HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Sách Linh Thao Tự Thuật Của Thánh Inhaxiô
Như
Thấy Đấng Vô H́nh Hiện Tại Mới Quan Trọng Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn Bạn Đường Của Người Làm Linh Thao Linh Thao Mười Ngày Linh
Thao Trong Cuộc Sống Đặc Sủng Ḍng Tên
Để
Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn HPH1 HPH2 HPH3 HPH4 HPH5
ĐỂ TỰ DO
VÀ HẠNH PHÚC HƠN
Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
C.
CON ĐƯỜNG THIÊNG
LIÊNG (TU ĐỨC)
1). Con người và ư định
của Thiên Chúa
3). Thánh Thần Thiên Chúa hoạt
động để dẫn đưa con người
đến với Thiên Chúa
4). Con người tại thế
tự do trước những tác động
5). Cầu nguyện và nhận
định các thần.
Ở
mục trên, chúng ta đă nh́n con người thực của
chính chúng ta một cách cụ thể, và đă phần nào thấy
nét cao qúy của con người. Bây giờ, chúng ta tiếp
tục t́m hiểu con người trong ư định của
Thiên Chúa, để rồi chúng ta có thể đến với
Thiên Chúa một cách dễ dàng hơn dưới sự
hướng dẫn và trợ giúp của Ngài.
Con
người là ai? Con người sẽ đi về
đâu? Đời sống con người có giá trị và ư
nghĩa nào không? Những câu hỏi trên đă được
nhiều người quan tâm thao thức đưa ra những
lư thuyết trả lời; và có những lư thuyết đă ảnh
hưởng rất sâu đậm trên lập trường
sống của nhiều người. Có những lư thuyết
sai lầm đă làm băng hoại bao nhiêu tâm hồn, và
đă làm bao người đau khổ. Ánh sáng của mặc
khải sẽ giúp chúng ta có cái nh́n đúng đắn về
con người, và Thiên Chúa sẽ chỉ cho chúng ta con
đường để chúng ta sống hạnh phúc
đích thực.
Với
lư trí của ḿnh, con người đă ṃ mẫm đi t́m lời
giải đáp về chân tính của ḿnh. Lời lư giải
th́ nhiều và đa dạng, và đôi khi cũng mâu thuẫn
nhau; nhưng điều đáng bận tâm hơn là: “những
lư giải này có đúng thực không”?
Có
người cho rằng con người do tiến hóa ngẫu
nhiên mà có. Nếu con người ngẫu nhiên mà hiện hữu,
th́ con người đâu có giá trị trường tồn!
Và nếu đúng như vậy, chết là hết! Và người
ta có thể kết luận: “con người có thể làm những
ǵ ḿnh thích, ḿnh muốn, hoặc những ǵ làm thỏa măn
ḿnh”.
Một
nhăn quan như vậy về con người, kéo theo những
hệ luận vô cùng tai hại:
· không có hạnh phúc
đích thực;
· nếu nói đến hạnh
phúc, th́ hiểu hạnh phúc là thỏa măn nhu cầu thể
lư; nếu có nói tới nhu cầu tinh thần, th́ tinh thần
ở đây cũng chỉ là dạng khác của thân xác;
· con người không là
một gía trị trường tồn; v́ tất cả sẽ
hư vô khi cái chết đến;
· con người có thể làm tất
cả; luật pháp chỉ có gía trị giúp trị an, để
đời sống “xă hội” được dễ dàng
hơn thôi, không phản ánh bản chất con người.
Một
số người cho rằng không thể lư giải sự
hiện hữu của con người, con người là hiện
sinh “phi lư”, cuộc đời đáng “buồn nôn”.
Những
người thuộc trường phái này không biết ḿnh từ
đâu tới và ḿnh sẽ đi về đâu, họ
không thấy ư nghĩa cuộc
đời. Một nhân sinh quan như vậy sẽ dẫn
con người tới thái độ bi quan chán chường:
· họ có thể sống
buông thả theo những khuynh chiều “thú tính” của con
người;
· và tệ hơn, họ
có thể tự tử nếu họ gặp quá nhiều thất
bại trên đường đời!
“Ấy Con Tạo đành hanh quá quắt,
Chết đuối người trên cạn mà chơí”!
Tại sao lại có lắm cảnh
éo le trong cuộc đời? Phải chăng con người
chỉ là tṛ chơi của Tạo Hóa, của những thần
linh “thích vui đùa trên sự đau khổ của con
người”? Phải chăng con người đă có một
phần số rơ ràng, không ǵ có thể tránh được?[1] Tại
sao có sự ác, phải chăng v́ Tạo Hóa muốn vậy,
bởi v́ Tạo Hóa quyền năng vô cùng mà?
Một
cái nh́n sai lệch về Thiên Chúa kéo theo cái nh́n sai lệch về
con người. Và nếu chấp nhận cái nh́n như vậy
về con người và về Thiên Chúa, th́ con người
không thể sống hạnh phúc được v́ luôn ở
trong t́nh trạng lo sợ bất an.
Thiên
Chúa không phải là “ông kẹ”, cũng không phải là “Con Tạo
đành hanh quá quắt”, cũng không phải là ông chủ
độc ác, nhưng là Cha Vô Cùng Nhân Từ và Yêu
Thương.
“Thiên
Chúa muốn cho tất cả mọi ngựi được
cứu độ và nhận biết chân lư” (1Tm.2,4). Thiên Chúa
muốn chia sẻ hạnh phúc với con người khi
Ngài tạo dựng con người.
Thiên
Chúa hoàn toàn tự do trong việc
tạo dựng con người, và Ngài đă tạo dựng
con người v́ t́nh yêu và trong
t́nh yêu. Không ǵ buộc Thiên Chúa phải tạo dựng
con người; và việc Ngài tạo dựng con người
không mang lại ǵ thêm cho bản tính Thiên Chúa.
Thiên
Chúa có thể không tạo dựng con nguời mà Ngài vẫn
hạnh phúc tṛn đầy; thế nhưng v́ yêu
thương con người nên Ngài đă tạo dựng con
người, và Ngài muốn con người được
hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài: “Thiên Chúa là T́nh Yêu”
(1Yn.4, 8.16).
Thiên
Chúa tạo dựng con người, v́ Ngài muốn cho con nguời
thông phần hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Hạnh
phúc đích thực và vĩnh cửu của con người,
không hoàn toàn nằm trong tầm tay con người, nhưng
cũng không phải là điều mà con người không thể
có được. Con người có thể sống hạnh
phúc, nhưng con người không thể sống hạnh
phúc thật nếu con người muốn tách biệt hay
độc lập với Thiên Chúa.
Hạnh
phúc vĩnh cửu, là thuộc tính của Thiên Chúa; hạnh
phúc vĩnh cửu nơi con người chỉ có thể
có, nếu con người sống hiệp thông với Thiên
Chúa, thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thiên
Chúa luôn luôn hạnh phúc, và chỉ những ai nên giống
Thiên Chúa mới hạnh phúc thật sự mà thôi.
“Thiên
Chúa là T́nh Yêu” (1Yn.4, 8. 16). Ai yêu thương th́ nên giống
Thiên Chúa, và ai không yêu thương th́ không giống Thiên Chúa.
