HOA
THẬT HOA GIẢ
(Cập nhật hóa, 20/09/2002)
Hoa đây là tập thơ " Hoa địa ngục
", một tập thơ mà từ khi xuất hiện trong cộng đồng hải
ngoại vào năm 1980 đã gây nhiều chấn động sâu sa. Chấn
động vì thông điệp trong nội dung tập thơ. Ðó là tiếng
khóc uất nghẹn, tiếng thét hào hùng cũng như lời tố cáo
đanh thép những tội ác của Cộng sản của mấy mươi triệu
đồng bào Việt Nam. Hồn thiêng sông núi như tụ đọng lại
trong tập thơ, nên khi tập thơ ra đời nó được sự hưởng
ứng nồng nhiệt của đồng bào Việt Nam hải ngoại.
" Hoa địa ngục " là hoa gì? Tác
giả tập thơ cũng đã giải thích bằng mấy vần thơ của
ông trong " Những ghi chép vụn vặt " ở cuối tập thơ như
sau:
Hoa địa ngục tưới bằng
xương máu thịt
Trộn mồ hôi chó ngựa, lệ
ly tan
Hoa trưởng sinh trong tù, bệnh,
cơ hàn
Hương ẩm mốc, mầu nhở nham,
xám xịt.
Ðính kèm theo tập thơ là một lá
thư viết bằng tiếng Pháp có nội dung như sau:
" Thưa ông,
Nhân danh hàng triệu nạn nhân
vô tội của chính thể độc tài, đã gục ngã hay còn đang
kéo dài một cái chết đau đớn trong ngục tù Cộng sản ,
tôi xin cho xuất bản những bài thơ này tại vùng đất tự
do của quốc gia ông. Ðây là công trình làm việc suốt hai
mươi năm trời của tôi. Phần lớn được sáng tác trong những
năm tôi bị quản thúc. Tôi nghĩ rằng không phải ai khác mà
chính chúng tôi, những nạn nhân, có sứ mạng phải phơi bày
cho thế giới thấy những khổ nhục không thể tưởng tượng
nổi của dân tộc tôi, hiện nay vẫn còn đang bị áp chế
và hành hạ thẳng tay. Cuộc đời tan nát của tôi chỉ còn
một hy vọng là nhìn thấy thế giới ý thức được rằng
Cộng sản là một bệnh dịch khủng khiếp của nhân loại.
Xin ông nhận nơi đây lòng biết
ơn sâu xa của tôi cũng như của những đồng bào bất hạnh
của tôi."
Khi tập thơ được tờ báo Văn
Nghệ Tiền Phong tung ra, nó mang tên " Bản chúc thư của một
người Việt Nam" . Tác giả coi như khuyết danh. Người ta chỉ
mù mờ biết là tác giả đã quăng tập thơ vào một tòa đại
sứ Âu Châu tại Hà Nội và sau đó không biết số phận của
tác giả ra sao sau khi quăng tập thơ. Ðiều chắc chắn là
ông bị cầm tù ngay sau khi quăng tập thơ. Rồi tập thơ mang
thêm cái tên thứ hai " Tiếng vọng từ đáy vực " do nhóm
ông Viên Linh và Nguyễn hữu Hiệu xuất bản. Dĩ nhiên người
xuất bản cũng không biết rõ thân thế của nhà thơ tác giả.
Chỉ có học giả Huỳnh sanh Thông
là ghi đúng tên của tập thơ là " Hoa địa ngục " và tác
giả là " Nguyễn chí Thiện " trong bản dịch tập thơ này
của ông. Sỡ dĩ học giả Huỳnh sanh Thông ghi đúng vì ông
đã tiếp xúc với giáo sư Patrick J. Honey, vốn là một chuyên
viên về Việt Nam của trung tâm Á và Phi châu của trường
đại học Luân Ðôn. Giáo sư Honey cho biết là sau khi quăng
tập thơ vào tòa đại sứ Anh , tác giả tập thơ bị bắt
ngay, và những viên chức ngoại giao đã gửi tập thơ này
về Luân Ðôn. Một nhân viên Việt Nam có được bản sao và
sau đó trao lại cho tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong tại Mỹ để
xuất bản. Giáo sư Honey cho biết văn phòng bộ ngoại giao
có lần cho ông coi bản thảo tập thơ có đề tên rõ nhan
đề là " Hoa địa ngục " ( Giáo sư Honey có nói rõ điều
này trong lá thư đề ngày 26 tháng 5 năm 1981 gửi cho Học giả
Huỳnh sanh Thông ). Lúc bộ ngoại giao Anh giao cho Ðài BBC để
phổ biến đến cộng đồng Việt Nam khắp thế giới, họ
cố tình dấu đi tên cũng như nhan đề của tập thơ, có lẽ
với mục đích muốn bảo vệ an ninh cho nhà thơ cũng như vì
muốn tránh những rắc rối tế nhị về ngoại giao . Cái hảo
ý của chính phủ Anh lại trở thành những phiền muộn cho
tác giả tập thơ sau này vì có những suy diễn bậy bạ, thiếu
căn bản khoa học về tác giả tập thơ một cách vô căn cứ
. Nói tóm lại, bộ ngoại giao Anh giao cho ông Ðỗ Văn của
Ban Việt Ngữ đài BBC và ông Ðỗ Văn giao lại cho ông Châu
kim Nhân để rồi ông Châu kim Nhân ủy thác cho tờ báo Văn
Nghệ Tiền Phong ở Mỹ ấn hành tập thơ.
Ai là người công bố tên tác giả
của tập thơ là nhà thơ Nguyễn chí Thiện ?
Người đầu tiên công bố tác giả
tập thơ là ông Minh Thi, hiện sống tại Santa Ana. Ông Minh
Thi là bạn tù của nhà thơ Nguyễn chí Thiện từ năm 1970
đến 1977 tại trại tù Phong Quang. Ông Minh Thi khi ra tù thì
vượt biển tới Hồng Kông và tới Mỹ sau đó. Nhưng ông
Minh Thi chỉ mới công bố tên của nhà thơ, còn người đem
hình ảnh nhà thơ từ trong nước ra hải ngoại để giới
thiệu với đồng bào hải ngoại là ông Trần Nhu. Ông Nhu
đã liên lạc về Việt Nam để lấy được cái ảnh của
nhà thơ . Ông Nhu hiện nay sống tại San Jose và cũng là bạn
tù của nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Ông cho biết anh em trong
tù hầu như thuộc lòng thơ Nguyễn chí Thiện. Nhà văn Vũ
thư Hiên sau này viết cuốn sách hồi ký " Ðêm giữa ban ngày
" cũng có nhắc đến mấy câu thơ của Nguyễn chí Thiện từ
lúc ở chung trong tù mà ông còn đọng lại trong trí nhớ.
Hình
Nguyễn Chí Thiện
Hoa địa ngục gây ngay sự xúc động
mãnh liệt ở người đọc vì nhà thơ đã bộc bạch những
tâm sự bức xúc, đau đớn thiết tha mà người nào ,nếu
còn có một con tim, khi đọc đến thì không thể không cảm
động. Phải nói là lúc tập thơ có mặt ở Cộng đồng hải
ngoại, ai có đọc qua đều cũng phải xuýt xoa khen ngợi tập
thơ . Phải nói là mấy chục năm nay, chưa bao giờ người
ta đọc được một tập thơ hay như thế. Thơ tả cảnh, tả
tình, thơ chiến đấu, loại nào cũng đạt đến trình độ
nghệ thuật cao, toàn bích. Cái hay của thơ Nguyễn chí Thiện
là ông dùng những chữ rất bình dị, mộc mạc chứ không
dùng chữ dao to búa lớn, nhưng vì chữ đặt đúng chỗ đắc
địa nên đã tạo nên được một hồn thơ dào dạt và do
đó thơ ông đi sâu ngay vào tim óc người đọc. Vả lại,
tai họa Cộng sản ụp xuống cả dân tộc Việt Nam nên hầu
như mọi người đều là nạn nhân đau thương của chế độ
gian ác, bất nhân. Cho nên khi đọc những vần thơ máu lệ,
người đọc có ngay sự đồng cảm rung động thiết tha.
Có điều cần nói ở đây là sau
vụ đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm người ta cứ tưởng là ở
miền Bắc không ai còn dám chống lại Cộng sản. Tập thơ
" Hoa địa ngục " của Nguyễn chí Thiện cho thấy không phải
như vậy, người dân miền Bắc vẫn tìm cách chống đối
bạo quyền Cộng sản bằng cách này hay cách khác. Nguyễn
chí Thiện đã chọn hình thức thơ ca như một vũ khí lợi
hại để chống lại bạo quyền. Trước khi tập thơ được
in thành sách ở hải ngoại vào tháng 10.1980, những vần thơ
sắt đá đẫm máu lệ của Nguyễn chí Thiện đã được lưu
truyền ở miền Bắc , điều đó chứng tỏ thơ Nguyễn chí
Thiện đã được nhân dân Việt Nam yêu thích từ lâu trước
khi nó được xuất bản thành sách. Dĩ nhiên lý do dễ hiểu
là thơ Nguyễn chí Thiện hay nên dễ đi sâu vào tim óc người
đọc.
Thử đọc vài câu nói lên tâm tình
bức xúc của tác giả trong cảnh tù tội :
" Tôi thường khóc thảm
thê như đứa nhỏ
Mái nhà xưa trong giấc ngủ mơ
về
Nhưng ban ngày khi thức tỉnh
không mê
Mắt tôi ráo, thâm quầng, tia
máu đỏ
( Ghi chép vụn vặt số 7)
Ai không rướm lệ khi đọc những
lời nói thống thiết,chua cay như được vắt ra từ trái tim
rướm máu:
" Nếu có trời, đời
tôi phải khác
Ðâu bị đói nghèo, tù lao tan
tác !
Vì tôi chưa làm việc gì độc
ác
Và luôn sống với tâm tình chất
phác
Dù toàn gặp những điều bội
bạc
Và lòng buồn như đêm sa mạc!
( Nếu có trời)
Ông vắt máu từ tim để viết ra những
lời thơ trên và đã làm cho người đọc bồi hồi xúc động
cả tâm can. Thế mới biết những gì xuất phát chân thành
từ trái tim thường làm trái tim xúc động.
