HOA
THẬT HOA GIẢ
(Tiếp theo và hết)
Những phân tích sơ lược trên đây
cho ta thấy danh từ " địa ngục " không phải là một hình
thức phóng đại, một kiểu nói văn chương, mà là một tên
gọi xác đáng để chỉ cái thực tại mà chính Nguyễn chí
Thiện cũng đã phải công nhận là " Chuyện có thực mà
tưởng như thần thoại. Mà tưởng như ác mộng bi ai ". Nguyễn
chí Thiện đã có công tạo những danh từ , những hình ảnh
để phơi bày bằng nét bút sắc và đậm bộ mặt đa dạng
của bạo lực. Ngôn ngữ của Nguyễn chí Thiện đã có tác
dụng của những quang tuyến diệu kỳ, của những " chiếu
yêu kính " khiến cho hồ ly phải hiện nguyên hình và những
ngụy trang lừa bịp không còn hiệu nghiệm. Nguyễn chí Thiện
vừa tố cáo tội ác trước công luận một cách hùng hồn,
vừa làm phong phú kho tàng ngôn ngữ chúng ta. Chỉ cần làm
một bảng thống kê những từ ngữ ông dùng để chỉ Bác
và Ðảng và cái thế giới mà Bác và Ðảng thống trị cũng
đủ cho ta phải ngạc nhiên và thích thú về cái kho tàng ngôn
ngữ hầu như bất tận của ông. Với lối diễn tả thần
diệu của ông khi nói về tội trạng của chế độ , khi vẽ
lên cảnh tù đày, đói khổ, bệnh hoạn hoặc niềm khao khát
vô vọng của những kẻ " không còn gan nghĩa đến tương
lai" đã là một minh chứng cho câu nói bất hủ của thi
hào Musset: " Lời ca tuyệt vọng là lời ca tuyệt vời " ( Les
plus désespérés sont les chants les plus beaux).
Nhưng thơ Nguyễn chí Thiện không
phải chỉ có tuyệt vọng.
" Từ muôn ngàn tàn lụi không
tên. Sẽ bừng nở một trời hoa lạ quý". Trong tuyệt vọng
đã nẩy mầm hy vọng và dầu thể xác rã rời, tâm hồn mòn
mỏi, sức sống vẫn âm ỉ chờ ngày bùng dậy: " Sự sống
mỏi mòn nhưng vẫn sống. Sống ngấm ngầm kiên nhẫn trong
tôi".
Nếu bạo lực đã không giết nổi hồn thơ và tài
nghệ của Nguyễn chí Thiện thì lại càng không thể hủy
diệt khí khái của ông. Hơn mươi năm trời " rong ruổi
" ( !) từ trại tù nầy đến trại tù khác và nếm đủ
mọi cực hình có sức làm thể xác hao mòn, tâm thần tê liệt.
Ông vẫn giữ nguyên phong độ của một kẻ sĩ, dầu phải
" uốn thân nuốt nhục " vẫn không hề chịu khuất phục
. Trong hoàn cảnh của ông, làm thơ là một quả cảm phi thường,
và ngược lại chính hồn thơ đã làm cho ông có nguồn sức
mạnh vô song mà cả " bộ máy khổng lồ"
của bạo lực
cũng không tàn phá nổi. Ðau thương đã không làm Nguyễn chí
Thiện thối chí nản lòng mà đã tôi luyện cho ông thêm cường
lực. Nguyễn chí Thiện xem đau thương như một thứ linh đan
thần dược, uống vào là " lời ca hóa ra vạn tuế".
Theo dõi sự biến chuyển của thơ
Nguyễn chí Thiện qua thời gian, người đọc sẽ nhận thấy
có một sự tiến triển trong ý thức đấu tranh. Trong mười
năm đầu, trọng tâm sáng tác của ông nhằm diễn tả nỗi
đau khổ, chán chường, tuyệt vọng của bản thân hay cảnh
khổ nhục đọa đày của dân tộc. Thỉnh thoảng lóe lên
vài tia hy vọng nhưng đó là một thứ hy vọng tiêu cực, thụ
động " mong chờ cuộc đời đổi mới trời ban". Bắt
đầu từ năm 1969, lần lượt xuất hiện một số bài thơ
mà nội dung là niềm tin sắt đá vào tương lai dân tộc song
song với một ý thức đấu tranh mạnh mẽ kiêu hùng. Và cũng
trong thời gian này, Nguyễn chí Thiện đã nói nhiều đến
sức mạnh và hiệu năng của Thơ. Bài " Tôi tin chắc " ( 1969)
bộc lộ niềm tin vào một bình minh sẽ đến với dân tộc
sau " đêm tàn Cộng sản tối tăm ". Bài " Sẽ có một
ngày " ( 1971) tiến xa hơn một bước, Nguyễn chí Thiện không
bắt đầu bài thơ bằng câu " Tôi mong ước " hay là " Tôi
tin " mà bằng một lời khẳng định chắc nịch: " Sẽ có
một ngày ". Ngày đó, theo Nguyễn chí Thiện, mọi người sẽ
" vất súng, vất cùm, vất cờ, vất Ðảng " để khai
sáng một kỷ nguyên mới đặt trên nền tảng tình người
và truyền thống dân tộc. Trong các bài thơ được sáng tác
vào thời gian kế tiếp ( từ 1972 đến 1976), thắng lợi cuối
cùng của chính nghĩa đã trở thành một điều tất yếu,
một chiều hướng chuyển biến của lịch sử mà không một
bạo lực nào có thể ngăn chặn được. Ðiều đáng ngạc
nhiên là trong khi Cộng sản ngày càng thắng thế tại miền
Nam và hy vọng lật đổ bạo quyền ngày càng mong manh thì
thơ Nguyễn chí Thiện lại tràn đầy tin tưởng vào mệnh
Trời và sức đối kháng của dân tộc. Từ những " thế
bí" , những bước đường cùng, sẽ xuất hiện một con
đường giải thoát và những con người " chỉ có xương
da", lúc có cơ hội đứng lên sẽ là " sức bật lật
nhào tung hết ".
Trong các bài thơ sáng tác từ năm
1969 đến năm 1976 vừa được nói đến ở trên, bài Trường
thi Ðồng Lầy là một tuyệt tác. Tất cả những kỹ thuật
sáng tác và những truyền thống thi ca dân tộc đều tụ hội
về đây. Và bài thơ Ðồng Lầy cũng tổng hợp tất cả những
tinh túy của thơ Nguyễn chí Thiện về nội dung và hình thức
, đánh dấu sự trưởng thành trong đau thương và sáng tạo.
Nổi bật hơn hết là khúc khải hoàn ca trong phàn cuối. Nhà
thơ tuyệt vọng cũng là nhà thơ của chiến thắng và, say
sưa với viễn ảnh tương lai huy hoàng, đã tạo ra những vần
thơ chói lọi hào quang, vẽ nên quang cảnh vừa oai linh vừa
ghê rợn của một cuộc chinh phạt kinh thiên động địa chưa
từng thấy. Theo Nguyễn chí Thiện, ngày chiến thắng sẽ đến,
khi tất cả nạn nhân của đồng lầy, khi tất cả mọi người
trong và ngoài nước đã nhận thức được như ông :
" Cộng sản đánh gục
Ðời mới hết nhục "
và
" Quân Cộng sản phải khử trừ
chúng mãi
Cứu lấy cuộc đời hiện tại
tương lai".
* * *
Thấm thoát đã gần mười năm,
kể từ ngày thơ Nguyễn chí Thiện lọt được ra ngoài . Mười
năm kéo dài cuộc đời tù đày vô vọng. Hẵn Nguyễn chí
Thiện vẫn còn tiếp tục tạo những " vần thơ câm lặng
" .
Không biết đến bao giờ những vần thơ ấy mới đến
với chúng ta ? Hay sẽ chẳng bao giờ? Hay chúng sẽ mãi mãi
bị chôn vùi để nền văn học nước nhà mất đi những vần
thơ tuyệt diệu và Nguyễn chí Thiện phải tức tưởi nghẹn
ngào thương tiếc thơ ông để rồi phải vĩnh viễn " khóc
âm thầm trong đất"? ".
Những đoạn phê bình trích dẫn
ở trên của Luật sư Trần thanh Hiệp và Tiến sĩ Bùi hạnh
Nghi là những lời nhận xét có giá trị về tập thơ cũng
như tác giả Nguyễn chí Thiện. Khi hai ông viết những hàng
trên thì tác giả tập thơ, đúng như người ta dự đoán,
bị bắt và đưa vào tù ngay sau khi tập thơ được quăng vào
Tòa đại sứ Anh ở Hà Nội. Có hai chuyện quấn quít suốt
đời với nhà thơ độc đáo này là thơ và tù. Ông làm thơ
từ tù và vì làm thơ mà ông chôn vùi hầu hết cả cuộc
đời trong tù. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc yêu thơ
, nhưng có lẽ cũng khó kiếm được một người làm thơ lại
khốn khó và bị tù đày vì thơ như Nguyễn chí Thiện.Tù
đày giam hãm tấm thân gầy gò của ông nhưng cũng chính từ
hoàn cảnh tù đày này mà ông đã có những vần thơ bất
hủ để lại cho đời.
Không những những người Việt
Nam trên khắp thế giới yêu mến thơ Nguyễn chí Thiện. Tiến
sĩ Erich Wolfgang Skwara, vốn là giáo sư về môn văn chương
Ðức tại Ðại học San Diego, đã viết một bài nhan đề
"Khổ nhục và hy vọng" làm bài tựa cho bản dịch tiếng Ðức
tập thơ "Hoa địa ngục" của Tiến sĩ Bùi hạnh Nghi. Có đọc
bài này mới thấy thơ Nguyễn chí Thiện đã chinh phục trọn
vẹn tim và óc độc giả người nước ngoài:
" Hải đảo Madeira là một cảnh
thiên đường đầy hoa và đắm chìm trong tĩnh mịch. Giá làm
ngơ được để khỏi nhìn thấy du khách thì thật là tuyệt
hảo- mặc dầu như vậy là cũng không nhìn thấy chính mình.
Cảnh sắc cực kỳ đẹp đẽ và thanh vắng khiến người
ta có cảm tưởng nơi đây là hiện thân của Thi ca. Có lẽ
vì thế mà Văn Bút Quốc Tế đã chọn nơi này để tổ chức
Ðại Hội năm 1990. Ban đầu tôi lưỡng lự, không muốn tham
dự nhưng bây giờ tôi cảm thấy chuyến đi này là một việc
cần thiết: Tôi đã đến Madeira để " gặp" nhà thơ Nguyễn
chí Thiện, một đại thi hào Việt Nam.
Nói là gặp, nhưng thật ra chỉ
là một cuộc gặp gỡ gián tiếp, vì không thể gặp nah thơ
lớn này , dầu ở Madeira hay bất cứ nơi nào khác. Vì ông
đã bị bắt lại cách đây khoảng mười năm và từ ngày
đó ông mất hút trong các nhà tù miền Bắc Việt Nam.. Không
ai biết rõ và biết chắc hiện ông đang ở đâu, cũng không
ai biết rõ ông còn tiếp tục sáng tác nữa hay không và sáng
tác những gì - mặc dầu riêng tôi, tôi tin chắc rằng ông
vẫn còn sáng tác.
