MỘT
CÁCH LÝ GIẢI VỀ CHUYỆN HỒ
CHÍ MINH
MẤT
QUYỀN LỰC TRONG NHỮNG NĂM CUỐI
ÐỜI
(Updated: 28/06/03; 16/07/03; 26/07/03;
03/10/03, 28/12/03; 23/02/2004; 07/05/2004)
Với chức
vụ chủ tịch Ðảng kiêm chủ
tịch nước, và với tư
cách là người khai sinh ra nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ
chí Minh nói chung đã tạọ ra
một cảm tưởng để người
dân Việt Nam trong nước cũng như
dư luận quốc tế bên ngoài đều
cho rằng Hồ chí Minh có một quyền
uy chính trị tuyệt đối trong Ðảng
và đối với bộ máy nhà
nước. Nhưng sau này khi có những
tiết lộ động trời của cựu
Ðảng viên cao cấp Nguyễn văn
Trấn cũng như của người
hầu cận thân tín Vũ Kỳ được
tung ra, người ta thấy rõ ràng
Hồ chí Minh đã bị đàn
em dưới tay như Lê Duẩn và
Lê đức Thọ tước hết
quyền hành, thậm chí còn tạo
dựng tai nạn máy bay để giết
Hồ chí Minh nữa. Thế thì lý
do nào đã đưa Hồ chí
Minh đến chỗ thất thế đến
nỗi bị đàn em ăn hiếp tàn
tệ nhự vậy. Phải nhớ rằng
thời kỳ Hồ chí Minh mất quyền
lực là vào khoảng đầu
thập niên 1960, cho nên cách lý giải
thứ nhất là Hồ chí Minh mất
quyền lực sau cuộc cải cách ruộng
đất tàn bạo sai lầm. Cách
lý giải thứ hai căn cứ
vào một bản di chúc thật của
Hồ chí Minh được tung ra ở
hải ngoại sau 1975 với chữ viết
tay của Hồ chí Minh. Chính vì chữ
viết tay mà người ta có nhiều
yếu tố căn bản để tin đây
là bản di chúc thật của Hồ
chí Minh. Cũng khó tìm được
một kẻ nào " rắn mắt " chơi
trò chúc thư giả vì chuyện giả
chữ viết là một chuyện không
dễ làm. Những điều tiết
lộ trong chúc thư này đã phần
nào giải thích một cách rốt
ráo lý do tại sao Hồ chí Minh bị
thất sũng và mất quyền lực
trong những năm cuối đời.
Bức chúc thư
của Hồ chí Minh được báo
Con Ong Tỵ Nạn tại Paris tung ra vào năm
1981. Sau này được báo Thức
Tỉnh của ông Nguyễn văn Nghi ở
San Diego đăng lại nguyên văn. ( Tiện
đây xin nhắn ai còn giữ số
báo cũ Thức Tỉnh,hay ấn bản
Con ong tỵ nạn ( Pháp ) có đăng
trọn chúc thư của Hồ chí Minh
xin liên lạc email: [email protected] để trao
đổi thêm. Bài viết này chỉ
trích đăng phần cuối bản chúc
thư mà thôi). Nghe nói chữ viết
trong bản chúc thư đã được
đưa cho kiểm tự Pháp để
kiểm chứng và đã được
xác nhận là đúng chữ
viết của Hồ chí Minh. ( Xin coi thủ
bút của Hồ chí Minh trong di chúc
ở cuối bài này).
Toàn bộ bản
di chúc của Hồ chí Minh được
công bố có nội dung như sau, "
" Thời xưa
ở bên Trung Quốc người ta
thường nói, " Con chim trước
khi chết thì tiếng kêu thương,
còn người trước khi chết
thì lời nói phải.:
Tôi tự xét
mình chẳng còn sống bao lâu nữa,
nên cố gắng viết di chúc này,
mong rằng những điều viết ra
không phải là những điều
sai quấy.
Vừa mới
đây, Lê Duẩn có đi với
Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi,
ép buộc tôi phải viết bản di
chúc theo ý muốn của họ. Tôi
đã viết mà trong bụng vẫn
tấm tức vô cùng.
