HOME    LỜI CHÚA    ĐỨC TIN    LINH ĐẠO    THẦN HỌC    ĐỜI SỐNG     IN ENGLISH    VỀ TÁC GI

Dẫn Nhập Thần Học   Mặc Khải   S Sống Nếu Bạn Tin   Thiên Chúa Ba Ngôi   Tôn Giáo Ngoài Kitô   Ân Sủng  Biểu Tượng

ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG    ASVBT1     ASVBT2     ASVBT3     ASVBT4     ASVBT5

 

 

ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG

 

Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.

 

MỤC LỤC:

 

D. ÂN SỦNG QUA BIỂU TƯỢNG NGOÀI KITÔ GIÁO.. 1

a). Tôn giáo ngoài kitô. 2

Thần hiển. 2

Biểu tượng diễn tả kinh nghiệm tôn giáo. 2

Biểu tượng được hiểu trong nền văn hóa. 2

i). Nhăn quan tiêu cực. 3

Một số giáo phụ. 4

Một số thần học gia. 5

ii). Phương tiện cứu độ. 7

Chứng từ Kinh Thánh. 7

Lịch sử thần học. 8

Irénée. 8

Clément thành Alexandria. 8

Bernard. 9

Nicolas de Cusa. 10

Thần học gia hiện đại 10

Romano Guardini 11

Đức giáo hoàng Piô XII 11

K. Rahner 11

Lập trường tích cực dựa vào lịch sử cứu độ. 11

iii). Lập trường tích cực từ nhăn quan mặc khải 12

 

D. ÂN SỦNG QUA BIỂU TƯỢNG NGOÀI KITÔ GIÁO

          Chúng ta đă cùng nhau lược qua lịch sử thần học và xác tín, Thiên Chúa vui ḷng ban ân sủng cứu độ cho những người sống ngoài kitô giáo, nghĩa là cho những người hiện nay sống trong các tôn giáo ngoài kitô, và ngay cả những người không biết hoặc từ chối Đức Yêsu và Thiên Chúa mà không phải lỗi tại họ. 

Chúng ta cũng đă t́m hiểu và nhận thấy Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho con người hợp với cơ cấu “hồn-xác” của con người, nghĩa là qua dấu chỉ hoặc biểu tượng. 

Chúng ta cũng đă t́m hiểu và khẳng định: dù là bất cứ ai nếu được cứu độ, đều được cứu độ nhờ Đức Kitô và Giáo Hội của Người. 

          Bây giờ chúng ta sẽ xét đặc biệt tới những người đang sống trong các tôn giáo không phải kitô giáo, cụ thể những người không tin Đức Yêsu nhưng không phải do lỗi lầm của họ. Vấn đề đặt ra: các nghi lễ, dấu chỉ và biểu tượng nơi các tôn giáo họ đang sống trong đó, có là những phương tiện Thiên Chúa dùng để ban ân sủng cứu độ cho họ không? 

          Trong mục này chúng ta sẽ xem xét để có lập trường về các tôn giáo ngoài kitô, sau đó t́m hiểu hơn về biểu tượng thực tại vô h́nh, và cuối cùng sẽ đưa ra kết luận về các dấu chỉ hoặc biểu tượng của các tôn giáo ngoài kitô. 

a). Tôn giáo ngoài kitô

          Tôn giáo là một định chế đặc biệt có mục đích thờ phượng tôn kính Thiên Chúa như Ngài đáng được. Tôn giáo là một tổ chức xă hội với những phẩm trật, lề luật và truyền thống, có những tín điều mà các tín hữu phải tin và tuyên xưng, cũng như có những nghi thức biểu lộ tâm t́nh thờ kính, tùng phục yêu mến đối với Thiên Chúa ngơ hầu tín hữu được cứu độ[1].

          Tôn giáo cũng được coi như một kinh nghiệm về Đấng không bị điều kiện hóa, nhưng kinh nghiệm này được nhận qua một hệ thống biểu tượng thuộc về một nền văn hóa[2]. Nói đơn sơ hơn, tôn giáo là kinh nghiệm đối với Tuyệt Đối; kinh nghiệm này có nhờ Tuyệt Đối diễn tả ḿnh qua nền văn hóa của người nhận; và người có kinh nghiệm với Tuyệt Đối cũng diễn tả tâm t́nh thái độ của ḿnh đối với Tuyệt Đối qua nền văn hóa của ḿnh. 

Thần hiển

          Có thể nói lịch sử các tôn giáo được cấu thành bởi những cuộc thần hiển, nghĩa là bởi những cuộc tỏ lộ của thực tại thần linh. Thực tại thần linh đây là cái ǵ hoàn toàn khác, một thực tại không thuộc về thế giới của chúng ta.

          Vật thần hiển rất là đa phức, có thể là cục đá, cái cây, hoặc các tinh tú như mặt trời, mặt trăng hoặc ngôi sao, hoặc một ḍng nước, và cũng có thể là con vật, hoặc ngay cả một người[3].

Biểu tượng diễn tả kinh nghiệm tôn giáo

          Kinh nghiệm với Cái-Hoàn-Toàn-Khác qua những cuộc thần hiển, hoặc với Tuyệt Đối qua những lần “mặc khải”, không thuộc hoàn toàn do ḿnh, nghĩa là, không phải ḿnh muốn là được. Hơn nữa, Cái-Hoàn-Toàn-Khác hoặc Tuyệt Đối được cảm nghiệm, là cái ǵ khôn ḍ, không thể diễn tả nổi và không thể diễn tả hết bằng ngôn ngữ. Những người có kinh nghiệm với Đấng Hoàn Toàn Khác cố gắng diễn tả Thực Tại này qua những h́nh ảnh, dấu chỉ khả giác, nghĩa là qua các biểu tượng.

Biểu tượng được hiểu trong nền văn hóa

          Nói đến cách diễn tả của con người qua biểu tượng, qua h́nh ảnh, ta phải nghĩ ngay đến “nền văn hóa” con người sống trong đó, v́ con người khi diễn tả, phải diễn tả bằng nền văn hóa ḿnh sống với những h́nh ảnh, ngôn từ, biểu tượng. Như vậy để hiểu được phần nào Đấng Hoàn Toàn Khác qua kinh nghiệm thần hiển, được diễn tả bằng ngôn ngữ biểu tượng hoặc thần thoại xét như một văn loại diễn tả kinh nghiệm với Thực Tại Hoàn Toàn Khác, chúng ta phải t́m hiểu kinh nghiệm này qua các biểu tượng trong nền văn hóa h́nh thành các biểu tượng

          Nếu chúng ta nh́n tôn giáo là kinh nghiệm với Đấng Hoàn Toàn Khác được diễn tả qua những biểu tượngthái độ tâm t́nh đối với Đấng Hoàn Toàn Khác được diễn tả qua các nghi thức hợp với nền văn hóa của những người có kinh nghiệm này, th́ việc t́m hiểu ư nghĩa các biểu tượng thật cần thiết để hiểu kinh nghiệm của các tôn giáo!

i). Nhăn quan tiêu cực[4]

          Lịch sử thần học cho thấy có nhiều tác giả chủ trương các tôn giáo ngoài kitô không là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người, nhưng trái lại là công tŕnh của con người, và c̣n tệ hơn là công tŕnh của ma quỷ.

