Phong thủy lăng Hồ Chí Minh

Trần Nhu
 

Ngày 9/9 năm 1969 tại quảng trường Ba Đình, gần 50 vạn người đã dự lễ truy điệu Hồ Chí Minh.

Từ ngày hôm trước đám tang Hồ Chí Minh, các khu phố nội ngoại thành Hà Nội: Công an hộ khẩu, tổ trưởng, tổ phó dân phố, những kẻ trực tiếp nắm vận mệnh của dân chúng đến từng nhà phát khăn tang và dặn mọi người già trẻ đàn ông đàn bà phải có mặt đầy đủ và đeo khăn tang.

Sau bao nhiêu năm cai trị miền Bắc, tuy khát máu tàn bạo, bất nhân, bất nghĩa, bất tín. Nhưng đại thành công, vì không có đối thủ cạnh tranh, một mình một chợ, không ai cản trở ông. Nói cách khác, chính phủ Mafia gây tội ác trong bóng tối không gặp trở ngại nào, đã hoàn thành nhiệm vụ của Quốc Tế Cộng Sản giao cho một cách xuất sắc là bắn giết đồng bào, phát động đấu tranh giai cấp, trấn lột, phá các di tích lịch sử văn hóa, gây chiến tranh, và nhiều vụ tàn sát do ông điều khiển, tất cả đều nhân danh vì độc lập tự do. Khi chết lại được Đảng Cộng Sản mô tả như một vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam, yêu nước, thương dân, quên mình, cho nên tang lễ ông được tổ chức hết sức trọng thể, có hơn 40 đoàn đại biểu của các quốc gia đến Hà Nội dự tang lễ trùm lưu manh, hơn 230.000 bức điện và thư của các vị nguyên thủ quốc gia, các nhân sĩ trí thức của 120 nước gửi điện thư đến chia xẻ nỗi đau buồn, và sự thương tiếc kính trọng của họ. Dân chúng thương tiếc vô hạn, hàng mấy chục vạn người đến viếng, mặc dù trước đó thân nhân của họ bị sắc luật Cải Cách Ruộng Đất của Hồ Chí Minh xử bắn, bỏ tù, tước đoạt tài sản và ngay bản thân họ bị đối xử như súc vật! Thế mà trong tang lễ hàng ngàn người vật vã than khóc thảm thiết như cha chết. Tôi không được trực tiếp chứng kiến cảnh này, vì lúc đó còn ở trong kiên giam ở Hà Giang. Sau khi đi tù về tôi có hỏi cô em gái ở Hà Nội: đám tang ông Hồ em có khóc không? "Có, anh à!". Tại sao em khóc, em thương tiếc ông ấy à? "Không, vì chung quanh em ai cũng vật vã khóc lóc thảm thiết. Nên em cũng phải khóc thôi. Nếu không cán bộ khu phố cho là mình có vấn đề…" đến khi sắp vượt biên tôi có dịp hỏi một vài anh bạn ở Hà Nội về chuyện này, có anh bảo: "Lúc Bác chết nhiều người khóc nức nở, kể lể nỉ non... khi Bác còn sống Người cấp lương thực tem phiếu vải... Nay Bác đi về với cụ Mác Lê rồi! Vẻ mặt họ buồn thảm, chân đi xiêu vẹo, có lúc ngất sỉu không dậy được. Nhưng thoắt một cái, ở chỗ khác đã biến thành một con người khác hẳn, hắn chửi Ð... mẹ... Bác con C... đồ vô loài, đồ cô độc, cô quả, thằng chó đẻ, thằng mất gốc, Ð... mẹ nó! tổ sư v.v..." Một anh bạn khác cười có vẻ bí ẩn và bảo: "Cố đạo với thầy chùa còn khóc huống hồ là…"  À thì ra thế! Cuộc sống thế gian, trước mắt chúng ta chỉ có một nửa thế giới. Ai muốn biết cả hai mặt ắt phải trả giá... để nhìn thấu suốt nửa thế giới còn lại bên kia: "Cố đạo với thầy chùa còn khóc, huống hồ là..." Câu nói của anh bạn trước khi xa Hà Nội làm tôi nhiều khi cười ra nước mắt. Gần đây, tôi lại được đọc bài thơ của Hòa Thượng Quảng Độ đã phác họa lại cảnh đám tang Chủ Tịch Tôn Đức Thắng trong bài:

Sư Cụ và Đức Cha

Sướng thân sư cụ và đức cha
Bẩy ngày hiếu phục cái thây ma (1)

Ghi Chú: (1) Khi ông Tôn Ðức Thắng chết năm (1980). Chính phủ CSVN đưa một vị sư và một ông cha đứng hầu hai bên quan tài như hai con trưởng, mỗi khi các quan khách đến viếng thì hai con trưởng phải chắp tay lại để đáp lễ!

Quả thực hoạt cảnh này gây "Sốc", mà nhà thơ không bày đặt gì, chỉ truyền đạt: bằng hoạt cảnh rút ngắn từ hiện thực, một câu chuyện lớn đám ma "vua vô thần."

Thõng thượt đức cha đeo thập giá
Thùng thình sư cụ khoác cà sa
Khúm núm đứng hầu người trong quách

Cha-Sư! Hài hước bất ngờ đến xót xa! Nó cũng lại giống như một câu chuyện tiếu lâm, kỳ cục mà có thật trăm phần trăm. Tác giả đã từng được đọc, được nghe biết, nhiều chuyện quái đản, cả những chuyện trên trời, dưới âm phủ… Tất nhiên, những chuyện ấy có ảnh hưởng giúp cho việc sáng tác. Những chuyện ở mức người ta tưởng tượng ra cho thế giới của loài người như ở Ấn Độ, ở Tầu, truyện Nghìn Lẻ Một Đêm, tác phẩm vĩ đại nhất của nền văn học Ả Rập là phép nhiệm mầu của những ảo giác và của trí tưởng tượng, tưởng đâu đã tới mức thượng thừa, nhưng so với loại truyện tân kỳ quái đản kiểu "đám ma vua vô thần" thì truyện Ấn Độ, Ả Rập dù là tưởng tượng cũng còn thua xa!