Như vậy, chỉ những người sống yêu
thương mới hạnh phúc và hạnh phúc thật sự.
Thiên
Chúa tạo dựng con người “giống h́nh ảnh
Ngài” (Stk.1,26), Ngài tạo dựng con người tự do,
Ngài tạo dựng con người có khả năng yêu
thương để sống hạnh phúc vĩnh cửu với
Ngài. Thế nhưng con người “tự do” đă không sống
yêu thương như Thiên Chúa muốn, con người
đă lạm dụng tự do để thù ghét và làm hại
anh em ḿnh : đó là tội! Để con người
được hạnh phúc, cần
Thiên Chúa cứu độ con người, làm cho con người sống yêu
thương: yêu Chúa và yêu người. Cứu độ
con người, là làm con người sống yêu
thương, để con người giống Thiên Chúa,
để con người được hạnh phúc.
Thiên
Chúa là T́nh Yêu, Ngài là Đấng chỉ biết yêu
thương, và làm tất cả v́ yêu thương: “Ngài tạo
dựng con người để con người sống
và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài”. Thực tế con
người đă từ chối t́nh yêu của Ngài, từ
chối sống thông hiệp với Ngài, và như vậy là
xúc phạm Thiên Chúa, là tội. Tuy vậy, Thiên Chúa đă
không bỏ mặc con người, Ngài tiếp tục yêu
thương con người qua hành vi làm con người trở
về sống thông hiệp với Ngài, đáp trả t́nh
yêu của Ngài.
Từ
đời đời Thiên Chúa đă biết con người
từ chối Ngài, phản bội Ngài khi Ngài tạo dựng
họ “tự do”; nhưng Thiên Chúa vẫn tạo dựng
con người; và Ngài có chương tŕnh cứu độ
con người khi Ngài quyết định tạo dựng
con người “tự do”. Tự do của con người
vẫn được tôn trọng và bảo vệ[2].
Các
kitô-hữu tiên khởi đă diễn tả chương
tŕnh Thiên Chúa yêu thương và cứu độ con người
qua bài ca trong thư gởi Eâphêsô của thánh Phaolô:
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ
đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta.
Trong đức Kitô, từ cơi trời
Người đă thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn
ơn phúc của Thánh Thần.
Trong đức Kitô, Người
đă chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để trước thánh
nhan Người ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ
t́nh thương của Người.
Theo ư muốn và ḷng nhân ái của
Người, Người đă tiền định cho ta
làm nghĩa tử nhờ đức Yêsu Kitô, để ta hằng
ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng người
đă ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.
Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử
đổ ra mà chúng ta được cứu chuộc
được thứ tha tội lỗi theo lượng ân
sủng rất phong phú của Người.
Aân sủng này Thiên Chúa đă rộng
ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
Người cho ta được
biết Thiên Ư nhiệm mầu: Thiên Ư này là kế hoạch
yêu thương Người đă tiền định từ
trước trong đức Kitô.
Đó là đưa thời gian tới
hồi viên măn là quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới quyền một thủ lănh là đức Kitô.
Cũng trong đức Kitô, Thiên
Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định
và ư muốn của Người, đă tiền định
cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch
của Người, để chúng tôi là những người
đầu tiên đặt hy vọng vào đức Kitô, chúng
tôi ngợi khen vinh quang Người.
Trong đức Kitô cả anh em nữa,
anh em đă được nghe lời chân lư là Tin Mừng cứu
độ anh em; vẫn trong đức Kitô, một khi anh em
đă tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng Thiên Chúa đă hứa.
Thánh Thần là bảo chứng phần
gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên
Chúa được cứu chuộc, để ngợi khen
vinh quang Thiên Chúa”(Eph.1,3-14).
Phạm
tội là từ chối Thiên Chúa và muốn độc lập
với Ngài. Qua hành vi phạm tội con người chọn
và làm ḿnh trở thành “qủy”. Điều này không hợp lư
và “không hiểu được”, nhưng đó lại là sự
thật! Một điều ác điều dữ, tại
sao con người vẫn làm?!
Thiên
Chúa đă yêu thương con người ngay cả khi con
người là tội nhân. Đây cũng là điều “không
hiểu được”!
Thiên
Chúa yêu thương con người, Ngài muốn con người
hạnh phúc, Ngài muốn con ngựi trưởng thành và triển
nở về mọi phương diện. Nhưng thực
tế, bằng chính hành vi phạm tội của ḿnh, con
người đă từ chối vươn lên và đă
đồng hóa ḿnh với con vật, và đôi khi c̣n tệ
hơn cả con vật, chẳng hạn trường hợp
con nguời lợi dụng lư trí của ḿnh nhằm diệt
hẳn một dân tộc như hành vi của Hitler đối
với dân tộc Do Thái thời đệ nhị thế
chiến. Tội là xúc phạm Thiên Chúa bằng hành vi từ
chối sống yêu thương như Thiên Chúa đă muốn
cho con người.
Tŕnh
thuật “sa ngă” của sách Sáng Thế Kư chương 3 cho thấy:
con người không tin rằng Thiên Chúa yêu thương ḿnh,
mà hơn nữa lại tin vào ma qủy qua h́nh ảnh con rắn,
coi Thiên Chúa là Đấng lừa dối ḿnh, cho rằng
Thiên Chúa không muốn cho con người trở thành thần
linh, coi Thiên Chúa như một vị sợ con người
được “ngang hàng” với ḿnh. Khi con người
không tin vào Thiên Chúa nữa, th́ con người không c̣n trông cậy
vào Thiên Chúa, và con người không sống trong t́nh yêu của
Ngài nữa. Tội là từ chối t́nh yêu của Thiên Chúa.
Không
ai có thể tha tội nếu không phải là chính Thiên Chúa
(Mc.2,7). Quan niệm này của người Do Thái hoàn toàn
chính xác: con người không thể đền được
tội mà ḿnh đă xúc phạm đến Thiên Chúa. Chính v́ thế
con người cần được Thiên Chúa cứu độ.
Con
người đầu tiên đă phạm tội cách tự
do, và bây giờ con người vẫn c̣n tự do để
phạm tội hay không phạm tội; thế nhưng kể
từ biến cố phạm
tội đầu tiên của con người đó, con
người cảm thấy ḿnh “như thể bất lực”
để làm điều tốt ḿnh biết là nên làm hay phải
làm.
Kinh
nghiệm đời sống thiêng liêng cho thấy: có nhiều
lúc trong đời tôi không muốn phạm tội, tôi không
muốn làm “điều đó” nữa, nhưng rồi tôi lại
đă tự do làm điều tôi đă quyết định
rằng sẽ không bao giờ làm nữa; sau khi làm điều
đó rồi, tôi lại hối hận v́ ḿnh đă làm
điều đó... và rồi lại quyết định...!
Con
người đă bị ảnh hưởng bởi tội,
và đặc biệt bởi tội đầu tiên đó.
Con người đă bị “yếu” kể từ khi con
người phạm tội, và con người càng trở
nên yếu khi con người càng ch́m sâu trong tội. Có lẽ
ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.