          Một số họ dựa vào các đoạn Kinh Thánh sau để nói rằng các tác giả linh ứng có câu trả lời tiêu cực về giá trị cứu độ của các tôn giáo ngoại: 1V.11, 1-13; Jer.2, 26-29; 10, 1-16; Bar.6, 7-72; Ys.40, 18-20; 44, 9-20; 46, 6tt; Tv.105; 113, 10-16; Kng.13, 1-14.20; 15, 6-19; 1Mac.1, 41-64; 2Mac.4, 1-11[5].

          Đầu tiên chúng ta phải nhận rằng vấn đề các tôn giáo ngoài kitô không là một vấn đề được các tác giả linh ứng nhắm bàn cách trực tiếp; hơn nữa, để xem thực sự tác giả Kinh Thánh có muốn khẳng định rằng các tôn giáo ngoài kitô không có giá trị cứu độ hay không, chúng ta phải hỏi những chuyên gia về khoa chú giải Kinh Thánh. 

          Riêng về 1V.11-13, bản văn nói về việc Salomon mê con gái các dân ngoại và để ḷng mê theo các thần ngoại lai, chính v́ lư do đó mà Thiên Chúa đă chia cắt xứ sở ra làm hai. Bản văn này coi các thần dân ngoại thờ kính đối nghịch với Yavê Thiên Chúa của Israel, chẳng hạn thần sản lực Astartê-Astoret của dân Canaan, thần Milkom-Molek của dân Ammon. Ngày nay người ta không ngây thơ đồng hóa đức Phật với đức Yêsu, nhưng Đấng Tuyệt Đối chỉ là một dù được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Như vậy, Đấng Tuyệt Đối của đạo Cao Đài và Đức Allah của đạo Hồi... cũng là Chúa tể vạn vật, như Yavê của dân Do thái và Thiên Chúa của kitô hữu.

          C̣n bản văn Jer.2, 26-29; 10, 1-16 châm biếm các ngẫu tượng của dân ngoại bằng gỗ bằng bạc bằng vàng. Chúng ta hiểu được điều này dễ dàng v́ đây chính là điều Yavê Thiên Chúa cấm dân Israel không được làm h́nh tượng Yavê (Xh.20,4), và khi con dân Israel làm ḅ vàng để thờ rồi cho đó là Đấng đă dẫn họ ra khỏi Aicập th́ YHWH đă nổi giận dân (Xh.32). Ngày nay chẳng ai trong các tôn giáo ngoài kitô thờ kính khúc gỗ, ngẫu tượng do người phàm làm ra; nếu họ cúi ḿnh trước những ảnh tượng th́ không phải những ảnh tượng là đối tượng tôn thờ, nhưng đối tượng tôn thờ là cái ǵ siêu vượt trên cái đó. Tương tự như vậy, người Công giáo cũng không tôn thờ ảnh tượng, nhưng ảnh tượng là biểu tượng của thực tại siêu vượt.

          Một số tác giả dựa vào thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma để kết án các tôn giáo ngoài kitô. “Quả vậy, từ trời sự thịnh nộ của Thiên Chúa được mặc khải ra trên mọi sự vô đạo và bất chính của những kẻ lấy bất chính hăm cầm sự thật. V́ chưng lộ hiện rồi nơi họ những ǵ biết được về Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa đă bày tỏ cho họ. V́ từ buổi tạo thành vũ trụ, những ǵ nơi Người, mắt xác thịt không thể thấy th́ trí khôn nh́n ngắm được nơi công việc Người làm: quyền năng hằng có và thần tính của Người, khiến họ vô phương chữa ḿnh. V́ rằng họ đă biết Thiên Chúa, họ lại đă không tôn vinh Người như Thiên Chúa, hay không tạ ơn Người, nhưng họ đă ra hư luống trong các suy tưởng của họ, và ḷng ngu muội của họ đă ra tối tăm. Trong khi họ huênh hoang ḿnh khôn ngoan, th́ họ đă ra điên rồ. Và họ đă tráo đổi vinh quang Thiên Chúa bất hoại với loài người hư nát, và bao cầm thú, cùng rắn rít (Rm.1, 18-23)”. Ở đây thánh Phaolô bàn về tội lỗi của con người, đă không theo đường lối của Thiên Chúa nhưng bẻ quặt đường lối của Ngài theo kiểu của ḿnh; cũng tương tự, tác giả sách Khởi nguyên (Kn.3, 1tt) cho rằng tội của Adam là muốn trở nên thần linh bằng sức riêng của ḿnh, độc lập với Thiên chúa; nhưng vấn đề hệ tại t́m hiểu xem các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của Thiên Chúa hay của con người, nếu các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của con người th́ vấn đề đă được giải quyết; cụ thể cho đến giờ chúng ta không chứng minh được như vậy. 

          Lịch sử cho thấy, nhiều tôn giáo xuất hiện trước Do thái giáo và Kitô giáo, và các kitô hữu cũng đă sống chung đụng với những tín hữu của các tôn giáo này; thời đầu tiên trong Cựu Ước và Tân Ước các tác giả không bàn trực tiếp về các tôn giáo ngoài kitô, nếu có dịp th́ các tác giả chỉ nhắc qua thôi; thời các giáo phụ cũng vậy; việc nghiên cứu về các tôn giáo ngoài kitô chỉ xuất hiện trong những thế kỷ gần đây[6].

Một số giáo phụ

          Dù các giáo phụ không đặt câu hỏi về các tôn giáo như chúng ta đang đặt hôm nay, nhưng đôi khi các ngài cũng bàn về khía cạnh chân lư trong các tôn giáo ngoài kitô. H. Kraemer đă tóm tắt lập trường của các giáo phụ như sau:

·       Lập trường thứ nhất cho rằng các điều hay và tốt nơi các tôn giáo là do công tŕnh của logos spermatikos. 

