit., pp. 30, 36-37.67.70-72.74.76-81