Trong tập thơ , ông đã phần nào
hé mở tuổi tác của ông qua bài " Hiện tại "
" Hiện tại mồ hôi chùi
xóa nhẵn
In hình đen xạm xuống da nhăn
TRÒN BA MƯƠI TUỔI XÒE TAY TRẮNG
Nắn bóp đôi chân nát sẹo lằn
Quá khứ mang đầy những khát
khao
Vỡ tan ngàn mảnh cắm sâu vào..
Quay đầu ngoảnh lại trông chi
nữa?
Hãy cố dần lê tới hố đào
!
Ðợi chờ ngày tháng không mang
lại
Thân thế chìm trong tiếng thở
dài
Thôi nếu tim còn dư chút mực
Trang đời xin gạch chữ tương
lai
( 1968)
Bài thơ làm năm 1968 và tác giả cho
biết ông được tròn 30 tuổi, như vậy thì ông phải sinh
năm 1938 hay 1939 ( tùy theo tuổi ta hay tuổi tây). Toàn bộ tập
thơ ông hoàn toàn không nhắc chi đến vợ con, chỉ thỉnh
thoảng nhắc lại vài mối tình lở dở trong quá khứ. Qua
bài thơ " Tôi,một kẻ " ta càng thấy rõ cái thân thế cô
đơn của ông hơn:
" Tôi, một kẻ không gia
đình,bè bạn
Sống một mình,bệnh hoạn xanh
xao
Chai nước con, chiếc điếu hút
thuốc lào
Chiếc giường vải, chiếc bàn
bằng gỗ cũ
Ðồ đạc tôi thế là tạm đủ
Cuộc sống nghèo hèn, không ước
không mơ
Ngoài thời gian dạy học vài
giờ
Tôi tìm kiếm niềm khuây trong
sách vở
Ít ra khỏi căn buồng con tôi
ở
Chủ nhật, ngày thường tôi
thấy như nhau
Những khi buồn tôi đem điếu
ra lau
Hoặc khe khẽ ngâm một vài câu
thơ cổ
Mỗi tháng một lần tôi mang
phiếu sổ
Tiêu chuẩn thịt, đường một
lạng mua ăn
Trong lòng tôi chỉ một nỗi
băn khoăn
Sợ bị bắt,bị nghi là bất
mãn."
Ðó là nói qua thân thế cô đơn của
nhà thơ. Ðọc tập thơ ngoài những lời thống thiết tả
những cảnh đói ,cảnh hành hạ đau thương của kiếp sống
của người tù cải tạo trong chế độ Cộng Sản, người
ta ngạc nhiên khi thấy tác giả có những kiến thức phong
phú về thế giới bên ngoài. Từ chuyện chê trách triết gia
Bertrand Russell bênh vực Việt Cộng trong bài " Gửi Bét- Tran
Rút-Xen" trong đó có bốn câu mở đầu khá vui như sau:
" Ông là một bậc triết
nhân
Nhưng về chính trị ông đần
làm sao
Ông bênh Việt Cộng ồn ào
Nhưng ông hiểu chúng tị nào
cho cam"
Và ba câu chót của bài thơ này cũng
đầy vẻ mỉa mai ,mát mẻ
" Tuổi ông ngót nghét
một trăm
Nhưng thua cậu bé mười lăm
đói gầy
Về môn " Cộng sản học ‘
này!
( 1968)
Chính ông cũng thú nhận mình đọc
sách vở Ðông Tây nhiều, dĩ nhiên điều này có lợi là mở
mang kiến thức , mở rộng tầm nhìn nhưng cũng có cái hại
là nó làm cho trí óc phải mệt mỏi vì những mâu thuẫn trong
cuộc sống so với những điều đọc từ sách vở :
Nếu tôi có một cái đầu
đơn giản
Không nặng nề bao sách vở đông
tây
Thời trái tim tôi bớt mọi đọa
đầy
Do mâu thuẫn giằng co nhau hỗn
loạn.
Sống trong tù đày tối tăm ,ông dệt
giấc mơ bay tới những phương trời xa lạ, đẹp đẽ bằng
những lời thơ óng ánh, mượt mà trong bài thơ " Tôi chưa
sống " :
" Tôi chưa sống cuộc
đời tôi định sống
Tôi còn yêu bao giấc mộng thương
yêu!
Philippovna, Marguerite, Thúy Kiều
Chiều Mạc Tư Khoa nắng lòa
đất thánh
Ðêm Danube nước trời sao lấp
lánh
............................( 1969)
Ông tiếp tục dệt giấc mơ xa bằng
những nhân vật lịch sử trong văn học cũng như ở ngoài
đời khắp thế giới:
" Tôi muốn sống với
Vũ Tùng đã hổ
Với Quan vân Trường mặt đỏ
râu đen
Vào lính ngự lâm cùng Athos làm
quen
Bạn với D’ Artagnan, Porthos
và Aramis!
Tôi muốn tới Palestine, mồ Jesus
Christ
Cùng Ai-Van Hô làm cuộc Thập
Tự Chinh
Sống một ngàn một đêm lẻ
trong dinh
Dựng lên bởi Thần đèn giúp
A-la-Ðanh
cưới vợ
Sang châu Mỹ đất tân kỳ man
rợ
Cùng Jack London đi xe chó tìm
vàng
Tôi muốn sang Nga yến tiệc với
Nga Hoàng
Tiếp chuyện André một chiều
trên bến nước
Cùng Pethchorine giữa Caucase dạo
bước
Ðấu súng, đấu gươm, khiêu
vũ chan hòa
Gặp Dostoi trong đêm trắng pha
trà
Mặc tuyết rơi, ngồi bên ấm
Samovar
An ủi chàng sinh viên giết người
Raskolnikov
Khuyên Philippovna lấy chàng ngốc
hiền hòa
Tiếp tục hành trình tôi tới
Tây Ban Nha
Theo Don Quichotte đi phò nguy cứu
khổ
Sống thỏa thuê tôi trở về
đất tổ
...................................
( 1962)
Phải nói dù là một người dân ở
ngay thủ đô Hà Nội trong những năm trước 1975 cũng khó có
một cái nhìn rộng rãi và bao quát hơn nhà thơ về tình hình
nước ngoài. Ở tù gần như suốt cả cuộc đời ông vẫn
vận dụng những phương tiện truyền thông báo chí để tự
trang bị cho mình một kiến thức khá đầy đủ về tình hình
thế giới về phương diện chính trị cũng như về văn học.
Ðó quả là một điều đáng phục.
Ngoài những câu thơ ai oán cực
tả cảnh tù đói nghèo khốn nạn có một không hai làm người
đọc ứa lệ, tập thơ có những câu thơ sắc bén như dao,
mạnh như vũ bão nhằm bày tỏ ý chí của nhà thơ trong chuyện
đối đầu với bạo quyền Cộng sản Việt Nam:
Cuộc chiến đấu này
chưa phân thắng phụ
Ta vẫn còn đây và sắt thép
còn kia
Chết chóc thầm câm, cốt nhục
chia lìa
Ta vẫn sống và không hề lẫn
lú
Ta muốn nói với loài dã thú
Khúc hát khải hoàn ta sẽ hát
thiên thu !
( Cuộc chiến đấu này - 1975)
Ông nhìn ra sức công phá mãnh liệt
của toàn dân khi vận nước tới. Nó sẽ kinh khủng như bom
nguyên tử sau bao năm tháng bị đọa đầy, áp bức. Biến
cố nổi dậy của nông dân Thái Bình và Xuân Lộc đã cho
thấy giai đoạn đầu của sự bùng vỡ. Người Cộng sản
thường đề cao câu nói " Có áp bức thì có đấu tranh ",
nay thì đúng là chuyện " gậy ông đập lưng ông " xảy ra
cho bọn chúng: người dân khi không còn chịu đựng nổi sự
hà khác, bóc lột thì chỉ còn một cách duy nhất là đứng
dậy. Hơi thơ trong bài này giống như một sức ép tụ lại,
chờ đúng thời điểm là bung ra để phá vỡ tất cả những
câu thúc, trói buộc:
Trong bóng đêm đè nghẹt
Phục sẵn một mặt trời
Trong đau khổ không lời
Phục sẵn toàn sấm sét
Trong lớp người đói rét
Phục sẵn những đoàn quân
Khi vận nước xoay vần
Tất cả thành nguyên tử
( Trong bóng đêm - 1976)
Có sống trong lòng Cộng sản nhiều
năm, chịu nhiều sự bức bách , đàn áp, hành hạ, người
ta mới thấy rõ sự thù hận chất chồng kinh khủng của người
dân đối với chế độ Cộng sản cho nên ngày " tức nước
vỡ bờ " phải là một ngày bùng nổ mãnh liệt không thể
tưởng tượng đúng như nhà thơ tiên đoán.
Dịch giả tiếng Ðức của tập
thơ " Hoa địa ngục" là tiến sĩ Bùi hạnh Nghi cũng có lời
bàn chí lý về bài thơ này như sau, " Bài thơ này được sáng
tác năm 1976, sau ngày miền Nam thất thủ. Từ giọng văn đanh
thép với những danh từ thuộc lãnh vực chiến trận ( phục
sẵn, sấm sét, đoàn quân, nguyên tử ) toát ra một sức mạnh
như vũ bão xoáy vào tim óc người đọc. Niềm tin vào sinh
lộ ở cuối chặng đường tử lộ phát nguồn từ chân lý
mà Nguyễn chí Thiện đã tìm thấy trong lịch sử dân tộc,
lịch sử được kết bằng một chuỗi dài chiến thắng vẻ
vang minh chứng cho định luật " chính nghĩa thắng bạo tàn
". Vận nước sẽ xoay vần nhưng không do số mệnh hoặc "
trời ban" mà sẽ là kết quả của cuộc chiến từ nhân dân,
khi mọi người sẵn sàng " đập tan hết để xoay vần mệnh
số . "
Ông đã đánh giá rất đúng khả
năng tác dụng mãnh liệt của những lời thơ ông trong công
cuộc chiến đấu chống bạo quyền:
"Những vần thơ có hình
dạng là thơ
Song sức phá vạn lần hơn trái
phá."