Nguyễn chí Thiện đã được
Trung Tâm Văn Bút của nhiều quốc gia chọn làm hội viên danh
dự. Nhiều tổ chức đã can thiệp, đã gửi kiến nghị yêu
cầu trả tự do cho ông. Và ông cũng đã được tặng khiếm
diện một số giải thưởng văn chương. Dầu vậy tại Ðại
Hội Văn Bút năm nay cũng như những năm trước, tôi không
hề cảm thấy thiếu vắng ông. Là vì trong một cơ cấu hành
chánh được điều hành một cách máy móc, dầu đó là một
nền hành chánh nhằm phục vụ văn chương, sự thiếu vắng
của con người không được ghi nhận.
Ðã từ lâu tôi cứ băn khoăn
mãi với câu hỏi: Chúng ta , những văn sĩ được hưởng đời
sống dễ dãi tại thế giới Tây phương ( dễ dãi, mặc dầu
lắm khi chúng ta không tìm ra độc giả và lợi nhuận thu về
chẳng mấy tương xứng), chúng ta có quyền lên tiếng nói
của mình không, và nếu có thì phải sử dụng quyền đó
như thế nào. Tôi đã viết và đang tiếp tục viết, tôi đã
và đang xuất bản tác phẩm của mình, nhưng tôi luôn luôn
bị ám ảnh bởi ý nghĩ tôi là một kẻ lường gạt. Bởi
vì tư tưởng và cảm xúccủa tôi hoàn toàn thuộc về đời
tư và niềm đau khổ của tôi chỉ là một xa xỉ phẩm. Vâng,
đau khổ riêng tư là một xa xỉ phẩm.
Và tôi đã gặp Nguyễn chí Thiện,
nhà thơ lớn của Việt Nam. Gặp, có nghĩa là tôi đã được
biết ông qua một trong những sứ giả của ông, Bùi hạnh
Nghi, người đã dịch thơ ông ra Ðức ngữ. Còn Nguyễn chí
Thiện thì không ai trực tiếp gặp được vì cho đến nay
ông vẫn còn bị cầm tù ( tổng cộng đời tù của ông là
bao nhiêu năm, ba thập niên hay nhiều hơn nữa?). Bùi hạnh
Nghi đã đến Madeira và đã tặng tôi tập thơ " Hoa địa ngục",
sắp được tái bản.
Sau khi đón nhận tập thơ, tôi
đã ở mãi trong phòng đọc một hơi từ đầu đến cuối.
Tôi đã đọc một hơi vì những bài thơ đó có sức hút của
nam châm và cũng vì bản dịch thật đặc sắc. Thực ra chỉ
cẩn đọc ít giòng cũng đủ thấy rằng tôi đã hạnh ngộ
với một nhà thơ lớn mà tôi sẽ vô cùng ngưỡng mộ. Và
càng đọc tôi càng nhận rõ rằng tôi đã được biết thêm
một nhà thơ mà từ nay tôi sẽ đặt ngang hàng với các thần
tượng thi ca của tôi từ trước đến nay như Rimbaud và Trakl-
tôi kể vài thí dụ mà không theo một thứ tự ưu tiên nào-
như Benn và Hoelderlin. Nghĩa là tôi đặt ông ngang hàng với
những nhà thơ tuyệt vời nhất của chúng ta, của tôi, của
mọi người. Kể từ đêm đọc thơ Nguyễn chí Thiện tại
Madeira, tôi đã hiểu vì sao cuộc hành trình đến Madeira của
tôi là cần thiết: Tôi phải đến đó để đón nhà thơ Nguyễn
chí Thiện.
Và tôi tự nhủ: Thấy chưa !
Một nhà thơ Việt Nam! Thế mà lâu nay mình cứ dương dương
tự đắc về cái bản chất Âu châu ưu việt của mình! Và
tôi lại nhận ra một điều này nữa: Lâu nay, mỗi lần nói
đến Việt Nam là chúng ta cứ liên tưởng ngay đến Hoa Kỳ
hoặc giả liên tưởng đến Pháp. Ðáng sợ thay! Chúng ta đã
bóp méo, đã hãm hiếp sự thật một cách phũ phàng! Từ nay,
hai chữ Việt Nam sẽ không còn khiến tôi liên tưởng đến
Hoa Kỳ hay bất cứ nước nào khác mà chỉ còn nhắc tôi nhớ
đến một nền văn chương sáng lạn và nhớ đến nhà thơ
Nguyễn chí Thiện. Không gì tốt đẹp bằng được dịp tìm
hiểu một dân tộc qua một thi hào của dân tộc này. Chuyến
đi Madreira của tôi đã trở thành một chuyến du lịch Việt
Nam.
Tôi hâm mộ thơ Nguyễn chí Thiện
không phải chỉ vì những hình ảnh đầy chất thơ - mặc
dù toàn bộ thơ ông đầy dẫy những hình ảnh ấy, mà nhất
là vì những nhận định của ông, mà ông đã nói lên một
cách bình dị, hầu như khô khan. Ông đã nói lên những điều
mới lạ, chưa nghe , chưa biết, nhưng đồng thời cũng lại
là những điều đã từ lâu quen thuộc và đó chính là tính
chất cổ điển của thơ Nguyễn chí Thiện...Trong bài đề
tựa tập thơ lần xuất bản đầu tiên bằng Ðức ngữ, có
đoạn mô tả sự việc bị cưỡng ép phải tươi cười hân
hoan như một cực hình tra tấn. Ðiều đó chúng ta trong thế
giới Tây phương có thể hiểu được, vì lắm khi chính chúng
ta cũng bị ép buộc hay tự bắt mình phải tươi cười, phải
hân hoan. Tiếng nói của đau thương trong thơ Nguyễn chí Thiện
dễ khơi niềm thông cảm trong lòng chúng ta mặc dầu ta được
may mắn sống cuộc đời sung sướng. Chỉ có tiếng nói của
hy vọng trong thơ Nguyễn chí Thiện- và ông đã không ngớt
nói về hy vọng- khiến ta ngỡ ngàng như đứng trước một
gian nhà đóng kín. Vì chúng ta thiếu niềm tin. Vì chúng ta
không có niềm hy vọng. Chúng ta hân hoan tắm gội trong niềm
tuyệt vọng sơn phết đủ mọi sắc màu. Chỉ những kẻ đã
nếm mùi thương đau mới biết thế nào là hy vọng.
Từ ngày " gặp" Nguyễn chí Thiện,
tôi đã nhiều lần giở tập thơ ra đọc lại. Những dòng
thơ đầy tình thương đã mang lại cho tôi nhiều thú vị.
Tình thương trong thơ Nguyễn chí Thiện đã chọc thủng tường
thành tù ngục và đã vượt mọi chướng ngại của đồng
lầy để đến với chúng ta ở Ðức, ở Cali, Maderia hay bất
cứ nơi nào khác. Nghe đâu có một số người phê phán thơ
Nguyễn chí Thiện đầy ứ hận thù. Ðối với những viên
cai ngục, những tên thẩm phán của chế độ hay những kẻ
hành hạ ông thì sụ thù hận cũng chỉ là phản ứng tự
nhiên và chính đáng thôi...Nhưng tôi không tìm thấy hận thù
trong thơ Nguyễn chí Thiện. Tôi chỉ thấy sự hiện thân rất
đậm nét của Khổ Nhục cũng như niềm xác tín rằng dầu
khổ nhục, cuộc đời và tương lai nhân loại chưa phải vì
thế mà kết thúc... Nguyễn chí Thiện tin vào nhân loại, tin
vào những gì cao quí của con người.
Sau khi đọc Nguyễn chí Thiện,
tất nhiên người ta sẽ lên án chủ nghĩa Cộng sản và chính
sách ngu xuẩn bạo ngược của chúng một cách gắt gao hơn.
Còn những kẻ thiên tả cấp tiến theo kiểu các chính khách
phòng trà Tây phương cũng như những kẻ còn khư khư bám chặt
những điều không tưởng Mác xít- mặc dầu lúc này mọi
người đều thấy những không tưởng ấy đã hoàn toàn sụp
đổ- những kẻ ấy chỉ đáng cho ta xem như một lũ hề nhưng
đồng thời cũng phải đề phòng chúng như một nguy cơ. Chúng
là biểu tượng cho những sự " trật đường rầy" của lịch
sử và trí tuệ. Nhưng những sự lầm lạc ấy làm sao thắng
được một đại thi hào, bất quá chúng chỉ có thể bắt
nhà thơ phải chịu giam cầm đầy đọa mà thôi. Không biết
bây giờ nhà thơ của chúng ta còn sáng tác hay không. Tôi hy
vọng rất nhiều- không, tôi biết chắc - ông vẫn còn sáng
tác. Tôi biết chắc như vậy vì tôi đã đọc thơ ông và
mỗi bài thơ của ông sẽ được viết tiếp trong lòng độc
giả.
Còn chúng ta, giờ đây ( sau khi
đọc thơ Nguyễn chí Thiện), mỗi người trong chúng ta sẽ
phải sử dụng ngòi bút như thế nào? Và nhằm mục đích
gì? Ðó là câu hỏi của ngày hôm nay mà cũng là câu hỏi
tự ngàn xưa..
Nice ngày 31 tháng 5 năm 1990."
Ðể trả lời cho câu hỏi của
Tiến sĩ Skwara là nhà thơ có còn sáng tác nữa hay không sau
cuốn thơ " Hoa địa ngục" , Nguyễn chí Thiện tiếp tục cho
ra đời " Hoa địa ngục tập 2" sau khi định cư ở Mỹ vào
tháng 11 năm 1995.
Học giả Patrick J. Honey của phân
khoa Á và Phi châu của trường đại học London, người đã
có dịp cầm tận tay bản thảo tập thơ "Hoa địa ngục" do
bộ ngoại giao Anh trao lại, đã nhận xét về lời thơ Nguyễn
chí Thiện như sau, " Dù có một vài bài có giọng điệu chống
cộng trần trụi, những bài khác thật tuyệt vời, biểu lộ
một tình cảm nồng nàn nóng bỏng chưa từng thấy trong thi
ca Việt Nam."
Kể từ sau ngày định cư ở Mỹ,
ông đã trả lời rất nhiều cơ quan báo chí và truyền thông
hải ngoại về tình hình chính trị trong và ngoài nước cũng
như vạch ra những đường lối đấu tranh thực tiễn nhằm
đưa đến chuyện lật đổ chế độ Cộng sản sớm thành
sự thật. Xuyên qua những bài phỏng vấn, người ta càng thấy
rõ rằng Nguyễn chí Thiện không những là một thiên tài thi
ca mà còn là một người có một vốn liếng chính trị chín
chắn , vững vàng, thấu đáo và tường tận.
Khi được hỏi về những nhận
xét của ông về những tiếng nói trong nước đòi thay đổi
sự cai trị của chế độ Cộng sản, ông cho biết là trong
nước , hàng nửa thế kỷ nay, đất nước khi nằm dưới
chế độ Cộng sản đều không có tự do. Guồng máy thông
tin thì đều nằm trong tay Ðảng. Ròng rã trong bao nhiêu năm
trời không có một tiếng nói nào có thể vang lên được.
Ngày nay trước sự sụp đổ của phe Xã hội chủ nghĩa, Ðảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã lung lay lắm rồi. Có nhiều tiếng
nói cất lên, đó là dấu hiệu rất đáng mừng. Khởi đầu
bao giờ cũng là lời nói, nếu không có lời nói thì những
tư tưởng sẽ nằm chết trong đầu, chính lời nói sẽ làm
cho tư tưởng chuyển hóa thành hành động.
Những tiếng nói trong nước bây
giờ rất là đáng trân trọng dù tiếng nói đó là của ai,
nhất là tiếng nói của những người Cộng sản lại càng
đáng quý. Chúng ta phải thấy một điều là những người
như ông Trần Ðộ, hay một số người khác khi nói lên tiếng
nói, họ đánh thẳng vào lực lượng các đảng viên, quân
đội, công an, tiếng nói đó có tác dụng công phá dữ dội.