Kinh
nghiệm “điều tôi muốn (tôi biết là đúng, là
nên làm) tôi không làm, nhưng tôi lại làm điều tôi không
muốn (tôi biết là không đúng và không nên làm)” của
thánh Phaolô (Rm.7,19), là kinh nghiệm “bất lực” của
con người, và đúng hơn của mầu nhiệm tự
do của con người, của tội. Khi nói con người
cảm nghiệm sự “bất lực làm điều tốt”,
người viết hoàn toàn không có ư muốn nói “con người
không c̣n khả năng hành thiện”, hoặc “con người
mất tự do để làm điều tốt”! Con
người vẫn c̣n khả năng chọn lựa làm
điều tốt hay điều xấu tùy họ.
Ai
cứu tôi khỏi t́nh trạng khốn nạn này?
“Tạ
ơn Chúa, nhờ đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta!”(Rm.7,24-25).
“Trong đức Kitô và nhờ đức Kitô, chúng ta
được cứu chuộc, được thứ tha
tội lỗi”(Eph.1,7).
Nhập
thể là sáng kiến t́nh yêu tuyệt vời của Thiên
Chúa để cứu độ con người, bởi v́
con người không thể trả gía đền tội
ḿnh, v́ con người chỉ là tạo vật: “chỉ có
Con Chiên mới xứng đáng mở sách ấy mà
thôi”(Kh.5,9)! Chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể trả
được giá “thục hồi” cho Thiên Chúa, và như vậy
chỉ có đức Yêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, Con
Thiên Chúa làm người, mới có thể cứu độ
được con người mà thôi.
Con
người từ chối T́nh Yêu Thiên Chúa, con người
coi thường và cho rằng ḿnh không cần Thiên Chúa. Thái
độ khinh thường Thiên Chúa là thái độ
đáng tội. Làm sao để cứu độ con người?
Làm
sao để cứu độ con người?
V́
con người là hữu thể tự do, nên Thiên Chúa không
thể cứu độ được con người nếu
con người không chấp nhận.
Con
người được cứu độ nếu con
người coi trọng Thiên Chúa và mệnh lệnh của
Ngài, nếu con người vâng phục Thiên Chúa, tin tưởng
và phó thác nơi Thiên Chúa. Cứu độ con người,
là làm cho con người cảm nghiệm được rằng
Thiên Chúa yêu con người, và đó là sứ mạng của
đức Yêsu.
Cứu
độ con người là hướng dẫn và trợ
giúp con người, làm sao để con người cảm
được Thiên Chúa yêu thương họ, và rồi họ
đáp trả t́nh yêu, và như vậy là con người
được hạnh phúc, được cứu độ.
Sứ
mạng của đức Yêsu là làm sao để con người
cảm được rằng Thiên Chúa yêu thương con
người. Để thực hiện công tŕnh cứu
độ này, Thiên Chúa đă có cả một chương
tŕnh, và trải dài trong gịng lịch sử, đặc biệt
là nơi dân tộc Do Thái với lịch sử của họ.
Có
thể nói: sứ mạng của đức Yêsu là làm chứng
cho T́nh Yêu, là chứng nhân t́nh yêu: làm cho con người cảm
nghiệm Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.
Liệu
Thiên Chúa có thể cứu độ con người mà không cần
Ngôi Lời nhập thể, không cần đức Yêsu phải
chết không?
Nếu
Ngôi Lời không nhập thể, liệu con người có
tin Thiên Chúa yêu con người không? Nếu đức Yêsu
không chịu chết, liệu con người có được
đánh động bởi hành động và đời sống
của Ngài, để cảm nhận rằng Thiên Chúa yêu
thương ḿnh không?
Bằng
hành vi nhập thể, Ngôi Lời Thiên Chúa vĩnh viễn
thành người:
· Đức Yêsu sống
hoàn toàn như con người (trừ tội, v́ tội
không thuộc bản chất con người). Ngài biết
đói, biết khát, biết đau, biết khổ nhục;
Ngài bị cám dỗ trong hoang địa, trong vườn dầu,
trên thập giá; Ngài bị thử thách về đức tin
nhưng không bao giờ qụy ngă[3].
· Ngài luôn nói sự thật
dù người ta không tin và không chấp nhận Ngài (Mc.2,7),
dù người ta kết án tử h́nh Ngài (Mc.14,62).
· Ngài ư thức Ngài chết
v́ yêu thương con người, v́ Ngài hiến mạng
Ngài cho con người: “không có t́nh yêu nào lớn hơn t́nh
yêu của Người hiến mạng sống ḿnh v́ bạn
hữu” (Yn.15,13).
Dường
như thập giá là con đường duy nhất diễn
tả t́nh yêu một cách thuyết
phục nhất. Một cô gái có thể tin rằng một
anh nào đó nói yêu cô ta, là thực chăng? Nếu cô gái này
khôn ngoan, cô ta biết ḿnh có thể bị lừa! Để
tin lời nói của người đó có thực không, cô ta
cần có thời gian để nghiệm xét: chính qua hành
động và đời sống, chứ không chỉ bằng
lời nói, mà cô ta biết được anh ta có yêu cô ta thực
không! Chính nhờ hành động, xem người đó có hy
sinh quên ḿnh v́ tôi không, xem người đó có muốn tôi
được hạnh phúc thực không, mà tôi nhận biết
người đó có yêu tôi thực không. Cũng tương
tự như vậy, qua việc Đức Yêsu dám chết
v́ yêu con người, mà con người tin biết rằng
Ngài yêu con người, và nhờ Ngài mà con người cũng
biết rằng Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
Tội
là coi thường Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, không trông cậy
ǵ nơi Ngài, không vâng phục Ngài! Nhưng Thiên Chúa luôn yêu
thương con người, Ngài sẵn sàng tha thứ tội
lỗi con người đă xúc phạm đến Ngài, Ngài
mong muốn con người trở lại với Ngài, để
con người được hạnh phúc. Khi con người
trở lại với Ngài, rung động trước t́nh
yêu của Thiên Chúa đối với ḿnh, trân trọng Thiên
Chúa, tín thác nơi Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi
sự..., th́ con người được cứu độ.
Rung
động trước t́nh yêu của đức Yêsu và của
Thiên Chúa đối với con người, hối hận
v́ tội lỗi ḿnh, ao ước đáp trả t́nh yêu
Thiên Chúa bằng chính cuộc sống ḿnh, đó là khởi
đầu ơn cứu độ. Chính t́nh yêu của Thiên
Chúa đối với con người và làm con người
đáp trả t́nh yêu Thiên Chúa, làm cho con người
được sống, và sống tṛn đầy, sống
hạnh phúc.
T́nh
yêu không chỉ là cảm giác, và t́nh yêu cũng không chỉ là
lư trí. T́nh yêu diễn tả và cảm nhận bằng cả
lư trí và thân xác. Con người cần cảm nghiệm Thiên
Chúa yêu thương ḿnh bằng
cả con người, để ḿnh sống một
đời đầy ư nghĩa, và được hạnh
phúc.