( Với tôi, ngày sống là - 1971)
Giá trị của thơ Nguyễn chí Thiện
không chỉ nằm ở phương diện nghệ thuật ( tập thơ " Hoa
địa ngục " đã trúng giải thi ca Quốc tế năm 1985) , mà
nó còn có giá trị của một loại sấm ký thời đại. Chuyện
Liên Xô và khối Cộng sản Ðông Âu sụp đổ cho thấy nhà
thơ đã tiên đoán đúng sự tàn lụi của Cộng Sản, bao giờ
tới phiên Việt Nam thì chỉ là vấn đề thời gian mà thôi:
Tôi tin chắc một điều
Mộït điều tất yếu
Là ngày mai mặt trời sẽ chiếu
Tôi lại nghĩ một điều
Một điều sâu thẳm
Là đêm tàn Cộng sản tối tăm
Có thể kéo dài hàng mấy mươi
năm
Và như thế sẽ buồn lắm lắm
Cho kiếp người sống chẳng
bao lăm!
( Tôi tin chắc- 1969)
Ðối với Cộng sản ông bày tỏ một
lập trường dứt khoát, quyết liệt:
Vợ con có thể bỏ
Cha mẹ có thể từ
Cộng sản thì sinh tử
Mới thoát và tự do.
Ông còn ân cần khuyên nhủ chúng ta:
Ðừng sợ cái cực kỳ
man rợ
Dù nó đương thịnh thời rông
rỡ nơi nơi
Phải vững tin vào bước tiến
con người
Vì khi nó bị dìm ngang súc vật
Cũng là lúc nó tìm ra sức bật
Ðau thương kỳ diệu đi lên
!
Từ muôn ngàn tàn lụi không
tên
Sẽ bùng nở một trời hoa lạ
quý
Từ đêm cùng chập chùng chuyên
chế
Văn minh nghệ thuật hồi sinh
Chỉ xót cho lớp trẻ hiện hình
Của đói khổ, tù đày, nhem
nhuốc
Phải cứu chúng, phải tìm ra
phương thuốc
Dù là thuốc nổ
( Ðừng sợ - 1975)
Nguyễn chí Thiện chỉ sắt đá với
kẻ thù Cộng sản, còn đối với cha mẹ, anh em và đồng
bào ruột thịt, trái tim ông lúc nào cũng mở rộng, thương
yêu vô bờ bến. Ông đau xót nhìn những trẻ em xanh xao như
tàu lá chuối đến một cụ già ngồi bán rau cũng như tỏ
bầy tình cảm thương yêu, xót xa đối với một cô gái có
bệnh lao mà ông gặp trong tù.
Trong bài thơ " Anh gặp em ", ông
bày tỏ tấm lòng nhân hậu đến cô gái khốn khổ, đáng
thương bằng những lời lẽ chân thành xót xa từ trái tim
:
.......Em là đau khổ hiện
thân
Ngấn lệ đêm qua còn dấu hoen
nhòa
Trên gò má tái
Trong lòng anh bấy nay xám lại
Nhìn em , lệ muốn chảy dài
.....
Sớm qua ngồi, tay anh em nắm
Muốn truyền cho nhau chút tình
lửa ấm
Mặc bao ngăn cấm đê hèn
Sáng nay em không trống không
kèn
Giã từ cuộc sống
Xác em rấp trên đồi cao gió
lộng
Hồn anh trống rỗng tả tơi
...
( 1964)
Ngoài tình cảm trai gái thông thường,
tình dành cho những trẻ em tù tội, Nguyễn chí Thiện dành
cho mẹ ông những tình cảm thật trong sáng cảm động. Cả
cuộc đời tù tội, ông biết ông mang tội bất hiếu, làm
khổ mẹ cha. Mẹ ông cũng đau đớn khi có một đứa con trai
chôn vùi cuộc trời trong những trại giam tăm tối nhất dương
gian trong chốn rừng sâu núi thẳm. Bà mẹ Nguyễn chí Thiện
cũng là bà mẹ điển hình Việt Nam, sống trong chế độ tàn
độc Cộng sản, chỉ còn biết chảy nước mắt khóc đứa
con trai tù tội bất hạnh. Con càng bất hạnh, mẹ lại càng
thương hơn. Tình mẫu tử bao giờ cũng là một tình cảm thiêng
liêng và cao quý nhất trên đời. Nguyễn chí Thiện bày tỏ
tình cảm thương yêu thiết tha với mẹ ông bằng những lời
lẽ tha thiết,cảm động :
Mẹ tôi trong những ngày
giỗ chạp
Thường ngồi chắp tay cầu khấn
giờ lâu
Chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc
màu
Tôi chỉ thấy mẹ dùng khi lễ
bái
* * *
Ðời của tôi nhiều khổ đau oan
trái
Mẹ bao giờ cũng cầu nguyện
cho tôi
Ðứa con trai tù tội mấy phen
rồi
Hàng nước mắt chảy giòng trên
má mẹ
* * *
Ngồi bên mẹ, tôi thấy mình nhỏ
bé
Tình thương yêu của mẹ lớn
bao nhiêu
Mẹ ơi, con lòng chỉ nguyện
một điều
Ðược gần sống, đừng lìa
xa khỏi mẹ
* * *
Giờ hẳn mẹ mỗi khi ngồi cầu
lễ
Cho đứa con tù bệnh chốn rừng
sâu
Chiếc áo hoa hiên cũ đã bạc
màu
Phải đầm ướt biết bao hàng
nước lệ !
( Mẹ – 1963)
Ðối với bất cứ người con nào
trên trái đất này, ngày mẹ mất là ngày đau thương nhất
trong đời. Nguyễn chí Thiện cũng thế, năm 1970, khi còn ở
trong trại tù,ông nhận được tin mẹ mất, ông khóc mẹ bằng
mấy câu thơ ngắn tức tưởi, bàng hoàng để cực tả sự
đau thương cùng cực của người con khi nghe tin mẹ qua đời
:
Mẹ ơi !
Mẹ đã mất rồi !
Trái đất không còn có mẹ
Mẹ chẳng bao giờ còn thấy
mặt con
Còn khóc nữa !
Con chẳng cần ra tù nữa
Nếu thầy không còn sống, mẹ
ơi !
Mẹ đã mất rồi
Mãi mãi không còn thấy mẹ !
Mai hậu đời con cũng hết
Mà vẫn không thấy mẹ, mẹ
ơi !
( Mẹ ơi ! –1970)
Ai đọc những câu thơ xót ra trên
mà không rơm rớm nước mắt. Thơ Nguyễn chí Thiện không
chỉ là thơ chiến đấu, nó còn là nguồn nước cam lồ tươi
mát dội xuống tâm hồn người đọc làm khơi dậy những
tình cảm yêu thương tha thiết và trong sáng của con người
. Cộng sản dùng tù đày để ly cách người thân ruột thịt
nhằm thủ tiêu tình cảm con những con người chống đối
chúng. Thơ Nguyễn chí Thiện như dòng suốí ngọt ngào, thanh
khiết nhằm khơi dậy những tình cảm đáng quý của con người
. Nguyễn chí Thiện đã thành công khi làm cho mọi người muốn
tắm mát trong dòng sông yêu thương trong thi ca ông. Cái đẹp,
cái yêu thương sẽ trường tồn miên viễn, cái ác dù không
biến mất trong chốc lát, nhưng dần dà cũng bị đào thải
biến mất theo thời gian.
Mặc dù sống trong tù đày tăm tối
27 năm, Nguyễn chí Thiện vẫn nhìn thấy ánh sáng cuối đường
hầm, ông nhìn thấy ngày mai tươi sáng khi Ðảng Cộng sản
bị tiêu diệt. Tình hình sôi động ở Việt Nam trong những
ngày gần đây cho thấy ngày lâm chung của Cộng sản cũng
đã gần kề. Cựu tướng Cộng sản Trần Ðộ cho biết chế
độ Cộng Sản Việt Nam mắc bệnh nhưng lờ đi không chịu
chữa. Bệnh của chúng thuộc loại ung thư chỉ chờ ngày ngã
gục vì hệ thống của chế độ mục rã từ dưới lên trên,
chỉ cần một đóm lửa mồi là căn nhà bốc cháy, thiêu rụi
cái chế độ gian ác, tàn độc nhất trong lịch sử Việt
Nam.
Luật sư Trần thanh Hiệp trong bài
viết " Nguyễn chí Thiện và thơ của ông " ( Bài viết ra đời
trước khi Nguyễn chí Thiện đến Mỹ), đã có những lời
phê bình chính xác khi đối chiếu thơ Nguyễn chí Thiện với
nền thi ca Tây phương như sau:
-
Nguyễn chí Thiện, người khách
lạ.
Ðầu thập niên 80, Nguyễn chí Thiện
đã vào sứ quán Anh quốc tại Hà Nội để quăng tập thơ
ông sáng tác trong suốt hai mươi năm ông bị tù, bị cải
tạo, bị quản thúc..
Sau đó dưới nhiều tiêu đề khác
nhau, thơ ông được xuất bản ra nước ngoài, được phổ
nhạc, được dịch ra ngoại ngữ , được giới thiệu qua
báo chí và những buổi ngâm, đọc, hội thảo..
Thành phố Rotterdam của Hòa Lan đã
tặng ông Giải Thưởng Thơ Rotterdam. Ân Xá Quốc Tế ghi tên
ông vào danh sách những người cầm bút bị đàn áp vì chính
kiến . Nhiều trung tâm quốc gia của Văn Bút Quốc Tế bầu
ông làm hội viên danh dự , trong đó có văn bút Pháp, Ðức
, Hòa Lan..
Nguyễn chí Thiện hiện nay là một
tác giả Việt Nam được giới văn hóa và truyền thông nói
tới nhiều nhất . Riêng đối với đồng bào của ông, Nguyễn
chí Thiện được tôn vinh như một anh hùng chống cộng và
trở thành biểu tượng của truyền thống bất khuất của
dân tộc.