Xum xoe lạy tạ kẻ vào ra
Danh lợi đã lừa hai cặp mắt
Lù lù đống mối tưởng mồ cha!

Thật là quá kinh khủng đến phát rét! Họ tự làm nhục mình, làm nhơ lây cả đạo. Nó hạ thấp phẩm giá con người xuống thấp một cách đáng khinh bỉ. Việc này không phải chỉ một vài cá nhân vô ý thức, mà có cả một bè… họ bỏ cả cha mẹ, bỏ tất cả quyền lợi thế gian phát nguyện quy y Phật, quy y Pháp… không quy y tà đạo, ác đảng, nương tựa Phật, nương tựa Pháp. Bây giờ họ nương tựa vào bác đảng, họ quy y tà đạo ác đảng, đem cả tượng Hồ Chí Minh vào chùa thờ trong khi vẫn ăn cơm, mặc áo của đàn Việt, đầu nhẵn nhụi đi giữa nhân gian như người ta thường gặp, rồi trong Quốc Hội Cộng Sản lố nhố sáu bẩy cha-sư. Loại này đóng nhiệm sở ở chùa mà làm việc cho ác đảng phá chùa, diệt đạo…

Nhân đọc bài thơ "Yểm bùa ma trừ quỷ" của Xuân Hương, thấy đáng giá ngàn vàng xin trích dẫn ra đây vài đoạn để các bạn cùng thưởng thức:
 

yểm bùa ma

trừ quỷ

Người buôn gió’blog-website doithoai.com 04/13/09
 

Đảng vô tôn giáo, phi thần thánh

Ai bày phong thánh quỷ già Hồ

 

Ai phàm ai thánh tự mình hay

Phong thánh phong thần

chuyện tếu thay !

Gió bấc lạnh lùng khôn thổi mãi

Đông tàn Xuân đến ấm tương lai

 

Quỷ vương Hồ tặc hiện làm người

Quậy phá thế gian máu lửa chơi !

Chết đọa chín tầng sâu địa ngục

Cực hình vô gián* chẳng hề nguôi

·    không gián đoạn.

 

Đặt ngang tượng Phật  tội thêm thôi

Một lễ, ngàn đau dội xuống đời

Kêu khóc đêm ngày trong ngục tối

Vạc sôi chảo nóng nát thân rồi

 

  Ai thương ai oán bác Hồ già

Chớ dại

tôn thờ giống quỷ ma
 

XUÂN HƯƠNG
 

Thôi tạm gác lại đây để trở lại đám tang Hồ Chí Minh ở Bắc Kỳ năm 1969 thì có nhiều chuyện bi hài quái đản rồi!

Nhưng lạ làm sao ở bên kia vĩ tuyến 17 cũng có hàng triệu kẻ sắp là nạn nhân của bạo chúa tỏ ra luyến tiếc!

Trong khi đó Hà Nội có hàng trăm chiếc xe hoa, hàng ngàn biểu ngữ, ca tụng cũng như tiếc thương…

Quang cảnh đám ma thật dị thường, các ủy viên BCT ưu tú của đảng những kẻ sát nhân đứng quanh quan tài, cả nước im phắc dưới ngọn cờ rủ, nghe Tổng Bí Thư Lê Duẩn đọc diễn văn hết sức lâm ly… Chúng nó dập đầu gào khóc, bày tỏ bi thương thống thiết như cha chúng nó vậy, chúng nó khóc hu hu... rồi hi hi... không bình thường! Còn thứ tự ra sao? Đây là vấn đề phân hạng bậc, ai đứng góc phải linh cữu, ai đứng góc trái, ai đứng trước, ai đứng sau, ai đứng vòng trong, ai đứng vòng ngoài quan tài, mỗi kẻ có chỗ đứng tương đương với địa vị của họ, trong cùng với vị trí được ban tổ chức Trung Ương Đảng xếp đặt cho mình, chứ không phải ai muốn đứng ở trước, ở sau thế nào cũng được.

Hồ Chí Minh đã trở thành huyền thoại, ngay sau khi ông ta chết, BCT TUĐ Cộng Sản VN quyết định tổ chức một đám tang lớn nhất, biến tên sát nhân thành thánh nhân, biến một tên tay sai của Cộng Sản Quốc Tế thành người chiến sĩ tự do, biến kẻ cướp thành người bảo vệ… Bộ máy tuyên truyền của đảng thi nhau tô son trát phấn cho ông, đồng thời tiếp tục xóa dấu tích tội ác của Hồ Chí Minh, họ có quá nhiều kinh nghiệm trong nghề, mô tả Hồ Chí Minh như một bậc hiền nhân, một người cực kỳ giản dị, để làm gương sáng cho kẻ khác noi theo. Sau khi ông chết, họ mang mấy bộ quần áo nâu sờn cũ, đôi dép cao su Bình Trị Thiên ra trưng bày ở viện bảo tàng Hồ Chí Minh, để chứng minh cuộc đời bình dị cần kiệm khiêm tốn của ông cho nhân dân thấy (những thứ này ngày trước ông thường dùng để trình diễn, mà không ai biết) các thức ăn đồ uống hảo hạng… được đưa tới Dinh Chủ Tịch phần lớn là nhập ngoại… Có cả gái tươi đẹp mua vui cho vua vô sản.

Hồ Chí Minh chết ngày 2/9/1969. Bộ chính trị Đảng Cộng Sản VN quyết định giữ xác ông và xây lăng mộ thật vĩ đại. Trên cơ sở nghiên cứu 120 phương án được đề xuất, Bộ chính trị đã chọn ra được một phương án. Việc xây lăng được tiến hành từ đầu năm 1970 đến ngày 29/8/1975 thì khánh thành. Biết bao nhiêu công sức suốt 5 năm trời dốc toàn lực để xây dựng cái lăng. Nhiều đoàn người lặn lội từ Bắc vào Nam, và các tỉnh phía Bắc để lùng sục, tìm kiếm cho ra thứ gỗ hiếm quý, các thứ đá, các thứ cây. Ở cả vùng núi non sông nước hiểm trở, suốt dãy Trường Sơn trùng điệp để mang về từng loại gỗ quý, đá quý, từng gốc cây, từng khóm lan lạ, trăm ngàn kỳ hoa dị thảo để trang trí cho khu vườn cảnh của xác chết. Đây là một công trình mang lại nhiều đau khổ cho dân tộc trong thời chiến tranh loạn lạc, dân tình đói khổ!

