Home Tài Liệu Căn Bản Lịch Sử CLC Cộng Đoàn Huấn Luyện Linh Đạo Inhă Đại Hội Thế Giới Đại Hội CLCVN Đại Hội AP Sinh Hoạt H́nh Ảnh CVX-CLC
Sách Linh Thao
Của Thánh Ynhă Tự Thuật Của Thánh Ynhă Đặc Sủng Ḍng Tên Bạn
Đường Của Người Làm Linh Thao Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn Hiện Tại Mới Quan Trọng
Tự
thuật của thánh Inhaxiô
TUTHUAT1 TUTHUAT2
NGƯỜI
LỮ HÀNH THÀNH LOYOLA
Thủ Bản Tự Thuật của Thánh
Inhaxiô Loyola
do
cha Hoàng Văn Lục (Sesto Quescetti), S.J. dịch
MỤC LỤC
Trên
Đường Trở Về (1523 – 1524)
Những
Ngày Học tại Barcelôna và Alcala (1524 – 1527)
Bị
Điệu Ra Ṭa tại Salamanca (1527)
Những
Năm Đại Học và Những NGười Bạn Tiên Khởi
(1528 – 1535)
Chờ
Đợi Hành Hương Đất Thánh (1535 – 1537)
Năm
Đầu Tại Kinh Thành Muôn Thủa Roma (1538)
49. Họ khởi
hành ngày hôm sau. Tới đảo
Ba cái tàu đều nhổ
neo vào cùng một buổi sáng. Suốt buổi sáng có gió thuận
thổi, nhưng vào buổi chiều, băo nổi lên khiến
ba cái tàu bị đẩy xa nhau. Tàu lớn bị ch́m gần
đảo
50. I-Nhă tới Vênêzia
vào giữa tháng 1 năm 1525, sau khi đă đi biển trọn
hai tháng 11, 12 và nửa tháng giêng. Tại Vênêzia, ông lại gặp
người đă đón ông về nhà trước khi đi
Giêrusalem. Người này cho ông một số tiền là 15,
16 Giuli tức là 1/10 của tiền Đaca. Ông lấy vải gấp
lại nhiều lần và buộc trên mạng mỡ cho
đỡ lạnh. Sau khi thấy rơ ư Chúa không muốn cho ông
ở tại Giêrusalem, người lữ khách luôn luôn cầm
trí suy nghĩ phải làm ǵ bây giờ, và ông thấy hướng
về việc đi học một thời gian để
giúp đỡ các linh hồn.
V́ thế ông quyết định
đi Barcelôna và lên đường đi từ Vênêzia tới
Gênôva. Một hôm đang đọc kinh trong một nhà thờ
lớn tại
51. Thế rồi
ông lại lên đường từ Ferrara đi Gênôva. Trên
đường ông gặp một toán lính Tây Ban Nha. Họ
đối xử tử tế với ông, và khi nghe biết
đường ông định đi, th́ họ ái ngại
cho ông v́ đó là đường đi xuyên qua cả hai trại
quân của Pháp và Hoàng Đế. Vào năm đó, quân đội
của vua Pháp Francois I và Hoàng Đế Carlos V đánh nhau để
chiếm công quốc Nilan. Họ khuyên ông bỏ đường
cái và đi vào một con đường nhỏ họ chỉ
cho. Nhưng không nghe lời khuyên của lính, ông cứ
đi theo đường cái. Người lữ khách đi
tới một làng bị thiêu rụi, và không t́m được
người nào cho một miếng ăn.
Mặt trời lặn rồi
ông mới đến một làng có đắp lũy, lính
gác bắt ông ngay v́ tưởng ông đến ḍ thám. Nhốt
ông vào căn nhà nhỏ gần cổng làng, rồi bắt
đầu điều tra như người ta thường
làm khi nghi ngờ. Ông trả lời mọi câu hỏi rằng
ông không biết ǵ hết. Họ lột quần áo của
ông ra, rồi xét kỹ cho đến đôi giầy cũng
như khắp ḿnh ông xem có thư từ ǵ không. Cuối
cùng, thấy không có cách nào để biết điều ǵ,
họ xích ông lại và dẫn tới chỉ huy trưởng.
Ông xin lại áo choàng nhưng họ không cho và dẫn ông
đi, chỉ cho mặc quần và áo nịt mà thôi.
52. Trong khi đi
như vậy người lữ khách có cảm tưởng
như thấy được Chúa Kitô lúc Ngài cũng bị
bắt đem đi như thế, tuy nhiên đó không phải
là một thị kiến như các thị kiến khác. Ông bị
đem đi qua con đường rộng, không thấy buồn
ǵ cả mà trái lại cảm thấy vui và b́nh an.
Ông có thói quen khi nói chuyện
với bất cứ người nào th́ thưa gởi cách
đơn sơ tự nhiên không kính tŕnh ǵ cả, v́ muốn
noi gương Chúa Kitô và các tông đồ. Tuy nhiên đang
khi bị bắt đi như vậy, ông nghĩ có lẽ
nên tŕnh chỉ huy trưởng v́ sợ tra tấn nên đổi
cách xưng hô trong dịp khó khăn này. Nhưng thấy rơ
đó là do ma quỉ xúi dục, ông liền tự nhủ:
“Ḿnh sẽ không kính tŕnh ǵ hết, không khom lưng mà cũng
chẳng dở nón.”
53. Tới dinh chỉ
huy trưởng, họ để ông đứng chờ
trong một pḥng thấp. Một lúc sau vị chị huy
trưởng đến, ông không làm cử chỉ nào kính cẩn,
chỉ trả lời một vài tiếng cộc lốc và
hết sức chậm chạp. Vị chỉ huy trưởng
cho là khùng và bảo lính: “Thằng này khùng rồi. Trả
đồ cho nó và đuổi nó đi.” Rời khỏi dinh
ông liền gặp một người Tây Ban Nha sống tại
đó. Ông này cho I-Nhă ăn uống và cho ngủ qua đêm.
Sáng hôm sau I-Nhă lại lên
đường và đi suốt ngày. Tối đến lính
gác trên một cái chồi thấy ông liền xuống bắt.
Họ đưa ông tới chỉ huy trưởng là một
người Pháp. Chỉ huy trưởng hỏi ông nhiều
câu và muốn biết quê ông ở đâu. Khi biết quê ông ở
Guipuzcoa, chỉ huy trưởng liền nói: “Quê tôi cũng ở
gần đó, chắc quê ông gần Bayonna.” Rồi ông bảo
lính: “Đưa ông này đi, cho ăn uống và đối xử
tử tế với ông.”
Trên đường đi từ
54. Về tới
Barcelôna, I-Nhă tŕnh bày ư muốn đi học cho cô Isabel Roser
và một thày giáo tên Ardêvol, là thày dạy các lớp tiểu
học. Cả hai đồng ư với I-Nhă và cho đó là một
ư định tốt. Thầy giáo t́nh nguyện dạy không
công, và bà cô t́nh nguyện kiếm phương tiện sống
cho ông.
Hồi trước ở
Manrêsa, người lữ khách quen một tu sĩ, h́nh
như thuộc ḍng Bernađô. Tu sĩ này là một người
thánh thiện và bây giờ I-Nhă ước ao được
sống gần người đó để tiếp tục
học hỏi, trao dồi thêm về đời sống
thiêng liêng và giúp đỡ các linh hồn. Ông nói với cô
Isabel và thầy giáo rằng, nếu ở Manrêsa không
được giúp đỡ theo sự mong muốn, ông sẽ
trở về và nhờ hai người giúp đỡ. Về
tới Manrêsa ông mới biết tu sĩ đó đă qua
đời rồi. Ông trở về Manrêsa và bắt đầu
học rất chăm chỉ. Tuy nhiên, có một vấn
đề gây khó khăn cho ông. Mỗi lần ông bắt
đầu cố gắng học thuộc ḷng một bài
nào, th́ lại có những tư tưởng mới về
đời sống thiêng liêng và những tư tưởng
này làm cho ông thích thú đến độ không thể nào học
thuộc bài được. Ông cố gắng xua đuổi
tư tưởng đó mà không được.
55. Suy nghĩ nhiều
về vấn đề đó ông nghĩ bụng: “Lúc cầu
nguyện hay đi xem lễ, không bao giờ có những hiểu
biết mới đó.” Như thế, dần dần ông hiểu
rằng đó là do ma quỷ cám dỗ. Sau khi cầu nguyện,
ông đến gặp thầy giáo và xin thầy đi với
ông vào nhà thờ Đức Bà Biển Khơi gần nhà thầy,
để nói chuyện. Ông tŕnh bày với thầy giáo kinh
nghiệm nội tâm của ông với đầy đủ
chi tiết và giải thích lư do tại sao ông rất chậm
tiến trong việc học hành. Rồi ông hứa với
thầy giáo rằng: “Suốt hai năm bao lâu c̣n kiếm
được bánh mà ăn và nước để uống
tại Barcelôna, tôi quyết sẽ không bao giờ bỏ học
với thầy.” Sau khi cương quyết hứa như vậy,
ông không bao giờ c̣n bị cám dỗ nữa.