Chúng ta bắt buộc phải khuyến khích chứ không thể nào mà
yêu cầu họ nói giống như chúng ta ở ngoài này nói. Vì đấu
tranh ngay trong lòng Ðảng, giữa thủ đô Hà Nội khác với
việc chúng ta đấu tranh nơi xứ sở tự do. Sự đấu tranh
của họ cũng gần như là người đánh cờ, dù muốn chiếu
tướng ngay cũng phải đi rất nhiều nước, có khi phải lùi
một vài bước, có khi phải nhường một vài bước, có khi
phải thí một vài quân; việc khó khăn là như vậy, chúng
ta không thể đòi hỏi một cách thẳng băng cứng ngắt được!
Những tiếng nói đó vô cùng quan
trọng, dù là tiếng nói của những người Cộng sản, nhất
là những người Cộng sản cao cấp, có uy tín trong Ðảng,
có nhiều bạn bè, có nhiều đàn anh, đàn em chẳng hạn, chúng
ta càng phải ủng hộ những người ấy. Huống chi chúng ta
ngoài này không có gì cả, vũ khí không có, chúng ta càng phải
lợi dụng cái mà Nguyễn Trãi gọi là " tâm công" - là đánh
vào lòng người. Bất cứ một người Cộng sản nào lên tiếng
đòi dân chủ hóa đất nước , chống lại chế độ độc
đảng, chúng ta đều phải ủng hộ, khuyến khích họ để
họ có thêm tinh thần, nhiệt huyết để làm việc; kể cả
ông Trần Ðộ cũng như những người khác ở trong nước cũng
rất trông chờ vào sự ủng hộ và hỗ trợ của chúng ta
bên này. Vì thế tiếng nói trong nước vô cùng quan trọng,
nó sẽ là dấu hiệu báo trước một sự thay đổi lớn lao
cho đất nước. Trong lúc có nhiều người hải ngoại nghi
ngờ Trần Ðộ là loại " phản kháng giả hiệu" thì Nguyễn
chí Thiện vẫn nhận định Trần Ðộ là người đấu tranh
thực sự. Sự kiện sau này Trần Ðộ bị khai trừ ra khỏi
Ðảng đã cho thấy Nguyễn chí Thiện đã nhận xét đúng.
Trần Ðộ là cái gai mà Ðảng mong nhổ đi vì nó đặt Ðảng
vào trong một tư thế cấn cái và bất lợi vô cùng khi một
Ðảng viên có gần 50 tuổi Ðảng lên tiếng phê phán những
sai lầm của chế độ.
Về lực lượng đấu tranh của
lực lượng đấu tranh của người Việt hải ngoại, Nguyễn
chí Thiện có ý kiến nhắn nhủ là hoạt động của người
Việt hải ngoại nên chú trọng và hướng về trong nước
nhiều hơn nữa. Ðó mới là điều chủ chốt. Cộng sản bây
giờ có thể cử nhiều cán bộ ra hải ngoại để quấy rối,
quậy phá, gây ra những sự chửi bới, tranh cãi ồn ào về
những chuyện không đâu trong Cộng đồng hải ngoại... Cộng
sản chỉ có thể làm đến thế là cùng, không thể làm hơn
được nữa. Và điều này cũng là do một số người có ý
thức kém nên đã bị lợi dụng mà không biết.
Về cơ bản, trước kia Cộng sản
đã thắng về tuyên truyền ( việc vận động quần chúng),
vì lúc bấy giờ chúng chưa lòi mặt ra. Thế nhưng một người
gian dối, lúc đầu chưa bị lộ thì sự gian dối còn có hiệu
quả, nhưng bị đã bị lột mặt nạ, thì càng nói bao nhiêu,
càng uốn lưỡi bao nhiêu, thì càng bị khinh bỉ bấy nhiêu.
Nên khi Cộng sản có tung ra hải ngoại để làm những việc
" kiều vận " thì cũng không có kết quả bao nhiêu và cũng
không ăn thua gì vì tuyệt đại đa số những người Việt
ở hải ngoại đều là những nạn nhân và đã chán ngán với
Cộng sản đến cùng cực. Trong nước thì tình hình còn tệ
hơn nữa, người dân bây giờ nếu ngồi ở quán cà phê, quán
phở.. mà nếu còn ca ngợi công lao của Ðảng , của Bác thì
người ta coi những người phát biểu này như những người
mắc bệnh tâm thần, tâm trí không còn bình thường nữa.
Trong nước hiện giờ tiếng nói
chống đối thực sự không được phổ biến, phần nhiều
chỉ là những bản photocopy truyền tay nhau một cách âm thầm.
Chúng ta ở ngoài này có phương tiện, chúng ta có thể dùng
Internet để đưa tài liệu vào trong nước, hay bằng những
phương tiện thô sơ hơn như một người mỗi một tháng gửi
độ bốn, năm lá thư có những tài liệu phản kháng trong
nước hay những bài báo hay và có giá trị tại hải ngoại
về quê hương; trong thư bàn về tình hình dất nước, nói
rõ những hủ lậu , tham ô, tệ hại trì trệ của xã hội.
Chúng ta truyền về những tài liệu này về trong nước càng
nhiều bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Thời đại của chúng
ta hiện nay là thời đại của chiến tranh truyền thông. Hiện
chúng ta không có một khẩu súng nào trong tay vì thế truyền
thông là vũ khí vô cùng quan trọng.
Người dân hay các đảng viên, quân
đội, công an...những khi họ còn mù mờ chưa biết, chưa nhìn
ra sự thật, nếu chúng ta làm sáng tỏ vấn đề để họ
thấy rằng Ðảng Cộng sản bây giờ là một trở lực, một
nhục nhã cho đất nước Việt Nam và cần phải xóa bỏ đi
và thay thế bằng chế độ dân chủ văn minh để có thể
không thua kém các nước láng giềng - chứ chưa nói đến chuyện
so sánh với thế giới ! Tiếng nói quan trọng là làm thức
tỉnh, đi sâu vào quần chúng, nông dân, đảng viên, quân đội,
công an và những người Cộng sản, và sẽ có lợi cho những
biến động sau này vì tất nhiên những biến động đó sẽ
xảy ra.
Về chuyện Cộng sản có tiếp tục
cho người đánh phá cá nhân ông tại hải ngoại hay không
, Nguyễn chí Thiện cho rằng nếu có chuyện đó xảy ra thì
đó cũng là chuyện bình thường. Ông không cho ông là nạn
nhân vì Cộng sản bao giờ cũng đánh giá việc này như một
tác động tâm lý chiến rất cao. Thí dụ như cựu Tổng bí
thư Ðảng Cộng sản Liên Xô là Gorbachev giờ này đã về
hưu, có lần ông đã trả lời tờ báo chính trị rất có
uy tín của Pháp là tờ Politic International ( 1 năm chỉ xuất
bản 4 kỳ) trong một cuộc phỏng vấn mới đây. Ông cho biết
trong thời gian ông còn cầm quyền, ông đã tung ra rất nhiều
tiền để mua chuộc, xây dựng những tờ báo ở ngoại quốc
để ca ngợi đường lối của Liên Xô cũ. Ðiều này cho thấy
mặt trận truyền thông vô cùng quan trọng. Huống chi hiện
nay tại Việt Nam, chính quyền Hà Nội không thiếu tiền, làm
gì mà chúng không dùng tiền, cử người sang nước ngoài,
nhất là bên Mỹ- vùng có nhiều người Việt cư ngụ như
ở California - để làm việc lũng đoạn. Cho nên điều này
rất bình thường.
Cộng sản từ tay trắng mà thành
cũng là do tuyên truyền. Nhưng sự tuyên truyền của nó đã
mất đi hiệu lực, ngày tàn của nó giờ đã gần đến. Thí
dụ như ở hải ngoại, dù nó có quấy phá nhưng không người
nào dám ra mặt cả. Phần nhiều chỉ đóng vai chống Cộng
rất là ghê gớm, chửi bới lung tung tất cả mọi người,
cho ai cũng đều là Cộng sản, rồi trá hình kêu gọi lòng
nhân đạo, sự giao lưu, kêu gọi quên đi dĩ vãng để mở
ra một trang mới hướng về đất nước, dân tộc.. Ðiều
này những người hiểu Cộng sản, không cứ gì Nguyễn chí
Thiện, như nhà thơ Bùi minh Quốc cũng phải làm một bài thơ
nói, "Thôi những người đã chết thôi không sống lại được
nữa, đừng giở lại những chuyện cũ nữa, hãy quên đi,
" Ðao phủ giọng thật mềm: Chuyện đã qua rồi, thôi cho
qua mãi mãi. Xới lại làm chi những điều oan trái. Người
chết cũng chết rồi, hãy để họ nằm yên. Mắt lim dim, đao
phủ ngồi thiền ( 1995) " . Nhưng chúng ta cũng không thể
vơ đũa cả nắm, nhiều người do ghét Cộng sản quá cũng
bị mắc vào những điều đó. Vì thế sự tuyên truyền của
Cộng sản chỉ tác dụng phần nào, chứ còn đối với những
người am hiểu nó thì nó không hề tác động đến được.
Khi được hỏi là ông có nghĩ ra
một phương thức đấu tranh cho tiến trình đòi hỏi tự do
dân chủ cho Việt Nam thì Nguyễn chí Thiện cho biết là tất
cả chúng ta hiện ở một thế rất kẹt là ở hải ngoại
xa xôi quá đối với trong nước. Cũng không phải ai cũng có
thể về nước được. Chẳng hạn như cá nhân ông Thiện
muốn về nước cũng không về nổi, hoặc những người đấu
tranh thực sự muốn về nước thì không về được; chỉ
có những người về thăm gia đình, du lịch bình thường thì
về được mà thôi. Chúng ta ở ngoài này mà muốn tác động
đến những người trong nước thì chỉ có hai con đường
hành động là:
1) Làm sao chuyển tải tư tưởng,
những bài báo trong và ngoài nước về cho đồng bào trong
nước đọc;
2) Làm thế nào liên lạc được
với những người chống đối trong nước, cổ động họ,
khuyến khích họ vì hiện nay Cộng sản cũng đang tìm cách
mua chuộc, dụ dỗ và hù dọa họ đấy. Chúng ta phải làm
thế nào lôi kéo họ về phía chúng ta, đứng vững trên trận
tuyến, cụ thể là những người đã bị Cộng sản mua chuộc(
những người tương đối đứng tuổi ) như các ông Hoàng
Cầm, Lê Ðạt. Sau này Hoàng Cầm có cho ra bài trường thi
" Nhớ về Làng Sen" và Lê Ðạt với " Trường ca Bác" với
nội dung nhằm ca tụng , tâng bốc Hồ chí Minh để lấy điểm
với Ðảng Cộng sản. Người ta cảm thấy buồn khi hai kiện
tướng Nhân văn - Giai phẩm lại đi làm chuyện hạ cấp, tồi
bại như vậy chỉ vì một chút quyền lợi mà Ðảng ban cho.