Về mặt Phong Thủy lăng Hồ Chí Minh xây giữa Quảng Trường Ba Đình (trên nền cũ của Thăng Long Thành) là trung tâm của thủ đô Hà Nội, trái tim của Việt Nam, cũng là đầu não của giống nòi Lạc Việt, đồng thời là huyết mạch của cơ thể Đại Việt, là nơi giao thoa của mọi miền đất nước. Vị thế của nó chỉ có thể xây dựng một quần thể kiến trúc văn hóa, xây lăng mộ ở đây là đè bẹp hồn thiêng sông núi phá tan sức sống dân tộc.

Con người có quan hệ với thiên nhiên, môi trường cùng với những biến động của thiên thể là điều rõ ràng. Các bậc hiền Triết Phương Đông xưa thường nói: "Mọi biến động "thiên" "địa" trời đất đều tác động trực tiếp vào gần như tức thời mọi sinh thể"…

Hiểu được điều này, chúng ta sẽ thấy lịch sử Việt Nam vinh nhục, thăng trầm bao nhiêu bận, nhưng chưa bao giờ đen tối hơn hôm nay! Nhìn lại đất nước, trong mọi lãnh vực, nhiều thập niên qua, chẳng những không bước thêm được bước nào, trái lại về văn hóa, đạo đức lùi về thời sơ khai nô lệ. Nghĩa là thời kỳ mọi thứ của cải đều có thể mua bán, trao đổi kể cả mua bán chính con người. Một trong những vấn nạn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam đang phải đối diện hiện nay là nạn buôn bán nô lệ, buôn bán trẻ em, buôn bán phụ nữ trên quy mô quốc tế!

Bạn sẽ nghĩ gì, viết gì? Tôi sẽ viết gì, dù ngôn ngữ có phong phú bao nhiêu, cũng chỉ có giới hạn. Những tủi nhục mỗi khi nhìn thấy hàng đoàn phụ nữ Việt Nam cởi truồng xếp hàng trước mặt ngoại nhân! Phụ nữ Việt Nam được bày bán trong tủ kính ở Singapore, trên màn ảnh truyền hình Đài Loan... Những hình ảnh này đã vượt quá sức chịu đựng của tôi! Chợt tôi lại nhớ đến nhiều cuốn sách sử của Hà Nội xuất bản đều ghi: "Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI: Người là danh nhân văn hóa thế giới. Người là ngọn hải đăng của thế kỷ 21"[1]. Họ viết quả cũng có phần đúng sự thật, vì nếu không có "ngọn hải đăng Hồ Chí Minh soi đường, dẫn lối, thì làm sao hàng ngàn bé gái mới có 8 tuổi đã biết đường sang đất Chùa Tháp làm gái mãi dâm! Những bé gái này ở Băng Cốc, Thái Lan cũng khá nhiều, và hàng trăm ngàn phụ nữ biết đường nào sang Singapore, Đại Hàn, Đài Loan. Nếu không có ngọn hải đăng Hồ Chí Minh soi đường dẫn lối, làm sao họ biết được? Phóng Viên Tương Lai của báo Tuổi Trẻ trong bài viết "Nỗi đau từ những con số" đăng vào ngày mồng Một Tết năm 2007, mô tả số phận 65 ngàn phụ nữ Việt Nam đang sống với những ông chồng già Đài Loan, bất đồng ngôn ngữ, tuổi tác, học vấn. Họ bỏ gia đình và quê hương đi làm tôi mọi cho ngoại nhân chỉ vì một vài trăm dollars."

Dân tộc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong, đánh mất chính mình. Bản sắc văn hóa dân tộc bị phá sản, còn lại chăng là những con người nô lệ Việt Nam. "Những Oshin, trăm ngàn, triệu gái mãi dâm trong nước, những nô lệ tình dục với cái tên rất lạ "Cô dâu Đài Loan" "Cô dâu Đại Hàn". Những danh từ chưa có trong tự điển, và sách giáo khoa. Ôi ! Những con người dường như chẳng còn tin tưởng vào cái gì hết! Và ta thử hỏi: Những người phụ nữ trẻ kia chưa hề biết đến một hệ thống xã hội nào khác, phong kiến, Tư Bản, cũng không ngoài cái hệ thống văn hóa vô sản, mà Hồ Chí Minh mang vào, đã lấy từ đâu ra cái tinh thần "bán thân", bán cả "linh hồn", chịu đủ mọi thứ nhục nhã chỉ vì khao khát đồng tiền, bát cơm manh áo! Cái hệ thống tư tưởng quái đản lạc loài ấy gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh của Ðảng Cộng Sản VN, đã tham gia với họ bằng cách xuất khẩu hàng trăm ngàn phụ nữ Việt Nam để lấy lời, không kể gì đến luân thường đạo lý, danh dự quốc gia, tự ái dân tộc.

