DÒNG
MÁU DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRONG
CON NGƯỜI HỒ CHÍ MINH
Trên giang sơn đất nước Việt Nam,
dân tộc Kinh ( tức người Việt ) là sắc dân chính. Ngoài
ra có chừng trên 60 sắc dân thiểu số như Mèo, Mán. Mường.
Thái, Nùng, Thượng v...v cùng sống chung trên mảnh đất hình
chữ S thân yêu này. Dân tộc thiểu số có tiếng nói và tập
tục riêng biệt , đặc thù của riêng họ. Những nếp sống
đặc thù đó đã tô điểm thêm hương hoa, giàu đẹp cho quê
hương gấm vóc Việt Nam.
Ðối với con người Hồ chí Minh,
ai cũng biết cha ông là Nguyễn sinh Sắc, một người Kinh,
và bà Hoàng thị Loan. Mới đầu ai cũng tưởng bà mẹ Hoàng
thị Loan là người Việt nhưng sau này có những tin tức từ
trong nước đưa ra cho biết bà Hoàng thị Loan là người Mường
chứ không phải là người Việt thuần túy như cha của Hồ
chí Minh. Như vậy Hồ chí Minh mang một nửa dòng máu Mường
trong người. Yếu tố mang nửa dòng máu thiểu số không nói
lên khuynh hướng tốt , xấu của con người Hồ chí Minh, nhưng
nó cũng cho thấy những sinh hoạt trong cuộc đời Hồ chí
Minh có những điểm giống với người dân tộc thiểu số.
Và đó là mục đích của bài viết này.
Sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài
( Hồ chí Minh rời Sài Gòn bằng công việc làm bồi tàu trên
một chiếc thương thuyền của Pháp năm 1911) và trở lại
Việt Nam vào đầu thập niên 1940.
Chuyện đầu tiên khi về nước
hoạt động là Hồ chí Minh chọn nơi trú ẩn là hang Pắc
Bó . Chuyện thích ở hang , động cũng là đặc tính của người
thiểu số. Ðây là yếu tố đầu tiên nói lên vết tích thiểu
số trong con người Hồ chí Minh.
Nguyển chí Thiện có mấy câu thơ
khá hay nói đến chuyện Hồ chí Minh ở hang Pắc Bó:
Hang Pắc Bó hóa thành hang ác
thú
Bác Hồ già hóa dạng bác Hồ
ly
Ðôi dép lốp nặng bằng trăm
đôi dép sắt
Bộ ka-ki vàng, vàng như mắt
dân đen
Quỷ quái đê hèn , lừa đảo.
( Trích từ bài thơ " Ðồng lầy
" )
Về nước hoạt dộng cách mạng,
nhưng Hồ chí Minh đã bắt đầu có những liên hệ tình cảm
với một người đàn bà Tày thiểu số mà sau này dư luận
cho là mẹ của Tồng bí thư Nông đức Mạnh. Bà Nhàn ( San
Francisco) trong một bài viết nhan đề " Ai là mẹ của Nông
đức Mạnh " viết vào tháng 5-2004 đã truy cứu một số tài
liệu để nói về người tình nhân thiểu số đầu tiên của
Hồ chí Minh sau khi về nước hoạt động. Dĩ nhiên là người
có máu dân tộc thiểu số, Hồ chí Minh có khuynh hướng chọn
con gái, đàn bà thiểu số để làm bạn tình. Bài viết của
bà Nhàn có những đoạn chi tiết về mối tình này như sau:
" Ðịa thế hang Pắc Bó lại thông
ra một con đường kín đáo dẫn sang bên kia bên giới.. Cũng
tại nơi đây Hồ chí Minh lại có một mối tình mà ít ai
đề ý đến và ngay những tài liệu trước đây cũng không
hề nhắc đến. Nhân chuyện Cộng sản Việt Nam dâng đất,
nhượng biển cho Trung Cộng, các anh chị em trong nhóm " Câu
lạc bộ sinh viên Việt Nam" ngày 24—2 – 2002 đã viết một
bài có tựa đề " Cột mốc 108 và một câu chuyện tình "
( Trong Bạch thư tố cáo Việt Cộng hiến đất dâng biển
cho Trung Cộng trang 348, 349). Mục đích của bài viết nhấn
mạnh cột mốc 108 biên giới Việt – Trung để chúng ta có
dịp so sánh địa điểm này giữa hai thời điểm 1941 và 1999.
Thế nhưng cột mốc biên giới đánh số 108 này cũng đã ghi
lại dấu viết đầu tiên của Hồ chí Minh khi trở về nước
và đã có một cuộc tình với một cô gái người Tày thiểu
số họ Nông.
Vào năm 1941 Nông thị Ngát , còn
có biệt danh là Nông thị Trưng ( tên do " Bác " Hồ dặt cho
) là một cô gái tuổi đôi mươi người Tày rất đẹp có
duyên nhưng lại mù chữ. Vốn trực thuộc cơ quan chi bộ phái
của Trung Hoa Cộng sản do Ðảng tuyển chọn và huấn luyện
để làm giao liên cho Hổ chí Minh, Nông thị Trưng liên tục
được Hồ chí Minh huấn luyện, bồi dưỡng, xóa dần mù
chữ và thế là một chuyện tình có thể đã xảy ra vào những
năm tháng này.
Trên tờ Xuân phụ nữ năm Ðinh
Sửu 1997 xuất bản trong nước có bài viết tựa để " Cô
học trò nhỏ của Bác Hồ" được tác giả Thiên Lý viết
theo lời kể của chính đương sự Nông thị Trưng, đã cho
thấy có sự gắn bó rất thắm thiết giữa cô gái Tày tuổi
đôi mươi với người đàn ông 51 tuồi trong cái hang Pắc
Bó gần cột mốc 108 này. Sau đây là nguyên văn bài viết
:
" Tháng 7 năm 1941, được tin Châu
Hà Quãng đưa lính cơ tới bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra
rừng, rồi được Châu Ủy đem qua Bình Mãng ( Trung Quốc )
lánh nạn tại nhà một đảng biên Ðảng Cộng sản Trung Quốc.