Nay tôi viết
thêm tờ di chúc này, xin coi là
chính thức. Ngoài ra tôi không
công nhận bất cứ bản di chúc
nào khác. Tôi ước mong một
ngày nào đó, bản di chúc
tôi viết đây sẽ được
mọi người biết tới, thì
ở thế giới bên kia tôi
mới được thỏa lòng.
Tôi vốn con nhà
nghèo nhưng từ bé đã nuôi
mộng đảo lộn sơn hà, và
đem lại vẻ vang cho nòi giống, nên
tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm
không hề quản ngại khó khăn,
gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong
có ngày tổ quốc ta độc lập,
giàu mạnh, dân ta hạnh phúc, tự
do.
Tôi thường
đọc lịch sử nước Việt
Nam ta, thấy có ông Trần Thủ Ðộ
là một tay hào kiệt hiếm có
trên đời, đã không quản
ngại làm việc ác, làm phản mà
gây nên cơ nghiệp hiển hách của
nhà Trần, đuổi giặc Nguyên,
đem lại vinh quang cho cả dân tộc về
cả văn minh và đời sống.
Không lường
sức mình, không đo tài mình,
tôi đã hành động như ông
Trần Thủ Ðộ nên đất nước
mới tan nát, nhân dân ta mới
điêu linh, mà đầu mình thì
nặng nề không biết bao nhiêu tội
ác, không thể nào tha thứ được.
Cái nhầm tai
hại nhất của tôi là đi theo
Cộng sản Mác Xít mà không biết
là chủ nghĩa này chẳng qua chỉ
là giả bộ, để đánh lừa
giai cấp nghèo mà cướp lấy
chính quyền cho nước Nga khi đó.
Tôi cũng ngay
tình mà dùng những người
hợp tác với tôi. Tôi cứ
tưởng những người đó
quý yêu tôi, đâu ngờ
họ đều là mật thám của
Nga sô, vây quanh tôi chỉ là để
kiểm soát tôi, khéo léo hướng
dẫn tôi đi theo con đường
Nga đã vạch sẵn. Họ đề
cao và tâng bốc tôi để khi
nào làm điều gì độc
ác thì tôi phải chịu hết trách
nhiệm với dân tộc. Nhiều khi họ
quyết định mà không hề cho
tôi hay biết gì, như vụ cải cách
điền địa ở Bắc Bộ
chẳng hạn, bây giờ nhân dân
có quyền rủa oán trách tôi
không biết để đâu cho hết.
Dù sao tôi vẫn
là người có tội, tôi không
dám chối cãi, chỉ dám mong lịch
sử sau này xét kỹ cho tôi mà
đừng lên án tôi quá nặng
nề.
Ðầu năm
1963, hồi đó tôi còn chưa bị
bọn quanh tôi bao vây chặt chẽ quá,
tôi có nhờ mấy nhân viên
Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Ðình
Chiến chuyển vào Nam bộ hai cành đào
lớn rất đẹp để tặng
cụ Ngô đình Diệm, kèm theo một
bức thư, trong thư đó, tôi
có chân tình yêu cầu cụ Ngô
cùng tôi thảo luận trong tình anh em,
để hai bên cùng lo cho dân chúng
hai miền, trên căn bản thi đua làm
cho dân giàu, nước mạnh, theo đường
lối riêng của từng người.
Truyện này lộ
ra, làm cụ Ngô bị giết trong Nam, còn
ở ngoài Bắc thì tôi bị
kiểm soát rất khắt khe, không có
quyền quyết định điều gì
nữa cả. Ðáng lý ra tôi
có thể bị giết ngay từ hồi
đó rồi, nhưng tên tuổi còn
được thế giới biết
đến, nên họ còn phải lợi
dụng mà để tôi sống thêm.
Tôi đã già rồi, râu tóc
đã bạc mà còn phải sống
trong cảnh tù giam lỏng, cứ nghĩ
đến điều này làm tôi
ứa nước mắt. Họ đã
không giết tôi nhưng sai ông Bác
sĩ Tôn thất Tùng cho tôi uống
thuốc độc để tôi không
thể đi đâu được nữa,
mà cũng không thể tiếp xúc
với những người mà
tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa
chết ngay, nhưng là chết dần, chết
mòn, ở biệt lập một nơi để
đợi ngày tắt thở.