Sống kiếp nô lệ đến một mức nào đó…, không thể chịu đựng được sự hành hạ của ngoại nhân. Những phụ nữ này lại kêu gọi quốc tế, kêu gọi đồng bào của họ, những người tỵ nạn Cộng Sản ở Canada, ở Mỹ cứu họ! Trong khi nhà cầm quyền Hà Nội không có trách nhiệm gì với công dân của mình. Thế mà ngày 10/3/2007, một phái đoàn của chính phủ Cộng Sản VN, do phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm dẫn đầu đến San Francisco. Ông Trần Tuấn Anh - Tổng Lãnh Sự VN tại San Francisco - người đứng ra tổ chức buổi gặp gỡ giữa phái đoàn nói trên, và một số người Việt tại khách sạn Ritz-Carlton trong lời giới thiệu phát biểu. Ông nói: "Chính phủ xem đồng bào Việt Nam tại Mỹ quốc như một bộ phận ruột thịt của Việt Nam, phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm và phái đoàn chính phủ vì thế muốn gặp gỡ quý vị đồng bào. Trong buổi nói chuyện Phó thủ tướng luôn luôn nhắc: "Tôi xin nhắc lại. Việt Kiều, là bộ phận máu thịt của Việt Nam, đó là chủ trương nhất quán của Đảng và nhà nước ta"[2]. Không biết những công nhân xuất khẩu lao động trên 40 mươi quốc gia trên thế giới, và mấy trăm ngàn cô gái bất hạnh ở Đài Loan, hay hàng chục ngàn em nhỏ làm điếm ở xứ Chùa Tháp, Thủ Tướng có muốn gặp họ không? Họ có được coi là ruột thịt của Việt Nam không? Có trong chủ trương nhất quán của Đảng và nhà nước ta không? Xuất khẩu người lao động trên 40 quốc gia trên thế giới, nhưng chẳng có luật lệ nào bảo vệ cho đời sống lao động của họ. Đặc biệt là tình trạng xuất khẩu phụ nữ! Lại phải hỏi nữa: Tại sao lại có thể xẩy ra chuyện hàng trăm ngàn phụ nữ không có một sự hiểu biết gì về con người mình sẽ lấy làm chồng ở một đất nước xa lạ mà mình không biết, hoàn toàn không biết một tí gì. Bất đồng về ngôn ngữ, bất đồng về phong tục tập quán… lại có thể ưng ý ra đi, muốn ra sao thì ra, miễn sao ra khỏi cái vùng đất khốn khổ, khốn nạn này! Mà chính quyền không những không hướng dẫn, khuyên nhủ gì họ hết, cứ đẩy đi càng nhiều càng tốt, "Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi". Không còn tiêu chuẩn thị phi, chỉ còn cái tiêu chuẩn vụ lợi, bất chấp đạo lý. Và tại sao họ để lại mẹ già, để lại tất cả người thân ở lại để ra đi phục dịch hầu hạ ngoại nhân?

Chắc chắn cái lăng Hồ Chí Minh, xây dựng giữa trái tim thành Thăng Long là nguyên nhân thất tán và bại hoại tinh thần!

Ôi! Đất nước với những xuất khẩu lao động, những kẻ nghiện ngập mất hết lý trí, lương tri, những kỹ sư, những bác sĩ, tiến sĩ "giả". Tiền đồ dân tộc bị tàn phá trắng trợn. Mất đất, mất biển, dân tộc bị thoái hóa diệt vong chỉ còn là thời gian! Nếu như không dẹp cái lăng quỷ quái này ngay!

Ở những nước văn minh như Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Canada, Pháp, v.v… có nhiều "Hội Bảo Vệ Súc Vật". Nhưng ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN, có nhiều đoàn thể nhất thế giới chỉ thiếu có Hội Bảo Vệ Phụ Nữ!!! Thành ra phụ nữ Việt Nam không được đối xử như con vật! Và cái giá bán một phụ nữ rẻ hơn một con chó, con mèo ở Mỹ, chỉ có khoảng trên dưới 300 dollars, theo lời khai của các nạn nhân, các phụ nữ bị bán. Đây là một sự thật phổ thông. Còn nói đến nhân bản, thì rất xấu hổ! Mà cái chết bi thảm của hai cô dâu Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc là Huỳnh Mai và Kim Đồng giữa tháng 8 vừa qua là một điển hình, họ bị người chồng đánh đập dã man đến chết, các xương sườn đều bị gãy hết. Thử hỏi có con vật nào bị hành hạ đánh đập dã man thế không? Ðiều này cũng thể hiện mạo diện văn hóa của dân tộc Ðại Hàn, (máu chảy ruột mềm, một con ngựa đau cả tầu chê cỏ). Ðồng bào ơi! Những cô gái Việt Nam bị những kẻ (khác máu tanh lòng), hành hạ giết hại! Sao ta có thể nhắm mắt làm ngơ? Những cô gái đáng được hưởng những hạnh phúc thế nhưng lại rơi vào một nỗi bất hạnh ghê gớm!

Người ta có thể hỏi? Tại sao những cô gái tốt đẹp, đáng được hưởng hạnh phúc ấy, lại phải bất hạnh, khốn khổ cho đến khi sự thật được phơi bầy, phũ phàng tàn nhẫn không chút tình người?

Sự bất công của xã hội đối với hàng triệu con người bị xô đẩy vào cuộc sống bi kịch, bị chà đạp, khốn khổ, bần cùng, cùng đường, đều do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản vô luân gây ra cho hàng triệu phụ nữ bất hạnh!

Ðó là sự bất công phi lý của một xã hội phi nhân mà sự khởi đầu đã đầy bi kịch!

Thảm kịch buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam ngày nay là một sự nhục mạ quá lớn đối với lương tâm con người! Không phải ngẫu nhiên nó gây chấn động dư luận quốc tế, và được sự chú ý từ những tổ chức nhân đạo ở các quốc gia Tây Phương, kể cả chính phủ đến cơ quan Liên Hiệp Quốc. Các định chế khác như Tổ chức Di Trú quốc tế TOM. Tổ chức Lao Ðộng Quốc Tế ILO và Child Wise v.v…

"Cũng theo điều tra của các cơ quan quốc tế thì vùng Ðông Nam Á là nơi tập trung nạn nhân người Việt nhiều hơn cả. Số phụ nữ và trẻ em rơi vào tay bọn bất lương tại vùng này ước lượng lên đến 200 ngàn mỗi năm, trong đó Ðài Loan đứng hàng thứ nhì, và Campuchia đứng đầu bởi các thành phố Cambodia giáp ranh giới với Việt Nam có hàng ngàn thiếu nữ và trẻ em bị cưỡng ép phục vụ tình dục. Nếu bất mãn trái lời hoặc bỏ trốn, các cô gái trẻ bơ vơ giữa xứ lạ quê người bị đánh đập thậm tệ, có khi thương tích nặng hoặc thiệt mạng. Nhiều vụ chỉ được phát giác sau khi nạn nhân tử vong."