·       Lập truờng thứ hai chủ trương rằng những ǵ tốt đẹp và chân thật nơi các tôn giáo khác là do các tôn giáo ấy lấy những ǵ tốt đẹp và chân thật nơi Do Thái giáo hoặc Kitô giáo. 

·       Lập truờng thứ ba cho rằng những ǵ được coi là chân thiện mỹ nơi các tôn giáo khác chỉ có vẻ là chân thiện mỹ thôi, chứ thực ra đó là công tŕnh của ma quỷ, v́ không có chân thiện mỹ nơi các tôn giáo ngoài kitô[7].

          Trong thời sơ khai của Hội thánh, có kẻ khi tiếp xúc với các tôn giáo ngoại đă có khuynh hướng “hoá đồng tôn giáo”, họ cho rằng Zarathoustra, đức Phật và đức Kitô chỉ là một thực tại. Hội Thánh Byzantine đă kết án những người chủ trương như vậy: “coi là ngoại đạo những ai nói rằng Zarathoustra, Phật, Kitô, Mani và Mặt Trời là một và cùng là một sự. Coi là ngoại đạo những ai nhận thuyết luân hồi, nghĩa là sự chuyển di linh hồn của một thân xác này vào một thân xác khác”[8]

          Giáo phụ Tatien sinh khoảng năm 120 tại Assyrie, là môn đệ thánh Justin ở Roma, được huấn luyện về văn chương và triết lư tại đó. Tatien không bàn về tôn giáo nhưng qua thái độ của ông đối với triết gia, ta thấy ông rất nghiêm khắc; ông kết án các triết gia, cho rằng họ đă rơi vào mọi loại tật xấu, sai lầm và mâu thuẫn.

          Théophile d' Antioche cũng vậy, Ngài bài bác các triết gia bằng cách chưng ra những sai lầm và nghịch lư của họ[9]

          Thái độ của các ngài chúng ta cũng có thể hiểu được nếu chúng ta đặt ḿnh vào bầu khí hộ giáo lúc đó: các triết gia ngoại giáo đang châm biếm và đả phá Kitô giáo; v́ thế các Ngài bênh vực đạo giáo và cho thấy những sai lầm của họ đứng từ lập trường của ḿnh. Sở dĩ chúng ta đưa hai ngài vào lập trường những người có câu trả lời tiêu cực cho vấn đề thần học các tôn giáo, v́ nếu thái độ của các ngài đối với các triết gia c̣n vậy, huống hồ là đối với các tôn giáo ngoài kitô.

          Thánh Augustin, thần học gia lỗi lạc vào bậc nhất của Hội Thánh, sinh khoảng năm 354 ở Numide tại Tagaste, cho rằng các triết lư có những giá trị đích thực, nhưng nó có được như vậy là do nó chiếm đoạt cách bất chính những giá trị đích thực của Kitô giáo. Dựa vào quan niệm này của Augustin, nhiều người cho rằng những tôn giáo ngoài kitô cũng có những giá trị tôn giáo đích thực, nhưng giá trị đó là do các tôn giáo ngoài kitô chiếm đoạt cách bất chính nơi Hội Thánh kitô giáo[10]. Để nhận định lời nói trên của Augustin cách đúng đắn, chúng ta phải nhớ rằng ngài đă có thời gian khá dài sống theo hết các triết lư này đến triết lư khác và cuối cùng Ngài mới trở lại tin đức Kitô, ngài chỉ được rửa tội năm 387, nghĩa là 33 năm sống trong lầm lạc.

          Đối với Fulgence de Ruspe, các tôn giáo ngoài kitô không có giá trị cứu độ, và thậm chí những người sống ngoài Giáo Hội Công Giáo đều phải sa hỏa ngục: “Không có ǵ phải nghi ngờ rằng không chỉ những lương dân mà tất cả những người Do Thái, tất cả những người lạc giáo và ly giáo, những người chết ngoài Giáo Hội Công Giáo, sẽ sa vào lửa đời đời đă được sắm sẵn cho ma quỷ và các thần của nó”[11]. Đọc các lời này của Fulgence de Ruspe, chúng ta nhớ đến câu châm ngôn thần học “extra ecclesiam nulla salus”. Câu châm ngôn này đă được Giáo Hội chính thức giải thích như chúng ta đă thấy ở trên.

Một số thần học gia

          Thánh Thomas, một thần học gia vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo sinh năm 1225 tại Roccasecca, đă đặt vấn đề về nghi lễ của dân ngoại. Theo thánh nhân, các nghi lễ của dân ngoại không có sự thật cũng không có lợi ích chút nào, nhưng để có một ích lợi lớn hơn th́ có thể dung thứ các nghi lễ của dân ngoại với mức độ[12].

          Một số người dựa vào nguyên tắc của thánh Thomas “bonum ex integra causa, malum ex quocumque defectu” để kết luận rằng: mọi tôn giáo ngoài kitô tự bản chất là xấu, nghĩa là nó không nằm trong chương tŕnh của Thiên Chúa, và do đó không là phương tiện Thiên Chúa dùng cứu độ con người[13]

          Luther và những người thuộc phe cải cách chủ trương tất cả các tôn giáo kể cả Công giáo, đều xấu v́ đó là nỗ lực của sức con người nhằm đặt đến sự cứu độ[14]. Luther đă theo nguyên tắc: chỉ do sức con người th́ không thể đạt tới sự cứu độ. Adam và Evà xưa cũng muốn trở thành thần minh độc lập với Thiên Chúa, và như thế hai ông bà đă phạm tội. Nếu tôn giáo chỉ là nỗ lực của con người để đạt tới sự cứu độ, th́ tôn giáo không là phương tiện cứu độ, mà hơn nữa đó c̣n là một tội. Điều cần lưu ư: những người sống trong các tôn giáo ngoài kitô vẫn chờ mong sự cứu độ như cái ǵ ngoài ḿnh.

          Vào thế kỷ XIX, theo Gustave Thils, một số tác giả coi tôn giáo ngoại là các tôn giáo tôn thờ ngẫu tượng, chẳng hạn như:

P. Aubry: “Văn minh Trung hoa dưới mọi quan điểm, gần như là một sự dị hợm, không chỉ phản kitô giáo nhưng c̣n phản nhân bản nữa. Tôn giáo của người Trung Hoa thật kỳ quặc, phi lư, lố bịch nhất thế giới... Các tu sĩ là giai cấp đê tiện, bị khinh bỉ, vô tri, hư thối! Các nghệ thuật không được biết, nó không hiện hữu. Trong các chùa và các lâu đài, có vài h́nh tượng được vẽ hay điêu khắc về ma quỷ và các con vật kinh khủng, kỳ quái”[15];

J. Witte cũng coi tôn giáo ngoài kitô là sai lầm, tội lỗi và hư vong[16];

Một số nhà truyền giáo cũng có cái nh́n tiêu cực về các tôn giáo ngoại. Những người này đi rao giảng và thường gặp sức phản kháng chống tin mừng đức Yêsu Kitô từ các tôn giáo. Nói cách khác, các tôn giáo ngoại ngăn cản người ta tiếp nhận và đến với Đức Yêsu Kitô[17].