Một hôm đồng chí Lê quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ
Trung Quốc về Pắc Bó gặp Bác. Về Pắc Bó thì đã nửa
đêm, anh Ðại Lâm người giữ trạm đầu nguồn đưa ngay
chúng tôi đi gặp ông " Ké"
Lội ngược suối càng đi nước
càng sâu, khi đến thác thứ ba, anh Ðại Lâm thổi sáo, từ
trên thác có thang tre thả xuống. Trèo thang lên, thấy một
cái lán dựng ngay trên bờ suối. Trong lán có ông cụ ngồi
đọc sách. Tôi chắp tay, " Cháu chào cụ ạ". Ông cụ nhìn
lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo, " Cháu đến rồi à, cháu
ngồi xuống đây nói chuyện." Tôi nhìn xuống sàn , thấy toàn
cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi.
Cụ tỉ mỉ hỏi gia cảnh, rồi khuyên tôi, " Từ nay cháu đã
có một gia đình lớn là gia đình cách mạng, đừng luyến
tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn cũng không
đủ để nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước
rồi từng gia đình sẽ được đàng hoàng. Từ nay ai hỏi
thì cháu nói cháu là cháu chú Thu, tên Trưng ." Bác đặt tên
ấy là muốn tôi noi theo gương Hai bà Trưng.
Từ đấy tôi ở lại lán anh Ðại
Lâm, mỗi ngày vào lán của Bác một giờ để học tập. Bác
dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện Cộng sản chủ
nghĩa đến cả cách ứng xử thường ngày như " Ðừng làm
một việc gì khiến dân mất lòng tin. Mượn một cái kim,
một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba-lô, nếu
có màn, phải để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng
lòng mới đem vào. Cháu là nữ, trước bàn thờ có cái giường
các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được ngồi. Tám tháng được
Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm họ lý
luận tập trung sau này. Bà Nông thị Trưng ngừng kể để
uống nước. Tôi để ý thấy ngôi nhà yên vắng lạ, không
có dấu hiệu một người thứ hai ngoài chủ nhân sống ở
đây. Ðồ vật trong nhà chỉ có chiếc giường, bộ bàn ghế
gỗ thường, chiếc xe đạp và cái tivi đen trắng cũ kỹ.
Nhân đang vui chuyện, tôi hỏi về
gia đình bà, chồng bà là một cán bộ Việt Minh, cùng hoạt
dộng những năm 1930, đã mất năm 1986. Có được bốn con
trai , một gái, nay đã ở riêng. Bà sống đơn chiếc, tự
" phục vụ " hoàn toàn. Người phụ nữ giàu nghị lực ấy
đã trải qua nhiều thời kỳ gian khổ trong kháng chiến, vừa
hoạt động, vừa nuôi con. Thậm chí, có lúc quá khó khăn
đã phải ngưng công tác. Và cũng chính Bác Hồ đưa người
nữ cán bộ miền núi ấy trờ lại với công tác.
Trong dịp họp Quốc hội đầu tiên
sau khi hòa bình lập lại, Bác mới các đại biểu Cao Bằng
tới ăn cơm, thăm hỏi mọi cán bộ cơ sở cũ, và không quên
hỏi thăm cô họ trò nhỏ ở Pắc Bó, " Trưng bây giờ làm
gì , ở đâu? " Khi nghe trả lời, " Thưa Bác, chị Trưng nghỉ
ở nhà.". Bác đổi sắc mặt, trách, " Tại sao trước cách
mạng khó khăn thế, nó vẫn hoạt động mà bây giờ lại
nghỉ, các chú phải tìm hiểu rõ chứ ". Về sau, mỗi khi có
dịp, Bác đều cử người gặp trực tiếp bà Trưng hỏi xem
bà có gặp khó khăn gì để giúp đỡ.
Bác còn có cả một bài thơ tặng
người học trò nhỏ của mình. Bà Trưng kể, " Hồi ấy giữa
năm 1943, Bác mới ra khỏi nhà tù Tưởng giới Thạch, trở
về ở trong một cái lán dưới chân núi, Một hôm Bác cho
gọi tôi đến, đưa cho một quyển vở và bảo rằng " Bác
vừa dịch xong quyển Binh Pháp Tôn Tử. Bác cho cháu." Tôi giở
ra, thấy ở bìa trong có bốn câu thơ viết bằng mực Tàu:
Vở này ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là
Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nước non nhà
Tiếc thay, trong những năm kháng
chiến, không có điều kiện bảo quản, quyển vở quí ấy
đã bị mối xông mất"
Bài viết chấm dứt ở đây.
Vừa gặp nhau lần đầu, người
con gái Tày chấp tay, " Cháu chào cụ ạ " Có lẽ tiếng " cụ
" nghe không " êm ái " lắm nên Hồ chí Minh dặn dò, " Từ nay
ai hỏi, thì cháu nói cháu là cháu chú Thu, tên Trưng." Và bí
danh " Già Thu" và " Nông thị Trưng " được khai sinh từ đó.
Từ trước đến nay, ông Hồ vẫn tự xưng mình là Bác với
tất cả mọi người, riêng đặc biệt chỉ có mỗi một mình
Nông thị Ngát là được làm " cháu" của " Chú Thu " mà thôi.
Qua lời kể trên đây thì tình cảm
của " chú Thu " dành cho " cháu Trưng" rất đậm đà thắm thiết
" mỗi ngày một giờ liên tục như thế gần một năm trời
từ tháng 9- 1941 cho đến 13- 8 – 1942 thì lớp dạy kèm chấm
dứt ". " Chú Thu " qua Trung Quốc bị bắt, ra tù trở về lại
Cao bằng, tìm lại cô học trò xưa, tặng nàng một bài thơ
bằng cách viết vài dòng trên quyển " binh thư " và kể từ
đó xa nhau nhưng " chú Thu " vẫn theo dõi và tận tình giúp
đỡ cho " cô học trò nhỏ" của mình.