Cứu
độ con người là chương tŕnh của cả
Ba Ngôi Thiên Chúa:
· Thiên Chúa Cha như nguồn
gốc mọi sự, là sáng kiến của chương
tŕnh;
· Thiên Chúa Con như Lời
thực hiện chương tŕnh qua hành vi nhập thể vĩnh
viễn;
· Và Thánh Thần hoạt
động trong tâm hồn mỗi
người để dẫn đưa con người trở
về với Thiên Chúa[4].
Thánh Thần giúp các tông đồ hiểu Lời của
đức Yêsu (Yn.14,26), dẫn đưa các tông đồ
vào tất cả sự thật (Yn.16,13), giúp các tông đồ
làm chứng cho đức Yêsu (Yn.15,26-27). Thánh Thần hoạt
động trong Hội Thánh để giúp các Kitô-hữu sống
đức tin, và giúp các Kitô-hữu rao giảng tuyên xưng
đức Yêsu Phục Sinh là Thiên Chúa.
Con
người là tạo vật được Thiên Chúa yêu
thương, nên cứu độ con người là công việc
quan trọng đối với Thiên Chúa.
Thiên
Chúa yêu thương con người, và yêu con người vô
cùng. Thiên Chúa Cha yêu con người như yêu chính Con Một
của Ngài (Yn.17,23), và Ngài yêu con người đến
độ ban Con của Ngài cho con người (Yn.3,16). Chúa
Yêsu yêu con người như
Thiên Chúa Cha yêu Ngài (Yn.15,9), và Ngài yêu con người
đến độ hiến mạng sống bản thân
Ngài cho con người (Yn.15,13), và c̣n biến bánh rượu
thành thân xác Ngài để trở thành của ăn của uống
cho chúng ta.
Chính
v́ yêu thương con người nên Thiên Chúa luôn ở với
con người:
· “Nơi nào có hai hay ba
người họp nhau v́ danh Thầy, th́ Thầy ở giữa
họ” (Mt.18,18). “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến
tận thế” (Mt.28,20);
· “Ai yêu mến Ta th́ giữ
Lời Ta, Cha Ta sẽ yêu thương người đó, và
chúng ta sẽ đến và ở với người đó”
(Yn.14,23);
· “Thầy sẽ xin Cha,
và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bầu Chữa
khác, để Ngài ở với các con luôn măi” (Yn.14,16).
Yêu
nhau, người ta muốn ở gần nhau. Thiên Chúa muốn
ở với chúng ta, và Ngài muốn chúng ta ở trong t́nh yêu
của Ngài (Yn.15,9). Thiên Chúa ở với chúng ta để cứu
độ chúng ta, để chúng ta sống hạnh phúc với
Ngài.
“Sự
sống đời đời là chúng nhận biết Cha và
đức Yêsu Đấng Cha sai” (Yn.17,3).
Để
sống hạnh phúc tṛn đầy, con người cần
biết ḿnh đang hạnh phúc. Chúa Thánh Thần là thầy
dạy chúng ta, Ngài giúp chúng ta nhận ra sự thật cứu
độ: ”Thánh Thần sẽ dẫn chúng con vào tất cả
sự thật” (Yn.16,13). Không có Thánh Thần, con người
không thể làm ǵ tốt, ngay cả việc tin đức
Yêsu là Thiên Chúa: “Không ai tuyên xưng đức Yêsu là Kitô, nếu
không bởi Thánh Thần” (1Cor.12,3).
Thánh
Thần giúp con người tin vào đức Yêsu và tin vào
Thiên Chúa, giúp con người cầu nguyện than thở với
Thiên Chúa (Rm.8,26-27), giúp con người sống b́nh an hạnh
phúc, giúp con người hưởng
ân phúc cứu độ.
“Không
ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Đấng đă sai Ta, không lôi kéo nó, và Ta sẽ
cho nó sống lại ngày sau hết” (Yn.6,44).
Con
người không thể tự cứu chính ḿnh, nhưng
chính Thiên Chúa cứu độ con người: Thiên Chúa cứu
độ con người nhưng cần con người
ưng thuận cách tự do.
Chính
Thiên Chúa lôi kéo con người đến với Thiên Chúa, chứ
không phải con người tự ḿnh có khả năng
đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa lôi kéo con người,
và con người ưng thuận để Thiên Chúa lôi kéo
ḿnh đến với Ngài. Lôi kéo con người đến
với Thiên Chúa mà con người vẫn hoàn toàn tự do,
đó là đặc điểm của Thiên Chúa.
Thiên
Chúa là T́nh Yêu, Thiên Chúa yêu con người, nên “Ngài muốn tất
cả mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lư” (1Tm.2,4). Ngôi Lời Thiên Chúa đă
nhập thể làm người để ở măi với
con người theo cách thức mà con người lănh hội
được; Thánh Thần Thiên Chúa luôn hoạt động
trong con người để lôi kéo con người đến
với Thiên Chúa, để làm con người rung cảm
trước t́nh yêu Thiên Chúa, để con người có thể
sống an b́nh và phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, để
con người được hạnh phúc.
Tuy
con người hoàn toàn tự do nhưng Thiên Chúa lại rất
tuyệt vời: Ngài chinh phục
con người bằng t́nh yêu.
Thiên
Chúa yêu thương con người, Ngài muốn những
điều tốt lành cho con người, Ngài muốn con
người được hạnh phúc vĩnh cửu với
Ngài. Sở dĩ như vậy, bởi v́ khi yêu, người
ta muốn cho người ḿnh yêu được những
điều tốt lành, được hạnh phúc đích
thực.
Thiên
Chúa muốn con người được sống hạnh
phúc tṛn đầy với Ngài: “Ta đến để chúng
được sống, và sống sung măn” (Yn.10,10).
Thiên
Chúa Cha đă ban Con Ngài cho con người (Yn.3,16), Chúa Con
đă ban chính ḿnh Ngài cho con người qua bí tích Thánh Thể
và bằng hành vi chết cho người ḿnh yêu (Mc.14,24-25;
Yn.15,13), Thánh Thần hiện diện với con người
như quà tặng của Ba Ngôi (Yn.14,16).
Để
hạnh phúc và cảm nghiệm hạnh phúc, cần có tự
do.
Thiên
Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chính v́
vậy, Ngài chỉ mời gọi và đề nghị, c̣n
tùy con người có đáp trả hay không.
Thiên
Chúa tôn trọng ư muốn của con người; ngay cả
khi con người không đáp trả lại t́nh yêu của
Ngài, không làm theo ư muốn của Ngài, th́ Ngài vẫn kiên nhẫn
chờ đợi, Ngài vẫn luôn tác động để
con người trở lại với Ngài, hầu con người
được sống hạnh phúc đích thực.
Khi
yêu nhau, họ trở nên một, một thân xác một tinh
thần. Nói một cách chính xác, những người yêu nhau
đều hướng tới hiệp nhất dù mỗi cá
vị vẫn được tôn trọng và duy tŕ: “Ḿnh với
ta tuy hai mà một, ta với ḿnh tuy một mà hai”. Hai người
yêu nhau, sẽ được hạnh phúc hơn khi họ
cùng lư tưởng, cùng ước muốn và đồng cảm[5].