          Ở thế kỷ XX này, một số anh em Tin lành như Karl Barth và H. Kraemer lấy lại quan điểm về các tôn giáo của Luther: 

“Tất cả các tôn giáo xuất hiện như một toan tính tự công chính hóa và tự cứu rỗi của con người. Nói cách khác, tôn giáo là những nỗ lực của con người nhằm xác định ḿnh trước Thiên Chúa và nhằm từ chối hay cho thấy ḿnh không thể nhận ân sủng của Thiên Chúa là Đấng ban sự công chính cho kẻ vô đạo. Mặc khải lột mặt nạ tất cả các tôn giáo, vạch cho thấy sự không cần thiết của mọi tôn giáo, nghĩa là sự bất lực bẩm sinh của con người nhằm đẻ ra chân lư, nỗi bất lực này sự phát triển tôn giáo của con người xác chuẩn... Như vậy, mọi tôn giáo đều là h́nh thức thờ ngẫu tượng hay nỗ lực tự công chính hóa nhờ việc làm, là sự kiêu ngạo... Những điều này là những cây mọc trên đất kitô giáo...”[18].

          Sau đây chúng ta tóm lại những luận chứng cho rằng các tôn giáo ngoài kitô không là phương tiện Thiên Chúa dùng để cứu độ con người sống trong các tôn giáo đó:

·       Các tôn giáo ngoài kitô ngăn cản người ta tiếp nhận và đến với Đức Yêsu Kitô. Quan niệm này thường đến từ những nhà truyền giáo. Hiện tượng tiêu biểu là đạo Hồi[19].

·       Tôn giáo ngoài kitô hoàn toàn là công tŕnh của con người muốn tự ḿnh công chính hóa, nghĩa là con người muốn độc lập với Thiên Chúa[20].

·       Giáo lư sai lầm không thể dung hợp với giáo lư kitô giáo, chẳng hạn thuyết luân hồi... Những việc làm “vô luân” nếu nh́n dưới nhăn quan kitô giáo, chẳng hạn việc giao cấu với nữ tế trong các tôn giáo Hylạp, hoặc việc dâng người để tế thần.

          Trên đây chúng ta đă xét những luận chứng nhằm khẳng định các tôn giáo ngoài kitô không có giá trị cứu độ; nhưng nếu chấp nhận kết luận này chúng ta thấy vẫn c̣n những dữ kiện khó giải thích, chẳng hạn có những nhà thần bí nơi các tôn giáo ngoài kitô[21], cũng như những điểm tương đồng về giáo lư của những tôn giáo ngoài kitô với Kitô giáo, chẳng hạn niềm tin vào Đấng Tuyệt Đối, khẳng định con người cần được cứu độ, dạy con người phải làm lành lánh dữ... Chính những điểm này đă làm phát sinh quan điểm tích cực về các tôn giáo ngoài kitô trong ḍng lịch sử thần học.

ii). Phương tiện cứu độ[22]

          Tương tự như những người chủ trương “tiêu cực” về các tôn giáo ngoài kitô đă làm, những người chủ trương lập trường “tích cực” cũng nại vào Kinh Thánh để biện minh cho lập trường của ḿnh. 

Chứng từ Kinh Thánh

          Kinh Thánh ngay khởi đầu cho thấy Cain và Abel đă dâng lên Thiên Chúa những lễ vật là hoa trái của cây cối và thú vật (Kn.4, 3-4). Các tôn giáo cũng có những nghi lễ để biểu lộ tâm t́nh thái độ của con người đối với Thiên Chúa.

          Khi Thiên Chúa đă cứu Noe và gia đ́nh ông thoát khỏi bị tiêu diệt trong lụt hồng thủy, Ngài nói: “Phần Ta, này Ta lập giao ước của Ta với các ngươi và ḍng giống các ngươi đến sau các ngươi, cùng với mọi sinh mạng sống với các ngươi, với chim chóc, thú vật, dă thú với các ngươi, tóm lại mọi vật đă từ tàu đi ra, mọi sinh vật trên đất. Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: mọi loài có xác sẽ không c̣n bị nước hồng thủy tiểu trừ. Sẽ không c̣n có hồng thủy đến hủy diệt cơi đất. Và Thiên Chúa phán: Này là dấu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, cùng tất cả chúng sinh ở với các ngươi, đời đời măi măi.” (Kn.9, 8-12).

Như vậy chúng ta thấy giao ước Thiên Chúa kư với Noe ở đây là giao ước chung cho tất cả mọi người, mọi sinh vật trên đất chứ không chỉ với con cái Israel như ta thấy những giao ước tiếp sau được nói từ chương thứ 12 sách Khởi Nguyên trở đi. Giao ước của Thiên Chúa cho Noe hàm chứa: ơn cứu độ được ban cho con người ở ngay trong t́nh trạng này, nghĩa là trước khi có giao ước với Abraham và ḍng giống ông. Như vậy trước khi có Do Thái giáo và Kitô giáo, con người đă được cứu độ nhờ tôn giáo của họ, nghĩa là nhờ ḷng tin của họ vào Thiên Chúa và những hành vi phượng tự họ dâng lên Thiên Chúa! 

          Thánh Phaolô trên đường rao giảng, Ngài tới Athêna và thấy có một tượng thần người ta thờ kính với danh hiệu “thần vô danh”; dựa vào đó, Phao-lô đă nói: “Kính thưa quư vị người Athêna, xét về mọi mặt tôi nhận thấy các ngài rất sùng tín. V́ ngang qua, tôi ngước mắt nh́n về các đồ thờ của các ngài, tôi đă gặp cả một tế đàn trên đó có khắc: KÍNH THẦN VÔ DANH. Vậy Đấng các ngài không biết nhưng có kính thờ, th́ này tôi xin loan báo về Người cho các ngài. Thiên Chúa tạo thành vũ trụ... Người đă định thời tiết phân minh và cương giới nơi chốn họ ở, ngơ hầu họ t́m kiếm Thiên Chúa và họa may rờ rẫm sao mà gặp được Người. Và quả thực Người không xa mỗi chúng ta” (Cv.17, 22-24, 26-27).