Thật cũng tiếc,
khi về già, biết mình sai lầm, muốn
chuộc lỗi mà không được
nữa.
Trước khi
viết phần cuối của tờ di chúc
này, tôi xin thú nhận, tôi là
một người không phải thần
thánh gì nên khi tôi còn sống
cũng đủ " bảy tính " như kinh
nhà Phật đã đề cập. Tôi
không có vợ, nhưng cũng có
được đứa con gái lai
Pháp. Tôi ước mong con gái tôi,
khi đọc tờ di chúc này sẽ
tha thứ cho tôi đã không đủ
bổn phận làm cha, nhưng phụ tử
tình thâm, tôi luôn nhớ tới
con gái tôi với muôn vàn âu
yếm.
Ai cũng tưởng
tôi là con người vô thần,
nhưng riêng Ðức cha Lê hữu
Từ thì biết tôi rất tin có
Ðấng Tạo Hóa. Vì tin có ông
trời nên tôi xin khẩn cầu cho
nước ta và các nước
Cộng sản khác trên thế giới
sớm thoát ách Cộng sản.
Tôi cũng xin
ông Trời cho tờ di chúc này
có ngày được phổ biến
khắp nơi.
Cuối cùng, tôi
xin lẩy Kiều, dùng hai câu thơ của
cụ Nguyễn Du để tỏ lòng hối
hận trước cao xanh:
Rằng con biết
tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm
sét búa rìu cũng cam
Hà Nội 14-8-1969
Tên ký: Hồ
chí Minh
Qua bức di chúc
trên, ta có thể đưa ra những
nhận định về sự trung thực
được đề cập đến
trong đó như sau:
* Chuyện ông Hồ
gửi cành đào tặng cho ông
Diệm vào xuân 1963 là chuyện có
thật. Sách báo Hà Nội sau 1975 đều
dấu nhẹm chuyện ông Hồ tìm cách
liên lạc với ông Diệm vì
Cộng sản Việt Nam đánh giá chế
độ ông Diệm như là một chế
độ ngụy, tay sai của Mỹ nên chuyện
liên lạc trao đổi với chế
độ này có thể làm mất
đi hào quang cách mạng của Miền
Bắc. Khi chuyện tranh đấu Phật giáo
nổ ra, áp lực người Mỹ
ngày càng đè nặng lên chính
quyền đệ nhất Cộng Hòa. Mỹ
muốn giữ ông Diệm lại nhưng
yêu cầu vợ chồng Ngô đình
Nhu đi lưu vong. Và ông cố vấn
Ngô đình Nhu đã tìm cách
phá vỡ áp lực của Mỹ
bằng cách tìm cách bắt tay với
Miền Bắc. Nghe nói ông Nhu đã
đi gặp Phạm Hùng tại Bình Tuy để
trao đổi bàn bạc chuyện hợp
tác. Dĩ nhiên chuyện bắt tay của
Nhu chắc chắn được tiến
hành với sự đồng ý
của ông Diệm. Trưởng phái
đoàn Ba Lan trong Uûy Hội Quốc Tế
Kiểm Soát Ðình Chiến lúc đó
là ông Mieczyslaw Maneli đã làm nhiệm
vụ con thoi liên lạc giữa hai miền
Nam Bắc. Ông Maneli sau này định cư
ở Tây phương và viết hồi
ký kể lại mọi chuyện. Có lẽ
tình báo Mỹ ở Sài gòn
lúc đó đã phát hiện
ra chuyện ông Nhu đi liên lạc với
Cộng sản và từ đó phía
Mỹ quyết định bật đèn
xanh cho các tướng lãnh đảo
chánh để dứt điểm chế
độ Ngô đình Diệm. Về phía
ông Hồ, như ông đã nói
trong di chúc trên là sau khi tìm cách
liên lạc để hòa giải hòa
hợp với Miền Nam thì ông
bị tước hết quyền hành
vì Quốc Tế Cộng sản không dung
thứ hành động thân thiện
này của ông. Ðó cũng là
một lối suy diễn hợp lý của
ông về số phận thất sủng của
ông. Và ông Hồ đưa ra nhận
định Ngô đình Diệm bị giết
vì chuyện toan bắt tay với Miền
Bắc. Ðó cũng là một nhận
xét chí lý của một người
già dặn kinh nghiệm chính trị như
ông
Nói chung Miền
Bắc cũng như Miền Nam đều rơi
vào những gọng kềm của quốc
tế. Nếu những người Việt
Nam lãnh đạo ở hai miền không
đi đúng sách lược của
những thế lực quốc tế đề
ra thì bị tiêu diệt ngay. Ngô đình
Diệm bị giết và Hồ chí Minh
bị thất sủng vì đã không
đi đúng đường lối
sách lược của quan thầy đề
ra. Nói thế để thấy hai miền
Nam Bắc chưa bao giờ hưởng
được sự độc lập thật
sự mà rơi vào thế bị khống
chế bởi những gọng kềm
quốc tế: một bên là Tư Bản,
một bên là Quốc Tế Cộng Sản.
