Chương 7
Quan hệ sâu sắc hơn: Hồ Chí Minh và người Mỹ
Khi Frank Tan và Mac Shin thực hiện chuyến đi tới căn cứ Việt Minh, mạng lưới
tình báo GBT lại một lần nữa lại hình thành. Charles Fenn và Harry Bernard nhận
được những báo cáo tại Côn Minh và chuyển chúng qua Không đoàn Hổ bay đến
AGAS. Fenn giữ liên lạc với OSS và cũng chuyển thông tin chi tiết cho MO. Nhưng
mối quan hệ giữa OSS và GBT không hề cải thiện, và Fenn vẫn không cung cấp cho OSS
những điều họ cần nhất: quyền sử dụng nhân viên GBT. Tuy nhiên, những con đường
tiếp cận mới đang mở ra cho OSS.
Trong chuyến đi vài ngày đến Côn Minh vào ngày 13 tháng 4, câu hỏi của Archimedes
Patti về những người Việt Nam lưu vong đã thu hút sự chú ý của Việt Minh.
Vương Minh Phương, một cán bộ Việt Minh đang sống tại Côn Minh, đã gọi điện cho
Patti vào giữa tháng 4. Patti mô tả Vương Minh Phương là một thanh niên có giáo
dục tốt ở độ tuổi ba mươi. Vương Minh Phương nói về mối quan hệ trước kia với Austin
Glass và thông báo cho Patti những người anh biết tại Côn Minh, gồm các nhân viên
tại OWI và một cố vấn người Mỹ. Hai người đã nói chuyện gần cả ngày, và Patti nhanh
chóng đi đến kết luận Vương Minh Phương nắm rõ về OSS và AGAS hơn những gì Patti
biết về Việt Minh. Vì thế, dù đã quen với cái tên Vương Minh Phương qua những báo
cáo nhưng Patti cũng phải thừa nhận rằng Phương biết nhiều về ông hơn ông biết về
Phương. Trong cái đang trở thành phong cách đặc thù của Việt Minh, Phương nói rõ
sự thật về mối tương tác giữa Việt Minh với Chennault, AGAS, và OSS. Patti nhận
xét: "Với một cảm giác tự hào, Vương Minh Phương đã kể lại chi tiết việc các đồng
chí của anh ta tại Đông Dương và Trung Quốc đã làm việc gần gũi như thế nào với
nhiều người Mỹ của OSS và tướng Chennault, cung cấp mệnh lệnh tác chiến của Nhật
và các thông tin quan trọng khác. Phương nói bóng gió về các chiến dịch của OSS
- AGAS trong đó Việt Minh góp phần giúp nhiều phi công Quân đội và Hải quân tìm
nơi ẩn náu và chỉ dẫn họ đến nơi an toàn".
Rõ ràng, việc tô hồng sự thật đôi chút trở nên có ích thực sự đối với Việt Minh.
Giống như Hồ Chí Minh đã nói về bản chất mối tương tác với Chennault nhằm củng cố
quyền lực trước những đối thủ chọn lọc, lúc này Vương Minh Phương đề cao mối quan
hệ giữa Việt Minh với cả OSS lẫn AGAS, hy vọng khuyến khích Patti cộng tác và có
lẽ để đem lại cho họ những gì họ mong muốn: được nước Mỹ thừa nhận là một "tổ chức
có quyền lực và hợp pháp duy nhất đại diện cho nhân dân Việt Nam" trong cuộc chiến
chống Nhật. Mặc dù Vương Minh Phương và Hồ Chí Minh có cường điệu về thực chất mối
quan hệ với người Mỹ, nhưng họ không hề nói dối về điều đó; những gì họ tuyên bố
đều có thực. Cả hai biết rất rõ nếu bị phát hiện nói dối, họ và những bức thông
điệp của họ sẽ bị gạt bỏ và họ sẽ có rất ít cơ hội để lấy lại lòng tin. Mặc dù yêu
cầu của Phương - được thừa nhận là "tổ chức có quyền lực và hợp pháp duy nhất" ở
Việt Nam - biểu thị một mức độ hợp pháp mà OSS chưa sẵn sàng và cũng không thể đưa
ra vào thời điểm đó, nhưng OSS đã biết nhiều về vấn đề này. Trong khoảng thời gian
ngắn từ đầu tháng 4, OSS đã tuyên bố rằng "quân đội" Việt Minh là "cốt lõi của tất
cả các lực lượng chống Nhật ở Đông Dương có các nhóm quân tại nhiều vùng: Bắc Cạn,
Thái Nguyên và Cao Bằng". Mặc dù đánh giá này - giống như những tuyên bố của Việt
Minh - rõ ràng đã được cường điệu, nhưng nó dường như trở thành một lời giới thiệu
đúng đắn về những gì OSS tin tưởng.
Trong cuộc nói chuyện với Patti, Vương Minh Phương mô tả Việt Minh là một mặt trận
chính trị và cũng là một "lực lượng vũ trang, được tổ chức thành các đơn vị du kích
và tích cực hoạt động trong cuộc kháng chiến chống Nhật". Phương cam đoan với Patti
rằng Việt Minh sẵn sàng chiến đấu sát cánh bên người Mỹ chống lại kẻ thù chung.
Trên thực tế, vào năm 1941, trong Kỳ họp mở rộng lần thứ VIII của Ban Chấp hành
Trung ương, ICP đã tuyên bố "khẩu hiệu của Đảng trước tiên là giải phóng nhân
dân Đông Dương thoát khói ách thống trị của Nhật và Pháp". Tuy nhiên, trong
ba năm sau, hoạt động của Việt Minh giành được ít kết quả hơn so với mong đợi. Năm
1944 Việt Minh thành lập lực lượng Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân đầu tiên
để bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang giành tự do cho Việt Nam. Những chỉ thị của Hồ
Chí Minh cho Võ Nguyên Giáp, trước kia là thầy giáo lịch sử và hiện là cán bộ cấp
cao của Việt Minh, nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến tranh du kích trong cuộc chiến
này. Hồ Chí Minh khuyên Võ Nguyên Giáp cần phải "áp dụng chiến tranh du kích; giữ
vững bí mật, khẩn trương hành động và giành thế chủ động (lúc ở đông lúc ở tây,
đến không ai biết, đi không ai hay)". Tại lễ thành lập Việt Nam Tuyên truyền Giải
Phóng Quân ngày 22 tháng 12, Võ Nguyên Giáp đã kêu gọi mọi người cùng chung sức
gánh vác nhiệm vụ khó khăn trong cuộc chiến chống hai kẻ thù mạnh hơn rất nhiều,
Nhật và Pháp. Những câu nói rõ ràng đã thôi thúc rất nhiều thính giả:
Chúng ta nêu cao tinh thần dũng cảm và hy sinh, không bao giờ sợ hãi dù gặp khó
khăn, không rời hàng ngũ dù phải chịu đau khổ. Đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng
chúng ta sẽ vẫn không chịu lùi buộc. Lòng hờn căm của dân tộc là quá lớn, nhiều
hành động tàn bạo bí thảm chờ được thanh toán. Chúng ta sẽ nói rõ cho cả dân tộc
rằng con đường sống chính là con thống nhất nhau để chuẩn bị nổi dậy vũ trang. quân
Giải phóng sẽ chứng tỏ là lực lượng vũ trang của nhân dân, của đất nước, đi tiên
phong trên con đường giải phóng dân tộc.
Võ Nguyên Giáp liên kết cuộc chiến sắp xảy ra với lịch sử và truyền thống Việt Nam,
kêu gọi những người lính Giải phóng thề danh dự dưới cờ với lời thề "hy sinh tất
cả cho Đất mẹ Việt Nam, chiến đấu tới giọt máu cuối cùng để tiêu diệt phát xít Nhật,
Pháp và bè lũ Việt gian, làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, dân chủ
sánh vai với các nước dân chủ khác trên thế giới". Trong hai tháng sau đó, "sử dụng
một ít vũ khí có thể nhận được từ nhân dân hoặc từ những cuộc tấn công bất ngờ vào
các đồn bốt Pháp, các đội tuyên truyền vũ trang bắt đầu liên tục tấn công nhật và
Pháp tại các vùng núi thuộc miền Bắc Việt Nam". Tuy nhiên, những cuộc giao tranh
chống Nhật của họ không nhiều. Khi Nhật đảo chính hất cẳng Pháp, Việt Minh trở nên
tích cực hơn trong cuộc chiến đấu chống Nhật. "Lời hiệu triệu chiến đấu chống Nhật
của Việt Minh" vào tháng 3 năm 1945 công khai nhìn nhận tình hình:
Máu chúng ta đã sôi
Bụng chúng ta trống rỗng
Tài sản của chúng ta bị cướp bóc
Gia đình của chúng ta nát tan
Chính quân Nhật phảí chịu trách nhiệm cho tất cả những thảm hoạ này. Chỉ có một
con đường duy nhất để chúng ta cứu lấy cuộc sống của mình: toàn thể đồng bào ta
phải chuẩn bị đánh đuổi loài chim săn mồi Nhật.
"Những lời hiệu triệu" kêu gọi nhân dân "không than van vô ích" và thôi thúc họ
tự trang bị vũ khí với "gậy gộc, giáo mác, dao, đánh đuổi giặc Nhật và giành lại
kho thóc và nhà cửa của các bạn". Năm 1946 Trường Chinh đã tuyên bố rằng sau đảo
chính, quân du kích (Việt Minh) liên tục tấn công nhiều đồn bốt tại các vùng cao
và trung du thuộc miền Bắc Việt Nam, tước vũ khí của nhiều lính Pháp và các đến
vị Bảo an để ngăn chặn vũ khí của chúng rơi vào tay Nhật; tấn công quân đội Nhật
đang di chuyển dọc theo các tuyến đường bộ thuộc Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Cạn
và Cao Bằng, quấy rối quân địch thậm chí ngay tại thủ phủ của tỉnh Bắc Cạn, và tấn
công bất ngờ vào căn cứ của chúng tại Chợ Chu. Mặc dù mô tả của Trường Chinh có
thể là cường điệu, nhưng Việt Minh liên tục quấy rối Nhật sau cuộc đảo chính tháng
Ba. Nhiều năm sau, Trần Thị Minh Châu hồi tưởng về kết quả các cuộc tấn công trước
đây:
Qua các cuộc tấn công, chúng tôi đã tiêu diệt được kẻ thù thu nhiều vũ khí và
hàng tiếp tế. Đôi khi chúng tôi còn thu được đủ vũ khí để trang bị cho cả một trung
đội. Tại Cao Bằng, Võ Nguyên Giáp đã phát động tấn công vào các bốt gác của kẻ thù
tại Nà Ngần và Phay Khắt. Ở đó, chúng tôi đã thu được toàn bộ vũ khí. Vào lúc đó,
theo chính sách của Việt Minh, có thể tiến hành tấn công kẻ thù tại mỗi địa phương
có điều kiện thuận lợi.