Ở đây, chúng ta thấy thánh Phao-lô đề cập tới việc thờ tự của một dân thành có nghi lễ riêng, đến các tôn giáo. Ngài không kết án các tôn giáo nhưng muốn dùng chính tôn giáo để dẫn đưa họ đến với Thiên Chúa đích thực. Ngài cũng nêu lên những sai lầm của họ nếu họ nghĩ rằng thần linh lại giống như vàng, như bạc, như đá, do nghệ thuật và suy tưởng con người taọ ra (Cv.17, 29). 

Lịch sử thần học

          Chúng ta sơ lược qua một vài giáo phụ có cái nh́n thuận lợi cho các tôn giáo ngoài kitô. Chúng ta chỉ xét thánh Irénée và thánh Clément ở Alexandria

Irénée

          Irénée, giám mục ở Lyon gốc Tiểu Á sinh khoảng 140-202, là môn đệ của Polycarpe (155), trong tác phẩm “chống lạc giáo”, đă viết: “Hăy đến hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc... Chỉ có một và duy chỉ có một Thiên Chúa là Cha, và Lời Ngài, Đấng giúp tất cả theo nhiều đường (variis quidem dispositionibus), Đấng hoạt động nhiều, và là Đấng cứu những người được cứu ngay từ đầu, những người yêu mến Thiên Chúa và sống Lời Thiên Chúa theo cách thức của họ”[23].

Phải chăng chúng ta có thể hiểu từ ngữ “nhiều đường” ở đây như những đạo, những tôn giáo khác nhau?

Clément thành Alexandria

          Giáo phụ Clément ở Alexandria sống trong khoảng năm 150-215 đă viết trong những hàng đầu quyển Stromates: “Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi sự lành, của những sự lành này th́ Ngài là nguyên lư như Cựu Ước và Tân Ước, của những sự lành khác như triết lư, th́ Ngài như hậu quả. Chính Ngài đă ban triết lư cho người Hylạp trước khi những người này được gọi. Thực vậy, triết lư dạy những người Hylạp như cách thức một thầy giáo, như Lề luật đă dạy dân Do thái, hướng về Đức Kitô...

Kinh Thánh nêu lên nhiều đường cứu độ không chỉ cho một người nhưng cho nhiều người công chính theo, như đă viết: đường người công chính sáng ngời như ánh sáng. Như vậy có những giới răn, những huấn thị (propédeutiques), những đường và những phương lược cứu độ đi trước”[24].

          Chỗ khác Ngài viết: “Thiên Chúa chăm sóc tất cả hoàn vũ v́ Ngài là Chúa của hoàn vũ. Ngài là cứu chúa, không phải là cứu chúa của người này mà không là cứu chúa của người khác. Nhưng Ngài đổ tràn hồng ân của Ngài theo khả năng của từng người, trên người Hylạp và người mọi rợ, và cũng như trên người được gọi vào giờ đă định”[25].

          Chỗ khác nữa Ngài viết: “Thiên Chúa đă ban cho chúng ta một giao ước mới. Bởi v́ giao ước liên quan đến người Do Thái và Hylạp đă là giao ước cũ. Theo ư kiến tôi, thánh Phao-lô đă dạy rơ ràng rằng: cùng một Thiên Chúa và duy một Thiên Chúa đă được biết, bởi người Hylạp theo cách người ngoại, bởi người Do Thái theo cách Do Thái giáo, nhưng bởi chúng ta cách thiêng liêng...

Thiên Chúa đă ban cho chúng ta hai giao ước, nhưng đồng thời cho người Hylạp triết lư hylạp, trong đó Ngài được tôn vinh bởi người Hylạp...

Bởi v́ cũng như Thiên Chúa muốn cứu những người Do Thái bằng cách ban cho họ các tiên tri, th́ cũng vậy Ngài đă chọn những người thanh cao nhất giữa những người Hylạp, và đă đặt họ như các tiên tri trong ngôn ngữ của họ với mức độ nhờ đó họ có thể nhận biết ḷng nhân từ của Thiên Chúa”[26].

          Như vậy chúng ta thấy: thánh Clément thành Alexandria đặt sóng đôi song đối giữa Do Thái giáo và triết lư Hylạp; dân Do Thái được cứu độ với các tiên tri, th́ người Hylạp cũng được cứu độ với triết lư. Dân Do Thái nhận ra ḷng nhân từ của Thiên Chúa qua giao ước và lề luật, th́ người Hylạp cũng nhận ra ḷng nhân từ của Thiên Chúa qua sự khôn ngoan triết lư mà Thiên Chúa ban cho họ; nói cách khác, triết lư cũng là phương lược cứu độ cho người Hylạp. Nếu Clément d'Alexandrie đă đặt song đối giữa triết lư và Do Thái giáo, thiết tưởng chúng ta cũng có thể đặt song đối giữa các tôn giáo ngoài kitô và Do Thái giáo, v́ tôn giáo ngoài kitô cũng là cách cho người ngoại tôn vinh Thiên Chúa theo cách của họ.

          Ở thời trung cổ, chúng ta sẽ xét hai vị khá nổi tiếng, đặc biệt khi các ngài bàn về hoặc nói về tôn giáo ngoài kitô, đó là thánh Bernard và Hồng y Nicolas de Cusa.

Bernard

          Thánh Bernard (1090-1153) sinh tại Fontaines les Dijon (Côté d'Or); ngài thiết lập nhiều tu viện.

          Khi bàn về phép rửa tội, ngài viết: “Ai mà không biết thuở xưa, có một phương thuốc khác phép rửa để chống lại tội nguyên tổ.

Đối với Abraham, và ḍng giống ông, có mầu nhiệm cắt b́ ban kết qủa này cách thần linh.

Đối với các dân, chúng tôi cho rằng những người sống trong tín ngưỡng đă được tha thứ, người lớn bởi đức tin và các hy lễ, trẻ con th́ bởi đức tin của cha mẹ”[27].

          Với đoạn văn trên, chúng ta có thể nói thánh Bernard phân những người được cứu khỏi tội nguyên tổ làm ba loại: loại thứ nhất là những kitô hữu nhờ phép rửa, loại thứ hai là dân Do thái với phép cắt b́, và loại thứ ba là những người sống trong các tôn giáo khác nhờ đức tin và hy lễ của họ. Ở đây chúng ta dám nói tới các tôn giáo ngoài kitô v́ thánh nhân có nhắc đến đức tin và hy lễ. Ngoài Do thái giáo, đă có những người như Abel, Hênoc, Noê, Melkisêđêc,... Balaam, dâng hy lễ lên Thiên Chúa.