* Trong di chúc này,
Hồ chí Minh chỉ nhắc đến cô
con gái lai Pháp mà lờ đi
hai cậu con rơi là Nguyễn tất Trung
( có mẹ là Nông thị Xuân ) và
Tổng bí thư hiện nay là Nông đức
Mạnh ( có mẹ là một phụ nữ
thiểu số người Tày ). Lý
do ông lờ đi có lẽ vì
lý do an ninh vì Miền Bắc vốn thần
thánh hóa con người ông, tô
vẽ ông là một con người
không lấy vợ, hoàn toàn hy sinh
cuộc đời cho sự nghiệp giải
phóng đất nước, nếu xì
ra chuyện có con rơi trong nước
thì số phận của con rơi này cũng
không được an toàn. Cho tới
giờ này người ta không
biết số phận của Nguyễn tất
Trung ra sao, chỉ biết là sau khi mẹ Trung
là Nông thị Xuân bị thủ tiêu
thì Trung được giao cho người
hầu cận thân tín của Hồ chí
Minh là Vũ Kỳ nuôi; còn Tổng
bí thư hiện tại Nông đức
Mạnh thì luôn miệng chối bai bải
ông Hồ không phải là cha ruột
của ông ! Dĩ nhiên Nông đức
Mạnh đứng vào cái thế
không thể nhận ông Hồ là cha
ruột vì Hà Nội đã biến
ông thành một ông thánh không
hề có vợ con từ lâu !
Nói chung Hồ chí
Minh có cả thảy 4 người vợ
ïđược mọi người sau
này biết đến là Nguyễn thị
Minh Khai ( vốn là chị ruột của Nguyễn
thị Minh Thái, vợ đầu của
Võ nguyên Giáp), người vợ
Tàu Tăng tuyết Minh, và người
vợ gốc thiểu số Nông thị
Xuân, người vợ thiểu số
mẹ của Nông đức Mạnh. Nói
chung là Hồ chí Minh có 4 vợ
được mọi người biết
đến, không biết ông còn có
người vợ nào còn nằm
trong bóng tối nữa hay không. Có
lẽ noi theo gương ông nên Lê đức
Thọ có 2 vợ, Lê Duẩn có
3 vợ. Xem ra những tay lãnh đạo
Ðảng Cộng sản Việt Nam, tay nào
cũng dồi dào về vấn đề
sinh lý. Âu đóù cũng là
thứ " đạo đức cách
mạng " mà họ kín đáo dạy
dỗ cho toàn dân noi theo!
Trong bản chúc thư
có những dấu ấn của Hồ
chí Minh như viết tắt chữ " d"
thành chữ " z". Thí dụ " di chúc
" thành " zi chúc", " Nguyễn Du " thành
" Nguyễn Zu" , " Dẫu rằng" thành " Zẫu
rằng ". Từ hồi xa xưa, khi viết
cuốn sách " Ðường Cách
Mạng " Hồ chí Minh đã viết
thành " Ðường Kách Mạng"
( dùng chữ " k" thay cho chữ " c"). Chỉ
với yếu tố cách viết đặc
biệt này làm người ta càng
tin tưởng thêm đây chính
là chúc thư thật của Hồ chí
Minh.