Từ hồi sống tại
Manrêsa, ông vẫn đau dạ dày v́ vậy ông bắt đầu
đi giầy. Nhưng từ khi lên đường đi
Giêrusalem ông không c̣n đau nữa. Do đó, trong thời gian
học hành tại Barcelôna, ông lại nảy ư muốn sống
khắc khổ như trước. Ông đục một
cái lỗ ở đế giầy, và từ từ nới rộng
cái lỗ cho tới khi mùa lạnh đến th́ đôi giầy
chỉ c̣n lại cái mũi mà thôi.
56. Học xong
hai năm, theo nhận xét của một số người
th́ ông đă tiến bộ rất khá. Thầy giáo nói bây giờ
ông có thể theo lớp trung học được và nên
đi học tại Alcala. Tuy nhiên ông muốn nhờ một
tiến sĩ thần học khảo thi, và ông này cũng
khuyên ông như vậy.
Mặc dù lúc bấy giờ
h́nh như ông đă qui tụ được một số
bạn bè rồi nhưng lại lên đường đi
Alcala một ḿnh. Tới nơi ông bắt đầu xin
ăn, và đă xin như thế lối chừng mười,
mười hai ngày, th́ một linh mục cùng vài người
đi theo thấy I-Nhă xin ăn liền bắt đầu
chế nhạo và chọc tức như thiên hạ thường
hay nhạo cười những người khoẻ mạnh
mà cứ xin ăn. Lúc ấy, có một người đi
ngang qua đường - ông này phụ trách nhà thương
Antezana mới mở - thấy cảnh khó chịu đó và mời
người lữ khách về nhà thương của ḿnh,
dành cho một pḥng và cung cấp cho mọi đồ dùng cần
thiết.
57. Ông ở lại
Alcala học hành chừng độ một năm rưỡi.
V́ ông đă tới Barcelôna vào Mùa Chay năm 1524 và học ở
đó hai năm, nên chắc hẳn ông đă đến
Alcala vào năm 1526. Tại đó ông học ba cuốn giáo
khoa là Luân Lư Học của tác giả Đa Minh Soto, Vạn Vật
Học của Albertô Cả và Sách Luận Đề là tác phẩm
thần học nổi tiếng thời đó của tác giả
Petrus Lombardus, giáo sư thần học tại Paris, sáng tác
vào giữa thế kỷ thứ 12.
Tại Alcala ông thường
hay hướng dẫn Linh Thao và dạy giáo lư. Nhờ
đó mà có kết quả thiêng liêng và Thiên Chúa được
ca ngợi. Có nhiều người tiến khá xa trong đời
sống thiêng liêng và trở nên sốt sắng. Nhiều
người khác lại bị thử thách, mỗi người
một khác. Có người muốn đánh tội mà không
được như có ai cầm tay họ lại. Một
số chuyện tương tự như thế gây náo
động trong dân chúng, v́ có rất đông người tụ
họp nơi ông lữ khách dạy giáo lư.
Từ khi mới về
Alcala, I-Nhă làm quen với ông Diego Guia đang sống tại
nhà người anh. Người anh này có một nhà in tại
Alcala và khá sung túc. Cả hai anh em giúp đỡ I-Nhă có
phương tiện để giúp người nghèo, và
người anh cho ba người bạn của người
lữ khách trọ tại nhà ông. Một hôm người lữ
khách xin Deigo cho phương tiện để giúp người
nghèo, th́ ông này trả lời không có tiền nhưng lại
mở một cái rương chứa nhiều đồ
đạc và cho I-Nhă lấy nhiều thứ chăn mền
màu sắc khác nhau, cùng giá đèn và nhiều đồ khác.
Người lữ khách lấy đồ, gói vào một cái
khăn và đưa đi giúp người nghèo.
58. Như đă
kể trước, thiên hạ đồn đăi rất nhiều
về người lữ khách tại khắp vùng, người
nói thế này kẻ nói thế khác. Những tiếâng đồn
đó đến tai viên thanh tra tại Tôlađa. Khi họ tới
Alcala, chủ nhà báo tin ngay cho người lữ khách biết
và c̣n cho hay thêm rằng họ gọi nhóm của I-Nhă là “những
người mặc áo len thô” và h́nh như “kẻ giác ngộ
nữa,” họ sẽ tiêu diệt cả nhóm. Quả thực
các nhân viên thanh tra mở ngay cuộc điều tra về lối
sống của nhóm, nhưng không tra hỏi I-Nhă v́ lần
này họ chỉ đến để điều tra thôi, rồi
lại trở về Tôlêđô. Họ trao phó vụ án cho một
linh mục đại diện tên là Figueroa hiện có chân
trong hội đồng cố vấn của hoàng đế.
Vài ngày sau linh mục Đại Diện triệu tập anh em lại
và cho họ biết các nhân viên thanh tra đă điều tra
về lối sống của họ. V́ không t́m được
ǵ sai lầm trong giáo lư và lối sống, nên anh em được
phép tiếp tục làm việc không ai làm khó dễ. Tuy nhiên
v́ không phải là tu sĩ nên không ai được mặc
đồng phục. Ông ra lệnh cho hai người - ông
đưa tay chỉ người lữ khách và Artêaga - phải
nhuộm áo màu đen và hai người kia, tức Galixtô và
Caceres, nhuộm màu hung hung; c̣n Juanico, là một thanh niên Pháp,
th́ có thể giữ nguyên quần áo.
59. Người
lữ khách hứa tuân theo và nói tiếp: “Họ điều
tra chúng tôi làm ǵ? Hôm nọ một linh mục không chịu
trao Ḿnh Thánh cho một người trong nhóm chúng tôi, lấy
cớ là người ấy chịu Ḿnh Thánh hàng tuần. Và
họ c̣n làm khó dễ chúng tôi cũng chỉ v́ lư do đạo
đức. Chúng tôi muốn biết họ có thấy chúng
tôi có rối đạo về điểm nào không?” Ông
Figueroa trả lời: “Không, nếu họ t́m thấy th́ họ
đă thiêu sống các anh.” Người lữ khách đáp lại:
“Họ cũng sẽ thiêu sống ông luôn nếu họ thấy
ông rối đạo.” Nhóm của I-Nhă nhuộm quần áo
theo lệnh trên. Mười lăm hoặc hai mươi
ngày sau, ông Figueroa chỉ thị cho người lữ khách
không được đi chân không, nhưng phải đi giầy.
Ông lặng lẽ tuân theo, như trong trường hợp
có lệnh rơ rệt.
Bốn tháng sau lại họ
mở cuộc điều tra. Ngoài những lư lẽ cũ
có một vụ mới là một phụ nữ quí phái có chồng
tỏ ra kính phục riêng người lữ khách. Vào sáng sớm
bà đến gặp ông tại nhà thương và để
người ta khỏi nhận ra, bà lấy khăm trùm
đầu theo phong tục Alcala. Lúc vào nhà thương bà cởi
khăn ra vào pḥng ông. Tuy nhiên lần đó họ không làm khó
dễ nhóm I-Nhă, không đ̣i ra toà và không nói năng ǵ cả
sau khi vụ án chấm dứt.
60. Bốn tháng
sau, khi I-Nhă đang ở trong một căn nhà nhỏ ở
ngoài nhà thương, một người tùy phái đến
gơ cửa và bảo: “Mời anh đi với tôi.” Tới nhà
giam, người này xô I-Nhă vào và nạt: “Anh không được
ra khỏi đây cho tới khi có lệnh mới!” Đó là vào
mùa hè. V́ không bị kiểm soát gắt gao nên có đông
người đến thăm. Ông vẫn tiếp tục
làm việc như trước, tức là dạy giáo lư và
hướng dẫn linh thao.
Dù nhiều người
đă t́nh nguyện giúp đỡ, ông không bao giờ chấp
thuận nhờ luật sư hay tham tá nào. Đặc biệt
nhờ có bà Têrêsa Cardênas sai người đến thăm
và đề nghị nhiều lần can thiệp để
I-Nhă được tha. Tuy nhiên, ông không nhận, và luôn nói rằng:
“Tôi vào đây v́ yêu mến ai, th́ Đấng ấy sẽ lo cho
tôi ra, nếu việc ấy hữu ích để phục vụ
Ngài.”
61. Ông ở nhà
tù 17 ngày không ai hỏi han điều ǵ, và không biết tại
sao bị bắt. Sau cùng, linh mục đại diện
đến nhà tù, hỏi I-Nhă nhiều chuyện ḱ lạ,
như có phải ông dậy môn đệ nghỉ ngày thứ
bảy không? Ông hỏi thêm I-Nhă có quen với hai mẹ con
người đàn bà nọ chăng? I-Nhă trả lời có,
và trước khi họ lên đường ông có biết ư
định của họ ra đi không? I-Nhă trả lời
không biết v́ đă hứa với họ! Nghe vậy, vị
đại diện đặt tay lên vai I-Nhă và vui vẻ nói:
“Tôi đến đây để chỉ biết có bấy
nhiêu thôi.”