Mối thiện cảm đặc biệt ấy
không làm mất đi những nghi ngại theo đó có thể Nguyễn
chí Thiện vẫn còn là một người khách lạ trước ngưỡng
cửa của thế giới phương Tây. Vì sự cách biệt về mọi
mặt giữa hai chế độ " xã hội chủ nghĩa " , nơi ông sống,
và " tự do ", nơi ông tìm đến. Vì qua mấy trăm bài thơ của
ông, Nguyễn chí Thiện như đã mang tới cả một thế giới
hoàn toàn xa lạ với thế giới phương Tây.
Dịch toàn bộ - hay ít ra một số
lượng tương đối đủ - thơ của Nguyễn chí Thiện và xuất
bản dưới hình thức song ngữ , đối chiếu bản dịch với
nguyên tác, là một sáng kiến rất đáng hoan nghênh vì tạo
cơ sở hầu tìm hiểu tác giả không qua trích dịch mà qua
toàn văn tác phẩm.
-
Trả Nguyễn chí Thiện về địa
hạt thơ
Việc cần làm để giới thiệu Nguyễn
chí Thiện , trong những điều kiện đó, sẽ phải là việc
trả ông về địa hạt thơ, vị trí hóa thơ ông đối với
thơ trên thế giới.
Louis Aragon, một nhả thơ nổi tiếng
của Pháp, đã nói, " Chỉ có điên mới viết về thơ. Thơ
làm được, không giải nghĩa được...." ( Do Bernard Delvaille
trích dẫn trong tạp chí Magazine Litterairé số 247).. Tuy không
đến nỗi vậy nhưng quả thật có những khó khăn để nói
về thơ Nguyễn chí Thiện. Một phần vì những tin tức liên
quan đến cuộc đời, sự nghiệp văn thơ của ông đều phải
tiếp nhận với mọi dè dặt. Phần khác, vấn đề dư luận
phương Tây ưu tiên đặt ra không phải là phê bình tác phẩm
của ông mà là bảo vệ an ninh, tự do cho ông. Sau hết, Âu
Châu là nơi đả sản xuất nhiều nhà thơ lớn, nhiều trường
phái về thơ, đã viết cho thơ những trang sử rất phong phú
từ nội dung đến hình thức. Ðể cho thơ Nguyễn chí Thiện
đi vào được không gian đó cần phải có một sự dẫn nhập
thích đáng về nhân cách của ông, được biểu lộ qua thái
độ trước cuộc sống đầy bất hạnh mà ông đã phải gánh
chịu, về bút pháp trong thơ ông, đã phản ảnh một cách
điển hình và linh động thời đại ông,về sự đóng góp
- nếu có - của thơ ông trong thơ của hậu bán thế kỷ thứ
20. Người ngoại quốc , nói chung, khi đọc thơ Nguyễn chí
Thiện thường nhận định rằng thơ ông tuy không có sự hỗ
trợ của tu từ học ( Rhétorique) mà vẫn xót xa, thống thiết,
làm rung động người đọc. Ðó là một nhận định căn cứ
vào thơ dịch, không phải thơ nguyên tác. Cần phá bỏ được
hàng rào ngăn cách về mặt ngôn ngữ để họ đi thẳng vào
thơ ông mà thẩm lượng.
-
Thơ Nguyễn chí Thiện: bản cáo
trạng.
Một điều đã được nhiều người
nói tới nhiều lần: mấy trăm bài thơ của ông đã hợp thành
một bản cáo trạng nghiêm khắc lên án toàn bộ chế độ
Cộng sản hiện nay ở Việt Nam và cuộc đời tù tội gần
ba mươi năm của ông là một tội chứng hỗ trợ cho bản
cáo trạng ấy.
Nói như vậy không sai nhưng không
đủ vì chỉ kể kết qủa mà không lý gì tới phương tiện
mặc dầu chính phương tiện mới là điều đáng nói trước
. Nguyễn chí Thiện đã đóng được trên trán những người
cầm quyền Cộng sản dấu ấn tội ác chống con người, chống
nhân dân, chống hòa bình, chống tự do, chống công lý. Trước
hết, ông là một nhà thơ. Biết bao nhiêu người đã nói những
điều Nguyễn chí Thiện nói nhưng đã không tạo được tiếng
vang trong dân chúng cũng như trước dư luận quốc tế như
Nguyễn chí Thiện. Tuyên dương công trạng cho ông mà chỉ
kể ông như một chiến sĩ chống cộng bậc nhất hay như một
nhà cách mạng sắt máu là chưa đặt ông đúng vị thế xứng
đáng. Sự thật ông chỉ là một nhà thơ đã dám sống chết
với thơ của mình, một nhà thơ với một thân hình đau ốm,
với một cuộc sống mà tất cả mọi quyền đều bị tước
đoạt, nhưng với một vũ khí độc nhất là ngôn ngữ , đã
duy trì được một cuộc đối kháng lâu dài chống cả một
bộ máy đàn áp khổng lồ mà không bị tiêu diệt.
-
Thơ Nguyễn chí Thiện : Một thách
đố chống bạo quyền
Vinh quang của ông chính là việc ông
liên tục hiện diện trong lòng kẻ địch, như một thách đố
thường trực, ngạo nghễ. Một thành tích như vậy, chỉ có
một nhà thơ mới thực hiện được nhưng không phải bất
cứ một nhà thơ nào cũng làm nổi.
Nguyễn chí Thiện thuộc thế hệ
những người Việt Nam sinh vào thập niên 30, vào đời đúng
lúc đất nước chuyển mình với cuộc chiến đấu của toàn
dân giành độc lập. Như mọi thanh niên khác thuộc lớp tuổi
mình, ông là sản phẩm của hai nền văn hóa Ðông và Tây,
được tôi luyện và kết tinh trong cuộc vật lộn của dân
tộc với định mệnh để đoạn tuyệt với kiếp sống nô
lệ. Trong ông đã vang lên nhiều tiếng gọi thiêng liêng của
tiền nhân, của sông núi, của tương lai. Những kiến thức
văn hóa đã mang tới cho ông những nhận thức xã hội vững
chắc, bén nhậy và tiến bộ để ông kịp thời nhìn thấy
nơi Ðảng Cộng Sản Việt Nam hành động tiếm đoạt lịch
sử , phản bội đồng bào. Và ông đã không khiếp sợ, ngang
nhiên chống lại bạo quyền với chí khí, can trường của
bậc trượng phu, mẫu người lý tưởng mà ý hệ áp đặt
của Cộng sản đã không tẩy xóa nổi trong ký ức tập thể,
trong tâm tư của lứa tuổi đã lớn lên bằng biến động
của xã hội. Từ nhân cách đặc biệt ấy đã toát ra một
bản lĩnh sống rất cao, giúp cho ông có đủ sức mạnh thi
gan với kẻ địch.
-
Chứng từ về lịch sử và dự
ước
Những điều đã khiến Nguyễn chí
Thiện không giống những người cùng chống đối như ông
chính là niềm rung cảm tinh tế của ông. Nhờ rung cảm đó
ông nghe thấu được lòng người và - một điều hiếm có
- bắt được tần số của lịch sử. Tất cả mọi nhà tù
chỉ giam giữ, hành hạ được thể xác ông và hoàn toàn bất
lực trước rung cảm của ông.
Với rung cảm của mình, ông như
được chắp đôi cánh thiên thần bay khắp đất nước để
nhìn sâu tận đáy tần xã hội, mở rộng được tầm mắt
hướng về chân trời của tương lai, tìm đường đưa tới
giải thoát. Từ một nhân chứng sống của hiện tại, ông
đã trở thành một nhà dự ước cho ngày mai.
Czeslaw Milosz, nhà thơ được giải
Nobel về văn học, trong một bài giảng về thơ tại Ðại
học đường Harvard, đã nêu lên cách một nhà thơ cảm thụ
lịch sử. Sử tính, dưới mắt một nhà thơ, không nhất thiết
phải là những cảm giác mạnh mọi người đều có về những
biến cố lớn như chiến tranh, ngoại xâm.v.v..mà có thể chỉ
là những lưu luyến tầm thường về cảnh vật, về người,
hay một chi tiết về kiến trúc... Nhà thơ, trước đe dọa
bị mất đi những gì mình yêu thương, sẽ vận dụng năng
khiếu đặc biệt của mình để đo kích thước thời gian,
cảm nhận dĩ vãng, dự báo tương lai.
Với năng khiếu ấy, Nguyễn chí
Thiện đã chụp bắt xã hội Việt Nam trong suốt quá trình
nó bị Cộng sản hóa. Chụp bắt để diễn đạt một cách
có chọn lọc, có cấu trúc, có cường độ,có bề rộng,
bề sâu, theo cung cách một nhà thơ.
Trước đây người ta chỉ nhìn
nhận là có thơ nếu có vần, có điệu. Gần đây người
ta đã đi tới chấp nhận có thể có thơ không cần vần điệu.
Nhưng thực chất của thơ không ở nơi vần điệu mà ở nơi
hồn thơ, ở tài làm thơ. Fit orator, nascitur poeta, hùng biện
nhờ luyện tập, còn thơ thì do bẩm sinh.
Nguyễn chí Thiện có đủ tất cả
những gì một nhà thơ cần phải có. Ðể đi tới kết luận
đó, không cần mất công tìm kiếm, chỉ cần đọc bài trường
thi Ðồng Lầy của ông. Với một hơi thơ dài 480 câu, bài
thơ Ðồng Lầy đã cho nhìn thấy được một thảm kịch mà
cả một dân tộc là diễn viên, mà kịch tính đã đạt tới
những giới tuyến cuối cùng của tai họa, từ độ sâu đáy
vực đến đỉnh cao của thăng hoa.
Ðồng Lầy là một trận đánh thư
hùng bằng ngôn ngữ giữa Thiện và Ác, giữa Chính và Tà,
diễn ra trước ánh sáng chói lòa của đạo lý, của tình
người, của lịch sử.