* Bức chúc
thư có nhắc đến " bảy tính
của nhà Phật " . Bảy tính đó
là : Hỉ, Nộ, Ái , Ố, Bi , AI , Dục,
tức những trạng thái vui, buồn,
giận ghét thông thường của
một con người. Nhân chuyện Hồ
chí Minh có nhắc đến nhà
Phật thì cũng nên nói thêm là
nên nhìn lý thuyết " Nhân Quả
" của nhà Phật để nhìn vào
cuộc đời Hồ chí Minh để
thấy cái chính xác của lý
thuyết này. Lúc Hồ chí Minh còn
sống, ông cũng thú nhận trong chúc
thư, cũng như ai cũng biết là
ông đã làm những chuyện
cực kỳ độc ác, đến
lúc về già thì bị giam lỏng
cho chết dần, chết mòn một cách
thê thảm. Lúc chết rồi thì
ý nguyện hỏa táng xác thân
cũng không được thi hành
mà bị móc bụng nằm trong lăng
cho thiên hạ coi. Ðúng là chết
rồi mà còn bị mổ bụng không
cho chôn! Thật là một hình phạt
nặng nề mà ông phải chịu để
trả những tội ác mà ông
đã tạo ra lúc sinh thời. Mong
những kẻ đang làm ác sẽ
trông gương Hồ chí Minh mà cảnh
tỉnh để " làm lành, lánh dữ
" trước khi quá trễ.
Có vài điều
suy luận để thấy chúc thư này
là chúc thư thật dựa trên
những lý luận sau:
* Người Cộng
sản không bao giờ công bố ra
chúc thư này vì trong chúc thư
ông Hồ mong mỏi nước Việt
Nam và các nước khác sớm
thoát ách Cộng sản. Ðó là
điều tối kỵ đối với
Cộng sản. Dĩ nhiên Cộng sản cũng
không bịa đặt ra chúc thư giả
vì nó không mang lại lợi ích
gì cho Cộng sản mà mang lại nhiều
sự rắc rối, khó xử thêm.
* Người quốc
gia không thể công bố cũng như
không làm chúc thư giả để
bênh vực cho Hồ chí Minh, vốn
là kẻ tử thù của người
quốc gia
* Vậy thì còn
giả thuyết chỉ có những kẻ
rắn mắt công bố chúc thư này
như một chúc thư giả để làm
trò đùa. Ðiều này cũng
khó làm vì giả nét chữ
Hồ chí Minh không phải là chuyện
dễ. Chuyện giả chữ viết chỉ
có thể qua mắt người thường,
chứ không thể qua mặt nhân viên
kiểm tự chuyên nghiệp. Vào những
năm trước có kẻ công bố
Nhật ký của Hitler nhưng rồi các
nhà kiểm tự nhảy vào làm
việc. Họ đem nét chữ thật
của Hitler để so sánh với nét
chữ của cuốn hồi ký được
cho là của Hitler và tìm ra ngay đây
là cuốn hồi ký giả. Ðây
là một trò bịp bợm giả
chữ viết Hitler để làm tiền
thế thôi.
Chỉ có điều
lấn cấn ở đây là người
công bố chúc thư này, vì một
lý do tế nhị an ninh nào đó
mà chưa công khai ra mặt. Ðiều
này cũng dễ hiểu vì chế độ
Cộng sản Việt Nam vẫn còn đó,
chuyện công bố cách thức và
tên tuổi người tung bức chúc
thư thật của Hồ chí Minh ra ngoại
quốc có thể làm liên lụy đến
những người liên hệ. Mong
sao chế độ Cộng sản Việt nam sớm
sụp đổ để người công
bố chúc thư này sẽ có cơ
hội giải thích rõ ràng hơn và
chúc thư này do đó sẽ có
giá trị thật sự hoàn toàn.