Quả thực trong số những
người theo I-Nhă có hai mẹ con người đàn bà kia,
cả hai đều goá chồng, hai người đă tiến
khá xa trong đời sống thiêng liêng, đến độ
mặc dù thuộc một gia đ́nh quí tộc, họ
đă đi bộ đến đền thờ Veronica tại
Ruen và không nhờ ai đi theo giúp. Vụ đó đă gây xôn
xao tại Alcala. Giáo sư Ciruêlô là người có trách nhiệm
giám hộ hai phụ nữ. V́ đinh ninh chính người
lữ khách khuyến khích họ đi hành hương, nên
đă tố cáo để ông bị bắt giam. Sau khi nghe vậy,
ông lữ khách nói: “Ông có muốn tôi nói thêm về vụ này
không?” Ông đại điện đáp: “Được anh cứ
nói.” “Tôi muốn cho các ông biết hai phụ nữ này đă
năn nỉ tôi nhiều lần, bởi v́ họ muốn
đi phục vụ người nghèo tại khắp các nhà
thương nhưng tôi luôn luôn ngăn cản họ. V́
người con gái c̣n rất trẻ và khiến nhiều
người chú ư tới cô ta. Tôi đă khuyên họ, nếu
muốn thăm viếng người nghèo th́ có thể làm
ngay tại Alcala, và cũng có thể viếng Thánh Thể
Chúa nữa.” Cuộc gặp gỡ chấm dứt, ông
Figueroa ra về với lục sự đem theo biên bản.
62. Hồi đó
Calixtô đang ở
Từ khi vào tù đến khi
ra, người lữ khách bị nhốt 42 ngày. Hai phụ
nữ trở về, lục sự tới nhà giam đọc
bản án rằng: “Tù nhân được tự do nhưng
ông và các bạn phải ăn mặc như các sinh viên khác,
không được giảng dạy đức tin cho đến
khi họ học hành đủ trong thời gian bốn
năm, v́ xét thấy chưa đủ kiến thức.” Thực
ra người lữ khách là người có học thức
khá hơn các người kia, nhưng chưa có căn bản
vững chắc. Điều đó ông nói ngay khi có người
hỏi đến.
63. Bản án khiến
ông phân vân không biết phải làm ǵ. Người ta vô cớ
ngăn cản không cho ông giúp các linh hồn chỉ v́
chưa học hành đầy đủ. Sau cùng ông đến
gặp Tổng Giám Mục Tôlêđô tên là Fonsêca để nhờ
giải quyết vấn đề.
Ông rời khỏi Alcala và gặp
Tổng Giám Mục tại Valladolid. Ông kể tỉ mỉ
câu chuyện, rồi nói thêm rằng mặc dù bây giờ ông
không c̣n dưới quyền của Tổng Giám Mục nữa
và không c̣n bị ràng buộc theo bản án, ông vẫn sẽ
vâng theo chỉ thị của Tổng Giám Mục. Tổng
Giám Mục tiếp đón ông niềm nở và khi nghe I-Nhă có
ư định đi Salamanca, nơi ông có một số bạn
và trường học, th́ ông đề nghị nhờ họ
giúp đỡ I-Nhă. Trước khi I-Nhă lên đường,
ông lại cho bốn đồng tiền vàng.
64. Sau khi I-Nhă tới
Salamanca rồi, một hôm đang lúc cầu nguyện trong một
nhà thờ, một phụ nữ đạo đức nhận
ra ông, và bà cho biết bốn người thuộc nhóm ông
đă kết nạp đă ở đó mấy hôm rồi, và
đưa ông đến nhà các bạn ở.
Ở Alcala, khi người
ta ra bản án buộc các bạn ăn mặc như sinh
viên, người lữ khách đă nói: “Khi quư ông bảo chúng
tôi nhuộm quần áo th́ chúng tôi đă tuân theo. Nhưng bây
giờ chúng tôi không thể tuân theo lệnh của các ông
được v́ không có phương tiện mua quần áo
mới.” Vậy chính linh mục đại diện đă
cho họ quần áo, nón và tất cả đồ dùng sinh
viên. Lúc rời Alcala họ ăn mặc theo kiểu đó.
Tại Salamanca, người
lữ khách đă nhờ một Cha Ḍng Đa Minh thuộc tu viện
Thánh Têphanô làm linh hướng. Mười hai ngày sau khi I-Nhă
tới nơi, Cha linh hướng nói với ông: “Một số
Cha trong tu viện muốn gặp anh.” Ông trả lời: “V́
Danh Chúa con sẽ đến.” Cha nói thêm: “Vậy th́ anh đến
dùng bữa trưa ngày Chủ Nhật. Tôi nói trước
cho anh hay các Cha muốn biết rất nhiều chuyện về
anh.”
Ngày Chúa Nhật, ông đi với
Calixtô. Bữa cơm xong, Cha phụ tá viện trưởng
- v́ viện trưởng vắng mặt - mời hai Cha
khách cùng Cha linh hướng và h́nh như một Cha khác nữa
vào nhà nguyện. Cha phụ tá dùng lời lẽ nhă nhặn
nói rằng các Cha đă nghe nhiều điều hay về
đời sống đạo đức của các anh và
nghe nói các anh đi rao giảng như các Thánh Tông Đồ. Tuy
nhiên, các Cha muốn được biết tỉ mỉ
hơn. Vậy trước tiên Cha hỏi họ đă học
hành đến tŕnh độ nào. Người lữ khách
đáp: “Trong nhóm, tôi là người học nhiều nhất.”
Rồi ông nói rơ ràng những điều ông đă học, cũng
như về nền tảng học vấn bấp bênh của
ông.
65. Rồi các Cha
hỏi tiếp: “Bây giờ xin các anh cho biết các anh đă
giảng những ǵ?” Người lữ khách đáp: “Chúng
tôi không giảng nhưng nói chuyện đơn sơ với
một số người, như các người mời
chúng tôi dùng cơm.” Cha hỏi tiếp: “Được rồi,
nhưng các anh nói về những điều thiêng liêng nào?
Đó là những điều chúng tôi muốn biết.” Người
lữ khách đáp: “Có khi chúng tôi nói về nhân đức này
hoặc nhân đức khác và khuyến khích người ta
theo; có khi lại nói về các thói xấu khác nhau và lên án.”
Cha lại nói tiếp: “Các anh không có học, mà lại nói về
các nhân đức và các thói xấu! Người ta chỉ có
thể nói về các đề tài đó hoặc v́ đă học
hoặc v́ Chúa Thánh Thần soi sáng. Nhưng các anh không có học
nên chỉ nói v́ có Chúa Thánh Thần soi sáng. Vậy chúng tôi muốn
biết Chúa Thánh Thần đă soi sáng những ǵ?” Nghe vậy,
I-Nhă bắt đầu dè dặt v́ nhận thấy cách lư luận
đó không tốt. (Thánh I-Nhă dè dặt v́ cách lư luận
đó cho thấy Cha phụ tá nghi ngờ họ theo phe lạc
giáo Alumbrađô đă bị két án mấy năm trước
(1623). Theo phe này th́ quan trọng hơn hết là kết hợp
với Chúa Thánh Thần, khỏi cần theo chỉ thị
của hàng giáo phẩm). Im lặng một lúc, ông lại nói
không cần bàn thêm về vấn đề đó nữa.
Nhưng Cha phụ tá nói tiếp: “Sao vậy? Trong lúc tư
tưởng của ông Êrasmô và nhiều người khác
đang đầu độc thiên hạ, th́ các anh lại
không muốn biện minh cho giáo lư các anh dạy sao?”
66. Người
lữ khách đáp dứt khoát: “Thưa Cha, tôi sẽ không nói
ǵ thêm trừ khi các bề trên buộc tôi phải nói trước
mặt các ngài.” Trước đó, Cha phụ tá có hỏi tại
sao Calixtô lại ăn mặc như vậy. Anh ta mặc một
chiếc áo ngắn, đội một chiếc nón rộng,
cầm một cây gậy và chân đi giầy ống cao
đến đầu gối. V́ anh này có vóc dáng cao nên càng có
vẻ vụng về. Người lữ khách giải thích
rằng tại sao ở Alcala họ đă bị bắt
giam và được lệnh ăn mặc như sinh viên,
nhưng v́ mùa nắng, anh bạn đă lấy áo rộng
nhường cho một sinh viên nghèo. Nghe vậy, ông Cha nói lẩm
bẩm có vẻ không bằng ḷng: “Bác ái th́ phải bắt
đầu với bản thân chứ!”
Nhưng để trở lại
câu chuyện, thấy rằng không thể bắt người
lữ khách nói thêm điều ǵ nữa, Cha phụ tá kết
luận: “Được rồi, các anh sẽ ở lại
đây. Chúng tôi sẽ t́m cách bắt các anh khai hết.” Lập
tức các Cha vội vàng ra về. Trước đó,
người lữ khách hỏi rằng họ sẽ ở
lại trong nhà nguyện hay ở đâu, th́ Cha phụ tá nói
phải ở lại nhà nguyện. Khóa tất cả các cửa
rồi, các Cha đi thưa chuyện cùng các thẩm phán. Tuy
nhiên, hai ông ở lại trong tu viện ba ngày, ăn uống
tại pḥng cơm của các tu sĩ, nhưng không được
biết ǵ về quyết định của các thẩm
phán đối với họ.
Pḥng hai ông ở luôn luôn có
đông các tu sĩ đến thăm. Người lữ
khách vẫn nói về các đề tài đạo đức
như thói quen. H́nh như các tu sĩ chia làm hai phe, có nhiều
người thông cảm với người lữ khách.