Nicolas de Cusa

          Nicolas de Cusa sinh năm 1401, được phong hồng y năm 1448, và mất năm 1464. Ngài là thần học gia có cái nh́n rất tích cực về các tôn giáo ngoài kitô.

          Ngài cho rằng: “Thiên Chúa đă nói với mọi dân tộc qua những ngôn sứ. Chính các tiến sĩ, tiên tri này dạy cho mỗi tôn giáo học thuyết và nghi lễ của họ. Những sự khác biệt này là điều đẹp ḷng Thiên Chúa và làm rạng ngời vinh quang Thiên Chúa hơn. Tuy nhiên Kitô giáo hoàn thành cách trọn hảo cái chính yếu của tôn giáo đích thực: Kitô giáo là cách diễn tả hoàn hảo nhất của tôn giáo đích thực này”[28].

          Lời tóm trên của Gustave Thils rất chính xác và đúng đắn, chúng ta cùng nhau đọc tiếp một lời nguyện nữa của hồng y Nicolas de Cusa để rơ hơn cái nh́n của ngài:

“Lạy Chúa, Ngài biết một số lớn sống với nhiều điều trái ngược, và hầu như tất cả mọi người sống đời khổ cực, lo lắng, đau khổ và dưới ách thống trị của những vua chúa; v́ thế có rất ít người giữa họ có giờ để đạt tới cái biết về chính họ như họ muốn. Họ bị thúc đẩy bởi những mối lo và những công việc trần thế và không thể t́m Ngài, vị Thiên Chúa ẩn ḿnh. Chính v́ thế Ngài đă gởi xuống cho dân Ngài những vị vua, những nhà thấu thị, được gọi là các tiên tri. Một số lớn trong họ khi hoàn thành trách nhiệm và nhân danh Ngài, đă qui định những hành vi tôn giáo và những luật lệ, và đă dạy dỗ dân vô tri. Và họ đă nhận các luật này như thể Ngài đă nói với họ mặt đối mặt, như vị Vua của các vua. Họ đă nhận trong niềm tin rằng họ nghe những luật này, th́ không phải là nghe các tiên tri nhưng là nghe Ngài trong các tiên tri.

Với những dân tộc khác nhau, Ngài đă gởi các tiên tri và những tiến sĩ (thày dạy) khác nhau, người này ở giai đoạn này, kẻ khác ở giai đoạn khác. Những điều này ở trong điều kiện con người, sau thói quen lâu dài đă trở nên như bản chất không thể đổi, được bảo vệ như chân lư. Chính v́ thế đă nảy sinh ra những điều mâu thuẫn đối chọi nhau, khi mà mỗi nhóm quí chuộng niềm tin của ḿnh hơn niềm tin của nhóm khác”[29].

          Qua những bản văn được trích trên, chúng ta thấy rơ cái nh́n và lập trường của hồng y Nicolas de Cusa. Với Ngài, các tôn giáo hiện diện cho những dân tộc khác nhau, và các tôn giáo này nằm trong chương tŕnh của Thiên Chúa. Nói cách khác, các tôn giáo- dù ngoài kitô giáo- vẫn có giá trị cứu độ, vẫn là phương tiện cứu độ của Thiên Chúa cho con người trong những dân tộc và hoàn cảnh sống, cùng nền văn hóa khác nhau.

Thần học gia hiện đại

          Bây giờ chúng ta xét ư kiến của các thần học gia hiện đại có cái nh́n tích cực về các tôn giáo ngoài kitô.

          Giá trị cứu độ của các tôn giáo ngoài kitô là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt với các nước phương đông như châu Á, nhưng nó vẫn c̣n là vấn đề thần học khá mới và chưa được nhiều người bàn tới. Ở đây chúng ta chỉ xét một vài tác giả đặc biệt.

Romano Guardini

          Tiền bán thế kỷ XX, Romano Guardini cho rằng: “Đức Yêsu có những tiền hô, trong thế giới Hy lạp có Socrate, ở phương đông có đức Phật cũng như Yoan tiền hô ở xứ Do thái”[30].

          Quan niệm coi Đức Phật là tiền hô của Đức Yêsu hàm chứa rằng các tôn giáo do những vị đó khởi lập sẽ tiếp nhận Đức Yêsu. Và chúng ta cũng đă biết: tất cả những ǵ giúp nhận ra Đức Yêsu là Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa đều là công tŕnh của Thánh Thần (1Cor.12, 3). Như vậy các tôn giáo ngoài kitô có giá trị cứu độ.

Đức giáo hoàng Piô XII

          Đức Giáo hoàng Piô XII trong bài nói chuyện với các “cô đỡ” ngày 29.10.1951:

“Một hành vi t́nh yêu có thể đủ cho một người trưởng thành nhận ân sủng thánh hóa và bù đắp việc không có phép rửa”[31].

          Trong sứ điệp gởi qua hệ thống truyền thanh cho hội nghị tại Ernakulam ngày 31.12.1952, Ngài nói:

“Các con hăy làm cho thấy rơ, tất cả những ǵ là chân thật và tốt đẹp trong các tôn giáo khác đều t́m thấy ư nghĩa sâu xa và sự bổ túc hoàn hảo nơi Đức Kitô”[32].

          Yves Congar, thần học gia nổi tiếng, đă trích dẫn câu của Th. Ohm: “Không có tôn giáo ngoài kitô nào mà ở đó người ta không t́m thấy một loại, một dấu vết của t́nh yêu Thiên Chúa”[33]. Chẳng hạn trong Ấn độ giáo cũng có một giáo phái lấy đức ái (Bakti) làm con đường căn bản phải thực hành để được cứu độ.

K. Rahner

          Karl Rahner, thần học gia có tầm vóc vào loại lớn nhất của thế kỷ XX, cũng có quan niệm tích cực về các tôn giáo ngoài kitô, đặc biệt những tôn giáo ngoài kitô tiền kitô giáo.

          Chúng ta có thể tóm tắt lập luận của K. Rahner như sau:

Con người là sinh vật xă hội, nên tín ngưỡng của con người cũng được diễn tả cách xă hội, nghĩa là các tôn giáo như chúng ta thấy ngày nay; có các tôn giáo ngoài kitô hiện hữu trước Do thái giáo và Kitô giáo là chuyện tự nhiên.

Thiên Chúa muốn con người được cứu độ cách siêu nhiên, nghĩa là, chủ quan được ân sủng hướng dẫn và khách quan qua phượng tự và các luật luân lư...