Chúa
Yêsu yêu Chúa Cha, nên đă lấy Ư Cha làm ư Ngài (Mc14,36), đă lấy
Ư Cha làm của ăn (Yn.4,34). Cũng tương tự
như vậy, khi con người yêu Thiên Chúa, sẽ lấy
ư Thiên Chúa làm ư ḿnh, sẽ vâng giữ Lời Ngài: “Ai yêu mến
Ta th́ giữ Lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người
đó, và chúng ta sẽ đến và ở nơi người
đó” (Yn.14,23).
Con
người chỉ có thể nên một với Thiên Chúa
trong cầu nguyện, nếu con người đă cố gắng
để nên một với Thiên Chúa trong suốt đời
sống thường ngày.
Trong
t́nh yêu người ta thường nghe nói, “Anh là tất cả
với em” hoặc “Em là tất cả với anh”. Khi hai
người yêu nhau, người này là qúy nhất với
người kia. Chính v́ thế, ư kiến hay ư thích của
người yêu rất được coi trọng.
Ai
càng yêu th́ càng yếu, v́ khi yêu người ta muốn chiều
ḷng người ḿnh yêu, để thấy người yêu hạnh
phúc và ḿnh cũng được hạnh phúc v́ người
ḿnh yêu hạnh phúc.
Khi
yêu nhau, người ta tin tưởng lẫn nhau và có thể
tin tưởng cậy nhờ người ḿnh yêu, v́ ḿnh tin
rằng người ḿnh yêu sẽ làm theo ư ḿnh. Khi yêu,
người ta tin tưởng trông cậy lẫn nhau.
Tội là coi thường và không
tin tưởng trông cậy ǵ nơi Thiên Chúa, c̣n yêu Thiên Chúa
là trân trọng và tin tưởng phó thác đời ḿnh trong
tay Thiên Chúa là Đấng yêu thương ḿnh.
Tin
rằng Thiên Chúa yêu thương ḿnh, và Ngài sẽ làm cho ḿnh
những điều tốt lành nhất, và như vậy
ḿnh sẽ b́nh an hạnh phúc để phó thác đời
ḿnh trong tay Thiên Chúa.
Con
người không có tự do tuyệt đối, nhưng
con người chỉ tự do trong hành động của
ḿnh.
Là
tinh thần nhập thể, nên con người trở thành
tinh thần qua thân xác, nghĩa là, con người được
mời gọi vượt lên những khuynh chiều xác thịt
để thành nhân, để nên thánh, để sống
như Thiên Chúa muốn, để thuộc trọn về
Thiên Chúa.
Lư
trí con người với những h́nh ảnh được
cảm thụ qua giác quan, do tác động bởi những
khuynh chiều thân xác, làm nên trí tưởng tượng. Trí
tưởng tượng thuộc về “tôi”, cấu thành
con người tôi, nhưng “tôi” không chỉ là nó; tôi hoàn toàn
tự do để ưng thuận hay từ chối những
ǵ hiện đến trong trí tưởng tượng của
tôi.
Con người là linh hồn
và thân xác. Con người là chủ vị với thân xác. Tôi
xét như thân xác, có những khuynh chiều đ̣i thỏa
măn, như đói cần ăn khát cần uống, nhu cầu
thỏa măn sinh lư; tôi xét như sinh vật bậc cao, cũng
có khuynh hướng muốn được kính trọng, nổi
tiếng.
Là người, tôi cảm thấy
ḿnh có những nhu cầu và đ̣i hỏi như vậy
nơi chính bản thân; khi tôi cảm thấy những
đ̣i hỏi đó nơi ḿnh, không hàm chứa rằng tôi
“thấp hèn”; tôi tự do, tôi có thể ưng thuận hay từ
chối làm theo những đ̣i hỏi đó.
Khi
nào c̣n sống trên dương thế này, tôi c̣n cảm thấy
những đ̣i hỏi của thân xác và lư trí. Những khuynh
chiều như thế là b́nh thường; đó là thân phận
con người trong điều kiện tại thế. Tuy
nhiên, con người xét như chủ vị hoàn toàn tự
do, có thể “siêu vượt” trên những “cám dỗ”, trên
những khuynh chiều này.
Con
người, trở nên người tự do đích thực
hay nô lệ vật chất, trở nên thánh nhân hay như con
vật, là do chính con người. Chính bằng hành vi siêu vượt hay thuận theo cám
dỗ, mà con người là “thần” hay “vật”, trở
nên thần linh hay sống như “con vật”.
Bị
cám dỗ và thử thách nhiều, không có nghĩa là ḿnh thiếu
quảng đại với Chúa, hoặc ḿnh “xấu xa thấp
hèn”. Đức Yêsu cũng bị cám dỗ nhiều và mănh
liệt (Mt.4,1-11; Mc.14,32 tt), Ngài bị cám dỗ cả trong
lănh vực đức tin (Mc.15,34), Ngài đă chiến đấu
chống trả cám dỗ đến nỗi mồ hôi máu chảy
ra (Lc.22,44). Đức Maria cũng bị thử thách nhiều
trong cuộc sống, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng
phó thác trong tay Thiên Chúa dù không biết Lời Chúa phán cùng Mẹ
sẽ được thực hiện thế nào, nhất
là khi Mẹ chứng kiến đức Yêsu chết ô nhục
thảm thương trên thập giá (Lc.1,26-38.45; Yn.19,25-27).
Cám
dỗ và thử thách là những dịp để con người
tại thế siêu vượt trên chính ḿnh, để con
người là tinh thần hơn, nên thánh và thuộc trọn
về Chúa hơn.
Đức
Yêsu chiến thắng cám dỗ, và như vậy chúng ta tin
tưởng rằng con người tại thế có thể
vượt thắng cám dỗ nếu con người tin
tưởng phó thác trong tay Thiên Chúa. Là con người, không
có nghĩa là buộc phải phạm tội. Phạm tội
hay không, tùy con người tự do: con người có thể
không phạm tội.
Để
con người được cứu độ, Ngôi Lời
Thiên Chúa đă nhập thể làm chứng cho t́nh yêu, hầu
con người nhận biết Thiên Chúa yêu thương ḿnh
vô cùng, để rồi yêu lại Thiên Chúa.
Con
người khi tin nhận đức Yêsu là Thiên Chúa, th́ nhận
ra t́nh yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với
ḿnh. Rồi khi con người tin nhận rằng Thiên Chúa
yêu thương ḿnh vô cùng, con người có thể phó thác
đời ḿnh trong tay Thiên Chúa T́nh Yêu.
Cầu
nguyện là một cách để thông hiệp với Thiên
Chúa T́nh Yêu trong cuộc sống thường ngày của con
người, để con người sống hạnh phúc
với Thiên Chúa.
Thiên
Chúa luôn yêu thương tôi dù tôi có biết và có ư thức về
điều đó hay không. Thiên Chúa luôn nh́n xem tôi và can thiệp
vào đời tôi một cách kịp thời, v́ Ngài luôn yêu
thương tôi. ”Ngài chặn tôi trước, Ngài ngừa tôi
sau... bàn tay của Ngài đặt trên tôi” (Tv.139,5).
Khi
cầu nguyện người ta cần ư thức Thiên Chúa
đang hiện diện và yêu thương ḿnh. Như vậy
trong suốt ngày, nếu tôi làm việc mà vẫn luôn ư thức
Thiên Chúa đang sống với tôi, th́ tôi cũng đang cầu
nguyện và đang kết hiệp với Thiên Chúa một
cách nào đó.