67. Sau ba ngày có lục
sự đến đưa họ tới nhà giam. Họ
không bị nhốt ở pḥng dưới với các phạm
nhân thường. Nhưng ở trên lầu trong một pḥng
cũ kỹ lâu năm không có ai ở nên hết sức
dơ dáy. Cả hai bị xiềng chung bằng một cái
xích, mỗi người bị buộc một chân, và cái
xích bị buộc quanh cái cột ở giữa pḥng. Cái xích
dài chừng hai thước rưỡi, mỗi khi một
trong hai người làm ǵ th́ người kia cũng phải
lết theo. Hôm đó hai người thức suốt
đêm. Sáng sớm hôm sau, khi người ta biết tin hai
người bị giam, th́ họ chở tới nhà giam
giường ngủ và đủ mọi thứ đồ
dùng cần thiết. Luôn luôn có nhiều người đến
thăm và người lữ khách nói về Chúa và giúp đỡ
họ.
Ông Frias (có bằng tú tài)
đến thẩm tra riêng mỗi người. Người
lữ khách trao cho ông tất cả tập vở, tức là
bản Linh Thao để ông xem xét. Khi được hỏi
có bạn cùng nhóm không, th́ hai người trả lời có
và chỉ chỗ họ ở. Lập tức theo lệnh của
ông tú tài có người đi bắt và đưa vào nhà giam
Caceres và Artêaga; cậu Juniatô không bị bắt, sau đó cậu
đi tu. Hai người không bị nhốt ở pḥng trên,
nhưng tại pḥng dưới với các phạm nhân khác.
Lần này, người lữ khách vẫn không nhờ luật
sư hay trợ tá toà án giúp đỡ.
68. Vài ngày sau,
người lữ khách bị điệu đến
trước mặt bốn thẩm phán, gồm ba tiến sĩ
là: Santisiđôrô, Paravinhas, Frias và ông tú Frias. Cả bốn
người xem xét bản Linh Thao và ḍ hỏi nhiều câu,
không những về đề Linh Thao mà c̣n cả về những
vấn đề thần học nữa. Thí dụ về
Thiên Chúa Ba Ngôi và phép Thánh Thể, để xem hai ông hiểu
biết như thế nào.
Trước hết, người
lữ khách xin lỗi với lời khai mở đầu.
Tuy nhiên theo lệnh các thẩm phán ông nói rành mạch, các thẩm
phán không thấy có điều ǵ đáng trách. Riêng ông tú Frias
- trong vụ tra hỏi thường tỏ vẻ khắt
khe hơn những người khác - hỏi thêm cách thức
giải đáp thắc mắc về giáo luật. Hỏi bất
cứ điều ǵ, người lữ khách vẫn giải
đáp, nhưng mỗi lần, ông đều nói rằng ông
không biết các tiến sĩ nghĩ như thế nào về
các vấn đề ấy.
Sau đó, họ bảo ông cắt
nghĩa điều răn thứ nhất theo cách thức
ông hay giảng dạy. Ông bắt đầu ngay và nói dài
ḍng về điều răn này. Họ không c̣n muốn hỏi
thêm điều ǵ nữa.
Trước đó, khi hỏi
về Linh Thao, họ hỏi nhiều lần về một
điểm, và chỉ hỏi về điểm đó thôi.
Tŕnh bày trong các phần đầu linh thao: “Một tư
tưởng xấu, lúc nào là tội trọng, lúc nào là tội
nhẹ?” Họ muốn xem ông không có học, làm sao quyết
định được vấn đề đó. Ông trả
lời: “Tôi nói phải hay trái, tùy các ông định liệu.
Nếu tôi nói không phải th́ các ông cứ kết án lời
tôi.” Cuối cùng họ được đưa về nhà
giam và không ai bị kết án điều ǵ.
69. Trong số những
người đến thăm người lữ khách tại
nhà giam, một hôm có Cha Phanxicô Menđôza, hiện là Hồng
Y thành phố Burgos, đi với ông tú Frias. Ông thân mật hỏi
I-Nhă ở tù thấy làm sao, có lấy làm khó chịu không?
I-Nhă trả lời: “Hôm nay có một bà thấy tôi ở tù,
bà nói lời thương xót. Tôi có thể trả lời Cha
như đă trả lời bà ấy rằng: Nói như vậy,
bà chứng tỏ không thích ở tù v́ ḷng mến Chúa. Tù
đâu phải là một tai họa. Nói thật với bà tại
Salamanca có bao nhiêu xiềng xích, vẫn chưa đủ
để tôi ao ước chịu đựng hầu tỏ
ḷng mến Chúa.”
Hồi đó, có một lần
tất cả các tù nhân đều vượt ngục, trừ
người lữ khách và người bạn không chịu
vượt ngục. Sáng hôm sau, người ta thấy hai
ông ngồi trước một cánh cửa mở toang không
c̣n người nào khác. Vụ đó đă gây xôn xao trong thành
phố, khiến nhiều người thán phục. Lập
tức người ta dành cho họ cả một nhà lầu
lớn gần đó làm nhà giam.
70. Sau khi bị
tù hai mươi hai ngày, họ được mời để
nghe bản án. Trong lối sống cũng như trong giáo lư
của họ không t́m thấy lỗi lầm nào. Vậy họ
được tiếp tục giảng dạy giáo lư và nói
về Chúa như trước, với điều kiện
không được bao giờ quả quyết: “Đây là tội
trọng, đây là tội nhẹ.” Đó là thời gian bốn
năm phải học thêm nữa.
Sau khi đọc bản án,
v́ muốn hai ông tuân theo, nên các thẩm phán tỏ ra rất
ân cần với họ. Người lữ khách nói rằng:
họ sẽ tuân phục bản án nhưng không đồng
ư, bởi v́ mặc dù không lên án họ về điểm
nào, nhưng ngăn cản không cho phép họ nói để
giúp đỡ tha nhân theo khả năng của họ. Tiến
sĩ Frias tỏ ra xúc động và cố gắng thuyết
phục hai ông. Nhưng người lữ khách không bàn thêm
điều ǵ nữa, chỉ nói rằng họ sẽ tuân
theo bản án bao lâu c̣n trong địa phận Salamanca mà
thôi.
Ngay sau khi rời khỏi nhà
giam, người lữ khách bắt đầu suy nghĩ và
cầu nguyện xin Chúa chỉ cách giải quyết vấn
đề. Ở lại Salamanca th́ ông sẽ gặp khó
khăn: muốn giúp đỡ các linh hồn th́ gặp trở
ngại v́ lệnh không cho quyết định đâu là tội
trọng đâu là tội nhẹ.
71. Do đó ông
quyết định đi Paris học. Tại Barcelôna, khi
suy xét có nên học hành và học trong thời gian bao lâu. Tuy
nhiên, vấn đề chính là, sau khi học xong, ông có nên
đi tu hay đi khắp thiên hạ? Lúc có ư đi tu ông nghĩ
ngay đến một ḍng nào suy đồi và chưa cải
tổ, cốt là để gặp nhiều thử thách,
đồng thời nghĩ có lẽ Chúa cũng sẽ giúp
đỡ các tu sĩ, và Chúa cũng sẽ giúp ông tin tưởng
và sẽ đủ nghị lực để chịu đựng
mọi sỉ nhục và xúc phạm sẽ gặp phải.
Suốt thời gian tại
Salamanca, ông vẫn ao ước giúp đỡ các linh hồn.
Và để làm việc đó, được học hành
thêm cũng như qui tụ thêm một số bạn bè cùng
chia sẻ lư tưởng đó, cùng với những người
đă theo ông rồi. Sau khi quyết định đi Paris,
ông điều đ́nh với các bạn để họ chờ
tại chỗ trong khi ông đi xem có t́m được
phương tiện để mọi người học
hành được không.
72. Nhiều
người có địa vị cố thuyết phục
ông đừng đi nhưng vô ích. Lối chừng mười
lăm, hai mươi ngày sau khi ra tù, ông lên đường
một ḿnh kéo theo một con lừa nhỏ chở ít sách
trên lưng. Tới Barcelôna, tất cả những người
quen t́m cách thuyết phục ông đừng đi sang Pháp v́
chiến tranh đang diễn ra tại đó. Họ kể
cho ông nghe nhiều chuyện cụ thể và c̣n nói rằng ở
đó người ta nướng người Tây Ban Nha,
nhưng ông không hề cảm thấy sợ sệt.
73. Vậy I-Nhă
lên đường đi bộ đến Paris. Ông tới
nơi vào lối tháng hai, theo ông kể chuyện th́ đó là
vào năm 1528 hoặc 1527. Ông trọ ở một căn nhà
với một người Tây Ban Nha và đi học trung học
tại trường Montague. Ông học lại chương
tŕnh trung học là v́ hồi trước ông đă học
quá vội, thiếu căn bản. Ông học chung với trẻ
em theo phương pháp và chương tŕnh áp dụng tại
Paris.
Tại Barcelôna, có người
đă cấp cho người lữ hành một chi phiếu,
nhờ đó, tại Paris, một thương gia trả
cho I-Nhă 25 đồng tiền vàng. Ông gửi số tiền
này nơi một người Tây Ban Nha ở nhà trọ. Ít
lâu sau người này tiêu xài hết tiền và không có tiền
trả. Thế là hết, Mùa Chay người lữ khách
không c̣n một xu dính túi, v́ chính ông cũng đă tiêu chút
đỉnh rồi và v́ lư do trên, ông phải ăn xin và rời
khỏi nhà trọ luôn.