Như vậy các tôn giáo ngoài kitô nằm trong chương tŕnh cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên những tôn giáo ngoài kitô này không có những khách quan tính của lịch sử cứu độ như nhau[34].

Lập trường tích cực dựa vào lịch sử cứu độ

          H. R. Schlette, trong tác phẩm Die Religionen als Thema der Theologie xuất bản bởi Herder năm 1963 và được dịch ra tiếng Anh bởi W. J. O'Hara năm 1966 với tựa đề Towards a theology of Religions, đă bảo vệ lập trường coi các tôn giáo ngoài kitô nằm trong chương tŕnh Thiên Chúa cứu độ con người.

          Tác giả phân biệt lịch sử cứu độ thông thường và lịch sử cứu độ đặc biệt khi bàn về lịch sử cứu độ. Bởi v́:

·       con người có tính lịch sử,

·       lịch sử thế trần được nhận là lịch sử thế trần nếu đứng trên quan điểm lịch sử cứu độ, và cũng chính lịch sử thế trần được nhận ra là lịch sử thánh cũng nhờ đứng trên quan điểm lịch sử cứu độ.

·       Lịch sử thánh, mà nhờ lịch sử này và đứng trên quan điểm của lịch sử này mà nh́n lịch sử thế trần và nhận ra đó là lịch sử thánh, là lịch sử thánh đặc biệt.

Với lập luận của Schlette về các tôn giáo ngoài kitô, sự khác biệt giữa lịch sử thánh thông thường và lịch sử thánh đặc biệt là điểm quyết định!

          H. R. Schlette cũng dựa vào 11 chương đầu của sách Khởi Nguyên và cụ thể là ḍng truyền thống Y để chứng minh cho lập trường của ông. Tác giả cũng nhận rằng tŕnh thuật này có tính tâm nguyện, nhằm nối kết lịch sử dân Israel với nguồn gốc tuyệt đối của vũ trụ, và những tŕnh thuật này cho chúng ta thấy có những kinh nghiệm tôn giáo hiện hữu ngoài Israel.

          Dựa vào giao ước Noê, tác giả cho rằng tương quan giao ước không chỉ hiện hữu giữa Thiên Chúa và Israel nhưng cũng đă hiện hữu với những người không phải là Israel, hơn nữa với mọi người và ngay cả với mọi sinh vật trên đất nữa. Như vậy khi suy nghĩ về giao ước Noê, chúng ta thấy ơn cứu độ có thể được đạt tới với t́nh trạng của giao ước này, nghĩa là t́nh trạng “ngoại”.

          Lập luận của H. R. Schlette:

·       Con người là một sinh vật xă hội, nên mọi sinh hoạt của con người đều mang tính xă hội, kể cả hành vi tôn giáo, và những hành vi tôn giáo với tính xă hội này phải có tính cứu độ trừ phi chúng ta chứng minh chắc chắn rằng ngược lại.

·       Lịch sử thánh thông thường (so với lịch sử thánh đặc biệt khởi đầu với dân Israel) có thể và phải được coi là Thiên Chúa muốn, nên các tôn giáo ngoài kitô phải được coi là điều Thiên Chúa muốn và thánh hóa, ngay cả với t́nh trạng hiện tại của các tôn giáo đó[35].

          Gút lại ư kiến của H. R. Schlette: các tôn giáo ngoài kitô là cách diễn tả xă hội của việc con người t́m kiếm Thiên Chúa được Thiên Chúa muốn, nên cũng nằm trong chương tŕnh cứu độ và là hồng ân của Thiên Chúa. Các tôn giáo ngoài kitô là những con đường cứu độ, những con đường cứu độ trong lịch sử thánh thông thường (so với con đường cứu độ đặc biệt là Giáo Hội trong lịch sử thánh đặc biệt)[36].

iii). Lập trường tích cực từ nhăn quan mặc khải

 

 

HOME    LỜI CHÚA    ĐỨC TIN    LINH ĐẠO    THẦN HỌC    ĐỜI SỐNG     IN ENGLISH    VỀ TÁC GI

Dẫn Nhập Thần Học   Mặc Khải   S Sống Nếu Bạn Tin   Thiên Chúa Ba Ngôi   Tôn Giáo Ngoài Kitô   Ân Sủng  Biểu Tượng

ÂN SỦNG VÀ BIỂU TƯỢNG    ASVBT1     ASVBT2     ASVBT3     ASVBT4     ASVBT5

 

 

Chúc bạn an vui hạnh phúc.

phamthanhliem

[email protected]

 



[1] P. FOULQUIÉ & RAYMOND SAINT- JEAN, Dictionnaire de la langue philosophique, PUF-PARIS 1963, chữ religion.

Tự điển PETIT LAROUSSE, PARIS 1952, chữ “religion”.

[2] FERNAND CHAPEY, trong Introduction của P. TILLICH, Aux frontières de la religion et de la science, CENTURION 1970, p. 21-23.

[3] H. MAURIER, Essai d'une théologie du paganisme, L'ORANTE-PARIS 1965, pp. 84-85 trích dẫn M. ÉLIADE, Mythes, rêves et mystères, p. 167.

H. MAURIER cho rằng việc nhập thể nơi Đức Yêsu là thần hiển tối cao.

[4] Phần lớn trong mục này được lấy lại trong

Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài kitô, DALAT 1982, bđm,pp. 3-6.

[5] H. R. SCHLETTE, Towards a theology of religions,

LONDON 1966, p. 25, ghi chú 9.

[6] Xem M. HEINRICHS, Théologie catholique et penseé asiatique, CASTERMAN 1965, p. 79.

[7] H. KRAEMER, Religion and Christian faith, LONDRES 1956, pp. 54-56 trích bởi G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non chrétiennes, CASTERMAN 1966, pp. 44-45.

[8] PG. 1, 1466 cf. M. HEINRICHS, op. cit., p. 79 ghi chú 11.

[9] F. CAYRÉ, Précis de patrologie, t.I PARIS 1927, p. 124.

cf. G. THILS, Propos et problèmes de la théologie des religions non chrétiennes CASTERMAN 1966, p. 140.

[10] AUGUSTINUS, De doctrina christiana, l.II, c.40, n. 60 PL.34, col.65 cf. G. THILS, op. cit., p. 43.

[11] FULGENCE DE RUSPE, De fide ad Petrum, 38. 39

trích bởi Y. CONGAR, Vaste monde ma paroisse (vérite et dimension du salut), TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1963, p. 111 F.V. 27

[12] THOMAS, S.T., IIa-IIae, q.10, a.11 cf. G. THILS, op. cit., p. 41.