.. Họ đã ca ngợi Cộng sản ra mặt dù trước đây họ có
thích gì Cộng sản đâu, họ ghét ra mặt, họ ghét Cộng sản
còn hơn Nguyễn chí Thiện. Thế mà vì cuộc sống, vì nhiều
thứ, họ đã theo. Rồi có những người trước đây đã từng
viết sách chống đối như Trần mạnh Hảo( tác giả cuốn
sách " Ly thân " chửi Cộng sản không còn manh giáp, vừa xuất
bản thì bị tịch thu ngay), bây giờ Trần mạnh Hảo trờ
thành công an ; Diệp minh Tuyền cũng thế. Gần đây nữa là
Bảo Ninh, Nguyễn Duy, Nguyễn huy Thiệp , được đi lại sang
Mỹ, Pháp, Ý, Ðức. Mà đi như thế thì dù chúng ta chưa đánh
gía gì họ quá đáng nhưng cứ lấy những kinh nghiệm và hiểu
biết trong quá khứ thì Nguyễn chí Thiện khẳng định những
người trên cũng đã có những nhân nhượng đối với Cộng
sản rồi; ít nhất là ra ngoài này không được nói xấu gì
Cộng sản, không được kể xấu những chuyện mất tự do
trong nước.. Như trước đây khi cụ Nguyễn mạnh Tường cũng
như Nguyễn khắc Viện lên tiếng một tí là đã bị chúng
cho người đến tận nhà dụ dỗ, dọa dẫm các cụ phải
yên, yên cho đến chết; ngay nhạc sĩ Văn Cao cũng thế, suốt
bao nhiêu năm cứ phải sống cái cảnh trên đe dưới búa,
cho đến ngày chết cũng không lên tiếng được câu nào.
Biết như thế, chúng ta đừng để
cho họ sa vào những chuyện đó. Chúng ta phải giữ mối liên
lạc thường xuyên với họ, điều này cá nhân ông Nguyễn
chí Thiện vẫn cố làm để cổ võ tinh thần anh em. Một mặt
khác là bình diện quốc tế. Ðây là một mặt quan trọng
vì hiện nay bình diện quốc tế mù mờ về Việt Nam nhiều
lắm vì Việt Nam là một nước nhược tiểu, ít được thế
giới biết đến. Vì thế chúng ta có nhiệm vụ làm thế nào
để ngoại giao, gặp những nhà báo ngoại quốc, điều trần
trước Quốc Hội các nước phương Tây, gặp các nhân sĩ
người nước ngoài, các cơ quan truyền thông, ân xá quốc
tế.. để càng nói nhiều bao nhiêu về Việt Nam, làm cho họ
hiểu rõ vấn đề Việt Nam bấy nhiêu thì càng tốt cho công
cuộc đấu tranh.
Biết bao nhiêu chuyện ở Việt Nam
cần nói ra. Bản thân nhà thơ Nguyễn chí Thiện khi nói chuyện
với các nhà báo thế giới thì ông cũng khám phá ra rằng
là họ hoàn toàn không biết gì cả. Chúng ta phải có những
bằng chứng cụ thể, có những sự việc rõ rệt về tôi
ác, những vi phạm nhân quyền có bằng chứng của Cộng sản,
nêu lên thảm cảnh của Việt Nam, người dân đang sống như
thế nào..tất cả những điều này mới có những tác động
cụ thể đến thế giới. Từ tác động này mới tác động
phần nào đến chính phủ họ, thí dụ như muốn viện trợ
nhân đạo thì yêu cầu để viện trợ đến tận tay chứ
không thể đưa tiền cho chính phủ Cộng sản Việt Nam. Việc
này có thể làm được; hay những việc buôn bán, cho vay tiền
thì phải kèm theo, gắn bó với một vài điều kiện cải
thiện nhân quyền, như thế sẽ có lợi cho những cuộc đấu
tranh cho chúng ta hơn- đó là công tác ngoại vận. Nhờ những
công tác ngoại vận này nên những người trong nước được
thế giới hay Cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến
thì Cộng sản dù có giam cầm cũng không dám đầy đọa họ
quá đáng, và rồi đến một lúc nào đó chúng cũng phải
tha. Nhưng Cộng sản Việt Nam thuộc loại rất " xỏ lá", chúng
coi những người này như những món hàng, mỗi khi nhả ra một
tí lại câu một tí lợi về ngoại giao, về kinh tế cho bạo
quyền. Nên chúng ta phải nhìn rõ sự thật như vậy, đừng
có ảo tưởng xa xôi. Nhiều người vừa rồi thấy chính quyền
Cộng sản tha 2000, 5000 tù- đó chỉ là tù hình sự lưu manh,
tham ô- chỉ có hơn chục người là tội nhân chính trị. Số
lượng tù chính trị trong tù tại Việt Nam vẫn còn tương
đối nhiều, tuy nhiên phần nhiều họ là những người vô
danh nên dù bị giam giữ mà hải ngoại không hề hay biết
gì về họ để tranh đấu giải thoát họ. Mỗi khi người
dân trong nước mở đài ( radio) nghe thấy ngoài này có những
cuộc biểu tình, mít tinh đòi nhân quyền, đòi tha tù thì
họ rất phấn khởi. Vì thế, chúng ta phải làm thế nào đưa
những tin tức này về trong nước càng nhiều càng tốt.
Khi được hỏi là những người
tranh đấu trong nước như Bác sĩ Nguyễn đan Quế, Giáo sư
Ðoàn viết Hoạt, các nhà lãnh đạo tôn giáo như Hòa thượng
Thích Quảng Ðộ, các thượng tọa Trí Siêu, Tuệ Sỹ khi được
thả ra thì họ có tạo được làn sóng chính trị nào ở
trong nước hay không? Nguyễn chí Thiện cho biết tất cả những
người này đều đóng những vai trò quan trọng. Nếu như ông
Ðoàn viêt Hoạt sau khi ra khỏi tù rồi tới hải ngoại mà
hoạt động một cách nhiệt huyết, nghiêm túc, tìm gặp quốc
tế, gặp các tổ chức, đi thuyết trình nói chuyện cho thế
giới hiểu biết hơn về Việt Nam thì đây là một hành động
tích cực, thúc đẩy thêm tình hình tranh đấu ở hải ngoại.
Còn những người còn trong nước như Bác sĩ Nguyễn đan Quế
thì Nguyễn chí Thiện đã có cơ hội tiếp xúc bằng điện
thoại. Bác sĩ Quế, theo lời ông Thiện, hiện nay rất vững
vàng và sẽ tiếp tục đâu tranh và không e ngại điều gì
cả. Còn các vị Hòa thượng, Thượng tọa, các ngài coi nhà
tù như nhà tu, họ rất bình thản, những tiếng nói của họ
đã được chúng ta ở đây biết nhiều, chúng ta rất cảm
phục nhưng nhân dân trong nước thì lại ít ai biết đến.
Vì thế chúng ta phải đưa những tiếng nói của họ về lại
trong nước để nhiều người biết. Hiệu quả này rất quan
trọng vì các vị này là những người dám hy sinh, dám chịu
tù tội để đấu tranh trước bạo quyền Cộng sản.
Về những bàn cãi về chuyện hòa
hợp, hòa giải dân tộc cũng như vấn đề tương lai đất
nước thì Nguyễn chí Thiện đưa ra nhận định là chuyện
đòi hòa hợp, hòa giải với Cộng sản chỉ là một điều
ảo tưởng. Khi muốn nói chuyện hòa hợp, hòa giải thì điểm
đầu tiên người Cộng sản phải làm là nhận tất cả những
lỗi lầm đã gây ra cho dân tộc, tất cả những quyền thiêng
liêng của con người như tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng,
trả lại dân chủ, cho người dân đi bầu chọn người xứng
đáng.. Nói chung là những quyền bình thường của con người
sau bao nhiêu năm bị độc chiếm, giờ đây Cộng sản phải
xin lỗi, trao trả lại cho toàn dân quyết định. Khi họ thực
lòng làm như vậy thì lúc bấy giờ mới nói chuyện hòa hợp
hòa giải, nghĩa là có thể bỏ qua những chuyện cũ. Còn bây
giờ họ vẫn ngang nhiên ngồi chễm chệ để cai trị dân
tộc, còn chúng ta vẫn kêu gọi hòa hợp hòa giải thì đó
là một điều vô vọng. Có nhiều người kêu gọi như " giơ
bàn tay ra cho họ bắt " nhưng giơ ra hàng chục năm nay mà Cộng
sản có bắt đâu! Cho nên lúc này không cần thiết để nêu
sự hòa hợp hòa giải lên.
Còn nói hòa hợp hòa giải giữa
dân tộc với nhau, giữa những người Việt với nhau, việc
này chẳng những bây giờ, mà từ ngàn xưa, rồi cho đến
ngàn sau, một dân tộc thì bao giờ cũng có sự hòa thuận,
có sự đồng nhất " Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Ðông
cũng cạn." Một dân tộc muốn tiến lên được thì nhất
định phải có kỷ luật và có tinh thần tương thân tương
ái, điều này muôn đời muôn kiếp vẫn phải nêu cao.
Bản thân Nguyễn chí Thiện lúc
nào ông cũng tin đất nước sẽ có ngày tươi sáng. Từ những
năm xa xôi mịt mùng trời đất, khi nằm trong tù, ông bao giờ
cũng tin rằng Cộng sản sẽ tan rã vì nó phi nhân, trái với
bản chất con người. Mà càng tàn độc, càng nham hiểm, thủ
đoạn, đểu cáng bao nhiêu, thì càng tan nhanh bấy nhiêu. Ông
vững tin như thếvà niềm tin này đã được chứng minh như
cả một hệ thống Cộng sản thế giới đã tan vỡ như một
giấc mơ, không ai lường được, không nhà tiên tri nào định
được. Ðó chính là vì bản chất sai trái đưa đến sự
sụp đổ của chính nó, chứ không ai đánh đổ cả.
Ông tin niềm tin đó đúng. Ðến
hôm nay còn sót lại vài ba nước nghèo nàn đói khổ như Bắc
Triều Tiên, Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc. Ông vẫn vững tin không
lâu nữa đâu , tất cả những nước nói trên sẽ phải đi
theo con đường dân chủ hóa vì nhân dân các nước đó không
chịu chìm đắm mãi. Ngày này sẽ không còn xa xôi lắm, không
phải đợi hàng chục năm hay nhiều hơn.
Trong nước hiện nay, ngay trong hàng
ngũ đảng viên, kể cả trong quân đội lẫn công an, họ đã
chán ngán cả rồi ! Không còn ai tha thiết nữa. Bây giờ chỉ
cần có một điều kiện nào đó thì tất cả những cái đó
sẽ tan, tan bất ngờ và nhanh chóng, vì nếu không có tâm trạng
đó thì làm thế nào làm tan vỡ nổi nó. Như Liên Xô cũ với
20 triệu đảnh viên, 15 triệu đoàn viên, 4 triệu quân, có
ai đánh đâu mà tự tan rã; vì chính 20 triệu đảng viên,
công an, quân đội đã chán chế độ rồi. Việt Nam ngày nay
cũng thế, chỉ cần một cơ hội nào đó, nó sẽ đến, nó
sẽ quét sạch những lực lượng ngoan cố bảo thủ- dù còn
rất ít- nhưng còn khống chế được đất nước. Ông cho
rằng tương lai " tả trắng thắng cờ hồng" phải đến với
dân tộc Việt Nam, sẽ đến khi thiên niên kỷ thứ ba bắt
đầu.