Tin từ nhóm " Câu lạc bộ sinh viên
" cho biết thì " Kể từ đó Nông thị Ngát đã vắng mặt
khá lâu tại vùng biên giới này. Mười năm sau Nông thị Ngát
bỗng nhiên được ưu đãi đặc biệt để trở thành chánh
án tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng. Người ta đặt câu hỏi
việc gì đã xảy ra trong những năm tháng đó, Nông thị Ngát
đã đóng góp gì mà chỉ sau 10 năm trở thành tỉnh ủy viên,
ủy viên ban chấp hành trung ương và là người đứng đầu
ngành hành pháp tại một tình xung yếu phía Bắc ? "
Như đã biết, tại Việt Nam không
có tự do báo chí, tất cả nằm trong tay Ðảng. Nhà báo Kim
Hạnh, Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, đã bị mất chức chỉ
vì đăng tin Hồ chí Minh khi còn trẻ đã có một người vợ,
kèm theo đăng lá thư bằng tiếng Hán Hồ chí Minh gửi cho
người vợ này. Vì sự thật đã không được phơi bày nên
người dân chỉ còn biết đặt nghi vấn là tại sao Nông thị
Ngát lại được ưu đãi như thế ? Tại sao tiểu sử Nông
đức Mạnh chỉ ghi " con một nhà cách mạng lão thành " ? Còn
cô học trò nhỏ của Bác thì chỉ hé mở chồng cô là " một
cán bộ Việt Minh cùng hoạt động trong những năm 1930 ? Tại
sao phải dấu tên tuổi như vậy ?
Gần đây hơn và đáng tin cậy nhất
là tác giả William Duiker tưởng thuật lại trong cuốn sách
viết về Hồ chí Minh ( tái bản lần thứ hai ) về chuyện
Nông đức Mạnh nói với ông rằng, " Mẹ tôi, thành viên của
dân tộc thiểu số, đã phục dịch cho ông Hồ vào những
năm đầu tiên của thập niên 1940 .."..
..Xem như thế thì câu chuyện Nông
thị Ngát là một nghi vấn có nhiều khả năng xác thật để
trả lời cho câu hỏi : " Ai là mẹ của Nông đức Mạnh vậy
?
Bà Nhàn ( San Francisco)
Bắc Cali tháng 5 – 2004
Kể từ khi lên nắm chức Tổng
bí thư Ðảng Cộng sản Việt Nam, Nông đức Mạnh thường
bị các nhà báo ngoại quốc hỏi ông có phải là con của
Hồ chí Minh hay không? .. Báo chí trong nước thì đuong nhiên
không dám phạm thượng hỏi câu hỏi này! Mạnh chối bai bải
và nói rằng cha ông có lên là Nông văn Lai và mẹ là Hoàng
thị Nhị. Ông khôn khéo giả lả cho là " dân Việt Nam thì
ai cũng là con cháu Bác Hồ". Dĩ nhiên đứng trong vị thế
của ông thì ông phải chối bằng mọi giá vì trong mấy mươi
năm qua , guồng máy tuyên truyền của Ðảng đã tô vẽ Hồ
chí Minh cả cuộc đời hy sinh cho nước cho dân nên không có
vợ con.. Chẳng lẽ giờ phút này lại khai ra Hồ chí Minh có
con rơi là Nông đức Mạnh ! Tiếc rằng Mạnh không đưa ra
nổi một tờ giấy khai sinh và một tấm hình chụp chung với
mẹ và cha của Mạnh. Dấu diếm bao giờ cũng là nghề ruột
của bọn Cộng sản nên Nông đức Mạnh không dám nhận Hồ
chí Minh là cha cũng như cha của Hổ chí Minh là Nguyễn sinh
Sắc không dám nhận Hồ sĩ Tạo là cha. Ðúng là cái dòng
gian dâm nên cứ gian dối dấu diếm mọi ngươi chung quanh về
cha mẹ ruột của mình.
Theo Bùi Tín, trong một bài viết
nhan đề " Không thể để bất công kéo dài đến vậy " cho
biết rằng " Chính ông Hồ sĩ Tạo mới là người cha huyết
thống của ông Nguyễn sinh Sắc, là ông nội thật sự của
ông Hồ chí Minh. ông Hồ sĩ Tạo sinh năm 1834 và mất năm
1907, quê làng Quỳnh Ðôi huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, đỗ Giải
Nguyên khoa Mậu Thìn ( 1868) , làm quan , dạy học, có tiếng
văn hay chữ tốt cả một vùng Nghệ Tĩnh, tiếng vang trong
Kinh, ngoài Bắc, quan hệ xã hội rất rộng. Ông lại hào hoa
phong nhã, thích ngâm thơ vịnh nguyệt, mê ca trù, nhiều vợ,
đông con. ông yêu mến cô Hà thị Hy quê làng Sài huyện Nam
Ðàn, xinh đẹp hát hay. Ông lại dạy học ngay trong nhà cô.
Hồng nhan bạc mệnh , người tình của cô Hy là oHồ sĩ Tạo
tài hoa bao nhiêu thì chồng trên danh nghĩa của cô là ông Nguyễn
sinh Nhậm yếu kém nhạt nhẽo bấy nhiêu. Ông Nhậm chết sau
khi lấy bà Hy chừng 3 năm. Phận làm mọn thời ấy thật cực
nhục, cả họ Nguyễn Sinh khinh thị hất hủi hai mẹ con bà.
Bà phải bỏ nhà, bỏ con ra đi. May là khi bà chết, có người
thương xót mang xác bà về quê và chính ông Hồ sĩ Tạo lại
tổ chức chôn cất và đọc điếu văn cho bà.
Chính ông Hồ sĩ Tạo đã chăm lo
bồi dưỡng cho " đứa con hoang Nguyễn sinh Sắc " của mình
thành danh, qua sự gửi gắm ở những học trò cũ của mình
đã thành thầy giỏi và quan chức có thanh thế trong triều
đình như ông Cao xuân Dục. Ông Nguyễn sinh Sắc đỗ Phó Bảng
năm Tân Sửu ( 1901) và sau đó vào Huế nhận chức Thừa biện
bộ Lễ. "
Bùi Tín có lẽ cũng lấy những
dữ kiện về Nguyễn sinh Sắc từ bài viết " Lời truyền
miệng dân gian .." trong cuốn sách xuất bản ở hải ngoại
" Trong cõi "của sử gia Trần quốc Vượng nói rõ chi tiết
chuyện gian dâm của ông nội thật của Hồ chí Minh là Hồ
sĩ Tạo ( 1).. Phải nhận sử gia Trần quốc Vượng là một
người rất can đảm vì trong khi bộ máy nhà nước Việt Cộng
vinh danh Hồ chí Minh như một ông thánh sống mà Trần quốc
Vượng dám khui bí ẩn thâm cung bí sử không được đẹp
đẽ lắm của dòng họï Hồ chí Minh,, Nghe nói sau bài viết
này, sử gia Trần quốc Vượng bị chế tài khá nhiều ở
trưởng đại học nơi ông giảng dạy.