Ngoài ra, Frank Tan gửi điện về sở chỉ huy GBT tường thuật lại vài trận đánh thành
công tương tự của Việt Minh như Trường Chinh đã đề cập đến, gồm cuộc tấn công tại
Bắc Cạn và cuộc phục kích đoàn hộ tống Nhật gần Chợ Chu. Ít ra nguồn tin của Nhật
cũng chứng minh hoạt động du kích của Việt Minh. Trong "Báo cáo về những biện pháp
do Đạo quân Nhật thứ 8 tại FIC thực hiện suốt năm 1945" được viết sau khi Nhật đầu
hàng, tác giả người Nhật xác nhận "các hoạt động của Đảng Việt Nam tại Bắc Đông
Dương ngày càng trở nên mạnh mẽ, đặc biệt là quấy rối an ninh công cộng, nhằm đánh
đuổi Nhật để thiết lập nền độc lập hoàn toàn cho nhân dân…", bản báo cáo tiếp tục,
Nhật buộc phải tiếp tục sử dụng sức mạnh đáng kể trong việc đàn áp khá vất vả những
người ủng hộ Việt Minh cho tới tận ngày đình chiến 15 tháng 8". Mặc dù yếu hèn khi
so sánh với các phong trào bí mật của châu Âu trong chiến tranh, nhưng Việt Minh
đã được tổ chức và có một lịch sử vững chắc trong việc kêu gọi nhân dân đứng lên
chống Nhật. Đến tháng 6, Nhật bắt đầu khó chịu với những cuộc quấy rối của Việt
Minh nên đã ra lệnh cho Sư đoàn 21 (Nhật) đàn áp Việt Minh. Dựa trên các nguồn tin
của Nhật và Việt Minh, nhà sử học Stein Tonnesson đã mô tả quyết định đó như sau:
Sau vụ một trung uý Nhật bị giết trong cuộc phục kích của Việt Minh, quân đội
Nhật đã bắt bốn người có cảm tình với Việt Minh trong ngôi làng gần nhất và tra
vấn họ. Sau đó họ được tha và mang về trao cho các chỉ huy của họ vái lá thư nội
dung nói về thái độ đồng cảm nói chung đối với cuộc chiến giành độc lập của Việt
Minh nhưng lại thuyết phục Việt Minh hợp tác với Nhật chống lại Anh và Mỹ. Nhật
không có ý định chiếm đóng những khu vực Việt Minh đang hoạt động, nhưng nếu Việt
Minh vẫn tiếp tục tấn công thì Nhật sẽ đíều tới một đại đội để tiêu diệt bằng hết.
Việt Minh đáp trả bằng việc cho xuất bản một bản tóm tắt nội dung những bức thư
trên tờ báo bí mật. Chẳng bao lâu vấn đề Việt Minh được trình lên cấp cao nhất tại
Hà Nội…
Rõ ràng, sở chỉ huy của Nhật tại Hà Nội kết luận, ít nhất là trong lúc này không
thể đạt một được thoả thuận sơ bộ với Việt Minh vì vậy vào tháng 6 năm 1945 Sư đoàn
21 của Nhật đã được lệnh tiến đánh quân du kích.
Tuy nhiên, khi hành động này còn chưa xảy ra, Chi nhánh R&A của OSS đã thông báo
cho Patti rằng nó có "những báo cáo về sự chống đối quân Nhật tích cực của Việt
Minh tại khu vực Tuyên Quang - Thái Nguyên - Lạng Sơn - Bắc Cạn và các hoạt động
của họ có vẻ là chiến thuật bán quân sự". Với thông tin này, sau khi đã nghe Vương
Minh Phương kể nhiều về quá trình lịch sử của Việt Minh và tin tưởng vào năng lực
tiềm tàng của Việt Minh, Patti hứa sẽ bàn bạc về khả năng sử dụng Việt Minh với
các đồng nghiệp. Nhưng Patti cũng có một yêu cầu: ông muốn gặp Hồ Chí Minh.
Khi Patti báo cáo với Helliwell, Heppner và thiếu tá Robert E. Wampler, chỉ huy
chi nhánh SO của OSS tại Côn Minh về nội dung cuộc nói chuyện với Vương Minh Phương,
tất cả đều bày tỏ sự lo lắng là bất cứ loại vũ khí nào được cung cấp cho Việt Minh
đánh Nhật sẽ nhanh chóng trở thành công cụ chống lại Pháp. Tuy nhiên, bản chất tương
đối bất hợp tác của người Pháp và người Hoa địa phương lại làm cho Việt Minh trở
thành lựa chọn hàng đầu trong nhiều giải pháp tốt nhất của OSS nhằm kiếm được các
đặc vụ cần thiết để thiết lập mạng lưới tình báo quân sự tại FIC đã được định hình
trong Dự án QUALL. Hơn nữa, thông tin của Patti cho rằng cuộc gặp với Hồ Chí Minh
là con đường tốt nhất nhằm kiếm được những đặc vụ mà ông cần. Khi Patti và Vương
Minh Phương gặp nhau lần thứ hai, Phương nói với Patti anh đã gửi thông điệp tới
Hồ Chí Minh và đã bố trí một cuộc gặp tại thị xã biên giới Tĩnh Tây.
Cuối tháng 4, Patti rời Côn Minh, kết hợp chuyến đi đến các đơn vị của OSS đóng
quân dọc theo biên giới Trung Quốc với chuyến thăm Tĩnh Tây. Sau khi làm các thủ
tục với một người trung gian là một đảng viên cộng sản Trung Quốc, Patti và Hồ Chí
Minh cuối cùng đã gặp nhau tại một hiệu ăn Tầu nhỏ bên đường vào ngày 27 tháng 4
năm 1945. Ngay từ đầu hai người đã có thiện cảm với nhau. Mặc dù từ những nền tảng
hoàn toàn khác nhau nhưng hai ông đều có chung nhiều đặc điểm: cả hai đều có, theo
đánh giá của nhiều người, một trí tuệ sắc bén, và cả hai đều biết làm chủ tình thế.
Patti vô tình nói ra những câu mà theo bản năng ông biết rõ sẽ thu hút sự chú ý
của Hồ Chí Minh: "Tôi rất hài lòng khi được gặp một người có nhiều bạn bè Mỹ tại
Côn Minh". Hồ Chí Minh kể vắn tắt một danh sách dài những mối bất bình đối với chủ
nghĩa thực dân Pháp và cho Patti xem một loạt ảnh các nạn nhân nạn đói năm 1945
vốn đã bị những hành động của cả Nhật và Pháp làm cho trầm trọng hơn. Tuy nhiên,
bắt tay vào công việc, ông đề xuất những gì phía ông có thể thực hiện cho người
Mỹ, nhưng bản thân ông không đề nghị gì trực tiếp vì có lẽ ông biết những đòi hỏi
không ngừng của cả Pháp và Trung Quốc đã khiến Mỹ khó chịu. Trong quá trình mô tả
tổ chức và công tác hiện nay của Việt Minh, ông kể cho Patti rằng AGAS và Việt Minh
hiện đang cùng cộng tác để tổ chức hoạt động bí mật trong vùng nội địa nhằm giúp
đỡ các phi công bị bắn rơi, nhưng ông coi đó là vấn đề khác.
Nhiệm vụ của AGAS mà ông ám chỉ rõ ràng là sứ mạng của GBT đã đưa Frank Tan và Mac
Shin tới Việt Bắc. Tuy nhiên, theo như báo cáo của Patti, ông không đả động gì tới
GBT, Tan hay mối quan hệ với GBT của ông và cả thông tín viên ở Côn Minh, Charles
Fenn. Dường như đây có vẻ là sự bỏ xót có tính toán của ông. Mỗi nhân viên OSS,
những người đã kể hoặc viết về những cuộc đấu trí giữa họ và Hồ Chí Minh, đều bình
luận rằng ông biết về bản thân họ nói riêng và người Mỹ nói chung nhiều hơn những
gì họ biết về ông hay Việt Minh. Nếu Hồ Chí Minh biết tình trạng đối đầu giữa OSS
và GBT/ Fenn thì rõ ràng tốt nhất là thay đổi lời khen đối với thông tin Tan gửi
cho AGAS (xét cho cùng thì cả Fenn và GBT đều làm việc với AGAS), bỏ qua mối quan
hệ giữa ông với Fenn "gây rối", và lôi kéo tân đại diện của OSS vào những gì Việt
Minh có thể làm cho ông ta.
Đối với Patti, khả năng sử dụng Việt Minh dường như đầy hứa hẹn. Ông kết luận, giống
như Tan và Fenn trước đây, Hồ Chí Minh có thể tin cậy được. "Mặc dù tính khách quan
cẩn trọng và nhận thức có mục đích của tôi không cho phép bản thân mình định vào
các lĩnh vực chính trị thuộc vấn đề Đông Dương", Patti nhớ lại, "nhưng sự chân thành,
hành động thực tế và tài hùng biện của Hồ Chí Minh đã gây cho tôi một ấn tượng sâu
sắc". Tại cuộc gặp đó và cả những cuộc gặp sau này, Patti đi đến một kết luận khiến
ông xử sự theo những cách nhìn lại có vẻ đáng ngờ vào cuối mùa hè năm 1945, nếu
không phải rõ ràng là thời gian đó. "Tôi biết", Patti viết, "mục đích cuối cùng
của ông (Hồ Chí Minh) là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước
Việt Nam tự do và tôi cảm thấy niềm khao khát đó không trái ngược với chính sách
của Mỹ". Ngược dòng thời gian, cuối tháng 4 năm 1945, Patti bị thúc giục phải thu
thập được thông tin từ Đông Dương: G-2 (chi nhánh tình báo quân sự của quân đội
Mỹ) muốn các hoạt động của OSS ở cả Hà Nội và Sài Gòn, tổng hành dinh mặt trận cần
tin tình báo về tình hình chuyển quân của các đơn vị chiến đấu Nhật và việc xây
dựng các căn cứ quân sự mới, còn cơ quan MO muốn có một chiến dịch tuyên truyền
mới. "Họ muốn mọi thứ và muốn ngay lập tức", Patti viết. "Từ một quan điểm thực
tế, Hồ Chí Minh và Việt Minh hình như là câu trả lời cho vấn đề trước mắt của tôi
trong việc thiết lập các hoạt động tại Đông Dương". Nếu kế hoạch của Patti thành
công, các nhân viên điện đài và các đặc vụ đã được huấn luyện của Việt Minh có thể
bố trí cho Dự án QUALL. Tại đây, việc lên kế hoạch những yêu cầu đối với Chiến dịch
CARBONADO khiến Patti quan tâm, nó đặt ra mức độ cao hơn về những tin tình báo chính
xác lấy từ Việt Nam và do đó cả về mối quan hệ của ông với Việt Minh. CARBONADO
là tên mật mã của một cuộc tấn công đã được lập kế hoạch của Đồng Minh tại miền
Nam Trung Quốc bao gồm "tấn công trên bộ, dọc theo tuyến Quế Lâm - Liễu Châu - Nam
Ninh để bảo vệ khu vực Quảng Châu - Hồng Công và thông ra các hải cảng chính tại
miền Nam Trung Quốc để tiếp nhận quân từ châu Âu và Philippines".
Trên thực tế, CARBONADO là một kế hoạch nghi binh nhằm kéo quân đội Nhật ra khỏi
những mục tiêu tấn công thực sự của Mỹ. Tất nhiên bí mật này được giới hạn trong
những chỉ huy cao cấp, và OSS được yêu cầu thu thập thông tin tình báo cho CARBONADO
với sự gấp rút như đổi với một chiến dịch thật. Quả thực, Stein Tonnesson tin rằng
QUALL "có thể đã đóng một vai trò quan trọng nếu như CARBONADO được thực hiện",
và với tư cách là các đặc vụ, "du kích Việt Minh đã có thể đem lại sự giúp đỡ quý
báu cho OSS bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho kế hoạch thâm nhập Bắc Kỳ của
quân Trung Quốc theo chiến dịch CARBONADO.
Khó khăn trong tiếp tế cho quân đội suốt chiến dịch CARBOLỈADO đòi hỏi trước tiên
phải giành được một cảng nhỏ tại Fort Bayard. Cảng biển này đủ để đưa vào bờ "những
đợt hàng tiếp tế O ạt - ít nhất một chuyến tàu Liberty mỗi ngày", nhưng một khi
nằm sâu trong lãnh thổ, những vấn đề tiếp tế mới sẽ có thể nảy sinh đo chất lượng
kém của phần lớn các tuyến đường trong khu vực. OSS chịu trách nhiệm quấy nhiễu
kẻ thù bằng cách thực hiện các hoạt động du kích, phá hoại và tuyên truyền. Các
đặc vụ của QOAIL sẽ cung cấp thông tin tình báo quyết định về bố trí và di chuyển
của quân đội Nhật ở Đông Dương để dễ dàng ngăn chặn chúng tăng viện cho các khu
vực đang bị tấn công. Để chuẩn bị cho hoạt động này, OSS đã được chỉ thị sử dụng
các đội du kích phá vỡ hành lang của Nhật giữa Hà Nội và lam minh.