Bùi Tín có
kể chuyện vào năm 1989, Vũ Kỳ
có gặp ông và cho biết bản
chúc thư mà Hồ chí Minh viết
cho Lê Duẩn công bố với toàn
dân ( mà trong di chúc thật Hồ chí
Minh thú nhận là phải viết theo sự
bức bách của Lê Duẩn )cũng
bị cắt xén vì có những
đoạn không hợp ý Lê Duẩn.
Chỉ riêng chuyện Vũ Kỳ công bố
sự thật này cũng làm cho ông
bị Bộ chính trị Ðảng gọi
lên hạch sách và răn đe. Ngay
trong di chúc trao cho Lê Duẩn, Hồ chí
Minh đã nói lên mong muốn là
khi qua đời, ông mong thân xác
ông sẽ được hỏa táng
và tro cốt được rải trên
núi sông, nông dân được
miễn thuế trong vài năm. Lê Duẩn
đã không theo lời di chúc để
hỏa táng mà trái lại cho xây
lăng để triển lãm cái xác
ông cho thiên hạ chiêm ngưỡng.
Chuyện miễn thuế theo lời yêu
cầu của Hồ chí Minh cũng bị
bỏ qua.
Bùi Tín kể
rõ chuyện này như sau:
" Năm 1989, nhân
dịp 20 năm ngày mất của ông
Hồ chí Minh, ông Vũ Kỳ, nguyên
thư ký của ông Hồ chí Minh đã
cùng tôi bàn nhau phải đưa toàn
bộ Di chúc ra ánh sáng. Không thể
mập mờ mãi được. Không
thể quịt của người nông
dân một năm thuế.
Ông Hồ chí
Minh bắt đầu viết Di chúc từ
tháng 5-1965, sau đó cứ vào
tháng 5 hàng năm lại viết lại,
viết thêm. Cho nên có tới bốn
bản di chúc bổ sung cho nhau. Ông Vũ
Kỳ kể chuyện là ngày 2-9-1969, sau
khi ông Hồ chí Minh mất, vào buổi
tối ông Phạm văn Ðồng đến
nơi đặt thi hài ông Hồ. Ông
Vũ Ký đưa ra chiếc phong bì
lớn đựng cả bốn bản
Di chúc. Ông Phạm văn Ðồng đưa
cả hai tay ra ngăn lại, " Không, tôi
không nhận. Ðây là chuyện hệ
trọng, để ngày mai, có đầy
đủ bộ chính trị, đồng
chí đưa ra." Sáng 3-9-1969, có đầy
đủ Bộ Chính Trị, ông Vũ
Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn
ấy. Ông Lê Duẩn liền cầm lấy
rồi gọi ông Hoàng Tùng, Tổng
biên tập báo Nhân Dân vào phòng
nhỏ bên cạnh. Ông Duẩn tự
quyết định chỉ đưa ra một
bản, cắt bỏ, sữa chữa vài
chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng
công bố. Tất cả các bản còn
lại ông Duẩn giao cho ông Trần quốc
Hoàn giữ như văn kiện tuyệt
đối bí mật. Cho đến khi ông
Trần quốc Hoàn thôi chức Bộ
trưởng Bộ Công An và chức
ủy viên Bộ Chính Trị ( tháng
3-1982), ông Vũ Kỳ không tài nào
lấy lại được tập Di Chúc
ấy. Chỉ đến khi ông Trần quốc
Hoàn ốm nặng, ông Vũ Kỳ mới
moi được bí mật qua lời
hấp hối của ông Trần quốc
Hoàn, " ..trong két sắt đặt ở
nhà riêng, ngăn thứ hai, tầng
dưới cùng." Thế là cả
tập nguyên bản di chúc được
tìm thấy.
Tháng 5-1989, tôi
bàn với ông Vũ Kỳ, đặt
ông viết một bài báo đặc
biệt kể Chủ tịch Hồ chí Minh
viết Di Chúc như thế nào, đăng
trên tuần báo Nhân Dân chủ
nhật do tôi trực tiếp biên tập.