Nguyễn chí Thiện đã lột mặt
nạ cả một tập đoàn tiếm danh- Cộng sản- bắt các phạm
nhân thụ hình trên tội ác chất đầy của họ. Nguyễn chí
Thiện đã thương xót từng nạn nhân một, tẩm liệm chôn
cất những người đã chết, dìu đỡ những người còn sống
sót, cùng đau với họ nỗi đau của cuộc đời nửa sống
nửa chết. Nguyễn chí Thiện đã phá hủy những thành lũy
của tuyệt vọng vây hãm cả một dân tộc và mong mở ra một
sinh lộ để nó tự cứu.
Nguyễn chí Thiện đã đột nhiên
xuất hiện như một thiên tướng giữa trời thơ, và sau khi
chiến thắng, đã bay khỏi chiến địa. Trận đánh Ðồng
Lầy đã kết thúc. Trắng đen đã rõ, chính tà đã phân định.
Từ nay, Cộng sản không còn đồn lũy danh nghĩa để ẩn nấp.
Gian dối, lừa lọc, đã hiện nguyên hình. Bên cạnh Ðồng
Lầy, những bài thơ khác của ông chỉ còn là những vết
tích hoang tàn rải rác trên chiến trường. Những thành tựu
mà Nguyễn chí Thiện đã đạt được không phải là những
thành tựu của chính trị mà của thơ. Nguyễn chí Thiện đã
dùng thơ để tấn công kẻ địch, ông nhận diện bằng con
mắt của nhà thơ. Ông đã đánh kẻ địch trên chiến trường
ông lựa chọn và ông hoàn toàn làm chủ: ngôn ngữ.
-
Chỗ đứng của Nguyễn chí Thiện
trong văn học.
Thơ không khác sự sống còn non trẻ
của nhân loại gì cả. Khởi đầu của sự sống là ngôn
ngữ và thơ trước hết là ngôn ngữ . Thơ vì vậy gợi lại
thuở ban đầu, tượng trưng cho vô nhiễm, trong trắng, vô
tội. Cho nên tiếng nói của thơ tự nó là một uy lực có
sức nặng không gì lay chuyển nổi, là một hệ thống vũ
khí mà sức công phá không gì chống đỡ được. Bằng thơ
của ông, Nguyễn chí Thiện đã hạ bút khai tử, trong lòng
người, cả một chế độ. Phần còn lại, không phải việc
của nhà thơ mà của người làm chính trị.
Khi nói thơ mình không phải là thơ
(Thơ của tôi không phải là thơ. Mà là tiếng cuộc đời
nức nở ) , Nguyễn chí Thiện đã lựa chọn đứng lại
trong " Ðồng Lầy", như một người tu hạnh bồ tát, nguyện
ở lại địa ngục với chúng sinh. Ông không mơ ước thành
Thi sơn hay Thái Sơn hoặc Hy Mã Lạp Sơn, mà chỉ muốn kết
tinh được tất cả những " khổ nhục không tưởng tượng
nổi của dân tộc " ông, dù thơ ông có bị lây chất dơ của
một thực tại xã hội đau ốm nghèo đói vùi dập đám dân
chúng đang rên siết dưới gông cùm của áp bức, lừa lọc,
hung bạo. Ông đã hiểu rõ những gì đang chờ đợi ông, giá
mà ông phải trả cho sự lựa chọn đó. Và ông đã trả giá
bằng sự tù tội của chính mình.
Thơ Việt Nam có cả một quá khứ
xa dài mấy ngàn năm của một cuộc sống chung giữa hai dòng
thơ: thơ nói xuất phát từ dân gian và thơ viết du nhập từ
Trung quốc. Giữa tiền bán thế kỷ 20, thơ của Pháp đã mang
đến cho thơ Việt Nam một sức sống, hình thành thêm một
dòng thơ thứ ba thường được gọi là thơ mới. Dòng thơ
này đã trải qua tất cả những kinh nghiệm mà các trường
phái Thi Sơn, Lãng Mạn, Tượng Trưng, Siêu Thực, Biểu Hiện..đã
trải qua để đổi mới thơ của Pháp. Trong cơn thức tỉnh
của dân tộc sau đệ nhị thế chiến, thơ mới lại thoát
xác lần nữa.
Tại miền Nam, thơ đã rời những
đỉnh cao, những tháp ngà, những hang động huyền bí để
hòa mình vào số đông , để " không còn cô độc" nữa. Cuộc
tái sinh của thơ miền Nam thật ra chỉ là sự biểu hiện
của bản năng muốn trở lại " thuở ban đầu ", nói tiếng
nói đầu mùa của tháng Giêng để đâm chồi nẩy lộc. Trong
cơn vật vã rũ bỏ những khuôn sáo đã cằn cỗi của ước
lệ, có lúc nó không còn giữ được bộ mặt quen thuộc của
thơ vì nó tự đập vỡ hình hài, triển khai một sức sống
vũ bão, lạnh lùng, chối từ vuốt ve của mộng ước, tiện
nghi của siêu thoát, son phấn của hóa trang. Nó muốn đứng
giữa cuộc đời , chiếu dọi vào cuộc đời cái nhìn thơ
dại để quán triệt cuộc đời mà không cần sự đưa dắt
của triết thuyết hay chủ nghĩa, ý thức hệ.
Tại miền Bắc, thơ đã bị chiếm
đóng bởi ý thức hệ, bởi quyền lực, nên nó đã không
tìm được con đường tái sinh theo bản năng. Nó phải mang
cùm xích của Chủ Nghĩa, của Ðảng, bị ép buộc phải rẽ
ngang vào con đường phải phục tùng, của giáo điều , của
suy tôn, của gian dối. Nó không còn vô nhiễm vì đã bị ô
nhiễm để chỉ còn là thủ thuật nịnh hót Bác Ðảng. Tiếng
thơ đã bị bóp nghẹt sau cuộc vùng dậy ngắn ngủi của
Nhân Văn Giai Phẩm.
Nguyễn chí Thiện đơn độc tiếp
tục cuộc vùng dậy ấy một cách bất khuất và tài trí.
Ông đã mang trong ông cả lịch sử thi ca Việt Nam để vận
dụng ngôn ngữ, kết hợp ảnh tượng, sắp đặt âm thanh,
phân bố ngữ điệu và nhất là đã sáng tạo ra những tên
gọi mới của Tội Ác, của Ðọa Ðày, của Khổ Nhục, của
Hy Vọng. Thơ của ông là chất liệu của văn học Việt Nam
từ đầu hậu bán thế kỷ thứ 20. Trong đổ vỡ hoang tàn,
ông đã tồn trữ được cả một kho ngôn ngữ thơ. Trong cuộc
giao tranh giữa những thế lực tiến bộ và phản động của
một xã hội đang chuyển mình để thay đổi vận mạng, ông
cho thấy người làm thơ nên chọn thái độ nào.
Ông đã đóng góp bằng tác phẩm
" Hoa địa ngục " vào cuộc tranh luận rất cổ điển giữa
hai quan niệm về thơ: thơ thuần túy và thơ ngẫu cảm. Ông
làm thơ như Goethe đã nói từ đầu thế kỷ trước, " Thơ
của tôi là thơ ngẫu cảm, xuất phát từ thực tế và dựa
trên thực tế. Tôi không cần đến những loại thơ bâng quơ.
" Thơ ông không phải là thơ của những người " nói mà không
biết " mà là thơ để nói thay cho những người " biết mà
không nói". Thơ ông cũng là nguyên mẫu của một loại thơ
" dấn thân" , không chịu sự chỉ huy của bất cứ chủ nghĩa,
tổ chức nào. Thơ ông chỉ là những " tiếng đời nức nở
" đã được ông đưa lên - nói theo cách Victor Hugo đã nói
- những sự kiện lịch sử, bằngg kỹ năng của bút pháp.
Ông không phải chọn lọc đề tài cho thơ ông. Tất cả những
gì ở chung quanh ông và đã đến với giác quan ông đều có
thể biến thành thơ.
Apollinaire cho rằng nhà thơ không
cần kiếm những tuyệt vời, mà có thể tìm cảm hứng ở
một việc vặt hàng ngày. Một chiếc khăn tay rơi cũng đủ
làm đòn bẫy để nhà thơ bẫy cả vũ trụ. Gustave Flaubert
cũng có một ý kiến tương tự, " Tất cả đều tùy thuộc
vào bút pháp. Truyện một con rận có thể hay hơn chuyện Alexandre."
Nguyễn chí Thiện là một trong những
ngòi bút rất hiếm ở miền Bắc còn giữ được sợi dây
liên lạc của Văn Học Việt Nam trải qua những đổi thay
về chính trị. Không thể nói tới thơ Việt Nam vào hậu bán
thế kỷ thứ 20 mà lại bỏ quên thơ Nguyễn chí Thiện, trong
đó đã được ghi khắc bước đi của lịch sử dân tộc
trong hơn ba mươi năm qua.
-
Những tên gọi mới của tội
ác.
Nhân loại đang bước vào thế kỷ
thứ 21 với những kỳ công của khoa học, với tham vọng chính
mình nắm trọn trong tay vận mạng của mình. Không còn chơi
vơi giữa cực tiểu và cực đại, nhân loại tin đã đạt
tới cực tiểu và bắt đầu cuộc hành trình tiến vào cực
đại. Con người tự coi là trung tâm của chính mình. Nó hầu
như biết tất cả nên mất đi những cảm giác về huyền
diệu,về thiêng liêng. Vì vậy nét đậm của thơ cuối thế
kỷ 20 là ủ ê, rầu rĩ.
Cũng là một điều dĩ nhiên nếu
nhà thơ Nguyễn chí Thiện được tiếp đón như một khách
lạ. Con người hôm nay có thể đã quên đi bộ mặt hôm qua
của mình và, tới một lúc nào đó, không cảm thấy sự cần
thiết phải quay về dĩ vãng tìm hình bóng cũ. Nên trách người
làm thơ không rảo bước hay trách người đi trước đã quá
mau? Một câu hỏi không nên vội trả lời.
Nguyễn chí Thiện cũng như nhiều
nhà thơ Việt Nam khác đã xuất nạp vào lương tâm con người
những từ chứng của một nhân chứng thời đại. Nếu thơ
hiện nay không còn bị huyền diệu, thiêng liêng quyến rũ,
không còn phải giữ vai trò ứng trước hạnh phúc, nó vẫn
còn phải nói đến đau khổ của con người, những đau khổ
không phải là sản phẩm của tưởng tượng mà của thực
tế. Chủ nghĩa cộng sãn đã được loan báo như một phương
thuốc cứu khổ không thể tránh khỏi. Dân chủ tự do được
ca ngợi như hạnh phúc không có không được của con người.