Với một chiến dịch quá lớn như CARBONADO, nhu cầu thông tin tình báo chính xác tại
Đông Dương là yếu tố quyết định. Vào tháng 5, khi được nghe Heppker tóm tắt về chiến
dịch CARBONADO, Patti không có nhiều lựa chọn tìm kiếm đặc vụ trong khu vực: Patti
vừa quý trọng vừa tin tưởng Hồ Chí Minh và mối quan hệ của ông với người Pháp đang
dần xấu đi. Đến cuối năm 1945, nhiều người Pháp và một số người Mỹ sẽ buộc tội Archimedes
Patti chống Pháp. Nói chung, Patti bác bỏ lời buộc tội này và tuyên bố chắc chắn
tình hình sẽ không như thế khi ông đến Côn Minh vào tháng Tư. Ngay từ đầu nhiệm
kỳ tại Trung Quốc, Patti đã bị người Pháp đòi hỏi quá nhiều về tiếp tế và thông
tin. Patti thừa nhận là các đặc vụ Pháp có thể liên quan tới công tác thu thập thông
tin tình báo trong thuộc địa và ông có thể làm việc cùng họ. Vì tính cấp bách trong
thu thập tin tình báo về quân Nhật tại Việt Nam càng ngày càng tăng nên vấn đề làm
việc với Pháp được đặt lên hàng đầu. Patti đã tới gặp tướng Sabattier tại Swemao
và tận mắt chứng kiến "cảnh tượng khốn khổ" của đội quân Pháp bại trận. Patti và
các nhân viên nói được tiếng Pháp đi cùng đã dừng chân tại một thị trấn miền nam
Trung Quốc trong mười ngày để phỏng vấn những người tị nạn Pháp - các sĩ quan, sĩ
quan dự bị, các nhân viên cấp thấp, nhân viên dân sự và thương gia. Nhìn chung,
Patti không hề có ấn tượng về khả năng của họ trong việc tiến hành thành công các
chiến dịch cấp bách. Patti cảm thấy thương cho điều kiện thể chất của những con
người ốm yếu nhưng toàn bộ ấn tượng của ông về những người Pháp bị trục xuất là
ác cảm. Patti mô tả cuộc nói chuyện với những người Pháp đó là "một bức tranh không
hấp dẫn về thái độ lãnh đạm, đầy thù hận và quyền lợi ích kỷ". Qua nhiều cuộc tiếp
xúc hơn nữa với các nhân vật khác, cách nhìn của Patti về người Pháp tại Trung Quốc
thậm chí còn tệ hơn. Giống Milton Miles trước đây, các nỗ lực làm việc với quân
đội và cá nhân pháp chọn lọc của Patti liên tục gặp nhiều trở ngại bởi các cuộc
tranh cãi nội bộ giữa họ với nhau. Thậm chí ngay cả Sabattier và Alessandri, hai
viên tướng Pháp đã từng kết hợp với nhau tại Điện Biên Phủ trong cuộc tháo chạy
thành công thoát khỏi cuộc đảo chính của Nhật, cũng không thể vui vẻ với nhau. Alessandri
không chấp thuận kế hoạch của Sabattier trong việc đặt một phần đội quân của ông
ta dưới quyền chỉ huy của Wedemeyer, và ông ta tranh cãi về vai trò giả của Sabattier
trong hệ thống cấp bậc quân sự của Pháp tại Trung Quốc. Thêm vào đó, quan hệ của
Patti và chỉ huy mới của đến vị tình báo Pháp tại Côn Minh (M.5), thiếu tá Jean
Sainteny, nhanh chóng xấu đi.
Lúc này, một người tạo ra một viễn cảnh hoàn toàn khác về các sự kiện và các nhân
vật đang được nói đến xuất hiện: sĩ quan của OSS, trung uý Ren Défourneaux, được
chỉ định làm việc với người Pháp. Có lẽ do lai lịch mà Défourneaux ít bị người Pháp
chỉ trích hơn; ngoài ra, thực chất công việc của Défourneaux không đặt anh vào vị
trí đối phó với hệ thống cấp bậc của Pháp. Sinh ra và được nuôi dưỡng tại Pháp,
Défourneaux đi dân tới Mỹ vào năm 1939 khi mười tám tuổi. Tháng 12 năm 1942, Défourneaux
tình nguyện nhập ngũ và khả năng nói tiếng Pháp của anh thu hút sự chú ý của OSS.
Sau khi hoàn thành khoá huấn luyện, Défourneaux lên tàu tới châu Âu vào năm 1944.
Ở đó Défourneaux đã được tặng thưởng ngôi sao Bạc vì đã chiến đấu dũng cảm sau phòng
tuyến địch trên đất Pháp. Chẳng bao lâu sau chuyến trở về từ châu Âu, Défourneaux
lại tiếp tục lên tàu, lần này là tới châu Á. Sau khoá huấn luyện thêm tại Ấn Độ,
Défourneaux đến Côn Minh. Đến tháng năm, Défourneaux được giao giải quyết một loạt
công việc thường ngày và rõ ràng nhàm chán. Vì thế, nhiệm vụ phỏng vấn lính Pháp
trên biên giới Đông Dương đáng như là một sự thay đổi dễ chịu.
Défourneaux dễ dàng tiếp xúc với với những người trở về từ cõi chết như "một người
bạn Pháp" và nhanh chóng được họ tin cậy. Défourneaux và cộng sự của mình, Burley
Fuselier, một chuyên gia tình báo thuộc Không đoàn 14, lăng xăng trong những người
Pháp để nhận biết "thông tin tốt nhất". Sau đó họ hộ tống những người này tới tổng
hành dinh của Chennault để thẩm vấn kỹ hơn. Công việc của Défourneaux tiếp tục trong
vài tuần cho đến khi tin tức lan truyền. Défourneaux nhớ lại, "hai gã tọc mạch không
còn được họ tin tưởng nữa và tất cả cũng nên rõ ràng".
Défourneaux nhấn mạnh đến hoàn cảnh khó khăn của người Pháp. Anh kết luận: "Thực
chất vấn đề là những con người bất hạnh này đã phải đối phó với những điều tồi tệ
do các sự kiện trong vài tháng qua gây ra và không có nhiều lựa chọn".
Cuối tháng 5, một trong những dự án chung đầu tiên giữa OSS và Pháp bắt đầu. Liên
quan đến Dự án PAKHOI có trung uý Robert Ettinger (người đã gặp lực lượng của Sabattier
hồi tháng 3), trung uý James Jordan và một số đặc vụ của M.5. Mục đích kế hoạch
này là báo cáo về cách bố phòng của quân đội Nhật và các hoạt động của hải quân
giữa Fort Bayard và Hải Phòng. Một thoả thuận bổ sung do Sabattier và Wedemeyer
ký kết ngày 1 tháng 6 điều 100 lính Việt và 10 tới 12 sĩ quan người Âu về làm việc
dưới quyền chỉ huy của OSS. Những người này được chia làm hai đội, Đội Nai và Đội
Mèo, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của thiếu tá Allison Thomas và đại uý Mike Holland.
Họ sẽ được huấn luyện tại Tĩnh Tây cho nhiệm vụ phá hoại tại Đông Dương.
Cả Alessandri và Sainteny đều không đồng tình với thoả thuận giữa Sabattier và Wedemeyer,
họ phẫn nộ về việc thiếu sự chỉ huy và sáng suốt của Pháp trong các kế hoạch của
Đồng Minh. Sabattier không có thái độ hoài nghi tương tự.
Stein Tonnesson kết luận rằng Sabattier "có thể đúng" khi giữ vững lập trường rằng
tính nhỏ nhen thường được thể hiện bởi nhiều người trong ngành tình báo Pháp "đã
góp phần đẩy OSS vào tay Việt Minh". "Theo quan điểm của Sabattier", Tonnesson viết,
"không có gì nguy hiểm trong việc hợp nhất và làm cho các cơ quan tình báo Pháp
phụ thuộc vào cơ cấu chỉ huy của OSS". Quả thực, Sabattier tin rằng "người Mỹ
giống như trẻ con khi hoạt động tình báo, và sẽ rất dễ đoạt được ưu thế hoạt động
thầm lặng của OSS từ bên trong".
Sabattier có thể đã đánh giá thấp khả năng duy trì quyền kiểm soát của OSS, nhưng
giả thuyết của ông ta không bao giờ được kiểm tra. Mặc dù nhóm quân Pháp mà Sabattier
cam kết đã đến mà không gặp rắc rối gì, nhưng vấn đề nhanh chóng nảy sinh khi viên
sĩ quan cao cấp của họ yêu cầu OSS phải trả tiền và trang bị cho thuộc hạ. OSS không
có dự định trao các nguồn viện trợ của Mỹ để chỉnh đốn lại lính Pháp. Trên thực
tế, vào giữa tháng năm, trong khi trao đổi thư từ với Helliwell, đại tá John Whitaker,
chỉ huy SI tại Trung Quốc, tuyên bố rằng ông ta và thiếu tá Quentin Roosevelt đã
"làm sáng tỏ" với hai viên chỉ huy Pháp, những người đã báo cho sở chỉ huy của OSS
tại Trùng Khánh rằng "OSS chỉ quan tâm tới thông tin tình báo tại FIC, và rằng không
có viện trợ cho quân Pháp, ngoại trừ các loại vũ khí chúng ta cần để bảo vệ người
Mỹ hay các sứ mạng tình báo hỗn hợp". Thấy rằng những đòi hỏi của Pháp rõ ràng vượt
quá khả năng của mình, OSS đã từ chối. Lính Pháp đáp trả bằng một "cuộc đình công
ngồi". Cùng lúc đó, Sainteny bắt đầu đề nghị được báo cáo toàn bộ những kế hoạch
bí mật của Đồng Minh đối với khu vực và những mệnh được phổ biển cho các nhân viên
Mỹ. Để làm phức tạp thêm vấn đề, Sainteny và người Pháp ở cả Tĩnh Tây và Côn Minh
dường như nhận được mệnh lệnh từ các sở chỉ huy khác nhau. "Câu hỏi đối với chúng
tôi là", Patti nhớ lại, "chúng tôi sẽ làm việc với ai trong số những người Pháp?".
Patti mô tả tâm trạng người Mỹ là "cực kỳ điên tiết", nhưng thực tế thì sự tức giận
dường như còn cao hơn thế.
Thái độ ghê tởm mỗi lúc một tăng của Patti với người Pháp có thể là kết quả của
sự mệt mỏi và nỗi thất vọng về những nỗ lực bất thành trong việc kết hợp thu thập
tin tình báo. Có lẽ bài học lịch sử về vai trò của Pháp tại Đông Dương mà cả Vương
Minh Phương và Hồ Chí Minh đã bổ túc cho ông đã có ảnh hưởng đến thái độ của ông.
Chắc đó là kết quả của cả hai, vì Patti rõ ràng đã tỉnh ngộ với người Pháp và mỗi
lúc một trở nên thân thiết với ông (Hồ Chí Minh) bí ẩn. Trong những lời nhận xét
gây ấn tượng mạnh nhất về người Pháp, Patti viết:
Chúng tôi, những người Mỹ ở Thái Bình Dương và châu Á có một mục tiêu quan trọng
- đánh bại quân Nhật - cho dù chúng tôi có phải làm việc đó một mình đi chăng nữa
bởi biết rằng trong các Đồng Minh của chúng ta, có những kẻ sẽ sẵn sàng để cho người
khác chiến thắng còn họ chuẩn bị hưởng thành quả của chiến thắng… Đặc biệt là người
Pháp, với niềm khát khao sớm chiếm lại thuộc địa trước kia, họ đã giấu những tin
tình báo quân sự và chính tại quan trọng. Họ muốn chiếm đoạt cho mình vũ khí và
nguồn tiếp tế được dành cho các chiến dịch của Đồng Minh và bất cứ nơi đâu họ cũng
có thể gây trở ngại cho những nỗ lực hoạt động của Mỹ ở Dông Dương. Trong những
tháng cuối cùng của chiến tranh, và tiếp tục cho tới thời điểm hiện tại, một vài
người Pháp liên quan sâu nhất vào việc ngăn cản nỗ lực chiến đầu chống Nhật đã lớn
tiếng tuyên bố rằng bản thân họ bị ngưọc đãi bị lạm dụng, bị bỏ mặc và là nạn nhân
của "âm mưu" - khá phù hợp với chính sách có chủ tâm về sự ngay thẳng đạo đức bị
tổn thương của họ".