Ư
thức Thiên Chúa đang sống với ḿnh trong đời
sống thường ngày, không đ̣i chúng ta phải ngừng
công việc ḿnh đang làm. Trong cả ngày, chúng ta vẫn làm
việc b́nh thường trong tâm trạng “Thiên Chúa ở bên
ḿnh và làm việc với ḿnh”.
Cầu nguyện là lắng nghe Thiên Chúa
Thiên
Chúa nói với mỗi người chúng ta qua lương tâm
mỗi người, qua những biến cố xảy tới
với ḿnh trong đời, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh...
· Chúa nói với tôi, tôi có
lắng nghe?
· Thái độ đáp trả
của tôi với Lời Ngài như thế nào? Tôi vâng phục,
hay từ chối, hay lẩn tránh? Tôi có sống theo Lời
Chúa nói với tôi không?
Cầu nguyện là thân thưa với Chúa
Khi
tôi thấy con người của tôi dưới ánh sáng Lời
Chúa, tôi hăy nói với Ngài những ǵ Thánh Thần soi sáng và
thúc đẩy trong ḷng tôi. Nếu tôi có những bận tâm
và ao ước, tôi hăy nói với Chúa, để Lời Chúa
như gươm hai lưỡi phân tách (Dt.4,12), để
tôi được tinh sạch hơn (Yn.17,17) và tự do
hơn (Yn.8,32).
Có
nhiều người mong ước kết hiệp với
Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện. Đây là ao ước
chính đáng và tốt lành thánh thiện. Nhưng làm sao có thể
kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện?
Khao khát ước mong kết hiệp với Thiên Chúa
Để
hiệp nhất với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện,
đ̣i người đó luôn khao khát mong ước kết
hiệp với Thiên Chúa. Chính ḷng khao khát ước mong, sẽ
giúp người đó luôn kết hiệp với Thiên Chúa
trong cuộc sống thường ngày bằng việc chấp
nhận thánh ư Chúa ngay cả khi điều đó trái ư ḿnh,
và nếu được như vậy, sẽ giúp người
đó kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu
nguyện.
Có
người cho rằng họ đă đạt đến
mức kết hiệp với Thiên Chúa cách rất đặc
biệt trong cầu nguyện, nhưng trong cuộc sống
thực tế cho thấy người đó rất khó sống
với người khác, và họ thường “khá kiêu ngạo”!
Thánh Y-nhă lưu ư một số anh em Ḍng Tên: “cầu nguyện
lâu giờ mà không có tinh thần hy sinh từ bỏ, th́ chỉ
làm cho người ta thêm cứng đầu”.
Để
có thể kết hợp với Thiên Chúa trong giờ cầu
nguyện, người ta cần phải liên lỉ kết
hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống. Họ phải
luôn từ bỏ ư riêng để vâng phục Thánh Ư Thiên
Chúa, để yêu thương và chấp nhận anh em,
để thông cảm với những giới hạn của
anh em và những trái ư từ bên ngoài đưa tới. Một
người cho rằng ḿnh đă có thể kết hiệp
dễ dàng với Thiên Chúa trong cầu nguyện mà không có
đời sống từ bỏ và yêu thương, e rằng
đó là người “ảo tưởng”, và chưa biết
ḿnh cách sâu xa và đích thực.
Đồng h́nh đồng dạng với Ngài trong tư tưởng lời nói và hành động
Để
kết hiệp với Thiên Chúa trong giờ cầu nguyện,
cần kết hiệp với Thiên Chúa trong suốt ngày sống.
Sống đời sống “từ bỏ” qua yêu mến
đức khó nghèo và sẵn sàng chịu xỉ nhục và
khinh chê v́ ChúaYêsu Kitô, chấp nhận Thánh Ư Chúa trong suốt
ngày sống. Nói cách khác, cuộc sống “đồng h́nh
đồng dạng” với Đức Yêsu trong tư tưởng,
lời nói và hành động, sẽ giúp người đó kết
hiệp với Thiên Chúa sâu xa hơn trong giờ cầu nguyện.
Suy nghĩ, và ngay cả suy
nghĩ về những sự thiêng liêng và thần học, cũng
chưa là cầu nguyện.
Cầu nguyện là nói chuyện,
thân thưa hoặc tâm sự với Thiên Chúa. Nếu một
suy nghĩ giúp ḿnh tâm sự thân thưa với Thiên Chúa, th́
suy nghĩ đó cũng thuộc về cầu nguyện; chẳng
hạn, sau một suy nghĩ, một người có thể
thấy một ánh sáng nào đó, và điều này giúp họ
tạ ơn Thiên Chúa hay nói chuyện với Thiên Chúa hay nài
xin Thiên Chúa điều ǵ đó, th́ suy nghĩ đó cũng
là cầu nguyện.
Điểm chính yếu của
cầu nguyện không là có nhiều ư tưởng phong phú,
nhưng là tâm t́nh và thái độ của ḿnh đối với
Thiên Chúa.
Xét
gẫm là lượng giá giờ cầu nguyện, nhằm
giúp ḿnh thấy được những ơn lành đă nhận
lănh trong giờ cầu nguyện để tạ ơn
Chúa, và biết được những “nguyên nhân nơi
chính ḿnh” đă làm cho giờ cầu nguyện không được
tốt đẹp, để sửa đổi.
Thiên Chúa muốn con người
sống b́nh an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau
nhưng c̣n ngay cả ở đời này nữa. Thiên Chúa
muốn con người sống b́nh an hạnh phúc trong mọi
thời điểm của cuộc sống, và đặc
biệt trong giờ cầu nguyện. Có thể nói, t́nh trạng
“an ủi thiêng liêng” là t́nh trạng b́nh thường trong
đời sống cầu nguyện; nghĩa là, trong và sau cầu
nguyện, con người được b́nh an hơn,
được thư thái và hạnh phúc hơn, và thấy
tin tưởng và trông cậy cùng yêu mến Thiên Chúa hơn.
Thiên Chúa muốn con người
sống b́nh an hạnh phúc, nhưng ma qủy- kẻ từ
chối T́nh Yêu Thiên Chúa và chống lại Thiên Chúa- muốn
con người về phe nó chống lại Thiên Chúa, nên t́m
mọi cách ngăn cản con người sống b́nh an và hạnh
phúc với Thiên Chúa.
Người thường sống trong t́nh trạng tội
Thiên
Chúa muốn người đang ở trong t́nh trạng tội
trở về với Ngài, Ngài luôn hành động trong thâm
sâu tâm hồn mỗi người để làm họ trở
về với Ngài, qua tiếng nói của lương tâm và
qua những dấu chỉ hữu h́nh.
Thần
dữ hành động ngược lại. Nó t́m mọi cách
để người đó ở lại trong tội, chẳng
hạn bằng gợi lên những h́nh ảnh gây vui thú giác
quan...
Người đang tiến trên đường thiêng liêng
Thiên
Chúa vẫn tiếp tục lôi kéo mỗi người, để
họ tiến tới hơn trên đường phụng sự
Chúa. Các thần lành cũng trợ giúp, để con người
cảm nhận b́nh an và hạnh phúc, để họ vui tiến
trên đường thiêng liêng.