" Tả trắng thắng cờ hồng" là
thế nào? Tả trắng là sự sống, sự sinh sôi nảy nở, sẽ
thắng cái tàn bạo, chết chóc là cờ hồng. Ai cũng mong ngày
" tả trắng thắng cờ hồng" đến , nhưng muốn nó đến cho
nhanh, chúng ta phải làm cho mọi người thấm thía hơn nữa
về tội ác của Cộng sản đã gây ra cho dân tộc, tạo ra
sự nghèo nàn, lạc hậu mà đất nước đang chìm đắm. Tóm
lại là làm cho mọi người biết rõ thực chất của chế
độ Cộng sản, thực chất của Ðảng. Ðiều này ông đã
suy nghĩ đã lâu, đã làm những câu thơ và đã in ở hải
ngoại. Ông chỉ nhân đây nhấn mạnh lại điều đó vì đó
là tiếng nói vô cùng quan trọng:
"Khi nhân loại mọi người
đều biết
Cộng sản là gì tự nó sẽ
tan đi
Thứ sinh thành từ ấu trĩ ngu
si
Sự hiểu biết sẽ là mồ hủy
diệt"
Chúng ta phải làm cho toàn dân, kể
cả đảng viên lẫn quân đội, công an hiểu biết , vì càng
biết bao nhiêu, thì chế độ Cộng sản sẽ tàn lụi và tan
vỡ nhanh chóng bấy nhiêu. Tâm trạng rã rời của những người
này sẽ làm chế độ rã ra với một tốc độ nhanh và không
có gì có thể hàn gắn lại được. Chế độ sắt máu Cộng
sản cũng được xây dựng nên bởi con người và nó cũng
sụp đổ khi con người xây dựng nên nó tới thời kỳ rã
rời, suy sụp. Một tòa nhà sắt thép mới trông vào thì trông
có vẻ cứng rắn, vững chắc nhưng đã mục nát tận gốc
rễ, cho nên chỉ cần một cơn gió nhẹ bất ngờ thổi qua
sẽ làm cho tòa nhà này sụp đổ tan tành.
Trong bài thơ " Sẽ có một ngày"
Nguyễn chí Thiện đã nói lên tiếng nói và ước nguyện của
mấy chục triệu người Việt Nam. Lời thơ bồi hồi, cảm
xúc cùng mang tính tiên tri của thời đại:
Sẽ có một ngày con người
hôm nay
Vất súng, vất cùm, vất cờ,
vất Ðảng
Ðội lại khăn tang, quay ngang
vòng nạng
Oan khiên !
Về với miếu đường, mồ mả,
gia tiên
Mấy chục năm trời bức bách
lãng quên
Bao hận thù độc địa dấy
lên
Theo hương khói êm lan, tan về
cao rộng
Tất cả bị lùa qua cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa, kẻ bạo lực
xô chân
Sống sót về đây an nhờ phúc
phận
Trong buổi đoàn viên huynh đệ
tương thân
Ðứng bên nhau trên mất mát
quây quần
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Ðặt vòng hoa tái ngộ lên mộ
cha ông
Khai sáng kỷ nguyên tã trắng
thắng cờ hồng !
Tiếng sáo mục đồng êm ả
Tình quê tha thiết ngân nga
Thay tiếng tiến quân ca
Và quốc tế ca
Là tiếng sáo diều trên trời
xanh bao la !
( 1971)
Mặc dù được hai người bạn tù
là Minh Thi và Trần Nhu công bố tên tác giả nhưng rồi số
phận tác giả tập thơ cũng còn long đong. Ðó là không hiểu
tại sao tờ báo của ông thầy bói Lê tư Vinh dựng lên một
luận điệu cho rằng tác giả tập thơ là Lý Ðông A, một
người đấu tranh trong thời Pháp thuộc có một vài tác phẩm
lý luận chính trị như " Huyết Hoa" , ông bị mất tích và
không ai còn nghe gì đến ông nữa. Nói chung những luận điệu
nhằm chứng minh Lý Ðông A là tác giả tập thơ hết sức
mơ hồ và không có căn bản khoa học gì cả. Có điều khó
hiểu là có nhà báo Cao thế Dung và Bác sĩ Trần ngọc Ninh
nhảy vào phụ họa cho lập luận của tờ Vạn Thắng. Sau
khi nhà thơ Nguyễn chí Thiện đến Mỹ năm 1995, với những
chứng cớ không thể chối cãi được, hai ông Cao thế Dung
và Trần ngọc Ninh im lặng. Dĩ nhiên là họ đã thấy cái
hố của họ. Ðúng ra muốn làm một người cầm bút chân
chính và lương thiện, họ phải viết bài công khai nhận những
lỗi lầm suy đoán của mình. Chỉ tiếc rằng họ chưa đủ
can đảm làm việc đó. Trong cuộc đời này, ai mà không phạm
phải lỗi lầm, khi phạm mỗi lầm mà công khai nhận lỗi
của mình thì không làm cho nhân cách của mình thấp kém đi
chút nào,mà trái lại càng làm cho nhân cách mình cao cả thêm
lên. Hy vọng hai ông Cao thế Dung và Trần ngọc Ninh sẽ công
khai nhận rõ lỗi lầm của mình để có thể trở nên con
người cao cả. Những nhận định sai lầm của hai ông về
tác giả " Hoa địa ngục " đã tạo ra một không khí nghi kỵ
về tác giả tập thơ là nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Dĩ nhiên
điều này không tránh khỏi chuyện làm nhà thơ buồn lòng
, đó là một điều đáng buồn không nên để xảy ra đối
với một người tranh đấu đã trải qua 27 năm trong lao tù
Cộng Sản. Cho tới giờ phút này nhóm Vạn Thắng còn cho ông
Nguyễn chí Thiện là cò mồi của Cộng sản !! Tội nghiệp
cho ông thầy bói đầu nậu của Vạn Thắng là Lê tư Vinh,
một người không có văn hóa cũng như trình độ chính trị
để rồi đưa đến chuyện phát ngôn bừa bãi trong những
nhận định về tập thơ " Hoa địa ngục" cũng suy đoán hồ
đồ về tác giả của nó như đã nêu trên. Ở thế giới
ngày nay , làm chính trị cứu nước cứu dân cũng phải có
một trình độ nhận thức tối thiểu. Ðất nước Viết Nam
có lẽ sẽ chẵng bao giờ ra khỏi cảnh tối tăm nếu có những
ông thầy bói đui mù đi làm chính trị. Chỉ cần thấy họ
múa may vài đường là người ta nhìn ra ngay cái bản chất
vô học, ngu xuẩn, và độc ác của họ. Tới giờ này bản
thân những người " vu oan giá họa " cho Nguyễn chí Thiện
đều đã thấy " hố" , tuy nhiên họ vẫn cứ khăng khăng giữ
lấy sự suy đoán sai trái của mình vì không đủ liêm sĩ
để nhìn nhận sự thật. Ở đời này, kiếm một người
cầm bút có lương thiện cũng thật là khó như tìm sao đêm
ba mươi.
Ðiều đáng buồn hơn nữa là tờ
báo lo chuyện phát hành đầu tiên tập thơ " Hoa địa ngục
" là tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong giờ đây cũng giở giọng
cho Nguyễn chí Thiện không phải là tác giả tập thơ. Nguyên
nhân sâu xa là tờ báo này nghi ông Nguyễn chí Thiện cộng
tác với Mặt trận , một kẻ thù không đội trời chung của
tờ báo này. Lối cư xử " giận cá chém thớt " thiếu văn
minh yếu kém này của tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong chỉ làm
cho người đọc coi rẻ và khinh bỉ tờ báo này thêm. Coi Nguyễn
chí Thiện không phải là tác giả tập thơ " Hoa địa ngục
" chưa đủû, tờ báo còn " chụp mũ " nhà thơ là cán bộ
Cộng sản gài qua hải ngoại này nọ. Biết đến bao giờ
làng báo hải ngoại mới khá hơn nếu còn có những tờ báo
hạ cấp,bẩn thỉu như tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong này. Ở
đây chúng ta cứ hô hào là Cộng sản phải để cho báo chí
trong nước được tự do hành xử đệ tứ quyền ( tức là
quyền tự do báo chí) mà có những tờ báo hải ngoại, sống
trong không khí tự do, lại chuyên loan những tin vô căn cứ
và độc ác nhằm hạ nhục người khác như trường hợp tờ
báo Văn Nghệ Tiền Phong đối với nhà thơ Nguyễn chí Thiện
thì thật là đáng buồn thay.
Có thêm một sự kiện nữa xác
định Nguyễn chí Thiện là tác giả tập thơ " Hoa địa ngục"
. Ðó là sự lên tiếng của nhà văn Vũ thư Hiên trong tập
hồi ký chính trị " Ðêm giữa ban ngày " của ông. Ông Hiên
là bạn tù của Nguyễn chí Thiện. Ngày xưa ở tù chung với
ông Thiện, ra tù ông Hiên kể rõ ông Thiện có đến thăm
ông tại nhà, và có điều thú vị cần nói ra ở đây là
hai ông cùng ở chung với nhau trong một nhà tại Pháp năm 1989-
1999 trong chương trình bảo trợ cho những nhà văn bị đàn
áp do Âu châu lập nên. Ðúng là trái đất bao giờ cũng tròn.
Trong cuốn sách " Ðêm giữa ban ngày
" Vũ thư Hiên có kể những mẩu chuyện tai nghe mà ông chứng
kiến trong tù về Nguyễn chí Thiện như sau :
" Anh Nguyễn chí Thiện, một tù
nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong
tầng lớp trí thức của xã hội tù, bĩu môi:
_ Các anh nói thối bỏ mẹ: " trách
nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo ". Dân chúng chẳng
cần tới sự lãnh đạo của các anh. Vì các anh dân mới đói.
Vì các anh dân Trung Quốc mới thân tàn ma dại.
Ông bí thư huyện, anh hùng lao động
nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, im lặng.
..... Thiện trợn mắt nhìn tôi.
Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh,
cộng sản là xấu , là tồi tệ ,là kinh tởm, chấm hết .
Không một cái gì của Cộng sản có thể là tốt.
Cái cách tôi đánh đồng loạt chính
quyền Tưởng Giới Thạch với chính quyền Mao Trạch Ðông
như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận
tôi như một ngoại lệ.
Nguyễn chí Thiện làm nhiều thơ.
Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng
hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh,
Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Tôn Thất Tần...
kẻ đứng người ngồi trang ráng chiều bàng bạc của một
vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới
bức tranh vẽ Những Người Tháng Chạp trong cảnh lưu đầy
ở Sibir thời Sa hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn chí Thiện
không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bỗ bã,
nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ
kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc
được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu
thơ, một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng
lại trong trí nhó:
Không có chỗ trên con
tàu Trái đất
Tôi là người hành khách bơ
vơ
Lỡ chuyến, lầm ga , mất cắp
, bây giờ
Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh
ngắt
Cái toa đen dành cho súc vật
Hoặc
Người xưa ngẩng đầu
nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ cố
hương..
Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn
nhện chăng tơ vướng
Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm
vương .. ( 1)
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn
chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng
là cặp mắt lồi ngơ ngác.
Bộ quần áo trại phát, dự tính
cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người
anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không
bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo,
làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người
tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai vào bất cứ lúc
nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc
nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi
bặm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định
dọn dẹp nó hay sữa chữa nó. Nói tóm lại, anh chẳng gây
sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là người tù không thể
bẻ gãy.
Tinh thần bất khuất trong những người tù không
biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần,
thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy
Nguyễn chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại.
Trông anh như bộ xương người trong giờ cách trí- lồng ngực
ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi, Thiện mặt
đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi:
_ Chúng nó bắt được mấy bài
thơ của Thiện
Những người tù số lẻ lặng lẽ
đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi
nghĩ : chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó
người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại
lệ mà người tù chống cộng cực đoan dành cho tôi:
_ Thiện nó tin anh lắm đấy! Mà
cũng trọng anh lắm đấy ! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho
anh nghe đâu.
Tôi hiểu Kiều Duy Vĩnh quý tôi.