Cuộc tranh chấp giữa Cộng sản và tự do đã tạo ra cho dân
tộc Việt Nam những đau khổ, nhục nhã cho đến nay chưa có
tên gọi. Ðó là bản kết toán hùng hồn mà thơ Nguyễn chí
Thiện đã đưa ra trước dư luận.
Cái khó khi nói về thơ Nguyễn chí
Thiện có lẽ là việc phải tìm ra được những tên gọi
để đánh giá sự thành công của ông trong cuộc dấn thân
đầy can đảm mà ông đã làm để thể nghiệm và nói lên
một cách đích thực những đau khổ và nhục nhã ấy. Nguyễn
chí Thiện không có, hay chưa có, hào quang của một nhà thơ
lớn. Sự thật ông không mang hoài bão đó. Ông rất khiêm
nhường. Ông đã nói những điều ông nghe thấy, nhìn thấy,
cảm thấy bằng kinh nghiệm bản thân. Ông không đòi quyền,
chiếm quyền hay trao đổi quyền lợi, nghĩa là ông không có
tham vọng chính trị. Ông chỉ có một mơ ước là thơ ông
có thể giúp càng nhiều người ý thức được rằng chủ
nghĩa Cộng sản là họa lớn của nhân loại. Như họa lớn
đã đến với người Việt Nam kể từ khi Ðảng Cộng Sản
Việt Nam cầm quyền tại nước này. Chưa biết những người
đọc thơ ông sẽ tiếp thu ra sao thông điệp của ông. Nhưng
chắc chắn họ sẽ phải se lòng vì sự vắng mặt của ông
trên cõi đời này. Ai có thể nói chắc rằng ông vẫn còn
bị cùm xích trong một nhà tù đâu đó hay ông đang " khóc
âm thầm trong đất", thương nhớ những vần thơ ông đã "viết
ra trong đêm tối đê hèn"?"
Sau khi tập thơ " Hoa địa ngục
" ra đời năm 1980, các bản dịch thơ sang tiếng ngoại quốc
lần lượt ra đời. Từ bản dịch Pháp văn của báo Quê Mẹ
bên Pháp đến những bản dịch Anh văn của học giả Huỳnh
sanh Thông và giáo sư Nguyễn ngọc Bích. Song song với các bản
dịch tiếng Anh và tiếng Pháp, có bản dịch tiếng Ðức của
Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi. Ông có một bài viết để bộc bạch
tâm sự của ông khi quyết định dịch tập thơ ra tiếng Ðức,
thêm vào đó ông đưa ra những nhận xét về nghệ thuật cũng
như tác dụng chính trị của tập thơ. Trong bài viết " Nguyễn
chí Thiện , anh hùng dân tộc và thi nhân tuyệt vời" , ông
bày tỏ những suy nghĩ chân thành, xúc cảm và sâu sắc như
sau:
" Lý do nào đã thúc đẩy dịch
giả đem thơ Nguyễn chí Thiện phổ biến cho người ngoại
quốc? Lý do thứ nhất, rất giản dị, là vì dịch giả yêu
thơ Nguyễn chí Thiện và tin rằng với một tác phẩm đầy
ứ chất liệu văn chương và chan chứa tình tự dân tộc,
Nguyễn chí Thiện sẽ được dành một địa vị quan trọng
không những trong nền văn học nước nhà mà cả trên văn
đàn quốc tế. Lý do thứ hai cũng không kém phần quan trọng,
dịch giả xem việc dịch thơ Nguyễn chí Thiện như một sứ
mạng và muốn đáp ứng một lời kêu gọi, một thông điệp
mà Nguyễn chí Thiện đã gửi đến tất cả những người
được may mắn đọc ông : phổ biến thơ ông thật rộng rãi
để thế giới bên ngoài biết thêm sự thật về Cộng sản
Việt Nam.
Qua mấy chục năm giam hãm tù đày,
khi mọi liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bị gián đoạn
. Nguyễn chí Thiện vẫn hằng ấp ủ trong lòng hoài bão nối
được nhịp cầu với đồng hương bên kia song sắt nhà tù
và với tất cả những người yêu chuộng tự do khắp năm
châu bốn bể, để những sự thật ông phơi bày, những tâm
sự ông thổ lộ và những lời kêu than thống thiết mà ông
phải " dùng tuổi thọ " để viết ra với ước mong
vượt mọi ngăn cách không gian đến với độc giả càng nhiều
càng tốt.
" Tôi muốn kêu to trong
câm lặng đen dày
Cho nhân loại trăm miền nghe
thấy "
Hoài bão ấy không do tham vọng văn
chương, cũng không do ước muốn tạo cho mình một lợi thế
cá nhân, một sự yểm trợ hoặc giải cứu từ bên ngoài.
Nguyễn chí Thiện chỉ mong cho dân tộc mình được thoát nạn,
còn riêng bản thân ông sẵn sàng chấp nhận những cực hình
đau đớn nhất, chấp nhận cuộc đời vùi sâu cuộc đời
tàn tạ dưới nấm mồ tuyệt vọng, miễn là thơ ông được
" tự do như gió...bay khắp địa cầu kêu cứu nhân gian.
Trừ Cộng sản."
Nguyễn chí Thiện đinh ninh rằng
với thời gian Cộng sản sẽ bị tiêu diệt nếu mọi người
thức tỉnh sáng suốt nhận diện được kẻ thù đã xô đẩy
Việt Nam và " một phần ba nhân loại " xuống " hầm tai
vạ " và đang đe dọa trở thành hiểm họa số một cho
toàn thế giới.
" Nếu nhân loại mọi
người đều biết
Cộng sản là gì tự nó sẽ
tan đi
Thứ sinh thành từ ấu trĩ ngu
si
Sự hiểu biết sẽ là mồ hủy
diệt "
Bốn câu thơ trên đây không chỉ gây
hứng thú cho người đọc vì tư tưởng đặc sắc mà còn
là một ví dụ tiêu biểu cho lối hành văn độc đáo của
Nguyễn chí Thiện , nó vừa cô đọng vừa chính xác làm nổi
bật mối tương quan tất yếu giữa sự hiểu biết về Cộng
sản và sự quyết tâm tiêu diệt chúng. Và Nguyễn chí Thiện
đã giải thích thêm về mối tương quan ấy bằng hai câu thơ
cũng không kém phần đặc sắc,đọc lên nghe đanh thép hùng
hồn như lời buộc tội kết thúc bản cáo trạng:
" Tội chúng phạm vô cùng
man rợ
Lộ ra ai để chúng sinh tồn
"
Theo Nguyễn chí Thiện, sỡ dĩ Cộng
sản còn tồn tại và bành trướng được là vì loài người
còn " mê muội " . Vì thế thơ ông có rất nhiều đoạn trong
đó ông trực tiếp gửi lời nhắn nhủ thế giới. Khi thì
chỉ trích thái độ vô tâm, hờ hững, hoài nghi, bịt tai bưng
mắt trước những tiết lộ rùng rợn của các nạn nhân.
Khi thì kêu gọi thế giới đến tận nơi để chứng kiến
những phương sách tàn bạo đã được bưng bít tinh vi ( "
xin mời thế giới tới thăm " ) . Ðiều làm Nguyễn chí
Thiện phẫn nộ nhất là đã có những bậc vĩ nhân kiểu
Bertrand Russell, tiêu biểu cho tầng lớp trí thức mù quáng
đã dùng uy tín quốc tế của mình để tuyên truyền cho Cộng
sản.
Từ trong ngục tối, Nguyễn chí
Thiện đã hiểu được tầm quan trọng của dư luận quốc
tế và vì thế ông đã cố gắng cho tác phẩm mình lọt được
ra ngoài, dầu biết rằng hành vi liều lĩnh ấy sẽ mang đến
cho ông những cực hình ghê gớm. Ðể tiếp nối hành vi cao
cả ấy, chúng ta, những người đang được may mắn trực
diện với dư luận quốc tế, chúng ta phải phá bỏ hàng rào
ngôn ngữ để thơ Nguyễn chí Thiện đến với người ngoại
quốc. Phổ biến thơ Nguyễn chí Thiện là một nhiệm vụ
thiêng liêng và dịch thơ Nguyễn chí Thiện là để khiêm tốn
góp phần vào việc thực hiện hoài bão soi sáng dư luận quốc
tế mà ông hằng ôm ấp.
Sự đọa đầy vô tiền khoáng hậu
của cả một dân tộc đang bị thế giới quên lãng. Thảm
trạng Việt Nam ngày càng vắng bóng trên địa hạt truyền
thông quốc tế. Ðiều đó phải thúc đẩy chúng ta nỗ lực
giúp cho tiếng nói trung thực của những chứng nhân như Nguyễn
chí Thiện vượt mọi chướng ngại đi thẳng vào lòng người,
vừa để tội trạng của bạo lực được phơi bày vừa để
người ngoại quốc có dịp biết đến tác phẩm xuất chúng
của một thi nhân Việt Nam mà hồn thơ và tài nghệ đã oai
hùng cưỡng lại sức công phá của một guồng máy khủng
bố tàn bạo.
Thật vậy, cái đặc sắc của Nguyễn
chí Thiện không chỉ nằm trong địa hạt chính trị, không
chỉ do danh hiệu " Ngục sĩ" mà người ta đã tặng cho ông.
Nguyễn chí Thiện còn đáng cho chúng ta nhắc nhở và bái phục
vì tài nghệ siêu cường trong địa hạt thi ca. Với tài nghệ
đó, ông đã cống hiến cho ta một tác phẩm mà văn học sử
nước nhà sẽ mãi mãi lưu danh. Và trên trận tuyến chống
bạo quyền, thi phẩm tuyệt vời của ông đã trở thành một
hệ thống vũ khí vô cùng sắc bén. Thơ Nguyễn chí Thiện
không phải là một tác phẩm đấu tranh có tác dụng nhất
thời mà mãi mãi sẽ là tiếng nói của con người muôn thuở
.