74. Ông được
tiếp đón tại nhà thương Thánh Giacôbê, bên kia nhà
thờ các Thánh Anh Hài. Đối với việc học hành th́
trọ ở nhà thương rất bất tiện. V́ nhà
thương cách trường học khá xa. Buổi chiều
muốn vào kịp trước khi khóa cổng th́ phải về
trước giờ Kinh Truyền Tin, và buổi sáng th́ phải
sáng hẳn rồi mới được ra ngoài. Do đó,
ông không thể dự tất cả các giờ học đầy
đủ, lại phải thêm một khó khăn nữa là
c̣n phải xin ăn để sống.
V́ từ gần năm
năm nay không c̣n đau dạ dày nữa, I-Nhă lại sống
khắc khổ và ăn chay. Ông trọ tại nhà
thương và xin ăn một thời gian, nhưng thấy
không mấy tiến bộ trong việc học hành, I-Nhă liền
bắt đầy suy nghĩ xem phải làm ǵ. Thấy một
số sinh viên vừa học vừa giúp việc cho các giáo
sư quản lư các trường học, ông quyết định
đi t́m một người mướn ông.
75. Ông tính toán và nghĩ
bụng - điều này làm ông phấn khởi - sẽ coi
giáo sư là Chúa Kitô, và trong số các học sinh, ông sẽ
coi người này là Thánh Phêrô, người kia là Thánh Gioan,
v. v. mỗi người là một Tông đồ. Ông nghĩ
khi giáo sư sai bảo điều ǵ ông sẽ nghĩ
đó là lệnh của Chúa Kitô; khi nguời khác nói ǵ th́ ông
nghĩ đó là lời của Thánh Phêrô, Gioan. Ông rất lo lắng
đi t́m việc làm, nhờ ông Castro, một tu sĩ thuộc
đan viện Cartusiô quen biết nhiều giáo sư, và nhờ
một số người khác nữa.
76. Sau cùng, v́
không t́m được việc ǵ, một tu sĩ gốc
Tây Ban Nha góp ư kiến cho I-Nhă mỗi năm đi tới xứ
Flandres, ở lại đó hai tháng hoặc ít hơn, để
quyên tiền sống suốt niên học. Sau khi cầu nguyện,
ông thấy giải pháp này hay. Ông đi và mỗi năm
đem về được một số tiền đủ
để sống thanh bần. Có một năm ông qua nước
Anh và quyên về được nhiều hơn các năm
trước.
77. Sau khi đi xứ
Flandres về lần đầu, I-Nhă lại tiếp tục
các cuộc đối thoại thiêng liêng hăng hái hơn
trước. Đồng thời hướng dẫn Linh Thao
cho ba người tên là Pêralta, Castro và một người
khác gốc Bascô tên là Amador đang ở trường Thánh
Barbara. Cả ba người này thay đổi sâu xa. Họ
phân phát tất cả của cải cho người nghèo, kể
cả sách học nữa và bắt đầu đi ăn
xin khắp thành phố Paris, ở những nơi người
lữ khách trước đây đă ở, như đă kể
trên. Vụ này gây xôn xao viện đại học, bởi
v́ hai người này trước đây có địa vị
cao và được nhiều người biết đến.
Những người Tây Ban Nha bắt đầu chống
đối những người đó, sau khi đưa ra
nhiều lư lẽ thuyết phục hai người trở
về đại học nhưng vô ích. Thế rồi cả
một đám người cầm vũ khí đến nhà
thương lôi hai người ra, kéo về đại học
và bảo rằng sau khi học xong mới được
thực hiện ư định đó.
78. Một thời
gian sau, Castro trở về Tây Ban Nha giảng tại Burgos và
cuối cùng tu ḍng Cartusiô tại Valencia. Pêralta th́ đi hành
hương tới Giêrusalem, nhưng khi đi qua Italia th́ gặp
một người bà con là sĩ quan trong quân đội,
ông liền bị bắt đem đến Tư Dinh Đức
Giáo Hoàng và được lệnh trở về Tây Ban Nha.
Việc này xảy ra mấy năm sau chứ không phải
ngay thời đó.
Tại Paris, có nhiều
người nói xấu người lữ khách, đặc
biệt trong giới người Tây Ban Nha. Giáo sư Gouvera
cho hay rằng v́ đă làm cho Amador ra điên, nên lần sau
I-Nhă đến trường Thánh Barbara, ông sẽ bị
“đánh đ̣n công khai” v́ tội mê hoặc học tṛ.
79. Người
Tây Ban Nha đă trọ cùng I-Nhă lúc ban đầu, và đă
tiêu hết tiền của ông không trả nổi, lên
đường về Tây Ban Nha qua đường phố
Rouen. Đang khi chờ tàu nhổ neo th́ ông lâm bệnh. Người
lữ khách hay tin qua một lá thư ông gửi, và nẩy ư
muốn đi thăm và giúp đỡ ông này, hy vọng rằng
nhờ dịp này có thể lôi kéo ông ta bỏ thế gian,
để hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa.
Để được ơn
đó, I-Nhă có ư muốn đi bộ từ Paris tới Rouen,
khoảng 25 dặm, đi chân không, nhịn ăn uống.
Lúc cầu nguyện về ư muốn này ông cảm thấy sợ
sệt. Sau cùng ông vào nhà thờ Thánh Đa Minh cầu nguyện
và nhất quyết lên đường theo dự định
và không c̣n sợ là làm như vậy là thử thách Thiên Chúa nữa.
Sáng hôm sau, ngày lên đường,
ông thức dậy và khi bắt đầu mặc quần
áo, ông cảm thấy run sợ đến nỗi không mặc
nổi áo. Dù kinh hăi như vậy ông lên đường và rời
khỏi thành phố khi trời vừa sáng. Ông vẫn sợ
sệt cho đến khi đến ấp Argenteuil, cách Paris
lối chừng hai dặm, ở đó theo tục truyền
có giữ áo Chúa Giêsu. Sau khi đi qua ấp này và bắt
đầu leo đồi, th́ cơn thử thách tiêu tan. I-Nhă
cảm thấy hết sức phấn khởi đến
độ ông gào thét và nói chuyện với Chúa trên cánh đồng.
Ngày hôm đó, sau khi đi
mười bốn dặm, ông ở nhà thương với
một người ăn mày; ngày thứ hai ngủ trên một
đống rơm và ngày thứ ba tới Ruen. Suốt ba
ngày, ông không ăn uống và đi chân không, như đă quyết
định. Tại Ruen ông an ủi người bệnh,
giúp ông ta lên tàu trở về Tây Ban Nha và viết thư giới
thiệu ông ta với các bạn ở Salamanca tức là
Calixtô, Caceres và Arteaga.
80. Về những
người bạn này, xin kể vắn tắt về họ.
Trong thời gian ở Paris, theo như đă điều
đ́nh với nhau, người lữ khách viết thư
cho họ nhiều lần và tŕnh bày vấn đề khó t́m
cách cho họ tới Paris học hành. Ông c̣n viết thư gửi bà
Lêônor Mascarenhas nhờ bà giới thiệu Calixtô đến
triều đ́nh vua Bồ Đào Nha để anh ta kiếm
được học bổng theo chương tŕnh cấp
học bổng tại Paris của Vua Bồ Đào Nha. Bà Lêônor
cấp cho Calixtô thư giới thiệu và tiền bạc
tiêu sài.
Calixtô tới triều
đ́nh vua Bồ Đào Nha, nhưng cuối cùng không đi tới
Paris, trái lại anh trở về Tây Ban Nha và đi Châu Mỹ
thuộc quyền Hoàng Đế với một phụ nữ
đạo đức. Ông trở về Tây Ban Nha rồi lại
đi Châu Mỹ lần thứ hai, khi trở về th́ giầu
to, mọi người quen anh ta trước kia đều
ngạc nhiên.
Caceres trở về quê ở
Segovia và bắt đầu sống như đă quên hẳn
ư định tốt lành trước kia.
Artêga th́ được phong
chức huân tước. Về sau khi có ḍng tại Roma rồi,
ông được phong chức Giám Mục và được
trao phó cho một địa phận tại Châu Mỹ. Ông
viết thư gửi người lữ khách và xin nhường
địa phận đó cho một anh em trong ḍng. Sau khi nhận
được thư từ chối, ông chịu chức
Giám Mục và đi Châu Mỹ. Cuối cùng ông chết cách bất
ngờ. Số là khi đang nằm trên giường bệnh,
có hai chai nước, một chai đựng nước uống
theo lệnh y sĩ, c̣n chai kia đựng thuốc độc.
Người ta lấy lầm chai và đưa cho ông uống
thuốc độc khiến ông chết.
81. Lúc đi Rouen
trở về Paris, người lữ khách thấy người
ta xôn xao rất nhiều về ḿnh, do câu chuyện liên can
đến Castro và Pêralta, và nghe rằng viên thanh tra đă tỏ
ư muốn gặp ông. Ngay tức khắc, người lữ
khách t́m gặp ông thanh tra và nói rằng h́nh như ông đă
được mời đến, và sẵn sàng tuân theo lệnh
ông thanh tra nếu ông có ǵ dạy bảo. Tuy nhiên, ông xin giải
quyết vấn đề mau chóng, và mong rằng vụ này
sẽ kết thúc trước ngày lễ Thánh Rêmy là ngày khai
giảng. Ông có ư định ghi tên đại học và mong
vụ đó sớm kết thúc để tập trung vào việc
học. Tuy nhiên, viên thanh tra không gọi I-Nhă nữa,
nhưng chỉ nói rằng đă có người kể cho
ông ta nghe về công việc của I-Nhă.