Dẫn tài liệu "Tệ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em", 9-4-2007 Radio Free Asia VietNam)

Trường hợp hai cô dâu Việt lấy chồng Hàn Quốc là Huỳnh Mai và Kim Ðồng là một điển hình. Dẫu dưới hình thức nào bị bán vào các động mãi dâm ở Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông, Ma Cao… hay trăm ngàn (Oshin) giúp việc nhà hoặc là cô dâu Ðại Hàn, Ðài Loan nạn nhân cũng bị đối xử tàn tệ như một loại nô lệ, không hơn không kém!

Nói tóm lại, các thanh thiếu nữ và trẻ thơ đáng thương ấy bị đầy đọa như một con vật! "Ông Arron Cohen, Giám đốc điều hành Tổ chức Nghĩa Vụ Quốc Tế Hoa Kỳ, nêu thắc mắc vì đâu thiếu vắng sự can thiệp của Hà Nội? Câu hỏi luôn vụt đến trong đầu tôi là tại sao các nhà cầm quyền Ðông Nam Á, tại sao chính quyền Việt Nam và chính quyền Campuchia không làm gì để diệt tệ nạn buôn trẻ em làm nô lệ tình dục như thế này? Tôi tự hỏi tại sao chính phủ Việt Nam không tạo áp lực với Campuchia về vấn đề đó". (Tài liệu vừa dẫn)

Câu hỏi của ông Arron Cohen, Giám đốc điều hành nghĩa vụ quốc tế Hoa Kỳ, với chính phủ Cộng Sản Việt Nam là đúng hướng. Nhưng có lẽ ông chưa mấy hiểu về bản chất giới lãnh đạo Ðảng Cộng Sản VN. Bởi vì chính bọn họ là chùm buôn bán nô lệ lớn nhất thời đại. Có thứ công khai giữa họ và những tay tài phiệt Ðại Hàn, Ðài Loan đầu tư ở Việt Nam. Các hợp đồng bán tài nguyên và bán sức lao động của giai cấp công nhân một cách rẻ mạt nhất; và đối xử đúng cung cách giữa những ông chủ Ðại Hàn, Ðài Loan với đám nô lệ (giai cấp công nhân Việt Nam). Mặt hàng thứ hai là xuất khẩu lao động (nhân công) đến hơn 40 quốc gia trên thế giới. Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, và cũng là cơ sở của sự tồn tại nhà nước. Tuy nhiên, dưới chế độ Cộng Sản, họ hoàn toàn bị lệ thuộc vào Ðảng cầm quyền, kể cả mạng sống của mình, họ được coi như một thứ tài sản ("con người là vốn quý", lời Hồ Chí Minh) một thứ công cụ lao động (biết nói). Từ ngày mở cửa đổi mới, họ bị đem đi mua bán, trao đổi như một thứ hàng hóa với các nước. Gọi là xuất khẩu lao động. Xưa nay, người ta chỉ nói tới xuất khẩu sản phẩm tiêu dùng, xuất khẩu máy móc, nguyên liệu... Nhưng nay nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN có xuất khẩu nô lệ đại quy mô, riêng năm 2007 Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN xuất khẩu 92.000 lao động và thu về cho nhà nước trên 4 tỷ Mỹ Kim. Chúng thiết lập hàng ngàn các trung tâm môi giới tuyển mộ ở khắp các tỉnh thành. Điều quái đản ai muốn đi phải đóng cho chúng một khoản tiền khá lớn. Chúng ăn trên, chúng ăn dưới, ăn trước, ăn sau nhưng lại hoàn toàn vô trách nhiệm trước cảnh hành hạ bóc lột dã man của ngoại nhân, họ coi đồng bào họ như rác rưởi.

Mặc dù nói ra thì có vẻ mâu thuẫn và ngược đời, nhưng chúng ta cũng bắt buộc phải nói ra rằng sự xuất hiện của chế độ buôn bán nô lệ trong hoàn cảnh bây giờ, thế kỷ XXI là một sỉ nhục lớn! Và nhục hơn nữa phụ nữ cũng là một thứ hàng hóa. Xuất cảng cô dâu Ðại Hàn, Ðài Loan, hoặc Oshin giúp việc nhà VN. Ðó là những thứ buôn người có chủ trương chính sách, có hóa đơn, giấy tờ do nhà nước Cộng Sản Việt Nam cấp.

Các bi kịch cô dâu Việt Nam lấy chồng Ðài Loan, Hàn Quốc đã xẩy ra, và đang xẩy ra… nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản VN vẫn tiếp tục lao vào thị trường buôn bán phụ nữ một cách quy mô hơn. Hiện tại chính quyền đã cho thiết lập nhiều Trung Tâm ở khắp cả nước để quảng bá dịch vụ gọi là Trung Tâm Tư Vấn, hướng dẫn, hỗ trợ các cô gái Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc… và vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ VN trong dự án trợ giúp các cô dâu Hàn Quốc. Ðể được rõ ràng, tường tận, chúng ta có thể nghe bài phỏng vấn của Nhã Trân, phóng viên đài RFA với đại diện của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam bà Cao thị HồngVân. Xin dẫn một số câu hỏi của phóng viên Nhã Trân và trả lời của bà Cao thị Hồng Vân dưới đây trong bài:

Vai trò của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam trong dự án trợ giúp các cô dâu Hàn Quốc 2007.09.25

Nhã Trân, phóng viên đài RFA:

Trong nỗ lực hỗ trợ những phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Hàn Quốc, Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM) mới đây khởi xướng chiến dịch truyền bá thông tin, với sự yểm trợ của chính quyền Việt Nam và chính quyền Hàn Quốc. Nhã Trân trao đổi với đại diện của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, tổ chức trách nhiệm phía Việt Nam trong dự án này.