Thoát thai từ một thực tế phũ
phàng cay đắng, toàn bộ thơ Nguyễn chí Thiện đã lấy thực
tế đó làm đề tài duy nhất, nhưng lời diễn tả thì thiên
hình vạn trạng nhờ vào bút pháp phong phú linh động, chuyển
biến theo từng cảnh ngộ trong cuộc sống và theo từng nhịp
đập của con tim.
Thơ Nguyễn chí Thiện khi tả người
và sự việc thì vẽ nên những bức tranh đậm nét in sâu
vào trí tưởng tượng của người đọc, khi than van thì khơi
dậy niềm thương cảm xót xa vô hạn, khi buộc tội lên án
thì tạo được niềm căm phẫn sục sôi, khi cổ võ kêu gọi
thì lời thơ hùng hồn có một sức thu hút mãnh liệt... Toàn
bộ tập thơ tạo thành một bản đại hòa tấu bi hùng đầy
máu lệ mà cũng hừng hực chí khí quật cường.
Tiếc rằng khuôn khổ bài này không
cho phép phân tích toàn bộ tác phẩm. Xin hẹn độc giả dịp
khác sẽ trình bày tường tận hơn. Ở đây chỉ xin nêu lên
vài chi tiết về hai điểm: Bức tranh địa ngục và ý chí
đấu tranh đặt trên niềm tin vào chiến thắng cuối cùng
của chính nghĩa.
Là " Ngục sĩ ", đề tài được
Nguyễn chí Thiện nói đến nhiều nhất là chế độ lao tù
Cộng sản. Khi tả chân, khi kể chuyện, khi suy tư, Nguyễn
chí Thiện đã phác họa cho ta thấy cả một quang cảnh hãi
hùng ghê rợn. Không thể kể hết những bài, những câu tả
cảnh " triền miên đói khát ", cảnh bệnh thập tử nhất
sinh ( " nhát nhát em ho. Từng miếng phổi tung rời . Bọt
sùi đỏ thắm ") mà vẫn phải lao động đến kiệt lực
( " ốm ngồi rên báng súng thúc vào lưng " ), cảnh hành
hạ ( " đánh đập tha hồ chết quăng chuột gặm " ) cảnh
sống hôi hám bẩn thỉu như súc vật : ( chỗ nằm giữa "
thùng nước giải, thùng phân ",
chỉ vỏn vẹn chiếc
chiếu rộng sáu mươi phân mà " hai người bên, một hủi
một ho lao" )
Cuộc sống thường nhật trong lao
tù đã được Nguyễn chí Thiện ghi lại bằng những hoạt
cảnh vừa linh động, vừa thương tâm. Ví dụ cảnh mấy tù
nhân đầu bạc dành nhau một nắm cơm vương vãi trộn đầy
đất cát. Sự tương phản giữa ý niệm tuổi tác khả kính
( " đầu bạc " ) và những hành vi khả ố như súc vật
( "
nhanh như một đàn heo', " dẫm trèo lên nhau" , " lầu
bầu chửi nhau " )đã nói lên sự thật đau lòng là chế
độ lao tù tàn bạo bất nhân không những đày ải con người
vào kiếp ngựa trâu mà còn làm con người mất cả nhân tính.
Làm què quặt tâm hồn độc hại thì còn độc hại gấp trăm
lần hành hạ thể xác. Nguyễn chí Thiện hẳn đã thấy lòng
quặn thắt xót xa khi viết: " Trong tù tình cảm dễ đong
ao. Tư cách thìa cơm đánh lộn nhào ".Bên cạnh cái tàn
nhẫn, độc ác, Nguyễn chí Thiện còn vạch cho ta thấy một
khía cạnh khác của bản chất chế độ lao tù Cộng sản:
bỏ tù người vô tội một cách bừa bãi, không luật lệ,
không xét xử: " Tội hay vô tội luật nào xét cho" hoặc
" Hễ nghi là bắt cứ chi tội tình ". Nguyễn chí Thiện
đã lên án chính sách bỏ tù độc đoán bằng hai câu thơ
vừa mỉa mai vừa mạt sát : " Ðảng không tim óc, đui mù.
Nhưng môn vô tội om tù quán quân ".
Giam cầm và hành hạ người vô
tội chưa đủ, tù còn là một phương cách bóc lột đến
tận cùng. Nguyễn chí Thiện đã dùng ngay những danh từ Cộng
sản thường dùng để gọi những nhà tù là " khu sản xuất
bội thu hàng đầu", là " ngành kinh tế vô song". Ðảng
đã biến tù nhân thành những " con vượn thời tiền sử
", vì đói ăn nên gầy còm, ốm yếu nhưng lại , " làm
ra của cải quanh năm". Tù nhân đã đột nhiên biến thành
những tên khổ sai bị vắt đến giọt mồ hôi cuối cùng
để hoàn thành chương trình " hút máu mài xương " của
Ðảng. Thảm cảnh " lao động vinh quang" đã được Nguyễn
chí Thiện dùng biệt tài sử dụng ngôn ngữ của ông để
viết thành những lời tố cáo vạch trần chính sách bóc lột
tàn tệ của Cộng sản, " Những người trâu đầm mình
trong bùn đọng " hoặc " Trong hầm trong xưởng rũa gân
xương".Hoặc " Ðất mồ hôi trôi mất nụ cười" , "
Các loại mồ hôi đều chảy vào kho", " Lũ chúng bay phải
làm việc bằng hai. Ðể quỷ chúa mừng sống lâu trăm tuổi",
" Chỉ còn lại chút mồ hôi. Ðổ ra vì sợ vì nuôi Ðảng
hiền".
Một đặc điểm khác là bỏ tù
trẻ con : " Trẻ con chưa nứt mắt đã đi tù. Bạo lực
đi về rất vội."
Nguyễn chí Thiện đã gặp hàng ngàn
trẻ em mà cảnh đời tù tội- thường là vô duyên cớ- đã
giết mất những ngây thơ hồn nhiên, chỉ còn để lại một
khối hận thù biến các em thành những tên trộm cướp hung
bạo: Có những em lúc mới vào tù thì còn " Lon xon chưa
phải mặc quần",mà sau đó đã trở thành " Mặt mũi
vêu vao tính tình hung tợn. Mở miệng là chửi bới chẳng
từ ai. Có thể giết người vì củ sắn củ khoai ". Thảm
trạng này đã làm Nguyễn chí Thiện vô cùng xót thương ray
rứt và bằng một giọng căm phẫn chua chát, ông đã gọi
đích danh thủ phạm để luận tội: " Ðảng dìu dắt thiếu
nhi thành trộm cướp."
Dưới chế độ Cộng sản, lao tù
không còn là phương tiện bảo đảm sự thực thi luật pháp
và bảo vệ an toàn cho người dân lương thiện trước sự
đe dọa của kẻ bất lương. Tù đã thành phương tiện để
củng cố nền độc tài chuyên chế. Nguyễn chí Thiện đã
gọi nhà tù là " cột trụ " của chế độ : " Thiếu chi
rừng rú hoang vu. Ðể.. dựng các trại tù làm trụ".
Nơi
khác, Nguyễn chí Thiện đã dùng chữ " buồng tim chế độ"
để
nói lên bản chất của chế độ lao tù. Buồng tim là mạch
sống, là chìa khóa của sự tồn vong. Nếu không có cả một
hệ thống lao tù " bao la giăng mắc "mà Nguyễn chí Thiện
còn gọi là " bộ máy tù đày bằng sắt " hoặc " muôn
trùng hệ thống xiềng gông " thì chế độ sẽ không tồn
tại được , " Mười mấy năm sống giữa lao tù. Sống
giữa buồng tim chế độ. Tôi đã hiểu tới tận cùng bể
khổ. Mà ngày xưa Phật Tổ hiểu lơ mơ."
Bốn câu này vừa khẳng định lao
tù là cốt tủy, là huyết mạch của chế độ, vừa diễn
tả một cách bóng bẩy mức độ đọa đày trong ngục thất.
Có ai hiểu sự khổ não trên trần thế bằng Phật Tổ, nhưng
so với cực hình mà Nguyễn chí Thiện và các tù nhân khác
phải chịu thì ý niệm về " bể khổ" của Ðức Phật quả
còn thua xa thực tế. Ngoài những nhà tù chính hiệu, Nguyễn
chí Thiện còn phác họa cái nhà tù khổng lồ bao trùm trọn
miền Bắc Việt Nam ( Và như ta biết sau 1975 miền Nam cũng
đã trở thành nhà tù bao la rập theo khuôn mẫu miền Bắc).
Ngay cả những người không ( hay là chưa) bị vào tù thì cũng
đã bị lừa vào trong màn lưới sít sao của kiểm soát, đe
dọa, ngày đêm khắc khoải trong hồi hộp, lo âu. Như người
thợ nhiếp ảnh tài tình, Nguyễn chí Thiện đã dùng ngôn
ngữ thu trọn vào ống kính bức tranh ảm đạm của một xã
hội nghẹt thở, đắm chìm trong thấp thỏm lo sợ. Vì bất
cứ lúc nào người dân cũng có thể đột nhiên trở thành
" û
khốc liệt, bậy xằng , ức oan, cay đắng " nên
chỉ mới nghe " hiu hiu gió đã run rồi". Ngay cả những
người hoàn toàn bị khuất phục, đã thi hành tất cả mọi
chỉ thị dầu là chỉ thị phi lý, đã nhận chìm tất cả
những lời kêu ca than oán mà vẫn phập phồng : " Bắt chước
mọi người tôi giữ vẻ hân hoan. Chẳng dám thở than dù đời
đói khổ. Nhưng khi tiếng bên lề đường xe đỗ. Tôi vẫn
giật mình tưởng xe sở Công An".