Hồ chí Minh có mặt trên cõi đời
này từ sự gian dâm của ông nội Hồ sĩ Tạo. Có lẽ vì
là sản phẩm của một vụ gian dâm nên suốt đời ông Hồ
lúc nào cũng gian trá, gian ác, gian dối và gian dâm. Ông đúng
là một loại gian hùng của thời đại. Thường thường những
đứa con rơi từ những vụ gian dâm bao giờ tính tình cũng
láu cá, thiếu thành thật . Ông Hồ chí Minh cũng không ngoài
ngoại lệ đó. Phải nói là ông giỏi tài đóng kịch. Lúc
cần cười thì cười, cần khóc là ông có thể khóc ngay như
một diễn viên điện ảnh chuyên nghiệp. Vì có tánh gian dối
như vậy nên những người phụ nữ đến với ông nói chung
đều chịu cảnh bất hạnh, không hưởng được hạnh phúc
dài lâu với con cáo già chuyên nghề gian dối này. Từ Nguyễn
thị Minh Khai cho đến người vợ Tàu Tăng tuyết Minh và sau
đó đến hai phụ nữ thiểu số Nông thị Ngát và Nông thị
Xuân. Ông không có tính lương thiện và chung thủy trong tình
yêu nên những người đàn bà đi qua đời ông đều gặp phải
chuyện tình " không đoạn kết". Ông rõ ràng đã gây nhiều
đau khổ cho những phụ nữ đi qua đời ông.
Chuyện tình của ông Hồ với Nông
thị Ngát ( Trưng ) là một chuyện tình dấu diếm, không đẹp
đẽ những cũng không đến nỗi xấu xa. Kết quả của cuộc
tình này là sự ra đời của Nông đức Mạnh, hiện đang nắm
chức vụ Tổng bí thư Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Nông đức Mạnh coi như cũng có một nửa dòng máu thiểu số
Tày trong người như cha Mạnh là Hồ chí Minh có một nủa
dòng máu Mường trong người. Hồ chí Minh từng tuyên bố "
Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ra phải cố
công giữ nước " . Nhưng mỉa mai thay đứa con rơi Nông đức
Mạnh hiện nay cùng chung với bọn phản quốc Lê khả Phiêu,
Lê đức Anh, Ðỗ Mười.. vv lại cam tâm bán nước cho Trung
Cộng để mong Trung Cộng bảo hiểm cho ngôi vị quyền lực
của chúng. Ðúng là Hổ phụ sinh cẩu tử ! Triều đại hồ
chí Minh chắc rồi sẽ chấm dứt bằng chế độ của đứa
con rơi tài hèn trí đoản Nông đức Mạnh.
Sau người con gái thiểu số Nông
thị Ngát là đến phiên một người con gái thiểu số khác
là Nông thị Xuân. Số phận của Nông thị Xuân thê thảm
hơn Nông thị Ngát rất nhiều. Nông thị Xuân là một cô gái
Tày ở làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng. Cô Xuân được Trần đăng Ninh, đưa về Hà nội nhằm
làm công việc " hộ lý ‘ cho ông Hồ. Bây giờ người ta
mới hiểu chữ Hộ lý ngoài nghĩa chăm sóc sức khỏe còn
lo luôn chuyện phục vụ sinh lý ! Cô được giao cho Bộ trưởng
Công an Trần quốc Hoàn quản lý và cư ngụ tại số 66 phố
Hàng Bông thợ nhuộm. Hàng tuần cô Xuân được đưa vào phục
vụ cho ông Hồ chừng 1, 2 lần. Kết quả của sự phục vụ
sinh lý này là cô Xuân sinh hạ một bé trai năm 1956. Bé được
đặt tên là Nguyễn tất Trung.
Sau khi có con cô Xuân đòi ông Hồ
nên công bố công khai mọi chuyện. Ông Hồ trả lời cô Xuân
rằng ông không thể tự mình quyết định việc này mà còn
phải chờ sự chấp thuận của bộ chính trị , mà theo lời
của anh thương binh người yêu của cô Vàng, em cô Xuân , là
những ông Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng quốc Việt.
Có hai cách giải thích về lối
trả lời không chịu công khai hóa chuyện tình cảm của ông
và cô Xuân.
Có thể ông là một tên sở khanh,
sau khi hưởng thú vui xác thịt với cô Xuân rồi bây giờ
tính chuyện " quất ngựa truy phong" nên tìm đủ mọi lý do
để không chịu công khai hóa chuyện tình cảm theo lời yêu
cầu của cô Xuân. Lý do ông nại ra chờ sự chấp thuận của
Bộ chính trị chỉ là một cái cớ, một phương cách chống
chế và hòa hoãn mà thôi.
Có thể sự thật là ông có bị
bộ chính trị khống chế và không có quyền hành để quyết
định chuyện tình cảm riêng tư của mình. Ai đã sống ở
Việt Nam thì cũng thấy chế độ Cộng sản vinh danh ca tụng
ông như ông thánh. Người ta nghĩ ông tập trung mọi quyền
hành trong tay. Sự thật không phải vậy. Ông đã bị nhóm
Lê Duẩn và Lê đức Thọ khống chế trong những năm cuối
đời.
Sử gia pháp Pierre Brocheux trong cuộc
phỏng vấn với đài BBC ngày 28 tháng 10 năm 2003 đã nhận
định về sự thất thế của Hồ chí Minh vào lúc cuối đời
như sau:
" Hồ chí Minh đã đưa chủ nghĩa
Cộng sản vào Việt Nam nhưng con người và tính cách của
ông ấy phức tạp hơn vậy. theo nghiên cứu của tôi thì cả
một giai đoạn trước khi qua đời , ông Hồ bị cách ly
khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì. Ông ấy
bị biến thành một biểu tượng. Vì thế cuốn sách của
tôi còn có một tựa đề nữa là, " Hồ chí Minh, một nhà
cách mạng biến thành một biểu tượng". Ý tôi muốn nói
ông bị người ta biến thành một biểu tượng không có quyền,
một biểu tượng yếu về quyền lực."
Bà Judith Stowe, trong bài viết " Chủ
nghĩa xét lại ở Việt Nam " đọc ở hội nghị ÂS ở Washington
DC vào tháng 3 năm 2008 có nói đến cuộc phỏng vấn của bà
với ông Hoàng minh Chính vào tháng 2 năm 1995, trong đó ông
Chính có nói đến chuyện Trường Chinh thú nhận năm 1963,
ông Hồ chí Minh đã bị " vô hiệu hóa ".