82. Ít lâu sau là lễ
Thánh Rêmy, tức là ngày đầu tháng mười, I-Nhă bắt
đầu học với một ông thày tên là Gioan Pêna. Lúc
đó ông có ư duy tŕ nhóm người đă quyết tâm phụng
vụ Thiên Chúa, nhưng không muốn t́m thêm người
để tiện việc học hành.
Khi bắt đầu đi học,
ông lại bị thử thách như khi c̣n học tiểu học
tại Barcêlôna. Mỗi lần nghe giảng ông không thể tập
trung được v́ các tư tưởng đạo
đức dồi dào đến với ông. Thấy học
như thế không có lợi ích bao nhiêu, ông tới gặp
giáo sư và hứa sẽ không bao giờ bỏ một giờ
học nào bao lâu c̣n kiếm được bánh ḿ ăn và
nước uống đủ sống. Sau khi hứa như
thế, tất cả các tư tưởng đạo
đức đến với ông vào các lúc bất lợi
đều tiêu tan, và ông có thể tiếp tục học
hành đều đặn.
Thời đó ông thường
nói chuyện vói hai cử nhân Phêrô Fabre và Phanxicô Xavier. Về
sau, qua Linh Thao ông thuyết phục được hai ông này
quyết tâm phục vụ Thiên Chúa.
Hồi đó, không ai làm khó dễ
I-Nhă như trước. Có lần tiến sĩ Fragô nói với
ông là ông lấy làm lạ v́ thấy ông rất b́nh thản
không bị ai gây khó khăn ǵ, th́ ông trả lời: “Đó là v́
tôi không nói với ai về đời sống thiêng liêng;
nhưng một khi học xong chúng tôi sẽ tiếp tục
như cũ.”
83. Hai ông đang
nói chuyện với nhau th́ có một tu sĩ đến xin
tiến sĩ Fragô kiếm giùm một căn pḥng. V́ tại
nhà ông trọ, đang có nhiều người chết, có lẽ
v́ dịch hạch thời đó đang lan tràn tại Paris.
Tiến sĩ Fragô và người lữ khách muốn đi
xem nhà đó và mời một phụ nữ có kinh nghiệm
đi theo họ. Bà vào nhà quan sát một lát th́ nói là dịch
hạch.
Người lữ khách cũng
vào nhà, thấy có một người nằm đau th́ an ủi
người ta, và tay đụng đến vết
thương của người ấy, một lúc sau ra về
một ḿnh. Tự nhiên tay ông bắt đầu đau
như đă bị mắc dịch hạch. Cảm tưởng
này in sâu vào tâm trí ông đến độ không thể thoát nổi,
cho đến khi ông cương quyết đút tay vào miệng
và xoay đi xoay lại nhiều lần, tự nhủ rằng
nếu tay bị mắc dịch hạch th́ bây giờ cho miệng
mắc luôn xem sao. Sau khi làm như vậy, ông hết c̣n cảm
tưởng mắc bệnh và tay hết đau.
84. Tuy nhiên, lúc về
trường Thánh Barbara nơi ông đang trọ và học,
người nhà biết ông đă vào căn nhà có dịch hạch
th́ tránh xa ông và không muốn ông vào nhà. Ông phải ngủ ở
ngoài mấy ngày. Theo phong tục tại Paris, các sinh viên
đại học năm thứ ba muốn lấy bằng
Tú Tài th́ phải “lấy đá” như họ nói. V́ muốn
“lấy đá” phải mất một số tiền, nên
sinh viên không lấy nổi. Người lữ khách do dự
có nên lấy hay không. V́ không quyết định được
nên ông nhờ Giáo Sư giúp ư kiến. Giáo sư khuyên ông lấy
th́ ông lấy. Tuy nhiên, vẫn có người chỉ trích
ông, ít nhất một người Tây Ban Nha để ư
đến việc đó.
Hồi đó tại Paris,
I-Nhă bắt đầu đau dạ dày rồi. Cứ
mười lăm ngày ông lại đau và kéo dài suốt
hơn một tiếng. Có lần ông đau suốt mười
sáu, mười bảy tiếng. Hồi đó ông đă học
hết trung học, vài năm đại học và qui tụ
được một số bạn bè th́ bệnh t́nh trở
nên càng ngày càng trầm trọng, không t́m được cách
nào chữa trị, mặc dù đă thử nhiều cách.
85. Các y sĩ nói
rằng chỉ có khí hậu ở quê nhà mới có thể
giúp ông khỏi bệnh. Các bạn bè cũng bảo như
thế và khuyên ông về quê.
Hồi đó tất cả
các bạn bè đă quyết định họ sẽ làm ǵ.
Họ sẽ đi Vênêzia và từ đó sẽ đến
Giêrusalem. Nếu không được phép ở lại
Giêrusalem họ sẽ trở về Roma tŕnh diện vị
đại diện Chúa Kitô để Ngài sai họ làm việc
những nơi Ngài nhận thấy Thiên Chúa sẽ
được vinh quang hơn và các linh hồn được
lợi ích hơn. Họ cùng đồng ư, tại Vênêzia, họ
sẽ chờ tàu một năm, nếu trong năm đó
không có tàu đi Trung Đông, họ sẽ không bị ràng buộc
bởi lời khấn đi Giêrusalem nữa, và sẽ tŕnh
diện Đức Giáo Hoàng.
Cuối cùng người lữ
khách chiều ư các bạn. V́ có một số bạn gốc
Tây Ban Nha cần giải quyết một số vấn
đề nên ông t́nh nguyện lo giùm. Rồi họ điều
đ́nh vói nhau rằng: Sau khi I-Nhă khỏi bệnh, sẽ lo
giải quyết các vấn đề đó rồi tới
Vênêzia chờ các bạn tại đó.
86. Đó là vào
năm 1535, và theo dự định của các bạn th́ ông
sẽ lên đường vào năm 1537 vào ngày lễ Thánh
Phaolô Trở Lại. Tuy nhiên chiến tranh lại bùng nổ
và ông phải lên đường vào tháng 11 năm 1536. Truớc
khi lên đường, I-Nhă nghe biết rằng, có người
tố cáo với các thẩm phán với những lời cáo
buộc chống lại ông. Biết được sự
kiện, mặc dù người ta đă không nhắm đích
danh ông, ông vẫn đích thân đến viên thẩm phán và bảo
ông này về những ǵ ông đă nghe, về cuộc hành
tŕnh ông sắp đi và về các bạn của ông. Vậy
ông xin các thẩm phán một bản án. Ông thẩm phán nói rằng
ông cũng có nghe những điều cáo buộc nhưng chẳng
thấy có ǵ là quan trọng. Ông chỉ muốn xem những
ǵ I-Nhă đă viết, tức là bản Linh Thao. Khi xem xong,
ông nhiệt liệt khen ngợi, và xin một bản như
người lữ hành đă đưa cho ông. Mặc dù vậy,
người lữ hành vẫn khẩn khoản xin ông ta một
bản án. V́ ông thẩm phán từ chối nên người lữ
khách lại trở lại nhà của ông này với vài nhân chứng
và viên chưởng khế để làm biên bản chứng
thực sự kiện.
87. Xong việc,
các bạn mua cho I-Nhă một con ngựa và cho ông cỡi ngựa
một ḿnh. Trên đường đi ông thấy khoẻ
hơn nhiều. Tới quê hương Guipuzcoa, ông bỏ
đường cái và rẽ vào một con đường vắng
vẻ hơn. Đi một quăng, ông gặp hai người cầm
vũ khí tiến về phía ông (đường này có tiếng
nhiều kẻ cướp). Đi ngang qua ông một quăng xa, hai
người đó lại hấp tấp trở lại
đuổi theo ông khiến ông hơi sợ. Dù vậy, ông hỏi
thăm ra th́ mới biết họ là gia nhân của ông anh
đến đón ông về. H́nh như khi ông tới thành
Bayonne bên Pháp, có người nhận ra ông và báo tin cho ông anh.
Rồi gia nhân chạy trước và I-Nhă đi theo sau trên
cùng một con đường. Lúc sắp đến quê nhà,
I-Nhă gặp hai người tới đón ông và nài ép ông vào
nhà ông anh, nhưng ông không chịu. Ông vào ở trong nhà
thương và lúc thuận tiện ông đi ăn xin trong
vùng đó.
88. Tại nhà thương,
có nhiều người đến thăm ông. Ông nói chuyện
vớùi họ về Thiên Chúa. Nhờ ơn Chúa ông đă gặt
hái được nhiều kết quả. Ngay lúc tới
nơi ông đă quyết định dạy giáo lư cho trẻ
em. Nhưng ông anh chống đối kịch liệt và bảo
rằng sẽ chẳng có ai đến học. Ông trả lời
là nếu chỉ có một đứa thôi cũng đủ.