Thần
dữ t́m mọi cách và mọi lư do “ngụy biện” để
ngăn cản con người tiến tới, gây bất an
và xáo động nơi tâm hồn con người.
Sau khi cầu nguyện,
người cầu nguyện dùng một thời gian ngắn
để xét gẫm, xem giờ cầu nguyện của
ḿnh thế nào! Nếu không tốt[8] hoặc
không tốt lắm, th́ đâu là nguyên do? Và một khi đă
nhận ra th́ cố gắng sửa đổi (chính ḿnh),
để giờ cầu nguyện tiếp sau được
tốt đẹp hơn.
Nếu t́m đúng nguyên do và
được chỉnh đốn, th́ giờ cầu nguyện
tiếp sau sẽ tốt đẹp hơn. Có thể nhờ
người có kinh nghiệm thiêng liêng cùng nhận định
với ḿnh, bằng cách chia sẻ kinh nghiệm xét gẫm
cho họ nghe, để họ giúp ḿnh t́m được
nguyên do đă làm ḿnh cầu nguyện không được,
cách chính xác và chắc chắn hơn.
Có thể do ḿnh thiếu quảng
đại với Chúa trong giờ cầu nguyện hay trong
cả ngày sống, mà ḿnh cầu nguyện không được
tốt.
Nếu ḿnh không cố gắng
tập trung để cầu nguyện, hoặc nếu
không xua đuổi ngay các chia trí đến trong giờ cầu
nguyện, không đặt Thiên Chúa lên trên hết, th́ cũng
khó cầu nguyện “tốt”.
Nếu trong ngày ḿnh không hy
sinh và kết hiệp với Thiên Chúa liên lỉ, th́ cũng
khó cầu nguyện. Để dễ dàng cầu nguyện,
con người cần luôn kết hiệp với Thiên Chúa
trong suốt ngày sống.
Do c̣n bám víu vào tạo vật (t́nh cảm lệch lạc)
Có
thể do c̣n bám víu vào một tạo vật nào đó, mà ḿnh
cầu nguyện không được “tốt”.
Khi
ta c̣n đặt một tạo vật nào trên hoặc bằng
Thiên Chúa, dù ư thức hay không ư thức, th́ cũng khó cầu
nguyện. Như vậy nếu ḿnh cầu nguyện không
được, hăy xem ḿnh có cố gắng quảng đại
hết sức để cầu nguyện chưa; nếu
đă cố gắng “hết sức” rồi mà vẫn cầu
nguyện không được, th́ xem ḿnh c̣n quyến luyến
điều ǵ cách lệch lạc không, và khi nhận ra th́
hăy quảng đại để chỉnh đốn lại.
Một
người có thể không cầu nguyện được,
v́ họ nhận thức sai lầm: họ tưởng rằng
cầu nguyện được hay không là do sức con
người. V́ vậy, Thiên Chúa có thể để họ
cầu nguyện không được, nhằm giúp họ nhận
ra một sự thật: “cầu nguyện được,
là một ơn Thiên Chúa ban cho con người”.
Một người có thể
bị sầu khổ thiêng liêng mà không phải do lỗi của
họ (LT.322b).
Nếu ḿnh cầu nguyện
không được, bị sầu khổ thiêng liêng, mà không
tại lỗi ḿnh, th́ hăy kiên tŕ và quảng đại. Lúc
đó chủ quan ḿnh thấy ḿnh cầu nguyện không
được tốt lắm, nhưng khách quan th́ vẫn tốt,
v́ lúc đó Thiên Chúa đang tôi luyện ḿnh, Ngài tập cho
ḿnh đến với Ngài v́ chính Ngài chứ không phải v́
ḿnh được an ủi; tuy chủ quan ḿnh thấy ḿnh
cầu nguyện không được sốt mến,
nhưng khách quan th́ ḿnh vẫn trưởng thành hơn về
đức tin đức cậy và đức mến.
Có thể xảy ra là trong một
thời điểm một người cảm thấy ḿnh
bị cám dỗ nhiều về một điều ǵ
đó, và thường đó là điểm yếu của
ḿnh, th́ người đó nên xét ḿnh để t́m coi nguyên
nhân tại sao.
Do thiếu dứt khoát chống trả hoặc thiếu t́nh yêu
Có
thể bởi v́ ḿnh thiếu dứt khoát trong việc chống
trả với chước cám dỗ , và như vậy t́nh
yêu của ḿnh đối với Thiên Chúa đă bị giảm
sút.
Trong
trường hợp này hăy xin lỗi Chúa, và bắt đầu
sống quảng đại hơn với Chúa trong từng
giây phút sống.
Cũng là dịp để lập công, để nên thánh hơn
Khi
c̣n sống trong thân xác, chúng ta c̣n bị cám dỗ và thử
thách; những cám dỗ đó có thể là những dịp
để chúng ta diễn tả t́nh yêu của ḿnh với
Thiên Chúa cách cụ thể hơn.
Không
ai được miễn trừ khỏi bị cám dỗ
và thử thách:
· Đức Yêsu không chỉ
bị cám dỗ trong hoang địa (Mt.4,1-11), Ngài c̣n bị
thách thức để làm những phép lạ từ trời,
bị cám dỗ và thử thách trong vườn dầu
(Mc.14,32tt),bị thử thách cả về đức tin ngay
trên thập giá (Mc.15,34);
· Đức Maria không chỉ
thưa tiếng xin vâng trong biến cố truyền tin
(Lc.1,26tt), nhưng c̣n thưa tiếng xin vâng trong suốt cuộc
đời, đặc biệt trong biến cố Mẹ
đứng dưới chân thập giá;
· Thánh Phaolô đă ba lần
xin Chúa cất cái dằm ra khỏi xác thịt Ngài, nhưng
Ngài được trả lời “ơn Ta đủ cho
con” (2Cor.12,7-9).
Thử
thách và cám dỗ trong cuộc sống tại thế, là thuộc
thân phận làm người của chúng ta; chúng ta hăy chấp
nhận, và can đảm đương đầu đểø
vượt qua. Chúa không miễn trừ cho chúng ta khỏi bị
cám dỗ, nhưng Chúa bảo đảm rằng nếu
chúng ta tin tưởng và cậy dựa vào Ngài, th́ chúng ta sẽ
chiến thắng: “Các con hăy tin tưởng, Ta đă thắng
thế gian” (Yn.16,33).
Xét
ḿnh để nhận ra những hồng ân Thiên Chúa đă
ban cho ḿnh, cũng như những lỗi lầm ḿnh đă
phạm, để tạ ơn và xin lỗi Thiên Chúa, để
sống tốt hơn.
Xét ḿnh là việc thiêng liêng rất
quan trọng, nếu muốn tiến bộ không ngừng
trong đời sống thiêng liêng và thân thiết với
Thiên Chúa mỗi ngày hơn.