Trong cái sự trọng tôi của Nguyễn chí Thiện có ảnh hưởng
tình cảm của Kiều Duy Vĩnh dành cho tôi. Nhưng không có Kiều
Duy Vĩnh thì Nguyễn chí Thiện cũng vẫn tin tôi không làm ăng-ten.
Những người tù trí thức khác cũng tin như vậy. Nguyễn chí
Thiện có trọng tội hay không là chuyện không quan trọng.
Trong tù tôi học được cách sống tự tại,mặc kệ người
ta nghĩ về mình thế nào. Tôi mãi mãi vẫn là người, không
phụ thuộc vào sự đánh giá của bất cứ ai.
( Ðêm giữa ban ngày - trang 727)
" ... Nguyễn chí Thiện được thả
ra năm 1977. Từ ga Trần quý Cáp anh tới thẳng nhà tôi, ăn
với tôi bữa cơm rồi mới về Hải Phòng. Thỉnh thoảng anh
lên Hà Nội chơi lại rẽ vào thăm tôi. Vẫn ngơ ngác nhìn
đời qua cặp kính trắng, ít nói hơn cả trong khi ở tù, còn
ít cười hơn nữa, Nguyễn chí Thiện hoàn toàn thu mình vào
nội tâm. Tôi giao cho anh bột nở về bán cho các hàng cháo
quẩy của thành phố cảng. Khi tôi chế bột nở cho cao su,
anh cũng bán được một ít cho những người người buôn hàng
vào Nam. Nhưng anh không có khiếu thương mại. Tôi vào Sài
Gòn hẳn từ năm 1983. Năm 1988 tôi ra chơi, Lê Trình báo tin
Nguyễn chí Thiện đã bị bắt lại. Anh chạy vào sứ quán
Anh ở Hà Nội, trao cho họ tập thơ anh làm trong tù rồi bước
ra để vào Hỏa Lò, ở thêm mấy năm nữa. Trình kêu gọi
anh em bạn tù góp tiền cho gia đình Nguyễn chí Thiện tiếp
tế cho anh. Năm 1994 Nguyễn chí Thiện sang Mỹ (2), từ đó
anh đi khắp thế giới để chửi chính quyền Hà Nội . Tôi
đọc báo và buồn lòng thấy anh chống cộng vung vít, chống
luôn cả những hành động cứu trợ, theo anh nói, nuôi béo
chính quyền cộng sản. Tôi biết có những vụ tham ô hàng
và tiền cứu trợ, nhưng không phải tất cả đều thế. Anh
còn nói rằng không thể tin được bọn cộng sản ly khai,
quên khuấy rằng họ cũng là những người yêu nước không
kém gì anh, ít nhất là như thế. Nhưng nghĩ tới những gì
Nguyễn chí Thiện đã trải qua, tôi hiểu nỗi căm giận của
anh.
( Ðêm giữa ban ngày - trang 764)
Hai đoạn văn trích dẫn trong cuốn
sách " Ðêm giữa ban ngày " của nhà văn Vũ thư Hiên đã chói
rọi thêm vào tập thơ " Hoa địa ngục " của tác giả Nguyễn
chí Thiện. Cả cuộc đời yêu thơ như chính máu thịt của
mình, nhà thơ khốn khó vì thơ từ những ngày trong tù như
đoạn văn kể trên cũng như sau này ra hải ngoại , nhà thơ
cũng còn gặp những sự buồn phiền vì đứa con tinh thần
được làm trong 20 năm tù đày bị gán cho là của người
khác. Nhà văn Vũ thư Hiên hiện nay sinh sống ở Âu Châu và
chắc chắn sẽ trả lời những nghi vấn thắc mắc về người
bạn tù Nguyễn chí Thiện của ông.
Trong hai đoạn văn trích dẫn trên
còn có nói đến nhân vật Kiều duy Vĩnh. Ðây là một đại
úy thời Pháp và là bạn tù của Nguyễn chí Thiện. Cách đây
mấy năm ông Vĩnh có viết một bài hồi ký nhỏ nhan đề
" Tôi đã gặp các thánh tử đạo " đăng trên tờ báo Thế
Kỷ 21 ở Nam California. Ông Vĩnh hiện nay sống ở Hà Nội
và là người cung cấp cho một ký giả Pháp bản đồ trại
giam Thanh Cẩm để ký giả Pháp này đột nhập và tường
trình chế độ giam cầm của Cộng Sản cách đây không lâu.
Hiện nay ở tại California cũng như những nơi khác trên đất
Mỹ có những người tù Biệt kích nhảy toán ra Miền Bắc
đã gặp và biết Nguyễn chí Thiện từ trong những ngày tù
tội. Những người này là những chứng nhân cho kẻ sĩ Nguyễn
chí Thiện trong những ngày ngục tù mà nhạc sĩ Phạm Duy đã
thân tặng ông danh hiệu " Ngục sĩ". Cái tên mà trước đây
chưa từng ai có và sự bất khuất trong những năm tù tội
cho thấy Nguyễn chí Thiện rất xứng đáng được gọi là
" Ngục sĩ".
Tuy nhiên yếu tố dứt khoát để
xác định tập thơ " Hoa địa ngục " là của Nguyễn chí Thiện
vì nét chữ Nguyễn chí Thiện bây giờ giống y chang nét chữ
trong tập thơ được quăng vào Tòa đại sứ Anh ở Hà Nội
.( Xin coi phần phụ lục để chứng thực điều đó).
Sau cuộc chiến tranh Việt Nam, một
số quân nhân Mỹ cụt hai tay khi về lại quê hương đã được
tập viết bằng ngón chân. Có điều ngạc nhiên là chữ viết
bằng chân của họ cũng na ná giống như chữ viết bằng tay
của những ngày chưa bị mất tay. Ðiều đó chứng tỏ một
điều : hình dạng của chữ viết là do bộ óc, ngón tay và
ngón chân chỉ là phương tiện biểu hiện ra chữ viết mà
thôi. Bảy mươi tám triệu người Việt quốc nội và hai triệu
người Việt hải ngoại chắc chắn không có ai có nét chữ
giống nét chữ của tập thơ. Nguyễn chí Thiện là người
duy nhất có nét chữ giống chữ viết trong tập thơ vì ông
là tác giả của tập thơ. Phải nói tập thơ xuât hiện dưới
hình thức viết tay nên ngày nay sự chứng minh ai là tác giả
tập thơ đã qúa rõ ràng minh bạch, chứ nếu tập thơ được
đánh máy thì giờ này ai cũng nhảy vào tự nhận là tác giả
tập thơ được cả.
Cách đây trên mười năm có một
tin làm xôn xao chấn động dư luận thế giới là người ta
tìm ra được một bộ hồi ký của trùm Phát xít Hitler. Ngay
cả tờ báo chính trị đứng đắn của Mỹ là tờ Newsweek
cũng tính ra một số đặc biệt về cuốn hồi ký độc đáo
này. Nhưng trước khi được in thành sách, các nhà kiểm tự
thế giới đã nhảy vào làm việc để chứng thực coi có
phải cuốn hồi ký này là do Hitler viết hay không. Họ đem
chữ viết của Hitler để so sánh với nét chữ trong cuốn
hồi ký mới tìm thấy này. Sau vài ngày họ cho biết cuốn
hồi ký này thuộc loại dỏm. Những tay lưu manh đưa ra cuốn
hồi ký này nhằm tính chuyện hốt bạc đã không qua mặt
nổi những nhà kiểm tự . Cho nên yếu tố chữ viết bản
thảo là yếu tố quyết định ai là tác giả. Trời sinh mỗi
người có một khuôn mặt thì trời cũng sinh mỗi người có
một nét chữ viết đặc thù riêng biệt . Ngay cả hai anh em
sinh đôi dù có nét mặt giống nhau không thể phân biệt được
thì chắc chắnø họ cũng sẽ có hai nét chữ viết khác nhau
, và nếu họ có viết văn làm thơ thì cũng dễ dàng nhận
ra được sản phẩm tinh thần của mỗi người bằng cách
căn cứ trên chữ viết riêng biệt. Chữ viết có thể coi
như là dấu tay của mỗi người và không thể lẫn lộn được.
Những người giả chữ viết của người khác thì cũng chỉ
qua mặt người thường chứ không bao giờ qua mặt nổi những
chuyên viên kiểm tự chuyên nghiệp/. Ðó là một điều chắc
chắn dựa trên căn bản khoa học.
Sau khi ra tù lần cuối,nhà thơ Nguyễn
chí Thiện có gửi cho người anh ruột định cư tại tiểu
bang Virginia một số bài thơ, (ông anh này tên Nguyễn công
Dân, tốt nghiệp khóa 4 Thủ Ðức ( cùng khóa với các tướng
Ngô quang Trưởng, Bùi thế Lân v..v), làm việc tại phòng 2
bộ Tổng tham mưu và có tham gia vào phái đoàn VNCH đi dự
hòa đàm Paris vào những năm 1970. Ông Dân vào Nam năm 1954 trong
khi tất cả gia đình , trong đó có Nguyễn chí Thiện ở lại
miền Bắc ), trong đó có bài " Con thành thi nhân " có nội
dung như sau:
Con thành thi nhân cũng
chính là nhờ
Công sức mẹ thầy nuôi cho ăn
học
Gia cảnh bần hàn lo toan chăm
sóc
Con chỉ nằm đọc sách luyện
vần thơ
Không mảy may báo hiệu được
một ngày
Thực có tội với mẹ thầy
biết mấy !
Song lòng già rất thương, đâu
nghĩ ngợi
Chỉ mong con nên sự nghiệp ,nên
người
Trước lúc qua đời, thầy mẹ
còn lo
May quần áo để tù về con sẵn
có
Tình thầy mẹ mênh mông như
thế đó
Thế gian này không có thứ đem
so !
( Hoa địa ngục tập 2- 1980)
Nhà thơ Vi Khuê cũng ở tại Virginia
nên có cơ hội đọc những vần thơ mới này. Với bút hiệu
Nguyễn thị Bình Thường , bà nhận xét như sau trên tờ báo
Phụ nữ diễn đàn : " Ðúng là hơi thơ của Nguyễn chí Thiện
" . Ðây là một nhận xét đúng đắn. Thật ra một người
khi làm văn thì có văn phong riêng cũng như khi làm thơ thì
có hồn thơ riêng, khó có thể lầm lẫn với người khác
được. Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Tuân đều có văn phong
ghi đậm dấu ấn của mỗi người, cũng như những nhà thơ
Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử đều có những bài thơ mang hơi hướm
của từng riêng người. Về nhạc thì cũng thế, mỗi người
nhạc sĩ đều có mỗi nét riêng tây khi viết nhạc. Nhạc
Trịnh công Sơn mang âm điệu của một chất morphine rời rã,
trong khi đó hầu như bài nhạc nào của Hùng Lân đều có
âm hưởng hùng tráng. Nhà văn, nhà thơ, nhà làm nhạc đều
lưu lại dấu vết đặc thù trên mỗi đứa con tinh thần của
mình. Và người sành điệu hiểu biết chỉ cần đọc một
đoạn văn, một bài thơ hay nghe âm điệu một khúc nhạc thì
cũng gần nhừ đoán được đó là của ai.
Một điểm nữa cần nói ở đây
là như đã được nói ở trên là kèm theo tập thơ có một
lá thư viết bằng tiếng Pháp lưu loát. Ðiều đó chứng tỏ
rằng nhà thơ là một người thông thạo Pháp ngữ. Mấy năm
nay ở Pháp, Nguyễn chí Thiện đã chứng tỏ khả năng tiếng
Pháp cứng cỏi của ông bằng cách trả lời bằng tiếng Pháp
trong các cuộc phỏng vấn của ký giả Pháp ngay trên đài
truyền hình Pháp. Ðây lại là một điểm nữa chứng minh
tác giả " Hoa địa ngục " là Nguyễn chí Thiện.