Phản ứng của lãnh đạo rất
mạnh. Một số ủy viên Bộ Chính
Trị đã lên án hai chúng tôi
là làm một việc tầy trời,
dám công bố văn kiện quan trọng
bậc nhất của Chủ tịch Hồ chí
Minh mà chưa được phép của
Bộ Chính Trị. Trước những
cặp mắt nghiêm nghị của bốn
ủy viên Bộ Chính Trị Nguyễn thanh
Bình, Ðào duy Tùng, Nguyễn đức
Tâm, Ðồng sĩ Nguyên và Trưởng
ban tư tưởng và văn hóa Trần
trọng Tân, ông Vũ Kỳ rất điềm
tĩnh. Ông trả lời, " Tôi đâu
có công bố Di Chúc, tôi chỉ
viết theo yêu cầu của anh Thành Tín
ở báo Nhân Dân. Nhân đây
tôi cũng xin báo cáo suốt hai mươi
năm nay tôi ăn không ngon, ngủ không
yên, cho đến khi nào toàn bộ
Di Chúc của Bác đến được
với nhân dân." Sau đó Bộ
Chính Trị phải họp hai lần để
bàn riêng về việc này và cuối
cùng phải đưa ra Quốc Hội bàn
về việc công bố toàn bộ các
bản Di Chúc, đồng thời quyết
định giảm thuế nông nghiệp trong
hai năm, mỗi năm 50%. Ông Vũ Kỳ
và tôi rất mừng, cùng nhau
cụng một cốc bia, nghĩ rằng thế
là bà con nông dân ta bị hy sinh nhiều
nhất về người và của
trong chiến tranh cũng đỡ khổ
được đôi chút.
Riêng về việc
xây lăng Chủ Tịch Hồ chí Minh,
rất nhiều trí thức, cán bộ
và đồng bào cho rằng không
nên làm điều ngược với
nguyện vọng thiêng liêng của người
sắp từ giã cõi đời,
nhất là khi nguyện vọng ấy lại
cao đẹp. Chủ Tịch Hồ chí Minh
yêu cầu không nên phúng viếng
linh đình, tốn kém, mong thi hài
mình được hỏa thiêu, vậy
mà nguyện vọng ấy không được
thực hiện. Thi hài ông không được
nhập vào đất đai của quê
hương, vẫn nằm trong một chiếc
lăng đồ sộ mà lạnh lẽo,
tốn kém biết bao nhiêu vật liệu
và công sức của nhân dân…..
( Trích Hồi Ký
" Hoa xuyên tuyết " của cựu Ðại
tá Bùi Tín, xuất bản năm 1991,
trang 118, 119 , Nhà xuất bản Nhân Quyền
)
Nguyện ước
khi chết đi được hỏa táng
được Hồ chí Minh viết trong
di chúc như sau :
" Sau khi tôi qua đời,
chớ nên tổ chức điếu
phúng linh đình, để khỏi lãng
phí thì giờ và tiền bạc
của nhân dân.
Tôi yêu cầu
thi hài tôi được đốt
đi, tức là " hỏa táng ". Tôi
mong rằng cách hỏa táng sau này
sẽ được phổ biến. Và
như thế đối với người
sống đã tốt về mặt vệ
sinh, lại không tốn đất ruộng.
Khi ta có nhiều điện, thì " điện
táng " càng tốt hơn.
Tro thì chia làm
3 phần, bỏ vào 3 hộp sành, một
hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền
Trung, một hộp cho miền Nam.
Ðồng bào
mỗi miền nên chọn một quả đồi
mà chôn hộp tro đó. Trên mả
không nên có bia đá, tượng
đồng, mà nên xây một ngôi
nhà giản đơn, rộng rãi, chắc
chắn, mát mẻ, để những
người đến thăm viếng có
chỗ nghỉ ngơi."