Bà Cao Thị Hồng Vân: Tôi là Cao Thị Hồng Vân, Trưởng Ban Gia Đình & Xã Hội Trung Ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam ở Hà Nội. Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam đã ký kết với Trung Tâm Văn Hóa  Phụ Nữ Việt Nam tại Hàn Quốc.

Chương trình tư vấn, hỗ trợ

Nhã Trân: Các phụ nữ bắt đầu bước vào hôn nhân với người Hàn Quốc qua hình thức môi giới chẳng hạn, có thể liên lạc với Hội Liên Hiệp Phụ Nữ bằng cách nào? Có thể tiếp cận thông tin, xin được tư vấn, hoặc những dịch vụ khác qua trang mạng, hoặc điện thoại liên lạc?

Bà Cao Thị Hồng Vân: Chúng tôi dự kiến sẽ có đường dây nóng và đường dây nóng đó chính là đường dây điện thoại của Trung Tâm Hỗ Trợ Kết Hôn của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ ở các tỉnh thành, nơi có đông phụ nữ kết hôn với người Hàn Quốc.

Bây giờ chúng tôi mới bắt đầu tiến hành khởi động dự án. Trước tiên là chúng tôi sẽ làm việc với các trung tâm.

Nhã Trân: Các trung tâm này đã được xây dựng chưa? Và chương trình làm việc sẽ ra sao, theo tinh thần của dự án?

Bà Cao Thị Hồng Vân: Các trung tâm này đã được thành lập rồi. Chúng tôi sẽ làm việc với các trung tâm đó và sẽ tập huấn cho cán bộ. Sau đó chúng tôi sẽ gửi cho họ các trang thiết bị để cho các trung tâm đó có điều kiện làm việc tốt. Sau đó chúng tôi sẽ quảng bá các thông tin.

Nhã Trân: Theo như bà nói, có nhiều trung tâm phụ trách giúp đỡ các cô dâu Việt, như vậy ngoài điện thoại, các phụ nữ trẻ này có thể đến trực tiếp tại văn phòng để xin giúp đỡ không?

Bà Cao Thị Hồng Vân: Chúng tôi sẽ tiếp các cô gái có nhu cầu kết hôn hoặc là quan tâm tìm hiểu về vấn đề kết hôn với người Hàn Quốc mà đến với trung tâm. Chúng tôi sẽ tư vấn, sẽ hướng dẫn về các thủ tục cùng hồ sơ kết hôn, rồi phỏng vấn để xem trong các cuộc hôn nhân đó hai bên có tự nguyện hay không.

Nhã Trân: Theo như bà nói thì hiện giờ Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam chưa có trang mạng chính thức quảng bá các thông tin về việc hỗ trợ cô dâu Việt lấy chồng Hàn dù rằng các thông tin này đã ít nhiều được đăng tải trên trang web của Tổ Chức Di Dân Quốc Tế (IOM). Bà có thể cho biết khoảng khi nào thì Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam sẽ có những thông tin này trên trang mạng riêng của mình?

Bà Cao Thị Hồng Vân: Nay chúng tôi lấy số điện thoại của trung tâm ở thành phố Hồ Chí Minh. Đó cũng là một trung tâm lớn và họ có quảng bá với tôi. Còn việc lập được một trang web hay không thì chúng tôi cũng sẽ tính sau chứ bây giờ chúng tôi chưa có trang web riêng cho vấn đề này.

Tháng tới chúng tôi mới dự kiến quảng cáo về các trung tâm, chúng tôi sẽ có các địa chỉ chính thức của các trung tâm. Ngay hiện nay, chúng tôi chủ trương lập các địa chỉ và số điện thoại của các trung tâm.

*

*   *

Người ta có thể suy cứu về những thảm kịch đối với hàng triệu phụ nữ và trẻ em Việt Nam đang diễn ra ở Ðài Loan, Campuchia, Ðại Hàn… Ở đây chỉ cần kể những chuyện đang đập vào mắt mọi người trên thế giới, cảnh tượng buôn bán nô lệ và phụ nữ, quy mô do nhà nước Cộng Sản Việt Nam tổ chức.

Cho nên việc ông Cohen "Nêu thắc mắc vì sao thiếu vắng sự can thiệp của Hà Nội? Vì sao chính quyền Việt Nam không làm gì để diệt trừ tệ nạn buôn trẻ em làm nô lệ tình dục thế này" (Tài liệu đã dẫn) là chưa thấy rõ ngọn nguồn. Chẳng lẽ lại đi vận động cổ võ những tên trùm buôn người, chống việc buôn người? Cũng như việc dùng những tên tham nhũng để chống tham nhũng? Mặc dù họ hô hào với biết bao nhiêu là quyết tâm cũng không có kết quả gì đâu. Một nhà quan sát, G.S. Yoshihan Tsubol Ðại học Wasda Nhật Bản - nhận xét rằng: "Ở Việt Nam, tham nhũng giúp bảo vệ quyền lực! Do chỗ hầu như mọi người đều dính líu tập thể vào những hành vi phạm pháp luật trong cuộc sống hàng ngày, tội lỗi của từng cá nhân luôn được che đậy!"

Theo ông: "Hệ thống chính trị ở đây có nhu cầu duy trì bộ máy hành chính ở mức độ kém hiệu quả cần thiết, đủ để mọi cán bộ nhân viên của bộ máy, đều là tội phạm hoặc tội phạm tiềm năng do tham nhũng, nhờ đó họ bị buộc chặt vào bộ máy bởi lợi ích". (Yoshiharu Tsuboi Corruption in Viet Nam)

Ðiều này giải thích vì sao nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam chưa từng và sẽ không bao giờ thực lòng quyết tâm chống tham nhũng, cũng như việc bài trừ tận gốc nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nên coi chừng những khoản tiền tài trợ của chính phủ Hoa Kỳ và quốc tế lại rơi vào tay bọn buôn bán người của hệ thống này. Thử hỏi hàng năm đưa hơn 200 ngàn phụ nữ và trẻ em sang Campuchia, nếu không có sự tham gia trực tiếp của chính quyền địa phương và công an, cơ quan chức năng quản lý con người, nổi tiếng là có hiệu quả nhất thế giới, thì một người dù có phép thăng thiên, độn thổ cũng khó thoát khỏi đất nước này, nói chi đến các trẻ em và phụ nữ chân yếu tay mềm, phải có phương tiện của chính quyền, mới có thể đi hàng mấy trăm ngàn người.