Sau 27 năm tù tội, cuối cùng do
sự can thiệp của một đại tá Mỹ gốc Nhật ở San Jose,
Nguyễn chí Thiện đã tới Mỹ vào tháng 11 năm 1995. Ông nói
sơ qua về gia cảnh và chuyện quăng tập thơ vào tòa đại
sứ Anh như sau:
" Ông sinh ngày 27 tháng 2 năm 1939
( Tuổi Kỷ Mão). Bố ông là một công chức thời Pháp thuộc.
Ông có người anh tên Nguyễn công Dân ( hiện cư ngụ tại
Virginia) đã vượt tuyến vào Nam năm 1954 và sau này mang cấp
bậc Trung tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông Thiện
không có vợ, không con. khi được thả năm 1977 ông sống ở
Hải Phòng với bà chị đầu. Ngày 10 tháng 7 năm 1979 ông đi
lên Hà Nội. Mặc dù có một bà chị ruột ở Hà Nội, ông
đến nhà một người bạn, ngồi trên gác nhà ấy và viết
ra 4000 câu thơ trong ba ngày ròng rã mà ông nhớ trong đầu
sau hai mươi năm tù đầy. Ngày 16 tháng 7 năm 1979 , vào khoảng
9 giờ sáng thì ông xông vào Tòa Ðại sứ Anh để quăng tập
thơ và bị bắt liền ngay sau đó và ở tù thêm vài năm nữa
mới được thả ra."
Những lời tâm sự bộc bạch của
ông đã rất đúng với gia cảnh của người viết tập thơ
" Hoa địa ngục". Khi xuất bản tập thơ " Hoa địa ngục ,
tập 2 " tại Hoa Kỳ, ông tâm sự thêm về phương hướng và
hoàn cảnh làm thơ của ông ( trong " Lời nói đầu " )
" Với hoàn cảnh ấy, tôi phải
làm thơ, nhất là ở trong tù, giấy bút không có , khám trại
thường xuyên, bọn tù bẩm báo lại không thiếu. Thơ có thể
làm trong đầu, học thuộc giữ trong đầu. Văn xuôi thì chịu
! Nhưng dùng thơ mà để bàn đến chính trị, mà để luận
tội, mà để miêu tả hiện thực, toàn cảnh bắn giết, đánh
đập, cùm kẹp, đói rét, ốm đau, đờm máu, rớt dãi, tranh
giành ngô, khoai, sắn, thì rất khô khan, khó có chất thơ,
nhưng vẫn phải làm để cho mọi người và con em sau này biết
rõ về tội ác Cộng sản, về thảm cảnh của dân tộc. Ðể
loại thơ này đỡ nhàm chán, trong muôn ngàn sự việc xảy
ra hàng ngày, trong muôn ngàn tâm tư, cảm xúc, tôi cố chọn
lọc những gì nổi bật nhất, đập vào tim óc nhất. Coi mình
là người ghi chép cảnh thực, tình thực của một giai đoạn
lịch sử đớn đau tột độ, tôi luôn tôn trọng sự thật,
không cường điệu, khuếch đại, bôi đen, hoặc gay cấn hóa.
Vả lại, nguyên những sự thực cũng chỉ ghi được phần
nào, cần gì phải vẽ vời thêm! Tôi hết sức tránh những
chữ , những hình tượng cầu kỳ, văn chương, vì nó không
phù hợp với loại thơ tôi làm. Tôi cố vươn tới sự giản
dị như một nhà thơ Pháp đã nói: S’ e’lever à la Simplicite’
. Nhà phê bình Viên Mai đời Thanh có kể lại chuyện một
anh bán cháo lòng, khi mẹ chết có làm mấy câu thơ khóc mẹ
:
Khốc nhất thanh
Khiếu nhất thanh
Ngã đích thanh âm nương quán
âm
Như hà nương bất ứng !
Tạm dịch
Khóc một tiếng
Gọi một tiếng
Tiếng con thân quen với mẹ là
vậy
Mà sao mẹ không trả lời !
Và Viên Mai phê : " Ðọc xong, người
đọc nhợt nhạt cả mặt mày! Khi còn trẻ, đọc xong tôi
cũng thấy lòng lịm đi. Không thấy chữ nghĩa đâu, hình tượng
, văn chương đâu, chỉ thấy nỗi đau đớn bàng hoàng của
người con bên xác mẹ. Thì ra " Thi tại ngôn ngoại, bất tại
ý trung " là vậy !...
Nhưng giản dị khác với nôm
na, tầm thường . Cái khó là ở chỗ đó. "
Ðó là những lời tâm sự chân
thành của Nguyễn chí Thiện trong khi làm thơ. Ðọc bài thơ
nào của ông ta cũng thấy cái ý tưởng độc đáo và cái
tứ thơ dồi dào, được diễn tả bằng lời thơ dào dạt,
khúc chiết. Người bình dân cũng như giới trí thức đều
cảm nhận được hồn thơ của Nguyễn chí Thiện vì ý thơ
ông sâu sắc mà lời lẽ diễn ta thì lạiû dễ hiểu, bình
dân. Những người phê bình văn học thường cho thơ Nguyễn
Bính có âm hưởng ngọt ngào của ca dao, còn thơ Nguyễn chí
Thiện được coi như tiếng lòng thổn thức khi diễn tả những
chuyện đau thương, buồn nản. Nhưng loại thơ chiến đấu
của ông thì khác hẳn, lời thơ giờ đây mạnh như vũ bão,
có tác dụng thôi thúc người đọc lên đường. Những người
tranh đấu cho quê hương hôm nay có thể tìm thấy ở thơ Nguyễn
chí Thiện như một thứ hành trang lên đường.
Mặc dầu dân tộc Việt Nam là một
dân tộc yêu thơ, có điều nghịch lý là giá trị của văn
thơ lại không có giá trị lắm trong xã hội. Thời tiền chiến
nhà văn Nguyễn Vỹ đã từng than thở, " Nhà văn An Nam khổ
như chó " , Tản Ðà có lẽ cũng đồng ý khi phụ họa " Văn
chương hạ giới rẻ như bèo". Những điều đánh giá này
có thể ứng vào thơ Nguyễn chí Thiện hay không? Không hẳn
như thế, mới đây ký giả Michael Lind, tác giả của cuốn
sách " The necessary war" ( Cuộc chiến tranh cần thiết) có viết
thư cho nhà thơ Nguyễn chí Thiện, xin trích dẫn bốn câu thơ
của nhà thơ để đưa vào sách của ông và xin trả 500dollars.
Năm trăm dollars để trích dẫn bốn câu thơ của Nguyễn chí
Thiện vào sách! Xem thế thì thơ Nguyễn chí Thiện không bao
giờ rẻ giá cả, hiểu theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen !
Bốn câu thơ của Nguyễn chí Thiện
mà ông Michael Lind xin phép trích dẫn để đưa vào sách của
ông là bốn câu:
Giả thử Ðảng và Bác
Cho đi lại tự do
Thời thiên đường cụ Mác
Sẽ khỉ gáy cò ho
( If Uncle and the Party, let's suppose,
allowed free movements in and out
Grandfather Marx's paradise
would soon become the wilds
where monkeys roam )
( Bản dịch của Huỳnh sanh Thông)
Ðọc toàn bộ tập thơ, người ta
thấy rõ ràng cái khí khái anh hùng của nhà thơ, luôn quyết
tâm chống lại với cái ác. Riêng cái hành động vào Tòa
đại sứ Anh để quăng tập thơ cũng là hành động biểu
hiện tinh thần " vô úy" của ông. Nhà văn Nguyễn Tuân trước
khi lìa đời đã để lại câu nói thành thật, " Cuộc đời
tôi còn sống đến giờ này là bởi biết sợ " . Nguyễn chí
Thiện thì quan niệm ngược lại, ông thẳng thắn tuyên bố
là không sợ gì cả ( Ðừng sợ cái cực kỳ man rợ. Dù
nó đương thịnh thời rông rỡ nơi nơi). Dù không biết
sợ ông vẫn sống tới giờ này ( 2001) và từ khi còn ở trong
nước, ông còn tuyên bố là sẽ còn sống lâu hơn Ðảng Cộng
sản Việt Nam! Thái độ sống của Nguyễn Tuân hay Nguyễn
chí Thiện, thái độ nào là của một kẽ sĩ , câu trả lời
đã quá rõ ràng.
Phan nhật Nam, một nhà văn nổi
tiếng với những bút ký chiến trường rực lửa, được
nhà văn Tạ Tỵ nhận xét là " không ai có thể viết hay hơn",
cũng chia xẻ chút ý kiến về Nguyễn chí Thiện với những
anh em trong Nguyệt san Việt Nam ở Canada vào cuối tháng 12-2000
như sau:
" Cũng phải nói thêm một điều
cho bớt tức: Phe ta ở hải ngoại sao chỉ lo chuyện ruồi
bu- như đặt lại căn cước của Nguyễn chí Thiện- mà quên
hẳn kẻ nội thù gài mìn ngay dưới chỗ nằm của mình.
Ông Nguyễn chí Thiện theo tôi
là: Người độc nhất còn giữ được phẩm giá con người
ở đất Bắc. Những " trí thức khoa bảng" như Nguyễn mạnh
Tường, Trần đức Thảo còn bị thằng " câu ếch họ Hồ
" lường gạt, chỉ còn con người này với tâm chất thực
của một " thi sĩ ". Ðáng kính phục lắm thay.
" Nghệ sĩ nhân dân Văn Cao" theo
tôi cũng gọi là.. xoàng, vì kém hẳn khí phách của Trần
Dần, Phùng Quán, Quang Dũng !!! Tài giỏi mà hèn lắm chỉ như
Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên..và cả tập thể " Văn Công" ở
đất Bắc kia."
Những nhận xét của Phan nhật Nam
rõ ràng là những nhận xét hiểu biết, chân thành, chí tình
, chí lý.
Mấy tuần nay , dư luận hải ngoại
xôn xao khi nghe tin Linh mục Nguyễn văn Lý tuyệt thực ở xứ
đạo Nguyệt Biểu, Huế để chống lại sự đàn áp tôn giáo
và tịch thu đất đai của giáo hội. Trước đó linh mục
có gửi email ra hải ngoại và tâm sự thêm Nguyễn chí Thiện
mà linh mục có dịp gặp gỡ trong những ngày tù tội. Bức
thư emai ngày 26 tháng 11 năm 2000 của linh mục gửi ra hải
ngoại có đoạn:
" Có lẽ các bạn và anh T. không
thể kiểm tra được Nguyễn chí Thiện đâu. Vì làm sao các
bạn biết nhà thơ vĩ đại Nguyễn chí Thiện được?
Ông ở tù trong chế độ CSVN 30 năm khi mới 20 tuổi.