Ðó là cái nhìn của các sử gia
nước ngoài về sự mất quyền lực của Hồ chí Minh, Còn
dư luận trong nước cũng không có gì khác hơn. Hoàng văn Hoan
sau khi trốn chạy sang Trung Cộng cũng đã ra thư ngỏ tố cáo
lê Duẩn lấn quyền và sửa di chúc Hồ chí Minh vào những
năm cuối đời. Nguyễn văn Trấn thì trong cuốn sách " Viết
cho mẹ, quốc hội " cũng có kể chuyện Bùi công Trừng kể
cho ông Trấn nghe trong một buồi họp, Lê đức Thọ đã "
xài xể " " Hồ chí Minh như thế nào. Và Vũ Kỳ trong một
bài phỏng vấn với báo Xuân Nghệ An năm 1998 đã khéo léo
tố cáo âm mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ của
lê Duẩn và Lê đức Thọ ra sao ( Xin đọc hai bài "Bí
ẩn chung quanh chuyện Hồ chí Minh bị thất sũng lúc cuối
đời" và bài "Một cách lý giải về
chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền lực trong những năm cuối
đời." thì sẽ hiểu rõ thêm chi tiết mọi chuyện ." )
Cho nên chuyện Hồ chí Minh nói với
cô Xuân ông phải chờ sự chấp thuận của Bộ chính trị
về chuyện công khai hóa vấn đề tình cảm của ông với
cô Xuân có thể là có thật.
Hồ chí Minh rõ ràng không có được
quyền uy tuyệt đối như Fidel Castro ở Cuba hay Kim nhật Thành
ở Bắc Hàn. Nhưng có điều là chuyện ông mất quyền lực
có xảy ra trong thời gian cô Xuân có đứa con trai với ông
? Hay ông chỉ viện cớ mất quyền lực cho nên không công
khai hóa được chuyện tình cảm để chạy trốn trách nhiệm
làm chồng , làm cha?
Nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ không
muốn ông Hồ lấy vợ vì họ muốn ông thành một biểu tượng
đấu tranh , suốt đời hy sinh cho nước , cho dân nên không
lập gia đình. Có điều mỉa mai là trong khi Lê Duẩn không
cho ông lấy vợ thì bản thân Lê Duẩn có tới 3 vợ. Ôi !
đạo đức xã hội chủ nghĩa là một thứ đạo đức quái
đản mà con người khó lòng hiểu thấu !
Vào giai đoạn cuối, Bộ trưởng
Công An đã tới nơi cô Xuân ở và công khai hiếp dâm cô Xuân
theo lời kể của anh thương binh người yêu của cô Vàng,
em cô Xuân trong một lá thư gừi cho Nguyễn hữu Thọ. Ðây
là một chuyện khó hiểu vì khi làm như thế thì một là Trần
quốc Hoàn coi ông Hồ không ra gì nên mới thẳng tay " vùi
hoa dập liễu ‘ người yêu của ông Hồ, hai là ông Hồ cho
phép Trần quốc Hoàn làm chuyện tồi bại đó với cô Xuân
vì ông đã hưởng xong thú vui xác thịt. Hoàn toàn chưa có
câu trả lời rõ ràng trong chuyện khó hiểu này.
Sau những trò hiếp dâm tồi bại
thì vào ngày 11 tháng 2 năm 1957, Trần quốc Hoàn sai Tạ quang
Chiến đến rước cô Xuân, nói là đi gặp ông Hồ và sau
đó là án mạng thảm khốc xảy ra. Cô Xuân bị giết bằng
búa đánh vào đầu và cái chết được ngụy trang bằng một
tai nạn xe cộ.
Cho đến bây giờ người ta vẫn
không hiểu được Trần quốc Hoàn tự ý ra lệnh giết cô
Xuân hay nhận lệnh giết cô Xuân từ Hồ chí Minh? Hồ chí
Minh có phải ra lệnh thủ tiêu cô Xuân để đóng vai một
người lãnh đạo cả cuộc đời vì nước vì dân không gần
gũi đàn bà ? Liệu Hồ chí Minh quá bất lực vì yếu thế
đến nỗi nhìn đàn em giết vợ mình mà không đưa ra nổi
một lời phản kháng ? Cần có thêm nhiều nhân chứng lên
tiếng thì nguyên nhân vụ án giết người kinh tởm này mới
được sáng tỏ.
Ông Nguyễn minh Cần ( hiện ở Nga)
lúc đó là Phó bí thư thành ủy Hà Nội đã biết đến vụ
án giết người này và có viết bài sau này để nói rõ những
điều ông biết về vụ án. Nhà văn Vũ thư Hiên trong cuốn
hồi ký " Ðêm giữa ban ngày " cho biết thân phụ ông là cụ
Vũ đình Huỳnh ( nguyên bí thư của Hồ chí Minh) có dẫn ông
ra hiện trường và kể rõ vụ án giết người được che
giấu cho ông nghe. Vũ thư Hiên đưa ra nhận xét" Nông thị
Xuân là một bà hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử
Việt Nam". Ðó là một nhận xét chí lý. Nông thị Xuân bất
hạnh vì lấy phải quỷ vương Hồ chí Minh, một người luôn
gian dối và tàn bạo trong chính trị và luôn cả trong đời
sống tình cảm.
Cô Vàng, người em ở chung với
cô Xuân , bị thủø tiêu để bịt miệng khi về nguyên quán.
Riêng cậu bé Nguyễn tất Trung thì sau khi mẹ là Nông thị
Xuân bị thủ tiêu, bé được giao cho một ông tướng gốc
thiểu số Nùng là Chu văn Tấn nuôi. Sau lại giao lại cho ông
Vũ Kỳ ( nguyên là người hầu cận của Hồ chí Minh) chăm
sóc. Trung được lấy họ Vũ gọi là Vũ Trung. Trung năm nay
53 tuổi, đã lập gia đình và đang sống ở Hà Nội.