Sau khi bắt đầu, th́ luôn luôn có nhiều người
đến học, và cả ông anh nữa. Ngoài việc dạy
giáo lư vào các ngày Chủ Nhật và Lễ Trọng, ông c̣n giảng
cho mọi người từ các nơi xa nhiều dặm
đến nghe ông giảng và xin ông giúp đỡ linh hồn
họ. Ngoài ra ông c̣n cố gắng sửa một số tệ
đoan. Nhờ ơn Chúa, ông dàn xếp được vài
chuyện. Thí dụ như thuyết phục được
người giữ an ninh áp dụng được biện
pháp để cấm đánh bài.
C̣n một tệ đoan nữa
như sau. Các cô gái chưa chồng tại miền đó
không bao giờ đội khăn, chỉ khi nào lấy chồng
mới được đội. Nhưng có nhiều cô sống
chung với linh mục, hay những người khác như
là vợ của họ. Việc đó coi như cơm bữa
đến nỗi những cô đó không mảy may hổ thẹn
c̣n nói công khai họ đội khăn v́ người nọ,
người kia, và mọi người đều biết
như thế.
89. Phong tục
đó gây nhiều tai hại. Người lữ khách thuyết
phục tỉnh trưởng, và xin ông ra lệnh để
tất cả các phụ nữ đội khăn, nếu
không phải là vợ chính thức, th́ sẽ bị phạt
theo luật. Nhờ đó mà tệ đoan trên mới bớt
dần. Đối với người nghèo, ông được
chính quyền cung cấp thường xuyên cho họ. Ông dạy
thêm rằng: Ba lần trong ngày tức là sáng, trưa, chiều
nên kéo chuông “Kính Mừng” để nhắc dân chúng cầu
nguyện theo phong tục tại Roma.
Lúc đầu I-Nhă cảm thấy
khoẻ mạnh, nhưng về sau lại đau nặng.
Khoẻ lại ông quyết định đi lo công việc
mà các bạn giao phó. Ông đi bộ mà không đem theo một
đồng xu nào. Ông anh thấy vậy, th́ vừa bất
b́nh vừa xấu hổ. Tuy nhiên, vào buổi chiều I-Nhă
bằng ḷng cho ông anh và bà con đi theo ông cỡi ngựa
đến ranh giới tỉnh.
90. Qua ranh giới
tỉnh, ông xuống ngựa, không lấy ǵ của bà con và
đi bộ hướng về Pamplôna. Ông ghé Almazan, quê của
Laynez, rồi Saigonuenza, Tolêđô và Valencia. Mặc dù mỗi
nơi quê của các bạn, người ta nài nỉ ông nhận
nhiều món quà, nhưng ông không lấy ǵ hết. Tại
Valencia, ông gặp Castro, tu ḍng Cartusiô. Khi ông tỏ ư muốn
lên tàu đi Gênôva, nhiều người đạo đức
tại Valencia căn dặn ông không nên đi v́ trên biển
có tên giặc Râu Đỏ hoành hành bằng nhiều tàu. Mặc
dù người ta kể nhiều câu chuyện cố ư để
ông sợ không dám đi, nhưng ông vẫn không do dự chút
nào.
91. Ông lên một
con tàu và gặp băo như đă kể trước, khi ông
suưt chết ba lần. Tới thành phố Gênôva, ông lên
đường đi Bologna. Trong chuyến này ông gặp nhiều
gian khổ, đặc biệt lúc lạc đường.
Ông rẽ vào một con đường ở ven sông,
đường th́ trên cao c̣n sông th́ ở dưới thung lũng,
càng tiến tới th́ đường càng hẹp cho đến
một lúc không tiến tới được nữa, mà lùi
th́ cũng không nổi. Vậy ông bắt đầu ḅ, ông
phải ḅ một khúc dài, mỗi lần nhích lên ông rất sợ
té xuống sông. Trong đời ông, đó là lúc gian khổ nhất
về thể xác mà ông gặp phải, nhưng cuối cùng
ông cũng thoát được.
Sắp sửa vào thành phố
Bologna, đi qua một chiếc cầu gỗ nhỏ, ông lại
té xuống. Lúc chỗi dậy ông ướt hết và đầy
bùn từ đầu đến chân, khiến cho nhiều
người qua lại gần đó cười rộ. Vào
thành phố ông bắt đầu đi xin ăn. Nhưng mặc
dù đi khắp cả thành, ông không kiếm được
đồng xu nào. Ông ở lại Bologna một thời gian
v́ bị đau ốm, rồi ông lại lên đường
đi Vênêzia, và vẫn đi bộ như thường lệ.
92. Thời
đó tại Vênêzia, I-Nhă tập trung vào việc hướng
dẫn Linh Thao và nói về các đề tài thiêng liêng. Trong số
những người đáng nhớ nhất đă tập
Linh Thao có ông cử nhân Phêrô Cantarênô, ông cử nhân Gasparô
Doctis và một người Tây Ban Nha nữa là ông tú Hoces. Ông
này hay đến nói chuyện với người lữ
khách và cả Giám Mục thành Chieti cũng vậy. Dù thích tập
Linh Thao, ông này vẫn trù trừ. Cuối cùng ông quyết
định bắt đầu, và sau ba, bốn ngày, ông thú thật
với người lữ khách rằng sợ trong Linh Thao sẽ
dạy ông một giáo thuyết nào không tốt theo lời một
người nào đó đă nói với ông như vậy. V́
thế ông đem theo một số sách để tiện
tra cứu trong trường hợp I-Nhă dẫn ông đi lạc
hướng. Ông này tập linh thao có kết quả đáng
kể và cuối cùng quyết định theo lối sống
của người lữ khách. Trong số các bạn đồng
hành, ông này là người qua đời trước tiên.
93. Tại
Vênêzia, người lữ khách lại bị chống đối
v́ có tin đồn rằng h́nh nộm của ông bị
đốt tại Tây Ban Nha và Paris. Tiếng đồn này
lan tràn đến nỗi người lữ khách lại phải
ra ṭa nhưng bản án lại bênh vực ông.
Chín người bạn
đă tụ họp tại Vênêzia vào đầu năm 1537
và chia nhau giúp việc tại các nhà thương. Hai, ba tháng
sau tất cả lên đường đi Roma nhận phép
lành của Đức Thánh Cha để đi Giêrusalem. Tuy nhiên,
người lữ khách không đi v́ ở đó có tiến
sĩ Ortiz và Hồng Y Têatinô. Nhóm các bạn đem theo chi phiếu
200 hoặc 300 đồng bạc mà người ta đă cho
để đi Giêrusalem. Họ không lấy tiền mặt
nhưng chỉ lấy chi phiếu thôi. Về sau, v́ không
đi Giêrusalem được, họ trả lại các chi
phiếu. Họ trở về Vênêzia như lúc đi, họ
đi làm ba nhóm, vừa đi vừa xin ăn. Mỗi nhóm có
những người thuộc các quốc tịch khác nhau. Tại
Vênêzia, những người chưa làm linh mục th́
được chịu chức thánh do giấy phép của Sứ
Thần Toà Thánh tại Vênêzia tên là Vêrallô, về sau lên Hồng
Y. Họ chịu chức với tư cách tu sĩ khó nghèo
và khấn khiết tịnh nghèo khó.
94. V́ năm
đó chính quyền Vênêzia đă đoạn giao với đế
quốc Thổ Nhĩ Ḱ, nên không có tàu nào đi Trung Đông. Thấy
không có hy vọng đi Giêrusalem trong một tương lai gần,
nên các bạn đă chia nhau đi các vùng xứ Vênêzia mà chờ
một năm như đă dự định trước
kia; hết một năm mà vẫn không có tàu th́ họ sẽ
đi Roma.
Người lữ khách trúng
thăm đi Vicenza với Favre và Laynez. Tại đó, họ
t́m được một căn nhà ở ngoài thành phố,
không có cửa lớn và cửa sổ, họ kiếm ít
rơm về làm giường ngủ. Mỗi ngày hai lần
hai người đi vào thành phố xin ăn, nhưng kiếm
được rất ít, khó mà đủ sống. Họ
thường ăn bánh ḿ khô khi kiếm được,
người nào ở nhà th́ lo nấu bánh ḿ. Họ sống
theo kiểu đó trong bốn mươi ngày, chỉ lo việc
cầu nguyện mà thôi.
95. Sau bốn
mươi ngày, ông cử nhân Gioan Coduri về tới và cả
bốn người quyết định bắt đầu
giảng. Vậy cùng ngày và cùng giờ, bốn ông vào thành phố,
mỗi ông vào phố chợ và bắt đầu lớn tiếng
vừa gọi dân chúng vừa lấy nón ra hiệu mời họ
tập họp nghe lời giảng. Nhờ các bài giảng
mà người ta biết tiếng họ, trở nên đạo
đức và cung cấp cho họ phương tiện vật
chất dồi dào hơn trước.
Suốt thời gian ở
Vicenza, người lữ khách có nhiều thị kiến
thiêng liêng và thấy phấn chấn gần như thường
xuyên, khác với thời gian ở Paris. Đặc biệt trong
thời gian chuẩn bị chịu chức và dâng Lễ tại
Vênêzia, cũng như trong các chuyến đi đây đó,
nhiều lần ông được các vị khách từ trời
viếng thăm, giống như khi ở Manrêsa.