Theo phúc trình của nhiều tổ chức quốc tế và chính phủ nhiều nước Ðông Nam Á như Cambodia, Thái Lan, Malaysia, Ðài Loan, Hồng Kông, Ma Cao hoặc một số nước Ðông Âu như Tiệp Khắc, Cộng Hòa Czech, Ba Lan và thậm chí cả Bắc Mỹ, Hoa Kỳ, Canada… Các tội ác này đều xuất phát từ Việt Nam.

Hằng triệu những thảm kịch có liên can đến nhiều tên tội phạm… trong số đó có kẻ nằm trong Lăng ở Ba Đình là thủ phạm chính.

Người Việt Nam, bao nhiêu thập niên qua, lúc nào cũng có một ước mong cho đất nước được phú cường, ước mong dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Một dân tộc văn minh ưu tú trên thế giới.

Nhưng đã bao nhiêu năm qua, chúng ta hèn yếu, bị ngoại nhân khinh thị, ai giữ trọng trách về thảm kịch nước nhà bị rơi xuống một vực sâu tồi tệ, khốn khổ khốn nạn như ngày nay?

Phàm là người Việt Nam dù ở trong nước hay ngoài nước, còn quan tâm đến tiền đồ Tổ Quốc đều có ý nghĩ đến một vấn đề căn bản sau đây: Tại sao Việt Nam từ 1954 đến 2007 lại thua xa Thái Lan, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bản? Việt Nam so với các nước trên là một đất nước giầu tài nguyên thiên nhiên, nhân dân cần cù, thông minh, đáng lý Việt Nam phải là một quốc gia vào hàng giầu mạnh nhất trong vùng mới đúng!

Bất hạnh thay cho dân tộc ta! Từ ngày Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản cai trị, cái trí lực tiềm tàng ấy ngày càng kiệt quệ. Sau 6 thập niên họ đã biến một dân tộc thông minh thành ngu hèn! Và đẩy cả xã hội vào sự tha hóa cùng cực, bị sâu mọt đục khoét rỗng hết. Trong khi bọn lưu manh, côn đồ trong đảng đã thao túng và lãnh đạo quốc gia một cách bịp bợm dối trá. Việt Nam trở thành âm phủ đen tối nhất trần gian!

Hồ Chí Minh lãnh đạo đất nước, lựa chọn con đường Cộng Sản, đã sai lầm, gây ra bao nhiêu thảm họa, tang tóc cho dân tộc! Khi ông chết, Đảng Cộng Sản VN lại xây lăng Hồ Chí Minh giữa quảng trường Ba Đình. Về mặt Phong Thủy là điều tối kỵ, cũng nên biết rằng trong những điều kiêng kỵ, có những điều đã rõ, khoa học đã khẳng định, còn có những điều dường như "mơ hồ", "huyền cơ" mà khoa học sẽ còn phải tìm. Dù ta còn cho rằng có yếu tố mê tín thì cũng xin đừng vội phản bác. Không phải ngẫu nhiên, nhiều nhà khoa học lớn Phương Tây đã tự thấy mình cần phải quay lại dĩ vãng cổ Phương Đông xa xưa có nhiều cái kỳ diệu. Hamlet đã từng viết: "Hỡi anh bạn Horasio của tôi, thế giới này có bao nhiêu điều bí ẩn mà ngay cả các nhà thông thái nhất của chúng ta có nằm mơ cũng không thể tưởng nổi." Mặc dù khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI này đã đạt được những đỉnh cao chói lọi. Khoa học kỹ thuật đã trải qua những bước nhẩy vọt thần kỳ. Kỹ thuật internet giúp bạn mở "thiên nhãn" nhìn thấy những thứ không thể thấy được. Nghe được những thứ tiếng không thể nghe - "thiên nhĩ". Vẫn còn nhiều bất lực, và khoa học nghiên cứu về con người chưa được là bao. Các tôn giáo như Nho Giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo đã đi sâu vào cái chiều kích sâu kín tới chỗ "thậm thâm vi diệu". Trong khi các khoa học về nhân văn, nhân học còn bị thụt lùi, khá xa so với nhiều ngành khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, công nghệ cuộc sống. Số phận mỗi con người trong cộng đồng dân tộc, nhân loại còn quá nhiều "ẩn số". Việc dự báo khoa học để quy hoạch, hoạt động đời sống từng cá thể đến quốc gia, chưa được bao nhiêu. Nhưng trong lịch sử bậc thang tiến hóa của văn minh nhân loại từ Đông sang Tây đã cố gắng vươn lên quan sát, tích lũy, đúc kết được những kinh nghiệm quý giá, nhiều ngàn năm nay về lĩnh vực nhân văn, nhân học. Nhiều lĩnh vực văn hóa thần bí về nhân học đã ra đời ở phương Đông và Tây cách đây vài ba ngàn năm. Ở Tây Phương đã biết đến khoa Chiêm Tinh Học, Tử Vi Hy Lạp. Phương Đông còn thấy ra đời sớm hơn các bộ môn như: Bói, Độn giáp, Thuật số, Tướng số, Tử vi, nhân tướng, Mai Hoa dịch số, Tam thể diễn cầm, Lục Nhâm Ðại Ðộn, Bát Quái, Phong Thủy Trạch Cát. Khái niệm về phong thủy trong lịch sử cổ đại Trung Hoa đã xuất hiện vào thời Ngụy, Tấn Bắc Triều (thuộc thế kỷ III VI VII.) Nó trở thành tập tục hết sức phổ biến lan ra khắp các quốc gia vùng Đông Nam Á trong đó có Việt Nam, gắn liền với quan niệm cho rằng việc chọn đất mai táng cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên (âm trạch) cũng như chọn đất làm nhà cho người sống (dương trạch) có quan hệ mật thiết đối với cuộc sống tồn vong, họa, phúc của con cháu và những người đang sống. Người ta thường nói: "Táng âm hậu" tức chọn đất mai táng cha mẹ, ông bà tổ tiên phù hộ cho con cháu hưởng phúc lộc. Nếu sai lầm sẽ gây họa lớn. Xin xem "Tinh Thần Phật Giáo Nhập Thế" của tác giả để biết về khoa phong thủy triều Lý. Những bí quyết nhà nghề của khoa này rất phong phú, rất phức tạp và nhiều khi thần bí nữa. Nó được các thầy phong thủy vận dụng để phát hiện và xác định một ngôi đất nào đó là nơi "cát địa" hay "phúc địa", có tích tụ nhiều sinh khí, đại để có mấy phương pháp chủ yếu: thứ nhất gọi là "Mịch Long" tức là tìm "Long Mạch". Thuyết Phong Thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất dựa theo hình thể, phương hướng của các dãy núi để vận hành. Cần xét xem chúng bắt đầu từ đâu và dừng lại ở đâu! Nói dừng lại có địa thế bằng phẳng rộng rãi, có dòng nước chảy kề gần và uốn quanh, ắt hẳn là nơi tích tụ nhiều sinh khí.