Khi về nước vào đầu thập niên
1940, ông Hồ là chủ tịch Ðảng Cộng sản, sau chiến thắng
Ðiện biên Phủ và chia đôi đất nước, ông làm chủ tịch
miền Bắc, ông dư điều kiện để chọn một cô gái người
Kinh để làm bạn tình, làm vợ. Nhưng ông toàn chọn con gai
thiểu số làm người yêu như Nông thị Ngát và Nông thị
Xuân. Chắc chắn nửa dòng máu Mường thiểu số trong con người
ông khiến ông chỉ thích con gái người dân tộc thiểu số.
Cái tạng con người ông như thế thì ông phải có ý thích
như thế thôi.
Năm 1954 về tiếp thu Hà Nội. những
đàn em trong Bộ chính trị của Hồ chí Minh đều kiếm những
villa rộng rãi do Pháp để lại làm nơi cư trú. Riêng Hồ
chí Minh thì cho xây dựng một cái ...nhà sàn để ở. Ai cũng
biết nhà sàn là một loại nhà của dân tộc thiểu số miền
núi như Thượng, Thái, Mường ..v.v..Vì có dòng máu thiểu
số trong người nên ông cảm thấy thoải mái khi ở trong nhà
sàn mà không thích ở villa, biệt thự to lớn. Riêng điều
này cũng đã khẳng định thêm yếu tố có dòng máu dân tộc
thiểu số trong con người Hồ chí Minh.
Tóm lại những ý muốn thích ở
hang, động, thích gần gũi đàn bà con gái thiểu số, muốn
ở nhà sàn đã là những yếu tố cho thấy nửa dòng máu thiểu
số đã có tác động đến khuynh hướng chọn nơi cư trú
cũng như loại người phụ nữ ông giao du. Muốn nghiên cứu
và hiểu rõ con người Hồ chí Minh, đừng bao giờ quên yếu
tố dòng máu dân tộc thiểu số lúc nào cũng tiềm tàng trong
con người của ông.
Hồ chí Minh qua đời ở Hà Nội
năm 1969, đến nay vừa tròn 40 năm. Trước khi qua đời ông
có viết rõ trong di chúc để lại yêu cầu thân xác ông được
hỏa táng. Nhưng bọn đồ đệ đàn em trong Chính trị bộ
quyết định xây lăng và ướp xác cho ông. Ngày ông còn sống
chúng đã không coi ông ra gì thì khi ông chết chúng cũng không
tôn trọng nguyện ước hỏa táng ông ghi rõ ràng trong di chúc.
Ðối với người Cộng sản, chuyện ướp xác nằm cho thiên
hạ chiêm ngưỡng là một vinh dự tối cao, nhưng nếu nhìn
dưới khía cạnh luật Nhân Quả của nhà Phật thì ông đang
bị quả báo, chết rồi mà không được chôn, nằm mổ bụng
ở trong lăng đã 40 năm rồi. Ông phải trả giá cho những
hành động tàn ác giết người của ông lúc ông còn sinh thời.
Mong sao rồi cũng đến ngày Cộng
sản sụp đổ ở Việt Nam.. Xác thân Hồ chí Minh sẽ được
hỏa táng đúng như lời nguyện ước. Ngày xác thân ông được
đốt thành tro bụi cũng là ngày đánh dấu mọi đau thương
trên đất nước Việt Nam từ đây chấm dứt và khắp nơi
trên nước Việt Nam sẽ sống chan hòa trong sự yêu thương
và trù phú .
Triều đại Hồ chí Minh sẽ thực
sự trôi qua và trôi qua vĩnh viễn...Một nước Việt Nam độc
lập tự do sẽ được thành lập trong đó mọi người dân
đều được quyền sống, quyền được hưởng tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc.
Los angeles, một trưa mùa Ðông man
mác đầu tháng 12 năm 2008
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
( Muốn đọc tất cả những
bài viết của Trần viết Ðại Hưng thì vào www.nsvietnam.com
rồi bấm tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái).
(1) Sử gia Trần quốc Vượng đã
kể về dòng họ của Hồ chí minh như sau:
" ....Ðó là câu chuyện về cụ
thân sinh ra Chủ tịch Hồ chí Minh, cụ Phó bảng Nguyễn sinh
Sắc hay Nguyễn sinh Huy.
Phó Bảng là một học vị dưới
tiến sĩ, chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh
Mạng nhà Nguyễn ( 1830- 1831).
Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp
gửi Bộ Thuộc Ðịa Pháp, Nguyễn tất Thành ( sau này là Hồ
chí Minh) đã khéo dịch học vị của phụ thân mình là "sous
docteur "như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ.
Quê hương cụ, là làng Kim Liên,
tên Nôm là làng Sen huyện Nam Ðàn tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu
Phó Bảng rồi cụ đã làm Thừa biện bộ Lễ ở Huế rồi
tri huyện Bình Khê ( Bình Ðịnh ). Rồi bỏ quan( hay bị mất
chức quan) cụ phiêu dạt về Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê
đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều để có chút cơm rượu..Lại
phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất
ở Cao Lãnh ( Sa Ðéc nay thuộc tỉnh Ðồng Tháp). Mộ cụ phó
bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Geneve tạm
thời chia đôi đất nước Việt Nam.
Người ta làm như thế vì cụ Hồ.
Cũng như mộ bà Hoàng thị Loan vợ cụ và là thân mẫu Hồ
chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Ðàn,
Nghệ An. Người ta làm thế cũng vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này,
cũng như bản thân lăng Chủ tịch Hồ chí Minh giữa lòng Ba
Ðình, Hà Nội đều hiện hữu ngoài ý thức Chủ tịch
Hồ chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị,
khiêm nhường...
Cũng đã có dăm cuốn sách nói về
gia thế cụ Hồ chí Minh. Nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới
đây thì chưa từng ai viết.
Chỉ là lời truyền miệng dân gian,
ở Kim liên, Nam Ðàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống
ở Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu
trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là
lan truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền
từ làng Kim Liên ra khăp huyện Nam Ðàn rồi khắp tỉnh Nghệ
An rồi rộng ra hơn nữa..Nhưng phạm vi lan truyền và số người
biết câu chuyện này thì phải nói là hạn hẹp. Vì người
ta SỢ.
Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một
cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa
chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh khắc Niệm viết trong
cuốn truyện bằng tiếng Anh " Life and death in Shanghai " ( Sống
và chết ỡ Thượng Hải ) đã được dịch ra tiếng Việt:
ở xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ Cộng
sản được coi là " bí mật quốc gia".