Khi ở Vicenza, hay tin một
người bạn ở Bassanô đau nặng sắp chết,
mặc dù chính ông lúc đó bị sốt, I-Nhă vẫn lên
đường. Ông đi rất nhanh khiến Favre khó
khăn lắm mới đi theo kịp. Trong chuyến
đi, ông được Thiên Chúa bảo đảm người
bạn ông sẽ không chết v́ bệnh đó, ông nói như
vậy với Favre. Ông tới Bassanô th́ bệnh nhân
được an ủi lắm và chẳng bao lâu th́ khoẻ
lại. Sau đó, tất cả các bạn tập họp tại
Vicenza. Cả mười người ở chung với nhau
trong một thời gian và họ đi ăn xin tại các
làng xă gần đó.
96. Hết
năm chờ tàu, mà không đi được nên các bạn
đồng hành quyết định đi Roma. Lần này
người lữ khách cũng đi, như lần trước
khi các bạn đi Roma, hai người mà họ e ngại lại
tỏ ra ân cần với họ. Họ chia làm ba, bốn
nhóm. Người lữ khách đi với Favre và Laynez. Trong
chuyến này, ông được Thiên Chúa thăm viếng một
cách hết sức đặc biệt.
Ông đă quyết định
sau khi chịu chức linh mục, sẽ không làm lễ suốt
một năm, để chuẩn bị và cầu xin Đức
Mẹ đặt ông đến cùng Chúa Con. Một hôm khi c̣n
cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một
nhà thờ, ông nhận thấy một sự thay đổi
lớn lao trong tâm hồn, và thấy rơ ràng Chúa Cha đặt
ông cùng Chúa Kitô, con của Ngài. Ông không thể nào nghi ngờ
điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đặt
ông cùng Chúa Con.
97. Rồi lúc tới
Roma, ông nói với các bạn ông thấy các cửa đều
đóng lại, có ư muốn nói rằng tại đó, họ
sẽ bị chống đối nhiều. Ông nói thêm: “Chúng
ta nên thận trọng, không tiếp xúc với phụ nữ,
trừ người quí phái.” Nói về vấn đền này
th́ sau này Phanxicô thường giải tội cho một phụ
nữ, và đôi khi đi thăm bà để hướng dẫn
về đời sống đạo đức. Sau một
thời gian bà mang thai. Nhưng nhờ ơn Chúa, người
ta t́m ra được thủ phạm. Gioan Coduri cũng gặp
phải một chuyện tương tự, khi một cô,
con thiêng liêng của ông bị bắt quả tang đang
ăn ở với một ông đàn ông.
98. Từ Roma,
người lữ khách đi Monte Cassinô để hướng
dẫn Linh Thao cho tiến sĩ Ortiz và ở lại đấy
bốn mươi ngày. Trong thời gian đó, một hôm ông
thấy Hoces đang vào Thiên đàng, th́ ông thấy tâm hồn
phấn khởi hết sức và nước mắt tràn ra.
Nếu nói khác, ông nhận thấy đó là nói dối. Từ
Monte Cassinô trở về, ông đem theo Phanxicô Estrađa. Về
Roma, ông ra sức giúp đỡ các linh hồn. Thời
đó, các bạn c̣n ở lại vườn nho, ông hướng
dẫn Linh Thao cho một số người cùng một lúc.
Trong đó, có một người ở gần nhà thờ Đức
Bà Cả và một người ở gần cầu Sixtô.
Sau đó ông bắt đầu
gặp chống đối, và Miguel bắt đầu gây rắc
rối nói xấu người lữ khách. I-Nhă làm cho ông ta bị
ra toà trước mặt Tổng Trấn và tŕnh cho ông này
coi một lá thư của Miguel, trong đó có nhiều lời
ca tụng người lữ khách. Ông Tổng Trấn
điều tra về Miguel và cuối cùng đuổi ông này
ra khỏi Roma. Sau đó đến lượt Muđarra và
Berrêđa. Họ rêu rao rằng người lữ khách cùng
các bạn đă phải trốn khỏi Tây Ban Nha, Paris và
Vênêzia. Cuối cùng, trước mặt ông Tổng Trấn
và Sứ Thần lúc đó đang ở Roma, cả hai đều
xác nhận nhóm các bạn đều không thấy có ǵ
đáng chỉ trích về lối sống cũng như về
giáo lư. Ông Sứ Thần ra lệnh chấm dứt vụ
đó, nhưng I-Nhă không bằng ḷng, và đ̣i phải có bản
án đàng hoàng.
Điều này đă làm phật
ḷng ông Sứ Thần, ông Tổng Trấn và những người
lúc trước đă ủng hộ người lữ
khách. Cuối cùng, vài tháng sau Đức Giáo Hoàng trở về
Roma. Người lữ khách đi gặp Đức Thánh Cha tại
Frascati và tŕnh bày mọi lư lẽ. Đức Thánh Cha trực tiếp
lo vấn đề và ra lệnh cho làm bản án; bản án ủng
hộ I-Nhă. Tại Roma, người ta thực hiện một
số việc bác ái với sự giúp đỡ của
người lữ khách và các bạn, như việc dạy
đạo tại nhà Thánh Marta, và nhà các cô nhi. C̣n về những
chuyện khác Nadal có thể kể thêm.
99. Sau khi kể
tất cả các việc trên, ngày 20 tháng 10 tôi đă hỏi
người lữ khách về Linh Thao và hiến pháp để
t́m hiểu Cha đă soạn thảo hai tài liệu đó
như thế nào. Cha trả lời Linh Thao không được
soạn liên tục, nhưng mỗi lần Cha nhận xét thấy
điều ǵ trong tâm hồn có ích lợi và có thể giúp
được người khác, th́ Cha viết ra, thí dụ
cách thức ghi việc xét ḿnh trên các vạch ngang. Riêng về
cách chọn lựa, Cha đă nói với tôi rằng Cha đă
rút ra từ những thay đổi trong tâm hồn và tư
tưởng từ khi c̣n ở Loyola, lúc c̣n đau chân. Về
hiến pháp Cha nói tối nay sẽ kể chuyện.
Ngày hôm đó, trước
cơm tối Cha gọi tôi. Cha có vẻ như đang cầm
trí hơn lúc b́nh thường, và một lúc lâu như là
để thanh minh, Cha nói rằng: khi kể các chuyện
trên, Cha chỉ có ư ngay lành và đơn sơ, và bảo
đảm chắc chắn Cha không thêu dệt thêm điều
ǵ. Cha nói thêm rằng từ khi bắt đầu phụng sự
Chúa, Cha đă xúc phạm đến Chúa nhiều lần,
nhưng không bao giờ Cha cố ư phạm tội trọng
mà trái lại Cha càng thêm sốt sắng, nghĩa là ngày càng
t́m thấy Chúa dễ dàng. Lần nào, lúc nào muốn gặp
Chúa, Cha được gặp ngay. Lúc này, Cha vẫn có nhiều
thị kiến đặc biệt như đă kể
trước, thấy Chúa Kitô như h́nh mặt trời. Cha
hay thấy các thị kiến này như khi Cha bàn luận về
các công việc quan trọng: thị kiến này chuẩn xác
các quyết định.
100. Lúc làm Lễ
hay có thị kiến và khi soạn thảo hiến pháp th́ có
nhiều thị kiến. Điều này có thể xác định
chắc chắn, bởi v́ mỗi ngày Cha đều viết
ra những biến chuyển trong tâm hồn và hiện giờ
có đủ các tài liệu đó trong tay. Vậy Cha cho tôi thấy
một chồng giấy khá lớn và đọc cho tôi nghe một
phần đáng kể. Phần nhiều diễn tả các
thị kiến xác chuẩn những điều lệ trong
hiến pháp, có khi thấy Chúa Cha, có khi cả Ba Ngôi, có khi Đức
Mẹ đang cầu bầu hoặc đang xác chuẩn các
điều lệ.
Cha kể chuyện đặc
biệt về các điều lệ đă quyết định
sau khi làm Lễ mỗi ngày suốt bốn mươi phút, mỗi
lần chảy rất nhiều nước mắt: Đó là vấn
đề các nhà thờ của ḍng có nên có nguồn lợi
riêng không?
101. Lúc soạn
hiến pháp Cha thường áp dụng phương pháp
dưới đây: Mỗi ngày, Cha dâng Lễ, tŕnh bày ư định
điều lệ đang viết và cầu nguyện về
điều đó. Mỗi lần dâng Lễ và cầu nguyện
th́ không cầm được nước mắt.
Tôi mong nh́n xem tất cả
các giấy tờ viết về Hiến Pháp, và xin Cha để
cho tôi xem một thời gian, nhưng Cha không cho.
Home Tài Liệu Căn Bản Lịch Sử CLC Cộng Đoàn Huấn Luyện Linh Đạo Inhă Đại Hội Thế Giới Đại Hội CLCVN Đại Hội AP Sinh Hoạt H́nh Ảnh CVX-CLC
Sách Linh Thao
Của Thánh Ynhă Tự Thuật Của Thánh Ynhă Đặc Sủng Ḍng Tên Bạn
Đường Của Người Làm Linh Thao Để Tự Do Và Hạnh Phúc Hơn Hiện Tại Mới Quan Trọng
Tự
thuật của thánh Inhaxiô
TUTHUAT1 TUTHUAT2