Năm 1991, khi ông được phóng thích, mới chỉ hơn 50, mà
đã già lom khom như cụ già 70 ! Sức khỏe không có, nhưng
giọng vẫn còn oai vang, nói nhất là đôi mắt lồi,
" không lé ", và rất tinh anh uy dũng. Ðầu óc nhận thức
còn rất minh mẫn, sắc bén. Tác phong uy nghiêm, chững
chạc, bộc lộ một nhân cách hoàn hảo. Ăn nói đúng mức,
cẩn trọng. Thái độ văn minh, lịch sự như bậc hiền
sĩ , quân tử. Ðúng là một nhà trí thức vĩ đại,
xúng đáng giải Nobel văn học. Khi tôi ra khỏi tù cuối năm
1992, ngay đêm đầu tiên tôi đã đột nhập vào nhà ông
ở Hà Nội, được canh chừng rất cẩn thận, để gặp ông
lần cuối, trước khi ông được một đại tá Mỹ và
các nhà lãnh đạo ở Âu châu bảo lãnh. Có lẽ trên đời
này , True Nguyễn chí Thiện không tin và yêu thương ai hơn
tôi nữa. NCT dễ bị giả là vì không ai ở Mỹ - Âu Châu
biết mặt NCT cả. Có người bà con ở Mỹ, nhưng khi bị bắt,
NCT còn quá trẻ, còn nay thì đã già rồi, ngay người
bà con ấy cũng không thể nhận ra NCT thật hay giả.
Giữa ông và tôi có những quan hệ mà chỉ 2 người
biết, vì tôi ở với ông hai năm cuối cùng, trước khi NCTđược
chuyển về Quân y viện 108 để bồi dưỡcng và làm thủ tục
phóng thích.
Tôi dạy giáo lý cho ông hơn 1 năm . Ông hứa với
tôi " chắc như đinh đóng cột " những gì, chỉ có chúng
tôi biết. Từ 1993/1994, khi NCT ra đi,(3) tôi đã thư liên lạc
bằng nhiều cách, nhưng NCT không hề đáp lại. Vậy
nay chỉ cần các bạn gặp, nói rằng có Lm Nguyễn văn Lý
gửi lời thăm và rất muốn nói chuyện với ông qua phone :
011.84. 54. 846429 hoặc 011. 84. 54. 881061. Nếu NCT bằng
lòng với thái độ rất phấn khởi, mới hy vọng đó là True
NCT. Nếu NCT tỏ ra ngạc nhiên, do dự, không biết NVL là ai,
hoặc miễn cưỡng nói chuyện , thì đúng là False NCT rồi.
Hơn nữa qua Phone, tôi chỉ cần hỏi 2 câu là lột mặt
nạ được NCT giả hay thật ngay. Các bạn cố gắng giúp tôi
tiếp xúc qua Phone với NCT càng nhanh càng tốt. Bạn nào có
thể chụp ảnh NCT rõ, Scan photos ấy, gửi về tôi. Tôi
sẽ
kiểm tra lại giúp."
Ðược bạn bè báo cho biết Linh
mục Lý đang tìm mình, nhà thơ Nguyễn chí Thiện, hiện đang
ở bên Pháp , đã gọi điện thoại về ngay cho Linh mục Nguyễn
văn Lý và Linh mục Lý xác nhận đúng là nhà thơ Nguyễn chí
Thiện mà linh mục đã gặp trong tù. ( Có thể kiểm chứng
điều này với ký giả Hải Triều, chủ biên tờ Nguyệt
San Việt Nam ờ Canada). Nếu ai còn muốn tìm hiểu thêm
sự thật , xin cứ liên lạc với Linh mục Lý để tìm hiểu
sự thật về nhà thơ Nguyễn chí Thiện. Cũng mong nhóm Vạn
Thắng và tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong sẽ liên lạc với LM
Lý để tìm hiểu sự thật về Nguyễn chí Thiện và sẽ không
còn viết lách nhảm nhí, láo lếu nữa. Càng viết bậy thì
lại càng bị quần chúng độc giả khinh chê và tự mình chôn
vùi tên tuổi của mình.
Cách đây trên mười năm tuần báo
Diễn Ðàn Thanh Niên ( San Diego) có viết một bài bình luận
về Ngục sĩ Nguyễn chí Thiện. Bài báo cho rằng với sự
dũng cảm vô song, với tài trí tuyệt vời, Nguyễn chí Thiện
xứng đáng được gọi là một " vĩ nhân ". Toàn dân hải
ngoại và có lẽ dân trong nước sau này sẽ đồng ý với
nhận định chính xác này. Ở Việt Nam trước đây, Thủ tướng
Phạm văn Ðồng có viết sách ca tụng Hồ chí Minh là " vĩ
nhân" . Thật ra, phải gọi Hồ chí Minh là "quái nhân " mới
đúng vì những tội ác giết người của y đối với dân
tộc Việt. Nói đúng thì phải dùng chữ " quái vật" để
diễn tả con quỉ vương Hồ chí Minh vì ông ta là quỷ chúa
và còn có khả năng biến người khác thành quỷ giết người
man rợ. Ngày nay con quỷ vương họ Hồ này đang bị mổ bụng
nằm ở quãng trường Ba Ðình đã ba mươi năm rồi không được
chôn. Nhìn dưới con mắt nhà Phật thì Hồ đang trả quả
báo. Hy vọng chế độ sắt mắu Cộng sản do Hồ dựng lênâ
sẽ tan tành để rồi xác Hồ có thể đốt thành tro bụi
và rải trên núi sông như di chúc Hồ đã viết . ( Di chúc
này bị Lê Duẩn dấu nhẹm , sau này được Bùi Tín kể lại
trong hồi ký " Hoa xuyên Tuyết").
Trong những ngày tháng gần đây
, Bác sĩ Nguyễn đan Quế từ trong nước gửi email ra hải
ngoại cho biết " tình hình sẽ có nhiều biến động trong
những ngày sắp tới. " Ông đã tiên đoán đúng vì tình hình
Hòa Hảo vẫn đang sôi sục, cụ Lê quang Liêm cương quyết
đối đầu với Cộng sản nếu Cộng sản không chấp nhận
những yêu sách hành đạo của cụ. Chuyện Lý Tống rải 50000
tờ truyền đơn xuống Sài gòn ngày thứa sáu 17 tháng 11 năm
2000 trong khi Tổng Thống Clinton đang đọc diễn văn ở Hà
Nội là một cú đánh " long trời lở đất " làm Cộng sản
choáng váng , bàng hoàng. Rồi chuyện Linh mục Nguyễn văn Lý
cùng các giáo dân ở Huế đứng lên sẽ càng làm cho giọt
nước nổi dậy tràn đầy để biến thành một trận Ðại
hồng thủy cuốn trôi bộ máy cai trị của bạo quyền Cộng
sản. Những chuyện này cũng đã nhà thơ Nguyễn chí Thiện
tiên đoán trong bài trường thi " Ðồng Lầy " viết năm 1972:
" Lũ lau gầy, sậy úa,
cỏ tàn phai
Náo nức, reo hò, trông ngó
Âm thanh đó gây thành giông gió
Khắp đại dương cùng khổ âm
u
Chớp xé trời đen, báo hiệu
lũ quân thù
Giờ hủy thể !
Tôi mong mãi một tiếng gì như
tiếng
ầm vang của bể
Ðồng bào tôi cũng mong như thế
Tôi lắng nghe
Hình như tiếng đó đã bắt
đầu...
.....
Ôi ghê sợ cả một trời phẫn
nộ "
( Ðồng lầy- 1972)
Ba mươi năm trước đây , nhà thơ
Nguyễn chí Thiện đã tiên đoán đến ngày nổi dậy của
nhân dân Việt Nam mà những biến động gần đây cho thấy
là ngày ấy sắp đến. Nhà văn , nhà thơ bao giờ cũng là
một con chim báo bão. Họ có khả năng đó vì trời sinh họ
có một khả năng trực giác, mẫn cảm khác thường, hồn
thiêng sông núi như tụ vào họ để rồi họ có những dự
phóng cho tương lai đất nước bằng lời văn tiếng thơ. Nguyễn
chí Thiện là một nhà thơ loại đó.
Người Việt Nam thường tin cái
tên của một người là một định mệnh , nó vận vào người
đó mà ảnh hưởng suốt cuộc đời, từ lúc sinh ra cho đến
khi nhắm mắt xuôi tay. Tên của tác giả " Hoa địa ngục "
là Chí Thiện ( có nghĩa là tận cùng của điều thiện) .
Phải chăng trời đất sinh ông ra là đã muốn giao cho ông
trách nhiệm và sứ mạng chống lại cái ác ( Ai cũng đồng
ý là Cộng sản tượng trưng cho cái ác, phải nói là Cực
ác mới đúng ). Ðúng là " Chí thiện " đã chống với " Cực
ác" bằng cả cuộc đời tù tội của mình và những tình
hình sôi động gần đây đã cho thấy " Chí thiện " đang trên
đà thắng lợi.
Cho đến giờ này Nguyễn chí Thiện
gần như hoàn thành được sứ mạng của mình là đánh đổ
cho được cái ác bằng những vần thơ bất hủ của ông.
Tập thơ " Hoa địa ngục" là một tiếng thét phẫn nộ làm
chấn động cả một dân tộc Việt Nam, có tác động làm
cho mọi người đều tập hợp lại , rán công rán sức, tìm
phương tính kế để đập vỡ đầu con rắn hồng vốn vẫn
còn phun nọc độc làm cho quê hương điêu linh và giống nòi
suy kiệt, tàn lụi. Gông cùm sẽ cởi bỏ khi con rắn hồng
độc hại này bị đánh phọt óc. Nhân quyền, dân chủ sẽ
đến khi con rắn hồng này yên giấc ngàn thu.
Từ lúc còn trong nước, Nguyễn
chí Thiện đã tuyên bố là ông sẽ sống lâu hơn Ðảng Cộng
sản Việt Nam. Những tình thế rối ren hiện nay đang đến
với Ðảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy Ðảng sẽ sụp
đổ trong một ngày rất gần và Nguyễn chí Thiện sẽ hoàn
thành nguyện ước của ông cũng như hàng triệu đồng bào
của ông là nhìn thấy ngày con rắn hồng độc hại bị đánh
toang đầu và tan rã trong sự nhục nhã trước sự đứng dậy
của toàn dân đòi tự do, đòi quyền làm người và quyền
tự chủ cho đất nước Việt Nam mến yêu.
Một ngày mai tươi sáng nhất định
phải đến với quê hương Việt Nam. Chí Thiện dứt khoát
trước sau gì cũng phải thắng Cực Ác (Cộng sản ), và tập
thơ " Hoa địa ngục ", với hoàn cảnh lịch sử ra đời khá
độc đáo, cũng như với những vần thơ bất hủ có tính
nghệ thuật cao, chắc chắn tập thơ sẽ còn được truyền
tụng và tồn tại mãi mãi đến muôn đời .
Lawndale, một đêm hiu quạnh đầu
mùa thu tháng 9 năm 2002
Trần viết Ðại Hưng
1) Vũ thư Hiên chỉ nhớ mài mại,
đúng là đây là bài thơ " Xưa Lý Bạch" có nội dung như sau:
Xưa Lý Bạch ngửng đầu nhìn
trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ quê
hương
Nay tôi ngẩng đầu nhìn nhện
giăng bụi bám
Cúi đầu giết rệp nhặt cơm
vương
Lý Bạch rượu say gác lên bụng
vua Ðường
Tôi đói lả gác lên cùm rỉ
xám
Lý Bạch sống đời độc tôn
u ám
Phong kiến bạo tàn chưa có tự
do
Tôi sống đời Cộng sản ấm
no
Hạnh phúc tự do, thiên đường
mặt đất
Rủi Lý Bạch, mà may tôi thật
!
( 1967)
(2) Ðúng ra, Nguyễn chí Thiện đến
Mỹ vào tháng 11-1995.
(3) Nguyễn chí Thiện đến Mỹ
1995 chứ không phải ra đi trong khoảng 1993-1994 như Lm Lý đoán.
(4) Phụ lục
Phụ lục chữ viết:
|