Sự đồng cảm của Patti đối với người Việt Nam và thái độ coi thường đối với người
Pháp tăng lên. Ông không biết mình đã phản ánh phần lớn tình cảm của hai người Mỹ
đầu tiên đã từng có mối giao thiệp rộng rãi với Hồ Chí Minh, Frank Tan và Charles
Fenn. Chẳng bao lâu sau sẽ có nhiều người Mỹ khác gia nhập hàng ngũ những người
khâm phục Hồ Chí Minh.
Cuối tháng năm, khi Patti nổi đoá với người Pháp, thì những báo cáo tình báo đầu
tiên của Hồ Chí Minh được gửi đến. Mặc dù như thông lệ kèm theo những tiểu luận
chính trị của Việt Minh, nhưng báo cáo của ông cũng cung cấp "những thông tin hữu
ích giúp xác định một số đơn vị của Sư đoàn 37 Nhật, địa điểm đóng quân của chúng
vài ngày trước đó và tên của một số sĩ quan cao cấp". Vài ngày sau báo cáo thứ hai
cung cấp "những thông tin chi tiết về việc Nhật xây dựng mới và nâng cấp những tuyến
phòng thủ do Pháp lập nên tại Cao Bằng và trên đường đi Hà Nội". Patti nhớ lại rằng
"lần đầu xác định được các đơn vị của Đạo quân 38 và đặc biệt là những thành phần
của Sư đoàn 22 của Nhật trên biên giới Cao Bằng đã làm tăng đáng kể sự quan tâm
đến đơn vị trinh sát của chúng tôi trên cấp độ Mặt trận".
Khi khả năng của OSS, thông qua Việt Minh, thu thập thông tin chiến lược về quân
Nhật tại Đông Dương tăng lên, thì rắc rối đang âm ỷ trong GBT. Mặc dù cả Frank Tan
lẫn Mac Shin cảm thấy mình được chào đón tại Việt Bắc và vẫn tiếp tục đào tạo đặc
vụ cũng như gửi báo cáo về, nhưng một loạt các sự kiện đã khiến Charles Fenn, lúc
đó ở lại văn phòng chính tại Côn Minh, mỗi lúc một thêm bối rối. Những sự kiện này
chỉ liên quan một cách gián tiếp, tuy nhiên kết hợp lại với nhau cuối cùng chúng
đã đẩy Fenn, người quan trọng nhất có liên hệ với Hồ Chí Minh và Việt Minh cho đến
lúc này, ra rìa. Những vấn đề của Fenn bắt đầu với AGAS. Các mối quan hệ của Fenn
và GBT với AGAS luôn luôn tích cực GBT cung cấp thông tin giá trị cho cơ quan này,
và AGAS cung cấp những hỗ trợ và tài chính có thể. Trên thực tế tháng 2 năm 1945,
khi khó khăn nảy sinh giữa OSS và GBT thì GBT chuyển các công tác của nó, bao gồm
cả của Fenn, sang AGAS với sự chấp thuận đầy mâu thuẫn của OSS. Tuy vậy chức năng
chính thức của Fenn vẫn là liên lạc của OSS cho AGAS và tất nhiên cả cho GBT.
Công việc thường ngày ở Côn Minh trở nên nhàm chán đối với một người mạnh mẽ như
Fenn. Với một niềm khát khao cháy bỏng được thoát khỏi bàn giấy, Fenn dự định cùng
Tan và Shin đến đại bản doanh của Việt Minh, như đã thoả thuận trước đó giữa ông
với Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi Fenn đề xuất với cấp trên của AGAS, thiếu tá A.R.Wichtrich,
là mình sẽ nhảy dù "khẩn cấp" thì đề nghị của ông bị từ chối. Theo lời Fenn, Wichtrich
giải thích rằng Fenn "quá cần thiết" tại tổng hành dinh và "không cần cho một nhiệm
vụ như vậy". Fenn cũng biết rằng một đặc vụ khác của AGAS, trung uý Dan Phelan,
đã được chỉ định làm nhiệm vụ này. Phelan không chỉ là người đến Đông Dương, Wichtrich
thông báo, mà anh ta sẽ "ở tại doanh trại của ngài (GBT) trong vòng một tuần" để
"nắm bắt tất cả thông tin tình báo chung về Đông Dương". Tuy nhiên, Wichtrich cam
đoan với Fenn, Phelan "đã khá am tường vì đã nghiên cứu tình hình khá kỹ".
Vì vậy AGAS đã làm Fenn thất vọng và bực mình đến ba lần về vụ này:
1. Fenn bị giam hãm vào công việc bàn giấy thay cho nhiệm vụ thú vị hơn nhiều là
nhảy dù xuống làm việc cùng Hồ Chí Minh;
2. Fenn bị giao trách nhiệm với công việc mà ông ghét cay ghét đắng, những kẻ ngoài
cuộc liên tục rình mò quanh trụ sở và hoạt động của GBT; và
3. Fenn không thích Dan Phelan. Fenn đã phản ứng với "việc nghiên cứu khá kỹ lưỡng"
của Phelan như sau:
Nghiên cứu là một chuyện, nhưng thái độ lại là chuyện khác. Phelan có quan điểm
chính trị cực hữu đến mức anh ta thậm chí đã thú nhận là thích làm liên lạc cho
Pháp còn hơn cho Việt Minh. Hồ Chí Minh sẽ nghĩ gì về việc có một vị sĩ quan phản
động như vậy được áp đặt cho mình. Một hạn chế khác trong tính cách của Phelan là
căn bệnh trưởng giả học làm sang vốn có trong nhiều nhân viên của cả OSS lẫn AGAS - những người thường được tuyển chọn dựa vào nền tảng gia đình, tài sản, sự giáo
dục hay vị trí xã hội.
Fenn vừa đúng vừa sai trong phân tích trường hợp của Phelan. Phelan xuất thân từ
tầng lớp xã hội thượng lưu; trước Chiến tranh thế giới lần thứ II, anh ta là một
nhân viên Ngân hàng Chase Manhattan, sống và làm việc trong giàu sang tại New York.
Tuy nhiên, không có bằng chứng cho thấy Phelan được lựa chọn đưa vào mối quan hệ
riêng. Phelan "đã có mặt hầu như ở mọi nơi trên thế giới khi chiến tranh nổ ra.
Anh ta đã chứng kiến những chiến sĩ du kích Italia bị Mussolini treo cổ đã đổ bộ
lên miền Bắc nước Pháp, và cũng tham gia vào cuộc chiến lớn hơn ở Philippines",
Tan nhớ lại. Thậm chí Fenn còn mô tả thêm tính cách của Phelan là "nhanh nhẹn, thông
minh, hăm hở, khá hài hước và sẵn sàng học hỏi".
Fenn cho rằng những tính cách đó tạo cho Phelan "điểm trên trung bình" toàn diện.
Mặc dù Phelan miễn cưỡng đàm nhận nhiệm vụ đến Bắc Kỳ và bắt đầu phần việc của mình
tại doanh trại GBT bằng "càu nhàu với chúng tôi (Fenn và Bernard) rằng Hồ Chí Minh
là cộng sản" nhưng anh ta đã chuẩn bị cho nhiệm vụ này như đã được phân công.
Lòng trung thành của Fenn lại lần nữa được đem ra thử thách khi Phạm Văn Đồng đến
gặp ông tại Côn Minh để hỏi về chính sách của OSS. Ông phàn nàn với Fenn rằng nghe
tin OSS đang gửi tới Đông Dương những nhân viên cộng tác chặt chẽ với Pháp và "chống
người An Nam hơn là chống Nhật". Mặc dù điều này là chắc chắn, ít nhất là với trung
uý Ettinger, nhưng Fenn không tiếp cận được thông tin này. Tuy nhiên, khi Phạm Văn
Đồng hỏi về "chính sách thực sự" của OSS, Fenn đã trả lời rằng "nếu các hoạt động
do Tan, Bernard hoặc chính tôi sắp xếp, Hồ Chí Minh có thể tin cậy vào lòng trung
thành của họ đối với ông. Nhưng chúng tôi không thể chịu trách nhiệm đối với những
gì OSS có thể làm. AGAS đáng tin cậy hơn; nhưng về cơ bản họ thậm chí là những kẻ
chống Cộng". Fenn cũng thông báo cho Phạm Văn Đồng là trung uý Phelan, chứ không
phải ông, sẽ là người Mỹ đến đại bản doanh của Hồ Chí Minh. Phelan "không phải là
sự lựa chọn của tôi", Fenn nói rõ, "và tôi muốn cảnh báo Hồ Chí Minh là anh ta có
thiện cảm với người Pháp. Mặt khác, anh ta về cơ bản là kẻ thực dụng và tôi cảm
thấy anh ta có thể thích nghi khi đã học được hoàn cảnh thực tế". Phạm Văn Đồng
đảm bảo với Fenn Việt Minh sẽ hoan nghênh Phelan và tỏ ý tiếc rằng Fenn không được
cùng Tan đến Bắc Kỳ. Rõ ràng sự thất vọng của ông là chân thực.
Việt Minh chắc chắn muốn có một người Mỹ ủng hộ Hồ Chí Minh hơn là một người vừa
tự xưng là chống cộng vừa miễn cưỡng đến với họ.
Giữa tháng 6, Phelan nhảy dù xuống khu căn cứ của Việt Minh nơi anh ta sẽ ở lại
trong vài tháng. Sau khi hạ cánh Phelan được Tan đón rồi đưa tới Tân Trào giới thiệu
với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và các chiến sĩ Việt Minh quanh căn cứ. Phelan khá
ăn ý với Tan và những người khác.
Không lâu sau khi Phelan đến, Tan đánh điện về sở chỉ huy:
"Phelan có vẻ là một anh chàng khá". Trong suốt thời gian ở cùng Việt Minh, Phelan
say mê những cuộc nói chuyện dài với Hồ Chí Minh. Theo những tài liệu được dịch
và trao cho Tan, Hồ Chí Minh và Việt Minh rất quan tâm tới Phelan, mô tả anh ta
"lanh lợi như quỷ, nhưng lại tốt như Đức Phật". một thời gian sau, Phelan, cũng
như Fenn, Tan và Patti bắt đầu nhìn Việt Minh bằng ánh mắt mới. Một tuần sau khi
đến căn cứ của Việt Minh, Phelan gửi một bức điện với giọng điệu rõ ràng đã khác
về đại bản doanh GBT: "Các ngài đang hiểu lầm quan điểm của Việt Minh. Họ không
chống Pháp mà chỉ là những người yêu nước, những người xứng đáng được tin tưởng
và ủng hộ hoàn toàn". Mặc dù Fenn thấy vui là sự hoà hợp chiếm ưu thế đối với những
người Mỹ làm việc trực tiếp cùng Hồ Chí Minh tại Việt Nam và hài lòng với sự thay
đổi tình cảm của Phelan, nhưng ông vẫn thất vọng là mình bị bỏ lại đằng sau ở Côn
Minh, nơi công việc bàn giấy ngày càng trở nên khó chịu. Hai nhân tố góp vào những
khó khăn của Fenn và cuộc sống đầy ải bên lề là những rắc rối liên tục giữa ông
với OSS và sự trở lại của Laurie Gordon.. Mặc dù nhiệm vụ làm việc với GBT của Fenn
nhằm mục đích cải thiện mối quan hệ căng thẳng giữa OSS và GBT và đưa nhóm này về
dưới quyền kiểm soát của OSS, nhưng mối quan hệ giữa hai nhóm này không hề được
cải thiện. Quả thực, OSS đã phải phái các sĩ quan tới tổng hành dinh GBT để "thẩm
tra toàn diện" bằng việc xem xét những hồ sơ của GBT. Một trong số những sĩ quan
như thế là người được chỉ định chỉ huy Đội Nai, thiếu tá Allison Thomas. Căn cứ
vào những thừa nhận của chính Fenn sau chiến tranh thì có vẻ như OSS có lý do chính
đáng để nghi ngờ cả Fenn lẫn GBT.