Lê Duẩn đã
đục bỏ ước nguyện hỏa
thiêu này của Hồ chí Minh khi công
bố Di Chúc của Hồ cho nhân dân
Miền Bắc. Trong suốt cuộc đời
hoạt động chính trị, Hồ chí
Minh đã giết oan quá nhiều người
nên sự oán thù đối với
ông vẫn còn dai đẳng dù ông
đã nằm xuống. Nhưng mà thôi,
nghĩa tử là nghĩa tận", nền
văn hóa Việt Nam cao đẹp của chúng
ta đã dạy chúng ta là không
nên hận thù người đã
chết. Chỉ mong sao chế độ Cộng
sản sớm sụp đổ để
nguyện ước hỏa thiêu thân
xác của ông Hồ được
thỏa mãn. Tro bụi ông sẽ đi
vào lòng đất mẹ, cát bụi
rồi sẽ trở về cát bụi.
Có nhìn thấy cái chết mới
thấy thân phận nhỏ nhoi yếu đuối
của con người trước vũ
trụ bao la. Cho dù người đó
có quyền lực to lớn thế
nào đi nữa thì khi nằm xuống
cũng trở thành cát bụi vô
tri. Vấn đề của người
làm chính trị là làm sao sau khi
mình qua đời, nhân dân vẫn
dành cho mình sự yêu mến, tiếc
thương. Chuyện xây mồ xây mả
chỉ là những hình tướng
bên ngoài, không có tác động
ảnh hưởng dài lâu đối
với dòng sống của một dân
tộc. Di sản đáng quý thật ra
là những tinh thần cao đẹp mà
người quá cố để lại.
Lưu danh muôn thuở hay lưu xú vạn
niên là cũng do những hành
động làm lúc còn sống và
lưu truyền đến các thế hệ
sau. Lịch sự rất công bình và
sẽ định công, luận tội rạch
ròi bất cứ người nào
có những ảnh hưởng đến
sự sống còn và phúc lợi
của đất nước và nhân
dân.
Cuộc đời
Hồ chí Minh quả có nhiều bí
mật nhưng rồi không có gì bí
mật dưới ánh sáng mặt trời.
Mọi chuyện uẩn khúc dần dần
được phơi bày trọn vẹn
để công chúng có thể nhìn
thấy con người thật của Hồ
chí Minh. Cũng như sau này nhiều tài
liệu và chuyện kể được
công bố thì người ta mới
thấy được Thủ tướng
Phạm văn Ðồng chỉ là tay sai
của phe Duẩn – Thọ và hoàn toàn
không có quyền hành gì cả.
Chuyện ông Ðồng không dám nhận
di chúc Hồ chí Minh mà Vũ Kỳ
giao cho ông cũng đủ nói lên
điều đó.
Nhìn chuyện ông
Hồ bị thất sũng và ông Diệm
bị giết khi tính chuyện hòa hợp,
hòa giải với nhau cũng đủ
cho thấy gọng kềm quốc tế khống
chế hai ông đến như thế nào.
Thân phận nhược tiểu của nước
Việt Nam nói chung là không có chủ
quyền và hầu như bị các thế
lực quốc tế điều động,
giựt dây và chi phối trên cả
hai miền Nam, Bắc. Mỹ nắm quyền
sinh sát ở miền Nam cũng như
Quốc Tế Cộng Sản nắm quyền
chủ động , sai khiến ở miền
Bắc. Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ
có quyền độc lập thực sự
trong gần thế kỷ qua. Người lãnh
đạo tương lai của Việt Nam nên
lấy đó làm gương để
khéo léo tránh né để không
bị gọng kềm quốc tế nào điều
động và chi phối. Có thế Việt
Nam mới mong có một nền độc
lập thật sự chứ không phải
là thứ độc lập hão mà
Việt Nam đã có trong mấy mươi
năm vừa qua. Khi có được
một nền độc lập thật sự
thì mới mong xây dựng được
một nước Việt Nam có chủ
quyền, để từ đó mới
mong đề ra những chính sách
ích quốc, lợi dân, không lệ
thuộc vào bất cứ thế lực
quốc tế nào. Có độc lập
dân tộc mới xây dựng được
bản sắc dân tộc và lấy đó
làm nền móng cho công cuộc xây
dựng và phát triển đất
nước dài lâu.
Lawndale, một ngày
nắng hạ chói chang giữa tháng
6 năm 2003.
TRẦN VIẾT ÐẠI
HƯNG
|