Người dân bị tước đoạt tất
cả mọi quyền tự do đương nhiên, bị kềm kẹp trong những
cấm đoán phi lý ( bà già sáu mươi " không được phép
ngồi bán khoai") bị cưỡng ép đi hội họp ( cụ già bẩy
mươi hai phải " hội họp mệt nhoài không tha") đi lao động
( em bé phải bỏ học đi công trường ). Chuyện " vô cớ
đi tù" là chuyện cơm bữa đối với cả những người
lương thiện, hiền lành vô tội nhất ( " Toàn dân lương
thiện tội tình gì đâu") như cụ già nọ " Từ trẻ
tới già quét dọn nhà tu. Tới tuổi bảy mươi vô cớ đi
tù"
và cuộc đời tù tội đã kéo dài mười năm cho đến
ngày " gần tám mươi cụ bỏ xác trong tù".
Sự khống chế toàn diện, nghiệt
ngã , phi lý được Nguyễn chí Thiện diễn đạt bằng những
câu , " Ðảng bắt câm, bắt nói, bắt khóc, bắt cười.
Bắt đói, bắt làm, hé răng oán thán. Là tù ngục mục xương
độc đoán" hoặc " Ðảng đã nắm là dân hết cựa",
" Cộng sản là quân bất nhân tàn ngược. Thắt cổ dân đen
bằng các mọi tròng". Và bốn câu sau đây , tuy dùng những
danh từ đơn giản , nhưng có một tác dụng văn chương rất
thần tình, tạo cho người đọc ấn tượng của một màn
lưới không kẻ hở:
" Ðảng gói ước mơ vào
trang manh áo
Ðảng nhét chí trai vào trong
hũ gạo
Bảo quản thế Ðảng vẫn còn
sợ hão
Ðem xếp vào trong cả nhà lao"
Ðiều đập vào mắt người đọc
trước tiên là sự tương phản giữa " ước mơ " và " manh
áo ", giữa " chí trai " và " hũ gạo ", " ước mơ " và " chí
trai " thuộc địa hạt tâm linh, bao gồm những điều đẹp
đẽ, cao qúi của cuộ sống,còn " manh áo " và " hũ gạo "
thuộc lãnh vực vật chất, là những vật tuy cần thiết nhưng
nhỏ nhoi , tầm thường. Chữ " gói" và chữ " nhét" còn làm
tăng thêm ấn tượng chật hẹp, gò bó, khép kín bao hàm trong
chữ " manh" ( áo) và " hũ" ( gạo). Chữ " bảo quản" nói lên
ý niệm bức bách, quản thúc, kềm kẹp. Chữ " xếp" trong
câu thứ tư ( " xếp cả vào trong các nhà lao") được dùng
thay chữ " nhốt" , phải chăng cũng có dụng ý nói lên sự
kiện số lượng tù nhân quá nhiều nên phải được " xếp"
( như xếp áo vào tủ) mới đủ chỗ chứa. Một điểm khác
đáng chú ý là trong vỏn vẹn có bốn câu thơ mà tác giả
lập đi lập lại hai chữ " vào trong " đến ba lần( " vào
trong manh áo', " vào trong hũ gạo", " vào trong các nhà lao "
. Ai cũng biết khi hành văn mà lặp lại nhiều lần một chữ
là điều tối kỵ, nhưng ở đây sự lặp lại này đã tô
thêm đậm nét hình ành cả một dân tộc đang bị xô đẩy
" vào trong" ngõ cụt không còn lối thoát. Những nhận xét
trên đây cho ta thấy ngay trong cách chọn lọc, sử dụng và
sắp xếp danh từ, Nguyễn chí Thiện đã làm cho người đọc
lĩnh hội một cách sâu sắc mãnh liệt những điều ông muốn
nói. Viết văn, làm thơ không phải chỉ là diễn tả những
ý niệm nằm trong danh từ mà là nghệ thuật sử dụng ngôn
ngữ để vượt ra ngoài ngôn ngữ nhằm gợi hình ảnh, gây
ấn tượng, kích thích trí tưởng tượng và chấn động cân
não người đọc, nhờ đó nội dung được siêu thăng và trở
thành phong phú hơn.
Chính sách bỏ tù cả dân tộc đã
được áp dụng một cách triệt để trong hai lãnh vực: Tận
diệt quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và dùng miếng
ăn để nô lệ hóa con người.
Nghĩ khác và nói khác với lập
luận của Ðảng là một trọng tội mà hình phạt là lao tù
vô thời hạn: " Hơi nghĩ khác là đi tù mục xác."
Sự
hà khắc của Ðảng không giới hạn vào việc cấm đoán và
trừng phạt tiếng nói đối lập chính trị. Than van để trút
bớt ưu tư phiền muộn cũng là trọng tội, là phản tuyên
truyền: " Tiếng thở lời than đan họa chụp vào thân".
" Kêu ca khổ ải " đã là nguyên nhân đưa Nguyễn chí Thiện
vào tù, như ông tiết lộ trong bài thơ " Thư Nhà ". Cả đến
thở dài cũng trở thành đối tượng của hăm dọa, khiển
trách: " Thằng kia sao dám thở dài?"
Tước đoạt hoàn toàn quyền suy
nghĩ, ăn nói, than van, chừng ấy vẫn chưa đủ. Người dân
còn bị cưỡng ép đóng kịch, phải tươi cười, phải hân
hoan; " Thằng này, sao mặt mày không hớn hở ? " Tất
cả những biện pháp cưỡng bức trên đây còn được Nguyễn
chí Thiện gọi là " bỏ tù tiếng nói", ' là " canh rình
lời than tiếng thở " , là " khóa mồm dân" . Mục tiêu
của chúng vừa nhằm vô hiệu hóa đối lập, tiêu diệt mọi
mầm mống chống đối từ lúc chưa phôi thai, vừa để bưng
bít tội ác trước dư luận, khoác lên nền chuyên chế một
lớp áo tuyên truyền lừa bịp, đeo cho hỏa ngục chiếc mặt
nạ khả ái của thiên đường. Bằng những thủ đoạn ấy,
bạo quyền đã đạt được mục đích là làm cho thế giới
của khổ nhục trở thành thế giới của câm lặng.
Danh từ " câm lặng " , " thầm
câm", " lặng lẽ", được Nguyễn chí Thiện dùng rất nhiều
trong tập thơ ông, và đã làm nổi bật cảnh thương tâm của
những người quằn quại trong vực thẳm khổ đau mà không
" kêu nổi một lời "
" Hỡi tất cả những
chân trời sáng chói!
Hãy hiểu rằng yên lặng nơi
đây
Giũa chốn đồng lầy
Là tiếng gọi lâm ly đầy tuyệt
vọng "
Ðem bức màn im lặng phủ kín thế
giới của thống khổ đọa đày là hành vi điển hình của
chính quyền Cộng sản. Hành hạ thể xác chỉ là bề mặt,
mục tiêu tối hậu là tiêu diệt linh hồn.
Hơn ai hết, Nguyễn chí Thiện đã
nghiệm ra điều đó qua những năm tháng câm lặng trong uất
ức nghẹn ngào:
" Mắt tôi khô mà ruột
tím gan bào
Bao uất hận dâng trào lên lặng
lẽ".
Và ông đã gởi vào thơ ông lời buộc
tội gắt gao thâu tóm được bản chất tàn độc của chính
sách giết người bằng cách bóp chết tiếng nói : " Nó
dùng máu hãm những giòng nước mắt. Vắt những giọt mồ
hôi. Bịt tiếng người câm bặt. Mong bốn phương lặng ngắt
giữa cơ hàn. Ðể nó tự do vang dạo khúc đàn. Yêu ma..."Lời
buộc tội trên đây, cũng như bao lời buộc tội khác trong
thơ Nguyễn chí Thiện, nếu được đọc lên trước một tòa
án công minh, hẳn không còn có vị thẩm phán nào có thể
hoài nghi hay do dự trong việc phân định tội trạng và hình
phạt.
Hủy diệt tự do tư tưởng, tự
do ngôn luận, là đặc điểm của tất cả mọi thứ độc
tài kim cổ và xưa nay đã có vô số người tố cáo. Nhưng
bút pháp thần tình của Nguyễn chí Thiện làm cho độc giả
có cảm giác như sờ mó được cái độc hại , cái nguy hiểm
của quái vật độc tài mà nanh vuốt là thủ đoạn " bỏ
tù tiếng nói " . Thêm vào đó là biện pháp dùng đói khổ
như một thứ xích xiềng để nô lệ hóa. Nguyễn chí Thiện
đã đặt tên cho thủ đoạn này là " quốc sách đói mòn
phân phối " . Mỉa mai thay mà cũng xác thực thay ! Chỉ
vỏn vẹn có mấy chữ mà Nguyễn chí Thiện điểm mặt được
cả một chế độ, đã nâng sự bần cùng hóa nhân dân lên
hàng quốc sách, để giết chết sự quật cường, để đè
bẹp chống đối. Thê thảm hơn nữa là tình trạng " Hạt
thóc, hạt ngô phút hóa xích xiềng. Họa phúc toàn quyền của
Ðảng". đã khiến con người không thể nào bảo toàn được
nhân phẩm. Tình cảm, nhân cách, luân thường, đạo lý, tất
cả đều bị xáo trộn, tiêu hao , tan nát. Những câu thơ được
trích dẫn dưới đây vừa lột trần hậu quả khủng khiếp
của " quốc sách đói mòn ", vừa cho độc giả một
ý niệm về biệt tài vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn chí
Thiện:
"Lảo đảo vì buồn đói
Xanh xao cả giống nòi
Rồng tiên thành rợ mọi
Ðuôi cáo thực sự tòi !"
" Thú thật là dân đói chúng
tôi
Chỉ mơ ước được no bằng
con vật "
" Nơi đây không có gì hơn sắn
Người hóa thành ra lũ lợn rừng
Gan óc teo dần, tim chết cứng
Hồn con ma đói dắt đi chăn
"
" Chế độ ta khoai sắn một
đề tài
Cũng bất diệt như đề tài
trai gái"
" Khoai sắn tranh giành cùm bắn
chém băm"
" Tư cách thìa cơm đánh lộn
nhào"
" Chiếc kéo Ðảng dùng cắt
tem phân phối
Gạo ngô từng lạng từng cân
Ðã cắt nhỏ tình thâm cốt
nhục
Manh áo niêu cơm cuộc đời rữa
mục"
(Xem
tiếp phần 2)
|