Fenn thú nhận là trong khi ông và Thomas "đang uống một tách cà phê khai vị" thì
thư ký của Gordon (và là thư ký của Fenn trong thời gian Gordon vắng mặt), Helen
Tong, "nhanh chóng loại bỏ mọi thứ trong hồ sơ mà họ không muốn Thomas thấy". Như
mọi khi, Fenn và GBT kiên quyết giữ những vật có giá trị nhất, ví dụ như danh sách
điệp viên, cho chính họ. Vài ngày sau chuyến thăm vào cuối tháng năm của Thomas,
một người đưa thư mang đến bức thư của Helliwell trong đó viết rằng OSS sẽ cắt đứt
với chúng ta (GBT) trừ phi chúng ta đáp ứng yêu cầu của họ: GBT có ba ngày để suy
nghĩ". Nếu chúng tôi để lại mọi thứ trong các hồ sơ", Fenn nói thêm, "chúng tôi
có thể đã không có thời gian dù chỉ để nghe xưng tội!".
OSS đã mất hết kiên nhẫn với GBT. Ngày 22 tháng 5, Helliwell trình lên Heppner bản
phân tích của mình về GBT. Ông thấy thất vọng về GBT và rõ ràng nghi ngờ Fenn:
Tôi tin là vấn đề về số phận cuối cùng của GBT đã tới lúc cần phái có một hành
động dứt khoát. Tôi đã cố gắng trong nhiều cuộc đối thoại với cả Fenn và Bernard
nhằm buộc họ phải có cam kết dứt khoát liệu họ có sẵn sàng chịu sự chỉ huy của OSS
hay không cũng như khi nào họ quyết định dứt khoát sẽ theo cách này hay cách khác…
Theo thú nhận của Fenn, họ vẫn đang cung cấp thông tin cho người Trung Quốc. Fenn
tuyên bố rằng hiện giờ họ không cung cấp thông tin cho người Pháp và người Anh như
đã làm trong quá khứ, mặc dù theo ý kiến tôi, lời tuyên bố này có thể công khai
chất vấn. Theo quan điểm của chi nhánh này thì tình hình liên quan tới các hoạt
động động tình báo tại Đông Dương hiện đã phát triển tới mức chúng ta có thể nắm
được lợi thế chắc chắn hơn so với GBT.
Helliwell chủ yếu bị thúc đẩy bởi sự tìm kiếm tin tức tình báo tốt hơn hay bởi mong
muốn loại bỏ một tổ chức cạnh tranh, câu hỏi đó còn để ngỏ. Bất luận thế nào, khoảng
cuối cuối tháng Năm, vị thế của OSS liên quan tới Đông Dương cũng đã có nền tảng
vững chắc: Patti đã có một cuộc tiếp xúc đáng tin cậy và thuận lợi với Hồ Chí Minh,
cả Đội Nai và Đội Mèo cũng đang chuẩn bị cho sứ mạng của họ. Vì thế những đề xuất
của Helliwell liên quan đến GBT thích hợp hơn so với một tháng trước đó. Ông đề
nghị cho GBT thời hạn cuối cùng vào ngày 1 tháng 6 để quyết định xem lòng trung
thành của họ sẽ đặt vào đâu. Nếu đồng ý đặt "riêng" mình dưới sự chỉ huy của OSS,
họ sẽ được yêu cầu chỉ sử dụng mật mã và các phương tiện thông tin liên lạc của
OSS, phát tin tình báo và thông tin tác chiến "cho OSS và chỉ mình OSS để được phân
phối khi OSS thấy thích hợp, và OSS sẽ đảm đương toàn bộ "quyền điều khiển, giám
sát và phê chuẩn tất cả các hoạt động của GBT". Nếu GBT từ chối, theo ý kiến của
Helliwell, "tất cả các trang thiết bị và nhân viên của OSS sẽ ngay lập tức được
rút khỏi GBT và hướng sang các kênh thông tin thuận lợi hơn, và… tiếp tế và ủng
hộ cho GBT dưới bất kỳ hình thức nào cũng sẽ bị huỷ bỏ".
Ngày 28 tháng 5, Helliwell lại một lần nữa cảnh báo GBT:
"Cơ quan này đã nhận được chỉ thị từ cấp thẩm quyền cao hơn rằng lệnh trưng dụng
về quân nhu và đảm bảo tài chính cho GBT có thể được phê chuẩn… Rất tiếc là bước
đi này hiện đã trở thành cần thiết, nhưng có cảm giác là thời gian cần thiết để
các ngài đi đến quyết định liệu có thể chấp nhận từ bỏ vị thế (thu hút OSS) của
mình hay không đã trôi qua".
Căn cứ vào sự coi trọng khả năng hoạt động độc lập của tất cả các thành viên GBT
thì việc họ từ chối trao quyền kiểm soát mạng lưới của mình cho OSS không có gì
đáng ngạc nhiên đối với Helliwell cũng như bất kỳ ai ở tổng hành dinh OSS.
Phản ứng của OSS trước lời từ chối chắc chắn cũng không làm cho Fenn ngạc nhiên,
mặc dù điều đó hẳn khiến ông phát cáu. Fenn viết: "Sau tối hậu thư của Helliwell,
chúng tôi không nhận được thêm tài chính hoặc bất kỳ trợ cấp nào nữa từ OSS. Tiền
bạc chúng tôi có chỉ đủ cho chúng tôi trong hơn hai tuần nữa; và chúng tôi có tới
bảy nhóm đang hoạt động ngoài chiến trường và trung bình mỗi tuần vẫn gửi cho OSS
chín trang tin tình báo - có lẽ nhiều bằng thu thập từ tất cả những nguồn tin khác".
Tóm lại, theo đánh giá của Fenn, Helliwell và OSS quan tâm tới việc bảo đảm mảnh
đất quan liêu của họ hơn là xử lý thông tin tình báo.
Tuy nhiên, việc mất đi sự ủng hộ của OSS chỉ là một phần trong những rắc rối của
Fenn. Cuối cùng vào giữa tháng 5, Gordon từ Washington đã trở về. Trước tiên ông
tới Trùng Khánh, ở đó đối mặt với tối hậu thư của OSS, ông đã quyết định từ chối
lời đề nghị vì biết rằng ông vẫn có thể làm việc với AGAS và Không đoàn 14. Sau
đó Gordon quay trở về tổng hành dinh của GBT tại Côn Minh. Ông không hài lòng với
những gì đã thấy. Fenn viết về cuộc gặp gỡ như sau:
Hiện tôi đang chủ yếu điều hành căn cứ. Hoạt động của Hồ Chí Minh và bảy nhóm
của chúng tôi tại miền Nam Trung Quốc đều do tôi tổ chức. Vì vậy, sau khi Gordon
nắm bắt được tất cả những việc chúng tôi đã làm mà đa phần ông phản đối, ông nhận
thấy mình không có gì để làm nữa; và ông không thể chịu được cảnh ăn không ngồi
rồi. Vì thế tâm trạng thất vọng chắc chắn sẽ gây ra sự bùng nổ. "Charles, hãy nhìn
vấn đề theo cách này! Tôi đã đưa anh vào nhóm và làm cho anh ít hay nhiều trở thành
một cộng sự. Sau đó tôi đi để bàn thẳng mọi chuyện với OSS và khi quay trở lại tôi
nhận thấy mọi thứ rối tung! Anh đã liên kết chúng ta với một nhóm người An Nam mà
mối quan tâm thực sự của họ là hất cẳng Pháp, những người bạn của tôi đến ngày nào
đó họ sẽ giết vài người bạn ấy và anh chính là người tôi sẽ phái cảm ơn vì chuyện
đó".
Căn cứ vào hoàn cảnh, Fenn đã bảo vệ hành động của mình. Ông đáp lại rằng sau cuộc
đảo chính hồi tháng 3 của Nhật, ông có quá ít lựa chọn đối với Việt Nam. Tiện thể
ông trút một ít trách nhiệm lên OSS. Fenn nói với Gordon: "Ngài là một đặc vụ tự
do, vì vậy ngài có thể nghĩ đến Đông Dương sau chiến tranh để có hành động phù hợp.
Dù nhiều hay ít, tôi cần phải làm những gì được mách bảo. Vì đó chính là con đường
tôi buộc phải theo". Mặc dù các ý kiến của Fenn quả thực bị hạn chế sau Chiến dịch
MEIGO và mặc dù ông có thể hợp lý hoá việc tiếp cận Hồ Chí Minh nhưng những lời
phàn nàn của Gordon về hành động của Fenn là hợp lý. Gordon là người thành lập và
chỉ huy được thừa nhận của GBT. Ngay cả Bernard, Tan, đội ngũ nhân viên đại bản
doanh, và các quan chức đối ngoại đều coi ông như vậy. Ông đã tiếp nhận Fenn vào
nhóm và cho Fenn phạm vi quyền lực đáng kể, nhưng ông cũng phản đối thẳng thừng
việc Fenn sử dụng các đặc vụ Việt Nam. Mặc dù Bernard về mặt pháp lý là nhân vật
số hai của nhóm, nhưng quá trình đào tạo và nhân cách vượt trội của Fenn dẫn đến
kết quả là ông nắm quyền chỉ huy GBT trong suốt thời gian Gordon vắng mặt. Bây giờ
hai người đối mặt với nhau, hai tính cách mạnh mẽ chống lại nhau vì lòng trung thành
và quyền kiểm soát. Dựa vào bản chất tình thế, Gordon có vé chiếm ưu thế. Gordon
ngay lập tức điện cho Tan yêu cầu ông trở về Côn Minh. Mặc dù Fenn kháng nghị nhưng
Gordon thẳng thừng tuyên bố: "Tôi cảm thấy có trách nhiệm quan tâm tới anh ta. Tan
sẽ bị bắn nếu anh ta ở nơi nguy hiểm đó. Ngoài ra, khi làm việc với những người
An Nam chống Pháp, anh ta sẽ làm hỏng tiền đồ của mình trong Hãng Texaco".
Vin vào lý do ở quá xa, Tan có thể cưỡng lại lệnh triệu tập của Gordon. Tuy nhiên,
Fenn gặp bất lợi vì ở gần, và những cuộc tranh cãi giữa hai người lạ tiếp tục với
Bernard và đội ngũ nhân viên đứng giữa. Gordon kiên quyết cho rằng làm việc với
Việt Minh là một sai lầm nghiêm trọng và phẫn nộ trước một thực tế nhãn tiền mất
quyền kiểm soát. Tình hình không được cải thiện, và chẳng mấy chốc Gordon lại cũng
va chạm với Wichtrich về quyền chỉ huy AGAS. Có lẽ Wichtrich đã tìm ra giải pháp
duy nhất đối với tình hình này.
Theo hồi ức của Fenn về bữa tối với cả Gordon và Wichtrich, Wichtrich đã khuyên
Gordon:
Wedemeyer khăng khăng rằng tất cả các hoạt động diễn ra tại mặt trận của ông
ta đều nằm dưới quyền chỉ huy của ông ta, tức là quyền chỉ huy quân sự đối với tất
cả các đơn vị. Ngài được đề nghị thăng cấp nhưng lại từ chối vì lý do không muốn
tổ chức của ngài bị can thiệp từ bên ngoài. Ngài cũng từ chối sử dụng những người
của chúng tôi như Hồ Chí Minh vì ngài nghĩ rằng ông ấy chống Pháp - cũng có thể
ông ấy là người như vậy. Nhưng Wedemeyer lại tán thành việc ngài sử dụng Hồ Chí
Minh. Và tôi cũng vậy… Nếu ngài không điều hành công việc dưới sự kiểm soát toàn
diện của chúng ta thì còn nói gì đến cương vị cố vấn dân sự và điều hành các hoạt
động không liên quan tới người Việt?