Nhưng đây không phải là chuyện
cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là
chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ. Cụ Nguyễn sinh Huy. Mà cũng
là truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại,
folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã
nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn
sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng họ Nguyễn
Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho,
Cử nhân Hồ sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ sĩ Tạo thuộc dòng
Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An ( đây là quê gốc của Hồ quý Ly, nhân vật lịch
sử cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15, đây là quê gốc của
anh em Tây Sơn tế kỷ 18. vốn họ Hồ ở xứ Nghệ). Ðây
cũng là quê hương Hoàng văn Hoan, người đồng chí thân cận
một thời của cụ Hồ chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách
công tác đối ngoại của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp
và là Ðại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Hoa, sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu
về lịch sử làng Quỳnh Ðôi quê ông, Bà vợ nhà văn lớn
Ðặng thai Mai, người một thời làm bộ trưởng giáo dục
trong chính phủ của cụ Hồ năm 1945 – 1946 rồi làm viện
trưởng viện văn học, là Hồ thị Loan, cũng thuộc dòng họ
Hồ này ở làng Quỳnh Ðôi).Khoảng đầu những năm 60 của
thế kỷ trước ( thế kỷ 19), cử nhân Hồ sĩ Tạo có thời
gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng
một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Ðàn, với làng
Sen ( Kim Liên). Ðó là một nghệ nhân dân gian, trong nhà có
phường hát ả đào.
Nhà họ Hà có cô con gái tên là
Hà thị Hy, tài hoa nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo,
đặc biệt là múa đèn ( đội đèn trên đầu, để đèn trên
hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh
ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Ðèn. Người
ta thường bảo: má hồng thị mệnh bạc. Như Ðặng trần
Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: " Hồng nhan đa truân
" ( Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên ). Hay như Nguyễn
Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: " Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau",,," Rằng hồng nhan tự thuờ
xưa. Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.."
Vả ở thời ấy, dưới chế độ
quân chủ nho giáo lấy tứ dân ( sĩ, nông, công, thương) làm
gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng " Xướng ca
vô loài".
Cô Ðèn Hà thị Hy tài hoa nhan sắc
thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà
trong nhà lại luôn luôn có bậc văn nhân là ông Hồ sĩ Tạo.
" Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén " là lẽ thường theo tâm
lý nhân gian, huống chi là giữa văn nhân, tài tử, giai nhân.
" Trai tài gái sắc mà " ! Và cô Hà thị Hy bỗng dưng " không
chồng mà chửa" . Mà ông cử Tạo thì đã có vợ con rồi
! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề , sỉ nhục
hạng gái "chửa hoang", hạng " gian phu dâm phụ " . Ðể tránh
nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm
" thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, nhà
họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã
có ông Nguyễn sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ ( bà
vợ trước đã có một con trai là Nguyễn sinh Thuyết, và người
con trai này cũng đã có vợ).
Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn
sinh Nhậm đến điều đình, " cho không" cô Hy làm vợ kế
ông này, như một người con gái xướng xa, quá lứa, lỡ thì,
lấy ông già góa vợ, mong ém nhẹm việc cô gái đã " to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm
bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt
vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc
thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận.
Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng
cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng
cái tiếng ăn " của thừa " của người ăn ốc ( ông cử Tạo),
kẻ đổ vỏ ( cụ lão nông Nhậm). Miệng tiếng thế gian xầm
xì, ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời
" nói ra nói vào" , lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết,
vốn vẫn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành
cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với
bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này
đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn
sinh Sắc, lấy họ ông, mặc dù ông biết hơn ai hết đó không
phải là con ông, con nhà họ Nguyễn sinh này. Nàng dâu ông
càng " tiếng bấc tiếng chì" hơn trước vì ngoài việc bố
chồng " rước của tội của nợ", " lấy đĩ làm vợ" thì
nay còn nỗi lo: người con trai này – được ông nhận là
con, lớn lên sẽ được quyền chia sẻ cái gia tài vốn cũng
chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã.
Việc ấy xảy ra vào năm Qúi Hợi đời vua Tự Ðức thứ
16 ( 1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo nhiều,
vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó,
bà Hy cũng mất, Nguyễn sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ
côi. Khi lên bốn, về ở với người anh gọi là " cùng cha
khác mẹ " mà thật ra là " khác cả cha lẫn mẹ" cùng với
bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống
cổ cái thằng " em hờ" của chồng đi cho " rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn
sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như
thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy
vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh
ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều mất,
họ hàng chẳng ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm
hiu này.
May có ông Tú đồ nho Hoàng xuân
Ðường, người làng Chùa ( Hoàng Trù) gần đó, xót thương
đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rời của một nhà nho khác,
lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi cho ăn
học. Và đến khi Nguyễn sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ
Hoàng lại gả cô con gái đầu lòng là Hoàng thị Loan mới
13 tuổi đầu cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh 3 gian ở
ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn sinh Sắc ăn ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn sinh Sắc
gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là
làng Sen " quê nội" " quê cha hờ". Con cái ông, từ người
con gái đầu Nguyễn thị Thanh qua người con trai đầu Nguyễn
sinh Khiêm ( tục gọi là ông Cả Ðạt) đến người trai thứ
là Nguyễn sinh Côn ( hay Nguyễn tất Thành sau này là Nguyễn
ái Quốc rồi Hồ chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu
lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê ngoại. Khi ông
Tú Hoàng mất, vợ chồng con cái Nguyễn sinh Sắc lại về
ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít bên
bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn
sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân ( 1894).
Ông được nhận ruộng học điền ruộng công của làng Chùa
cho những người có học (để khuyến khích việc học) để
học thêm, chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen.
Khoa thi Hội Ất Mủi ( 1895) ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gắm của
ông Hồ sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn sinh Sắc với
các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn
sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học
Quốc Tử Giám ở kinh đô. ( Ai cũng biết là để được nhận
vào học ở Quốc Tử Giám và làm giám sinh thì phải là con
cháu của những gia đình có thế lực gọi là " danh gia tử
đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ sĩ Tạo là
bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn sinh Sắc được nhận
? Thế là dù sao Hồ sĩ Tạo vẫn còn có ‘ một cử chỉ
đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn sinh Sắc,
đổi tên thành Ngueyn sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế
và đi học Quốc tử Giám . Khoa thi Hội Mậu Tuất ( 1889) ông
lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (
10—2 – 1901) bà Hoàng thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế,
sau khi sinh đứa con trai út ( đứa con trai út này ít ngày sau
cũng chết ). Nguyễn sinh Côn ( Nguyễn tất Thành – Nguyễn
ái Quốc – Hồ chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.