Nơi được chọn gọi là hình thể, thế đất thì bao quát hình thù thì cụ thể: Thế càng cao xa, thì hình càng có chỗ dựa vững chắc, và đất đó sẽ mang lại nhiều phúc lộc. Muốn tìm chọn "quý địa" cần phải tiến hành "Sát sa", nghĩa là xem xét những ngọn núi ở xung quanh huyệt mộ.

Việc an táng người chết, liên hệ đến người sống như thế nào. Trong táng thư Quách Phác đời Tấn viết: "Việc mai táng là để tích tụ sinh khí. Sinh khí nhân gặp gió thì tản đi, gặp ngăn thì dừng lại. Nhưng sinh khí là gì? Sinh khí theo giải thích của sách "Lã Thị Xuân Thu" là do dương khí thịnh mà phát tiết ra, sinh khí là các nguyên tố đem lại sức sống cho mọi sinh vật, là cái khí làm cho mọi vật nẩy nở và sinh trưởng, hoặc suy tàn.

Sinh khí luôn luôn tồn tại và vận hành trong lòng đất. Tùy theo tình huống luồng lạch cao thấp của đất mà vận chuyển, vận động. Khi chuyển đi, tụ lại biến hóa mà phát sinh ra vạn vật, họa phúc, hưng thịnh, suy tàn…

Cũng trong sách Táng Thư của Quách Phác nêu luận điểm rằng: "Khi cảm khi ứng", "quỷ phúc cập nhân, những vật đồng khí, đồng nhất với nhau, có quan hệ cảm ứng lẫn nhau." Quỷ ở đây là cha mẹ, tổ tiên sau khi chết, quỷ theo cổ tự cũng có nghĩa là qui, là về, là chết. Sách Táng thư dẫn chứng: "Thị dĩ Đồng Sơn Tây băng, linh chung đồng ứng, Mộc hoa vui xuân, lật, nha vu thất". Tức nói: "Thế cho nên núi đồng (có mỏ khoáng đồng) bị sạt lở ở phía Tây, mà chuông thiêng ở phía Đông ứng theo. (Chuông tự kêu). Mùa xuân cây lật nở hoa thì lật ở trong phòng cũng nẩy chồi. Ý nói chuông đồng và mỏ đồng là cùng một khí chất. (cũng như Hồ Chí Minh với Ðảng Cộng Sản VN cùng một khí chất dối trá). Cây lật và quả lật là cùng một khí chất. Tưởng chừng để ở chỗ cách biệt nhau nhưng vẫn có quan hệ cảm ứng (cũng như Hồ Chí Minh tuy đã chết xác đặt ở Ba Đình mà hồn vẫn có ảnh hưởng đến Đảng Cộng Sản VN). Theo lẽ tự nhiên của tạo hóa vì thế cha mẹ dù chết nhưng vẫn có thể phù hộ cho con cháu theo quan hệ cảm ứng. Ở đây, nhà phong thủy muốn nhắc tới một sự kiện minh chứng đời Vua Hán Vũ Đế có quả chuông treo trên lầu Vị Ưởng tại kinh đô Trường An. Bỗng nhiên chuông kêu: Ô. Ông… Ô Ông… Các vị đại thần vô cùng kinh dị cho đó là điều bất thường. Đông Phương Sóc là người có trí tuệ siêu quần thời bấy giờ, đứng lên tâu rằng: "Nhất định là có núi đồng khoáng bị sụt lở". Mấy ngày sau quả nhiên có tin từ miền biên cảnh Tây xứ Thục báo về triều rằng ở đó có núi đồng khoáng bị sụp lở vào ngày giờ ấy triều đình đem đối chiếu thì đúng vào lúc chuông đồng ở cung Vị Ưởng phát tiếng kêu. Vũ Đế kinh ngạc hỏi: "Vì sao mà Đông Phương Sóc biết?" Ông đáp: "Đồng đúc chuông lấy từ mỏ đồng trên núi. Khí của chúng cảm ứng nhau mà phát ra tiếng kêu giống thân thể người ta là do cha mẹ sinh ra vậy".

Vũ Đế chép miệng than:

"Vật còn thế, huống chi người ta".

Trần Nhu
_____________________________

[1] Trích dẫn "Diễn văn của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu đọc tại lễ kỷ niệm lần thứ 109 ngày sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và 30 năm thực hiện di chúc của người". Trong "Bộ Thông Sử Thế Giới Vạn Năm" do nhà XB Văn Hóa  Thông Tin Hà Nội phát hành năm 2004

[2] Dẫn Việt Tribute, bài của Nguyễn Hà, ngày 10 tháng 3 năm 2007.

Vietnam Exodus - 24/5/2009
www.vietnamexodus.org/vne0508/vnenews1/bandocviet/trannhu/phongthuyhochiminh.htm
 

www.geocities.ws/xoathantuong