Giải pháp này phù hợp với tất cả các bên. AGAS đặt GBT dưới quyền chỉ huy của nó,
Fenn vẫn là liên lạc của OSS cho AGAS và làm việc với GBT, và Gordon vẫn giữ được
tiếng nói mạnh mẽ trong các lĩnh vực của GBT - những lĩnh vực ông không cần chấp
thuận hoạt động với người Việt Nam hay gánh lấy gánh nặng tài chính khi không được
OSS tài trợ.
Với thoả thuận mới này, Gordon và Fenn sớm giải quyết những bất đồng của họ. Gordon
bắt đầu ngập dầu vào những kể hoạch gài đặc vụ Pháp dọc theo miền duyên hải Đông
Dương bằng tầu ngầm và kết thúc bằng những công việc hàng ngày của mạng lưới. Ngay
sau khi Gordon thay đổi vị thế thành cố vấn dân sự, Bernard đã từ chức. Mặc dù ông
thích và đã làm việc ăn ý cùng Fenn và AGAS nhưng lòng trung thành của ông đã dành
cho GBT. Gordon, ít hay nhiều, đã thoát khỏi cảnh ngộ và Tan vẫn làm việc tại Việt
Nam, chỉ còn lại một mình Bernard mệt mỏi rã rời. Hơn 3 năm không về thăm gia đình
và phải đóng vai trung gian trong những cuộc tranh cãi giữa Fenn và Gordon đã khiến
Bernard suy sụp. Sự ra đi của Bernard và những thay đổi do Gordon gây ra về căn
bản cũng làm thay đổi vai trò của Fenn. Với sự ra đi của Bernard, Fenn còn lại quá
ít người có cùng chí hướng để cùng chung lưng đẩu cật. Thành công của Fenn cho đến
thời điểm này phần lớn là nhờ những người có khả năng cùng làm việc với ông, đặc
biệt là Bernard. Bây giờ Fenn không còn là người chủ thực sự trong lãnh địa GBT
nữa. Không còn vị trí này và việc Phelan chiếm chỗ tại căn cứ Việt Minh, Fenn trở
thành chỉ một trong số vô vàn điệp viên của OSS.
Lúc nào cũng là người thực tế, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục viết thư cho Fenn. Tuy nhiên,
ông chủ yếu tập trung vào những người ông đã tiếp xúc trực tiếp tại Đông Dương.
Những người lính trên chiến trường. Mặc dù ban đầu Tan và Phelan là những người
Mỹ duy nhất sát cánh cùng Việt Minh, nhưng sẽ có thay đổi đáng kể vào mùa hè năm
1945 bởi sự có mặt của Đội Nai. Ngày 16 tháng 5, Allison Thomas nhận được "Chỉ thị"
bắt đầu hoạt động với tư cách là Đội SO số 13, mật danh là "Nai". Nhiệm vụ hàng
đầu của Thomas là ngăn chặn các tuyến liên lạc của Nhật, đặc biệt là đường sắt và
hệ thống đường bộ của thực dân Pháp trong khu vực Hà Nội - Nam Ninh. Nhiệm vụ thứ
yếu là "hoạt động với du kích quân" và "báo hiệu mục tiêu cho lực lượng không quân".
Ngoài ra, Thomas còn phải cung cấp những báo cáo cơ bản về thời tiết cho những đợt
thả dù và hoạt động của không quân. Thiếu tá Geral W. Davis đóng tại Bách Sắc (một
thành phố của Quảng Tây, Trung Quốc) được chỉ định là người liên lạc đầu tiên cho
Đội Nai. Ban đầu cả hai Đội Nai và Mèo dự định huấn luyện binh sĩ người Việt và
các sĩ quan châu Âu theo thoả thuận giữa Sabattier và Wedemeyer, mặc dù Patti cũng
đang cân nhắc gửi một biệt đội OSS tới khu vực Việt Minh kiểm soát để huấn luyện
cho các cán bộ của Hồ Chí Minh. Ngày 27 tháng 5, thiếu tá Wampler gửi điện cho Davis
trình bày rõ hơn về công tác của Thomas. Wampler quyết định không điều Thomas hay
Holland (chỉ huy Đội Mèo) vào Đông Dương thuộc Pháp nữa mà giữ họ làm việc riêng
với các binh sĩ người Việt của Sabattier. Vẫn hy vọng về khả năng hợp tác với Pháp,
tổng hành dinh mặt trận đã chấp thuận sử dụng một trăm binh sĩ "An Nam" và mười
sĩ quan Pháp cho công tác SO tại Đông Dương. Thomas và Holland mỗi người có trách
nhiệm huấn luyện năm mươi binh sĩ.
Wampler và Davis hoàn toàn tin tưởng vào khả năng làm việc với người Pháp của Thomas.
Là một thanh niên gốc Michigan ngoài hai mươi tuổi, Thomas đăng lính năm 1941. Sau
khi được huấn luyện tại căn cứ quân sự Fort Benning, tiểu bang Georgia, anh được
tuyển vào OSS. Thomas đã được vinh dự phục vụ tại mặt trận châu Âu, và năm 1944
tướng Dwight D. Eisenhower đã tặng anh bằng khen vì thành tích trong công tác phản
gián tại nước Pháp bị chiếm đóng. Nội dung tuyên dương công trạng của Thomas như
sau:
Là một sĩ quan phản gián thuộc Lực lượng Đặc biệt, bộ phận G-3, quân đoàn 3 Mỹ,
từ ngày 1 tháng 8 năm 1944 đến ngày 1 tháng 10 năm 1944, Thiếu tá Thomas, nhơ nỗ
lực và kiến thức điêu luyện đã phát hiện ra ra những điệp viên chìm và các nhóm
kháng chiến bí mật, xác đinh rõ liệu các nhân viên mật vụ đã bị kẻ địch phát hiện
hay chưa. Thành tích của những nỗ lực của anh đã mở ra khả năng sử dụng lực lượng
Pháp hỗ trợ trực tiếp các chiến dịch của quân đoàn 3 Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ.
Mùa xuân năm 1945, OSS điều Thomas tới Trung Quốc. Ở đó anh nhận thấy rằng thành
công với kháng chiến Pháp tại chính quốc không nhất thiết dẫn đến thành công tương
tự của người Pháp tại Đông Dương. Các kênh liên lạc khác nhau trong mớ bòng bong
những cơ quan và sở chỉ huy của người Pháp tại Trung Quốc cùng với tình trạng lúng
túng do không phải một mà là hai thất bại thảm hại trước Nhật Bản (cuộc xâm lược
đầu tiên năm 1940 và Chiến dịch MEIGO năm 1945) đã tạo ra một nhóm binh lính dễ
bị kích động và dễ bị tổn thương quyết tâm quay trở lại thuộc địa cùng với sự phô
trương lực lượng. Tuy nhiên, tháng Năm Thomas đã tới Bách Sắc để gặp các thành viên
Mỹ trong đội của mình và bắt đầu huấn luyện cho các nhân viên Pháp, về mặt lý thuyết,
sẽ tham gia vào công tác SO của Đội Nai.
Cấp phó của Thomas là trung uý Ren Défourneaux. Défourneaux tiếp cận với nhiệm vụ
sắp diễn ra của Đội Nai với một tâm trạng vừa phấn khích vừa sợ hãi. Défourneaux
sốt sắng đoán trước những gì được mô tả với anh như là một "nhiệm vụ rất quan trọng"
nhưng anh cảm thấy đôi chút lo lắng khi làm việc cùng chỉ huy của đội. Những chuyện
ngồi lê đôi mách tại đây đã vẽ nên một bức tranh có phần tâng bốc về Thomas và Défourneaux
thấy mình đang tự hỏi sẽ tham gia vào "đội nào". Trong lúc Thomas đi trước từ Côn
Minh thì Défourneaux và chỉ huy Đội Mèo, đại uý Holland, bắt đầu xuất phát bằng
đường bộ cùng các trang thiết bị. Trên đường hành quân, những thành viên khác của
Đội Nai nhập cùng với họ. Ngoài Thomas và Défourneaux, Đội Nai gồm có binh nhất
Henry Prunier, thông dịch viên thông thạo tiếng Pháp và chút ít tiếng Việt; trung
sĩ Lan Squires, nhiếp ảnh gia của đội; binh nhất Paul Hoagland, lính cứu thương;
trung sĩ William Zielski, nhân viên điện đài; và trung sĩ Lawrence Vogt, chuyên
viên vũ khí. Đội Mèo còn ít hơn, chỉ có Holland, trung sĩ John Stoyka và John Burrowes.
Trong khi Đội Nai chậm chạp cuốc bộ về phía biên giới Đông Dương thì những cuộc
đàm phán với tàn quân Pháp tại Côn Minh vẫn diễn ra ì ạch và cuộc đình công ngồi
vẫn chưa chấm dứt. Patti ngày càng nản với cảnh ăn không ngồi rồi. ông đề nghị Davis,
chỉ huy chung của Đội Nai và Mèo, khuyên Thomas và Holland cân nhắc kế hoạch sử
dụng quân Pháp cho những sứ mạng của họ và nghĩ tới những chọn lựa khác. Mặc dù
vẫn tham gia đàm phán với tàn quân Pháp nhưng Patti không dành năng lực làm việc
của mình chỉ cho những yêu cầu của họ. Kể từ cuộc gặp Hồ Chí Minh hồi cuối tháng
Tư, Patti vẫn giữ liên lạc với các đặc vụ của Việt Minh tại Côn Minh, Bách Sắc và
Tĩnh Tây. Qua những người này ông biết được rất nhiều về "những thành tích chói
lọi của Việt Minh" và "sự uyên bác" của Hồ Chí Minh. "Khoảng giữa tháng Sáu", Patti
nhớ lại, "Tôi đã mở rộng phần nào mối quan hệ với các thành viên chọn lọc trong
cộng đồng người Việt tại Côn Minh". Patti báo cáo với cấp trên của ông trong OSS,
tổng hành dinh mặt trận và sứ quán Mỹ về tổ chức của Việt Minh và những nỗ lực chống
Nhật của họ. Mặc dù cả tổng hành dinh mặt trận và đại sứ quán đều không hài lòng
về việc Patti cộng tác với các đặc vụ Đông Dương, điều khiến người Pháp hết sức
tức giận, nhưng OSS cũng không thể phớt lờ tình hình thực tế. Nhận ra khuynh hướng
về bằng chứng xác thực của người Mỹ, Patti đã trình lên Heppner một bộ hồ sơ về
những thành tích của Việt Minh kể từ cuộc đảo chính của Nhật. Patti cảm thấy tự
tin trong việc đưa ra các chứng cứ của mình - cái mà ông mô tả là một "bàn thắng
đáng kể":
"Việt Minh đã đặt sáu tỉnh ở phía bắc Bắc Kỳ dưới sự quản lý quân sự và hành
chính của mình, đã thành lập Giải phóng quân cùng các đơn vị du kích và tự vệ, một
tổ chức tuyên truyền hiệu quả với hạn chế về báo chí và truyền thanh, một chương
trình chính trị xã hội và quân sự, và đấy là thành phán quan trọng nhất, được ủng
hộ rộng rãi nhất từ nhân dân Việt Nam".
Heppner quyết định chuyển các tài liệu của Patti trực tiếp cho tướng Wedemeyer và
Gross, hoàn toàn bỏ qua sứ quán Mỹ. Từ Trùng Khánh, thông tin được chuyển thẳng
cho Donovan ở Washington. "Sau đó", Patti bốc đồng nói, "các hoạt động và quan hệ
của tôi với người Việt Nam không còn bị nghi ngờ trong thời gian tôi phục vụ tại
Mặt trận Trung Quốc.