[13] THOMAS, S.T., Ia-IIae, q.18, a.4, ad 3 cf. G. THILS, op. cit, p. 42.

[14] H. KRAEMER, op. cit., pp. 67-68 trích bởi G. THILS, op. cit.,p. 45

[15] G. THILS, op. cit., p. 42 trích dẫn P. AUBRY, Les chinois chez eux, DDB.1889

[16] J. WITTE, Die Christusbotschaft und die Religionen, GOTTINGEN 1963, p. 75

[17] JACQUES DOURNES trong UNAM SANCTAM 61, trang 84. Nhưng theo H. R. Schlette, thần học truyền giáo không chỉ đạo thần học về các tôn giáo ngoài kitô mà đúng ra phải ngược lại v́ thần học truyền giáo chỉ xuất hiện ở một thời điểm của lịch sử cứu độ (H.R.SCHLETTE, op. cit., p. 26)

[18] H. KRAEMER, Foi chrétienne et les religions non-chrétinnes, NEUCHÂTEL 1956, pp. 76-77 trích bởi G. THILS, op. cit., pp. 46-47.

[19] Đạo Hồi với Mahomet đă phá hủy nhiều lư thuyết tích cực về tôn giáo, chẳng hạn lập trường coi các tôn giáo như là chuẩn bị cho việc con người đón nhận tin mừng đức Yêsu Kitô.

               Đạo Hồi xuất hiện khá trễ trong lịch sử (Mahomet sinh khoảng năm 570 tại La Mecque) và đă phá hủy nhiều thánh đường và cộng đoàn Kitô giáo tại phương Đông. Đạo Hồi coi đức Yêsu chỉ là một tiên tri và thời của Đức Yêsu đă chấm dứt, Mahomet khai trương kỷ nguyên sau cùng.

               V́ chủ trương như vậy, nên phần nào sự kiện đạo Hồi cũng làm lung lay quan niệm coi các tôn giáo ngoài kitô là công tŕnh của logos spermatikos, hoặc quan niệm coi các tôn giáo ngoài kitô có điểm tới là Kitô giáo.

Xem thêm M. HEINRICHS, op. cit., p. 81.

               H. LAMMENS, Mahomet fut- il sincère,

trong RECH. SCIENCCES RELIG., 2 (1911), pp. 25-53.140-166 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 42.

[20] Lập trường này dựa vào quan điểm về công chính hóa, ân sủng và nguyên tội của Luther cùng những người Tin lành.

H. R. Schlette cho rằng không có khẳng định nào của Kinh Thánh nâng đỡ cho quan điểm này. Cf. H. R. SCHLETTE, op. cit., p. 29.

Theo K.Rahner, lịch sử của các tôn giáo không chỉ là thành quả của lư trí và của tội, nhưng cũng c̣n là hoa trái của ân sủng nữa Cf. K. RAHNER, art. “La nature et la grâce”, trong Questions théologiques aujourd’hui, t.II, DDB. 1963, p. 33.

[21] LA COMBE OLIVIER, Râmânuja, Approches de l'Inde,                                                     trong CAHIER DU SUD 1949                           Ma Mystique naturelle et l'Inde,                                    trong REVUE THOMAISTE 1951.

R. C. ZAEHNER, Hindu and Muslim mysticism,                                       ATHLONE PRESS- LONDON 1957                              Mysticism sacred and profane,                                      CLARENDON PRESS- OXFORD 1957.

L. MASSIGNON, La passion de Al-Hallâj, martyr mystique de l'Islam, 2 vol., PARIS 1922.

[22] Mục này phần lớn lấy lại trong Y. PHẠM THANH LIÊM, Thần học các tôn giáo ngoài Kitô, ĐALAT 1982, bđm. pp. 7- 30.

[23] IRÉNÉE, Adversus Haereses, 4, 28, 2 PG.7, 1062

trích bởi G. THILS, op. cit., p. 65.

[24] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, I, 5 PG.8, 717-720 trích bởi G. THILS, op. cit., p. 66

[25] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, VII, 2 PG.9, 409-410 trích bởi G. THILS,op. cit., p. 66

[26] CLÉMENT D'ALEXANDRIE, Stromates, VI, 3 PG.9, 262 sq., trích bởi M. HEINRICHS, op. cit, p. 106

[27] St. BERNARD, Tractatus de Baptismo, cap.1, n.4 PL.182, 1034, trích bởi G.THILS, op. cit., p. 73

[28] G. THILS, op. cit., p. 50, xem BR. DECKER, Nikolaus van Cues und Friede unter den Religionen, trong J. KOCH, Studien und Texte zur Geistesgeschichte des Mittesalters, t.III, LIEDEN-COLOGNE 1953

[29] NIKOLAUS VON KUES, Ueber den Frieden in Glauben, LEIPZIG 1943, p. 91, trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., p. 81 ghi chú 17

[30] R. GUARDINI, Der Herr, WURZBURG 1949, p. 355, trích bởi M. HEINRICHS, op. cit., p. 106

[31] PIÔ XII, Diễn từ cho các cô đỡ, ngày 29.10.1951, DC.1951, col.1480, trích bởi Y.CONGAR, Vaste monde ma paroisse, TÉMOIGNAGE CHRÉTIEN 1968, trang 141, FV.27

[32] Xem Y. CONGAR, op. cit., p. 40, note 1

[33] TH. OHM, Die Liebe zu Gott in den nichtchristlichen Religionen. Die Tatsachen der Religionensgeschichte und die christliche Theologie, KRAILING VOR MUNCHEN 1950, p. 442 cf. Y. CONGAR, op. cit., p. 141

[34] K. RAHNER, art. “Mensch”, trong LEX. F. UND K., col. 292 trích bởi ÉTIENNE CORNÉLIS, Valeurs chrétiennes des religions non- chrétinenes, CERF 1965, trang 46

[35] H. R. SCHLETTE, Towards a Theology of Religions,

LONDON 1966, p. 78-81.

Hiển nhiên chúng ta phải hiểu, các tôn giáo ngoài kitô- xét như những hành động phượng tự của con người dưới tác động của ân sủng được biểu lộ cách xă hội- là điều Thiên Chúa muốn, và như vậy con người được cứu qua những hành động phượng tự đó. Nhưng nếu tôn giáo hiện tại, xét như một hệ thống tự coi ḿnh là đủ (autosuffisant) và đóng kín với Tin Mừng đức Yêsu Kitô, th́ không thể coi là điều Thiên Chúa muốn được.

[36] Những điều được tóm về lập trường của H. R. Schlette, xem đặc biệt H. R. SCHLETTE, op. cit., pp. 30, 36-37.67.70-72.74.76-81