Theo
thói quen người ta vẫn cho rằng xét ḿnh chỉ nhằm
nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm của
ḿnh để ăn năn sám hối; tuy nhiên việc nhận ra những ơn lành Thiên
Chúa ban cho ḿnh trong đời sống thường ngày rất
quan trọng, để luôn sống trong ư thức và tâm t́nh
Thiên Chúa luôn yêu thương và hiện diện với ḿnh.
Nhận
ra những hồng ân Thiên Chúa ban cho ḿnh, là dấu chỉ của
một đời sống thiết thân với Thiên Chúa. Càng nhận biết hồng ân
Thiên Chúa, càng thuộc về Thiên Chúa hơn.
Nhận
ra những lỗi lầm của ḿnh để sửa
đổi, là điều chính yếu của việc xét
ḿnh.
Trong
xét ḿnh, chúng ta không chỉ nhằm nhận ra những lỗi
lầm khuyết điểm của ḿnh, nhưng c̣n nhận
ra những khuynh chiều tàng ẩn của ḿnh, để
có thể tránh được những lỗi phạm nghiêm
trọng hơn! Tại sao tôi làm điều này chứ không
phải điều kia, ngay cả khi điều tôi làm
chưa phải là tội? Cái tàng ẩn hay khuynh chiều
đằng sau hành động đó là ǵ?
Tại
sao tôi hay bị cám dỗ về điều này? Tại sao
tôi bị cám dỗ về điều này dai dẳng và mănh
liệt như vậy? Phải chăng v́ tôi chưa có thái
độ hay lập trường dứt khoát với điều
này (với khuynh chiều này, với tội này)? Hay tại v́ t́nh yêu của tôi với
Thiên Chúa đă bị phai lạt và giảm sút? Tôi cần nhận
ra những điều đó, để có quyết định
và thái độ cụ thể nhằm tiến bộ
hơn nữa trong đời sống thiêng liêng.
Nếu
có nhiều giờ cho việc xét ḿnh, th́ sau khi đă nhận
ra những hồng ân Thiên Chúa ban và những lỗi lầm
ḿnh đă phạm mất ḷng Thiên Chúa, chúng ta nên dùng thời
gian c̣n lại để nói chuyện thân thưa với
Thiên Chúa dựa vào những hồng ân và những lỗi lầm
của ḿnh. Đây là những phút cầu nguyện dựa
vào đời sống ngày qua của ḿnh.
HOME LỜI CHÚA ĐỨC TIN LINH ĐẠO THẦN HỌC ĐỜI SỐNG IN
ENGLISH VỀ TÁC GIẢ
Sách Linh Thao Tự Thuật Của Thánh Inhaxiô
Như
Thấy Đấng Vô H́nh Hiện Tại Mới Quan Trọng Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn Bạn Đường Của Người Làm Linh Thao Linh Thao Mười Ngày Linh
Thao Trong Cuộc Sống Đặc Sủng Ḍng Tên
Để
Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn HPH1 HPH2 HPH3 HPH4 HPH5
[1] Quan niệm
dân gian Việt
[2] Có người nghĩ rằng nếu Thiên Chúa biết rơ con người sẽ chống lại Ngài th́ con người đâu c̣n tự do nữa! Trước vấn nạn này chúng ta cần xác định rơ: Thiên Chúa muốn, Thiên Chúa biết, nhưng con người vẫn tự do. “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lư”(1Tm.2,4): Thiên Chúa không muốn con người phạm tội nhưng con người vẫn có thể phạm tội v́ con người tự do. Thiên Chúa toàn năng toàn tri, nhưng con người vẫn tự do. Hai mệnh đề trên không mâu thuẫn nhau!
[3] “Lạy Thiên Chúa, sao Ngài nỡ bỏ con?” (Mc.15, 34)
“Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc.23,46).
[4] “Thầy sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các con luôn măi”(Yn.14,16).
[5] “Yêu là cùng nh́n về một hướng”
T́nh yêu bao hàm t́nh bạn: vợ chồng gọi nhau là “bạn đời”.
[6] Các bước gợi ư cho một lần cầu nguyện:
1. Sau khi đă chọn địa điểm tốt nhất để cầu nguyện như ḿnh thấy, đến chỗ đó, và ư thức ḿnh hiện diện trước Thiên Chúa Ba Ngôi, rồi kính cẩn chào Chúa (diễn tả với thân xác nếu không có ǵ ngăn trở).
2. Xin Chúa Cha ban Thánh Thần của Chúa Yêsu Phục Sinh cho ḿnh , để Ngài thanh tẩy ḿnh, để Ngài giúp ḿnh bỏ những vướng bận đặc biệt trong giờ cầu nguyện này, và xin Ngài giúp ḿnh gặp gỡ Thiên Chúa.
3. Đặt khung cảnh (v́ thân phận con người, chúng ta đến với Thiên Chúa qua những ǵ hữu h́nh).
4. Ơn xin (Mỗi bài cầu nguyện đều có ơn xin; Thao viên cần khao khát điều này trước khi xin).
5. Điểm
6. Tâm sự với Chúa (Sau mỗi điểm, chúng ta nên tâm sự với Chúa, chứ không nhất thiết phải chờ đến cuối giờ cầu nguyện, v́ các điểm gợi ư chỉ là phương tiện giúp chúng ta gặp gỡ và tâm sự cùng sống hạnh phúc với Chúa ).
[7] Gợi ư giúp xét gẫm:
1. Tôi được ǵ trong giờ cầu nguyện vừa qua?
B́nh an? Thư thái hạnh phúc? Sốt sắng? Được đánh động ở điểm ǵ nhất? Được ơn ǵ đặc biệt?
2. Tôi có hài ḷng với giờ cầu nguyện không?
3. Nguyên do làm tôi không hài ḷng lắm với giờ cầu nguyện?
· Bị chia trí? Chia trí về điều ǵ? Nó có phản ánh một vướng bận hay quyến luyến lệch lạc của tôi không?
· Thiếu quảng đại? Do thiếu t́nh yêu?
· Mất b́nh an? Dấu chỉ có trục trặc cần sửa chính ḿnh?
4. Tâm sự với Chúa dựa vào những ơn ḿnh nhận được hay do những lỗi lầm ḿnh mắc phải.
[8] Giờ cầu nguyện không tốt, tốt, hay tốt lắm, là đánh giá chủ quan hay khách quan của người cầu nguyện hay của người hướng dẫn.
[9] Gợi ư giúp xét ḿnh:
1. Ư thức ḿnh hiện diện trước nhan Chúa và kính cẩn chào Chúa
2. Xin Thiên Chúa ban Thánh Thần để Ngài giúp ḿnh ...
3. Ơn lành
· Xin ơn nhận ra những ơn lành ḿnh đă nhận lănh từ lần xét ḿnh lần trước cho tới bây giờ
· Xét ḿnh để nhận ra những ơn lành đă lănh nhận
· Tạ ơn Chúa
4. Lỗi lầm
· Xin ơn để nhận ra những lỗi lầm khuyết điểm
· Xét ḿnh để nhận ra lỗi lầm của ḿnh từ lần xét ḿnh lần trước cho tới bây giờ
· Ăn năn thống hối xin lỗi Chúa
5. Tâm sự thân thưa với Chúa dựa vào những ơn lành ḿnh đă nhận và những lỗi lầm khuyết điểm ḿnh đă phạm.