Thượng tuần tháng 6, Hồ Chí Minh thông báo cho Patti rằng hiện ông có khoảng 1000
chiến sĩ du kích "được huấn luyện tốt" sẵn sàng để Patti sử dụng cho "bất cứ kế
hoạch nào" để chống Nhật. Patti không chấp nhận ngay đề nghị đó vì trong hai tuần
đầu tháng 6, Đội Nai dường như đang đạt được tiến bộ với người Pháp. Như một phần
của nhiệm vụ, 25 lính Pháp chuẩn bị lên đường cùng Thomas với tư cách là nhóm tiên
phong. Mới thoát khỏi sự truy đuổi của Nhật, những người lính này ăn mặc rách rưới
và trang bị nghèo nàn. Thomas quyết định cấp cho họ thêm quân phục, giầy, và trang
thiết bị mà anh có thể tìm được. Ngoài ra, anh yêu cầu họ cạo những bộ râu đã mọc
rậm rì trong cuộc dào thoát khỏi Đông Dương để họ có thể "được chấp nhận như những
người Mỹ giúp đỡ nhân dân địa phương". Défourneaux nhớ là anh đã đổi trang bị của
binh lính Pháp cho FMM ở TĩnhTây trong bóng tối bao phủ vì "không muốn người Trung
Quốc biết rằng chúng tôi trang bị cho lính Pháp". Trong lúc đó, Thomas đề nghị Trung
Quốc cho phép họ thành lập một khu vực huấn luyện. Cuộc tìm kiếm nơi tập trung binh
lính và quân trang gần biên giới đã làm nản lòng Défourneaux và những người Mỹ khác.
Họ cuốc bộ từ.nơi này đến nơi khác, thường là trong mưa, dường như không có kế hoạch
và thường không có mặt thiếu tá Thomas.
Khoảng giữa tháng tình hình thậm chí còn ít ý nghĩa hơn đối với binh lính. Ngày
17 tháng 6 Défourneaux nhận được một bức điện vô tuyến, anh giao cho tuỳ phái viên
chuyển tiếp cho Thomas. Bức điện yêu cầu họ ngừng phát tài liệu cho người Pháp.
Không biết gì về những cuộc tranh cãi dữ dội tại Côn Minh, các sĩ quan tiếp tục
huấn luyện cho binh lính Pháp trong khi vẫn mù mờ về nhiệm vụ của họ. Cuối cùng,
vào thượng tuần tháng 7, những mệnh lệnh mới được gửi đến, nhưng chỉ sau một loạt
các bức điện đầy mâu thuẫn yêu cầu toàn đội hành quân tới Bách Sắc trước và sau
đó tới Tĩnh Tây. Défourneaux, trung uý Langlois (một sĩ quan Pháp), và 24 "cá nhân"
được biết đến với tên gọi chung là nhóm Tersac, phải đi bằng đường bộ tới Đông Dương.
Nhưng quân nhân Mỹ và Pháp còn lại phải đến Bách Sắc để huấn luyện nhảy dù đổ bộ
xuống sau phòng tuyến của Nhật tại Đông Dương. Sau đó Thomas ra đi, để sĩ quan cấp
phó của mình lo liệu vấn đề hậu cần của cuộc hành quân. Ngày 8 tháng 7, Défourneaux
hội kiến sĩ quan Pháp cao cấp nhất tại Tĩnh Tây, thiếu tá Revole. Được mô tả là
một "sĩ quan thực dân lão làng", Revole gây ấn tượng cho cả Thomas lẫn Défourneaux
bằng hiểu biết sâu rộng. Revole bóng gió với Défourneaux rằng tình hình Việt Nam
có thể phức tạp hơn những gì người Mỹ biết. Ông ta bình luận: "Vấn đề Việt Minh
là một nhân tố phải được xem xét kỹ lưỡng".
Revole khuyên Thomas "chờ đợi chút ít" trước khi đến Bắc Kỳ và nói thêm rằng một
phái đoàn hỗn hợp Mỹ - Pháp "không việc gì phải quay lại đó trừ phi chúng ta biết
Việt Minh sắp sửa hợp tác với chúng ta". Thomas ngạc nhiên vì những lời bình luận
của Revole. Vào thời điểm đó, anh khá mù mờ về Đông Dương thuộc Pháp. "Tất cả những
gì tôi biết", Thomas viết, "là nó được gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Tôi ngờ ngợ
rằng đó là một thuộc địa của Pháp và những nhà truyền giáo đã đến đó trước tiên,
theo chân họ là lính Pháp. Tôi biết người Pháp có các đồn điền cao su và họ chuyển
lợi nhuận về cho nước Pháp. Đó là tất cả". Thomas nhớ là trong cuộc trao đổi với
Revole lần đầu tiên anh nghe thấy từ "Việt Minh". Khi Thomas hỏi Revole Việt Minh
là ai, ông ta trả lời: "Đó là một lực lượng du kích được tổ chức tại Bắc Kỳ trong
vòng vài tháng gần đây". Thông tin này khiến Thomas ngạc nhiên. Hai tháng đầu trong
nhiệm kỳ của mình tại Trung Quốc, Thomas cho rằng mình sẽ làm việc với người Pháp,
hoặc người Việt do Pháp chỉ huy. "Không ai nghĩ đến việc bắt đầu tiếp xúc với du
kích Việt Nam". Thomas thú thực, "Chúng tôi không hề biết là họ ở đó".
Mặc dù vừa mới chỉ "phát hiện" ra Việt Minh vào đầu tháng Bảy nhưng Thomas và Défourneaux
vẫn tin rằng họ sẽ làm việc với binh lính Pháp chứ không phải là du kích Việt Nam.
Tuy nhiên, đến lúc đó sự kiên nhẫn của Patti đối với người Pháp đã tới mức giới
hạn. Ông đi đến kết luận rằng sử dụng quân du kích của Hồ Chí Minh thực tế hơn chờ
đợi người Pháp đạt được thoả hiệp chung nào đó với Mỹ. Khi Patti thăm đò ý kiến
Helliwell về kế hoạch sử dụng người của Hồ Chí Minh thì Helliwell, do lo lắng về
"những hậu quả chính trị" nên vẫn tiếp tục nói nước đôi. Song Patti đã chuẩn bị
và cãi lý rằng thuận lợi thực tế đơn giản là nặng ký hơn bất lợi. Ông chỉ rõ:
Nếu chúng ta sử dụng người của Hồ Chí Minh tại Chợ Chu chúng ta sẽ loại trừ được
vấn đề khó khăn trong hành quân hoặc chuyên chở người Pháp đi 25 dặm đến biên giới,
cộng với thêm 150 dặm đến Hà Nội. Trên những con đường mòn xuyên rừng rậm hiện nay
thì khoảng cách thực tế sẽ lên tới 250 dặm và thời gian di chuyển phải mất mười
tới mười lăm ngày. Những lý do quan trọng khác ủng hộ việc sử dụng căn cứ và người
của Việt Minh cho hoạt động của chúng ta là chúng ta sẽ nhận được sự ủng hộ địa
phương và địa thế ẩn nấp tuyệt vời.
Do đó, với sự chấp thuận của Helliwell, Patti đề nghị cho một nhóm nhỏ do một sĩ
quan cao cấp của Mỹ chỉ huy nhảy dù xuống lãnh thổ của Việt Minh. Đề nghị này được
Hồ Chí Minh đồng ý. Khi phổ biến kế hoạch cho Đội Nai, Patti nói rõ về khuynh hướng
chính trị của Việt Minh, thú thực họ là "người theo chủ nghĩa Mác" nhưng thêm rằng
"mối quan tâm trực tiếp của họ là đánh đuổi Nhật". Mặc dù cuối tháng 6 trận đánh
đẫm máu tại Okinawa đã kết thúc bằng chiến thắng của Mỹ, nhưng nỗi sợ hãi ám ảnh
về sự xâm chiếm của Nhật vẫn hiện ra lù lù phía chân trời.
Chiến tranh thế giới thứ 2 còn lâu mới kết thúc. Cuộc tấn công chống Nhật tại miền
Nam Trung Quốc, CARBONADO, vẫn trong giai đoạn lập kế hoạch, và như vậy cuộc chiến
đấu chống Nhật tại Đông Dương, hay ít nhất là ngăn chặn chúng tăng cường lực lượng
tại miền Nam Trung Quốc trong suốt thời kỳ CARBONADO dường như là bắt buộc. Vì thế,
cho dù khuynh hướng lúc đầu là làm việc với người Pháp, nhưng Thomas cũng đồng ý
với kế hoạch của Patti trong việc sử dụng người của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều nghi ngờ, "Thomas quyết định tiến hành một cuộc thăm dò cá nhân về tình
hình trước khi đưa đội của mình đến với người Việt Nam hay người Pháp".
Trong vài ngày cuối cùng trước khi Thomas thâm nhập vào miền Bắc Việt Nam, Défourneaux
đã trao đổi một loạt bức điện với sở chỉ huy tại Bách Sắc. Mặc dù mối quan hệ của
Défourneaux trong cộng đồng người Pháp có thể chỉ đem lại thông tin hạn chế về Việt
Minh, nhưng đến ngày 13 tháng 7, anh đã khám phá đủ để nhận ra sự quan trọng tiềm
tàng của Việt Minh và anh thất vọng vì bản thân không biết gì về nhóm này. Défourneaux
gửi điện về Bách Sắc: "Có khả năng tiếp xúc với lãnh đạo của Việt Minh… Tôi đang
làm việc từ mọi góc độ để liên lạc với Việt Minh nhưng cần thêm thông tin. Bị bỏ
lại trong bóng tối vì lợi ích của Pete hãy cho tôi biết điều gì đó". Bức điện trả
lời làm giảm bớt đôi chút lo lắng của anh nhưng lại thể hiện tình trạng thiếu thông
tin nghiêm trọng giữa các kênh của OSS: "Chúng tôi không có thông tin gì về Việt
Minh. Anh không bị bỏ lại trong bóng tối. Chúng tôi đã cho anh tất cả thông tin
mà chúng tôi có".
Trong bức điện ngày 15 tháng 7 gửi về Bách Sắc, Défourneaux yêu cầu "những ý kiến
của anh ta về FIC" phải được gửi tới Côn Minh. Trong khi đó tại Tĩnh Tây, lãnh sự
Pháp đã nói với Défourneaux rằng Hồ Chí Minh là cộng sản, "được Moskva đào tạo",
"tàn nhẫn, thông minh và rất nguy hiểm". Mặc dù nhiều người khác nói về Việt Minh,
nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy bức điện của Défourneaux được chuyển tới cho
Thomas, người dự định nhảy dù xuống Đông Dương vào ngày hôm sau.
Ngày 16 tháng 7, Thomas nhảy dù xuống khu vực lân cận làng Tân Trào (Kim Lũng) cùng
hai thành viên người Mỹ trong đội của anh là Prunnier và Zielski. Ngoài ra còn có
thêm 3 phái viên Pháp - một sĩ quan, trung uý Montfort, và hai "đại diện" của quân
đội Pháp, trung sĩ Logos, một người Pháp lai Á và trung sĩ Phác, một người Việt.
Trong số những người này, chỉ có Zielski đã từng nhảy dù trước đó; tuy nhiên, tất
cả đã tiếp đất mà không bị thương. Trước sự thích thú của những người Việt Nam,
Thomas, Zielski và Montfort cảm thấy hơi bị tổn thương lòng tự trọng: cả ba đều
đáp lên cây. Cán bộ Việt Minh đến đón họ đã nói đùa: "Có lẽ ở Mỹ không có loại cây
to như cây đa ở đây".
"Uỷ ban đón tiếp" của Việt Minh đưa ba người xuống đất. "Mọi người thực sự hứng
khởi", Thomas nhớ lại. "Chúng tôi vui mừng khi tất cả tiếp đất an toàn và lành lặn".
Sau đó Thomas nhận được một "màn chào mừng" từ một đám đông anh ước đoán khoảng
200 người. Việt Minh được trang bị súng trường Pháp, vài khẩu Bren, vài khẩu tiểu
liên Thompson, cacbin và tiểu liên Ten. Theo đánh giá của Thomas đây là "một uỷ
ban đón tiếp rất ấn tượng". Cựu chiến binh Việt Minh Vũ Đình Huỳnh nhớ lại là Thomas
đã rất "sửng sốt" khi Việt Minh trả lại anh ta một nắm đô la bị rơi ra khi nhảy
dù.