Nguyễn sinh Huy đem 2 con trai về
làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm, rồi trở vào
kinh thi Hội khoa Tân Sửu ( 1901) này. Ông đậu Phó Bảng và
được vinh quy bái tổ về làng. Theo thể thức triều đình,
lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội
danh nghĩa, tức là làng Sen – Kim Liên. Hội đồng hương lý
và dân xã dựng nhà tranh năm gian ( chứ không phải nhà ngói)
trên một khoảnh đất vườn làng Sen để đón quan Phó Bảng
tân khoa Nguyễn sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về
" quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần
đầu tiên Nguyễn sinh Côn ( Hồ chí Minh ngày sau) về ở quê
nội, nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là
cái gì " đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông Phó
Bảng có đến thăm cụ Hồ sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông Phó Bảng và
hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm
. Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhậm chức quan ( 1904)
ở bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907 ông bị
đổi đi làm tri huyện Bình khê.. Rồi sau khi bỏ quan ( hay
mất quan, khoảng 1910) ông phiêu bạt vô Sài gòn rồi Lục
tỉnh Nam kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa..
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh
và ông Cả Ðạt ( Khiêm). Cả hai đều không lập gia đình
riêng.
Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ
sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Ðôi
góp giỗ cụ Hồ sĩ Tạo. Thế là cái bí mật về " cội nguồn
" của cụ Phó Bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất là
có bà con gái đầu biết. Người ta bảo ông Cả Ðạt cũng
biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Ðôi nhận họ.
Còn Nguyễn sinh Côn ( Nguyễn tất
Thành) có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở
làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết ? hay là trước
đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gũi làng Sen.
hay là sau đó nữa chẳng lẽ không khi nào cụ Phó Bảng Huy
hay bà Thanh hoặc ông Cả Ðạt lại không kể với ông về
" bí mật "của gốc tích thân phụ mình?
Không có chứng cứ gì về việc
ông Nguyễn tất Thành ( Nguyễn ái Quốc ) biết hay không biết
về chuyện này..Sau này khi hoạt động cách mạng, ông còn
mang nhiều tên khác nữa..
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của
thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ chí Minh.
Sau Cách Mạng tháng tám 1945, khi
tên tuổi Hồ chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu
từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê,lại
âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn ái Quốc lại đổi tên là
Hồ chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho đến khi về với
" Các mác, Lê nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn ái
Quốc ( Hồ chí Minh) còn có quá nhiều dấu hỏi chứ phải
đâu riêng gì một cái tên ! Và biết làm sao được khi cụ
Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người
Ấn Ðộ, đã trở thành một huyền thoại . Huyền thoại Hồ
chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian mà Carl Gustav
Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được
hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần
gụi cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ được
huyền thoại hóa.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, người
t còn in cả một cuốn sách ( mỏng thôi) về sấm Trạng Trình
có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp Cách Mạng tháng
Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn
lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một
số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý không ưa gì cụ
Hồ. ..Nhưng đó lại không phải chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ chí Minh
, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn ái Quốc sau
cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực
của mình là cụ Hồ sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn
sinh Nhậm.
Và dân gian làng Sen cũng bảo: thì
cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương sau cách mạng sau
mấy chục năm xa quê hương( 15 – 6 – 1957) từ thị xã Vinh,
tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi
sau mới sang làng Sen " quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi.
Vì như ở trên đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ
Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và
bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ
chỉ ở có vài năm, lại là khi bắt đầu khôn lớn ?
Tôi không muốn có một bất cứ
kết luận " khoa học " nào gì về bài viết này. Vì nó không
phải là một luận văn khoa học. Ðây chỉ là việc ghi lại
một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay
là cái khổ tâm, hoặc là cái " mặc cảm" của một số nhà
trí thức nho gia từ đầu thế kỷ 14 ( Trương hán Siêu, Chu
văn An) đến đầu thế kỷ 20 ( Nguyễn sinh Huy) đối với
làng quê.
Còn viết lách bao giờ chẳng là
chuyện:
" Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận
ý "
( Viết không ( bao giờ) hết lời
nói
Lời nói ( không bao giờ ) hết
ý !)
Tháng 1 – 1991
TRẤN QUỐC VƯỢNG
( Trích trong bài " Lời truyền miệng
dân gian.." trong sách " Trong cõi " ( trang 252 – 259) do nhà xuất
bản Trăm Hoa xuất bản ở hải ngoại )
Sử gia Trần quốc Vượng nay đã
qua đời. sau này người ta còn khám phá thêm nhiều chi tiết
về cuộc đời tình cảm của cụ Nguyển sinh Sắc .Sau khi
vào Nam cụ tự xưng là cụ Vương, làm nghề lang bắt mạch
hốt thuốc. Một lão nông dân tên là Mai Nhuận, có mang ơn
nghĩa cụ Vương cứu mạng gia đình trong một trận dịch lớn
nên tự nguyện gả cô con gái út trong nhà cho cụ Vương. Sau
đó thì một đứa con trai sinh ra đời năm 1927 mang tên Vương
chí Nghĩa, tức là người em cùng cha khác mẹ với Hồ chí
Minh
Vương chí Việt có hai con trai là
Vương chí Hùng và Vương chí Việt ( sinh tháng 12 – 1959).
Vương chí Việt sau này xuất gia đi tu năm 1980 và mang pháp
danh là Thích Chân Quang. Thích Chân Quang có về quê Nghệ An
để nhận họ hàng với những người thân thích còn sót lại
của dòng họ Hồ chí Minh. Thích Chân Quang hiện cư trú ở
Bà rịa – Vũng tàu, Ông mở ra một trường phái đạo Phật
mới của riêng ông. Thỉnh thoảng trong những bài thuyết giảng
ông hay kín đáo ca ngợi đạo đức cần kiệm liêm chính chí
công vô tư của ông bác ông là Hồ chí Minh. Nói chung trường
phái đạo Phật mới của Thích Chân Quang thuộc loại lập
dị, nhảm nhí và quái đản như trường phái " tức khắc
khai ngộ " của tài tử Thanh Hải " vô thượng sư " ở hải
ngoại.
|