"Đúng là họ rất sừng sờ", Vũ Đình Huỳnh viết, "tất cả bọn họ càng ngạc nhiên hơn
khi biết sự hoàn trả này không phải của những người nguyên thuỷ cổ xưa không biết
gì về giá trị tiền bạc, mà là từ lực lượng Kháng chiến biết nhiều ngoại ngữ và chắc
chắn biết rõ giá trị của những gì đã rơi từ trên trời xuống". Sau đó Thomas được
đề nghị đọc một bài "diễn văn chào mừng" ngắn chứa đựng ít "lời hoa mỹ". Anh nhớ
nội dung là: "Tất cả chúng ta đang cùng nhau tiến hành cuộc đấu tranh chổng Nhật".
Thomas gặp Tan và Phelan và được họ đưa cả nhóm về "ngôi nhà mới", được chuẩn bị
đặc biệt dành cho những người Mỹ. Thomas viết:
Đầu tiên chúng tôi đi dưới lối đi có mái vòm bằng tre bên trên có một biển hiệu
"Chào mừng những người bạn Mỹ của chúng ta. " Sau đó chúng tôi gặp Mr. Ho (nguyên
văn) nhà lãnh đạo Đảng. Ông đã đón tiếp chúng tôi rất thân mật. Người ta đã mổ một
con bò để tỏ lòng trân trọng chúng tôi và tặng cho chúng tôi một thùng bia Hà Nội
thu được sau cuộc tấn công bất ngờ vào một đoàn hộ tống Nhật. Chúng tôi đã đánh
một giấc ngon lành trong căn lều tiện lợi bằng tre trung khu rừng trên một quả đồi.
Hơn hai tuần sau đó, Thomas đi thăm thú khu vực xung quanh trong khi chờ đợi những
người còn lại của Đội Nai đến. Nhật ký của Thomas viết đầy những lời khen ngợi lòng
hiếu khách của Việt Minh. Ở mỗi ngôi làng anh đều được đón tiếp với trà và đồ ăn,
những bài phát biểu và văn nghệ. Mặc dù Thomas không biết gì về nạn đói đã xảy ra
tại Bắc Kỳ năm 1945 nhưng tính hào phóng của dân làng trong việc cung cấp cho anh
nhiều đồ ăn như vậy nói lên phần nào thái độ quý trọng của những người nông dân
dành cho người Mỹ và khả năng của Việt Minh trong thuyết phục người dân chia sẻ
phần lương thực quý giá của họ.
Trong khi người Mỹ được đối xử "một cách long trọng" thì những người Pháp đi cùng
đoàn với Thomas lại không có may mắn đó. Mặc dù Thomas rõ ràng cảm thấy thoải mái
với người Pháp, nhưng trước chuyến đi anh đã nhận được nhiều thư giới thiệu đầy
mâu thuẫn về vai trò của những người Pháp tham gia Đội Nai. Patti đã khuyên Thomas
không nên đưa họ đi cùng đến Đông Dương. Thực tế, Patti "đã cảnh báo" cả Davis lẫn
Thomas "rằng khu vực đó thuộc quyền kiểm soát của Việt Minh và các nhân viên Pháp
sẽ không được chào đón". Fenn và đặc vụ của GBT, Simon Yu, cũng cảnh báo về những
nguy hiểm khi có người của Pháp trong một phái đoàn Mỹ đến Đông Dương. Trước khi
rời khỏi Bách Sắc Thomas đã hỏi Yu về tình hình tại Đông Dương. Yu khuyên Thomas
rằng đi tới Bắc Kỳ với bất kỳ người Pháp nào "cũng sẽ là thảm hoạ, vì Việt Minh
căm thù người Pháp, và điều này hoàn toàn không có lợi đối với họ". Sau đó Yu báo
cáo cuộc trao đổi của mình với Thomas cho Fenn tại tổng hành dinh GBT. Yu nói thêm
rằng "một người bạn Pháp của anh ta thậm chí đã lâm vào tình huống này". Tiếp đó,
Fenn gửi điện báo tin này cho Tan, nói rõ rằng "mặc dù Thomas dường như vẫn ổn,
nhưng đội của anh ta là những người thân Pháp và làm việc với người An Nam thân
Pháp, nếu Hồ Chí Minh nhận ra chúng ta đang hợp tác với những người như vậy, ông
sẽ cắt đứt quan hệ với GBT". Hơn nữa, Fenn cũng khuyên Tan rằng nếu Thomas đến cùng
người Pháp, thì Tan nên "nắm chắc và nhờ bắt người Pháp vì sự an toàn của chính
họ".
Tình huống này rõ ràng là khó hiểu đối với Thomas vốn đã trở nên thân thiết với
nhiều người Pháp mà anh cùng cộng tác. Một người trong số đó, thư ký của Lãnh sự
Pháp, đã báo cáo là Thomas "rất sửng sốt" với những gì anh nghe thấy. Thomas thổ
lộ với viên thư ký rằng "các quan chức địa phương đã nhắc lại với anh nhiều lần
rằng nếu anh cố thâm nhập vào Đông Dương cùng người Pháp, thì toàn bộ người dân
Đông Dương sẽ đánh lại anh". Nhưng, dĩ nhiên, nhiều người bạn Pháp của Thomas lại
có cách nhìn khác. Theo Patti, "Thomas đang bị những người Pháp trên chiến trường
thuyết phục rằng chỉ có họ mới có thể được tin tưởng để cùng đánh Nhật, rằng "người
An Nam" sẽ chỉ tàng trữ bất cứ loại vũ khí nào được cung cấp để đối đầu với Pháp".
Căn cứ vào những lời khuyên mâu thuẫn như vậy, Thomas có lẽ không đáng trách vì
đã thu xếp đưa ít nhất một người Pháp - được cải trang giống như người Mỹ - người
anh đã biết, tin tưởng và biết rõ khu vực này đi cùng anh tới những khu rừng vô
danh ở Đông Dương. Thomas viết:
Tôi quyết định để một sĩ quan Pháp tên là Montfort cùng 2 người lính An Nam của
anh ta nhảy dù cùng chúng tôi. Mục đích của việc đưa Montfort đi lần này là để xem
liệu người Pháp có được chào đón hay không. Người Pháp không tín là họ không thể
đi. Họ rất muốn đến đó. Họ muốn lấy lại thuộc địa. Vì vậy họ muốn đi cùng chúng
tôi. Người Pháp lo rằng Montfort và hai người kia có thể bị bắn khi nhảy dù nếu
trông họ giống lính Pháp. Vì vậy họ đối mũ sắt của Mỹ… Nhưng chúng tôi không cố
lừa dối Hồ Chí Minh… Điều duy nhất chúng tôi đang cố làm là ngăn không để Montfort,
Phác và Logos bị giết khi họ xuồng mặt đất từ chuyến bay này.
Khi Thomas cùng ba "người Pháp" vừa chạm đất, họ bị phát hiện tức thì. Như Thomas
chỉ rõ, Phác và Logos là "lính An Nam" rõ ràng thuộc đội quân thuộc địa Pháp, còn
Montfort không nói được câu tiếng Anh nào. Hơn nữa, đặc điểm nhận dạng thực sự của
họ bị vạch trần "gần như tức khắc" sau khi tiếp đất. Montfort bị một cán bộ Việt
Minh, người đã phục vụ dưới quyền anh ta trong quân đội thuộc địa Pháp, nhận ra,
Phác bị nhận diện trước tiên như một người ủng hộ Pháp và sau đó là "thành viên
của một đảng thân Tầu, Việt Nam Quốc dân Đảng". Do đó, khi Thomas, Prunier và Zielski
được hộ tống qua lối đi có mái vòm bằng tre thì ba người kia bị Việt Minh "quây
chặt". Tan bước tới để giúp tháo gỡ tình hình. Nghĩ lại chuyện này, Fenn suy luận
rằng chỉ vì hành động "cải thiện tình thế của Tan" mà người Pháp được "đối xử thân
tình".
Ảnh: Chỉ huy Đội Nai, Allison Thomas, đứng giữa. Bên trái là Võ Nguyên Giáp và bên phải là Hồ Chí Minh. Đứng bên phải Hồ Chí Minh là Ren Défourneaux, thành viên duy nhất của đội có những lo lắng thật sự về mối quan hệ chính trị của Việt Minh. Ngồi trước Ren Défourneaux là nhiếp ảnh gia của đội, Alan Squires. Henrry Prunier đứng bên trái Võ Nguyên Giáp, và đứng xa nhất phía trái Võ Nguyên Giáp là Paul Hoagland, người đã cung cấp thuốc cho Hồ Chí Minh khi ông bị ốm. (Ảnh tư liệu của Nguyễn Học) [không có hình]
Ảnh: Thomas và thành viên Đội Nai chụp với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp tại Tuyên Quang, 1945. (Ảnh tư liệu của Nguyễn Học) [không có hình]
Quay trở lại Côn Minh, Patti cũng phải giải quyết hậu quả của những người Pháp
nhảy dù cùng Thomas. Sáng 17 tháng 7 một sĩ quan M.5 tới văn phòng của Patti thông
báo rằng trung uý Montfort và thiếu tá Thomas đã bị Việt Minh bắt giữ.
Đã được thông báo về cuộc nhảy dù thành công, Patti cố cam đoan một lần nữa với
viên sĩ quan M.5 rằng tất cả đều ổn. Sau đó viên sĩ quan Pháp mới tiết lộ "với thái
độ hơi lúng túng" rằng Montfort, Logos và Phác thực ra là đặc vụ của M.5 có một
"nhiệm vụ quan trọng" là liên lạc với Hồ Chí Minh. Thêm vào đó, anh ta thừa nhận
với Patti, Montfort "được nguỵ trang giống như một sĩ quan Mỹ". Lo lắng cho sự an
toàn của họ, viên sĩ quan Pháp nói rõ với Patti rằng M.5 hy vọng OSS "đảm bảo cho
họ an toàn và trở về khu vực do Pháp kiểm soát với ít trở ngại nhất".
Mặc dù không biết gì về cuộc đối thoại của Patti tại Côn Minh nhưng Thomas chắc
sẽ đồng tình với giải pháp này.
Trong bức điện ngắn gửi Davis tại sở chỉ huy Bách Sắc ngày 17 tháng 7, Thomas nói
rõ: "Có lẽ tôi phải "loại bỏ" người Pháp". Hôm sau anh nói thêm: "Sau khi hội kiến
nhà lãnh đạo Đảng, Mr Hoe, (nguyên văn), điều tối cần thiết là phải "loại bỏ" tất
cả (nhắc lại) tất cả người Pháp và người An Nam đến từ Bách Sắc. Tôi sẽ đưa Montfort,
Phác và Logos quay lại sớm nhất bởi đường băng dành cho máy bay L-5 gần hoàn thành".
Có lẽ Fenn đã tóm lược đúng tình hình. Ông kết luận: "Thomas sớm cân nhắc thời cơ
và đã quyết định làm việc với Hồ Chí Minh hơn là với người Pháp". Thực tế của vấn
đề hẳn là có vẻ đơn giản trong những khu rừng rậm của Bắc Kỳ: tất cả người Mỹ và
Việt Minh được đối xử như những vị khách danh dự, và đương nhiên cán bộ Việt Minh
có vẻ sẵn sàng, vui lòng và có thể tham gia vào bất cứ sứ mạng chống Nhật nào mà
Đồng Minh muốn họ tham gia. Tuy nhiên, rõ ràng là người Pháp không được chào đón.
Mặc dù quyết định đưa Montfort, Phác và Logos quay về là hoàn toàn sáng suốt đối
với Thomas căn cứ vào bối cảnh Việt Nam, nhưng báo cáo hoả tốc của anh là nguyên
nhân của một loạt bức điện qua lại giữa Davis ở Bách Sắc và Wampler ở Côn Minh.
Davis rất lo lắng về khả năng Thomas loại bỏ người Pháp mặc dù thừa nhận rằng vì
vị trí của mình Thomas có "đủ tư cách nhất" để quyết định phối hợp với Đội Nai.
Davis chất vấn Thomas bằng hàng loạt câu hỏi về độ chân thực trong những báo cáo
về các hoạt động chống Nhật của Việt Minh và những lời họ khẳng định muốn có vũ
khí chỉ để chống Nhật. Davis cũng tỏ rõ quan điểm khi thẳng thừng tuyên bố: "Tôi
tin rằng những chiến binh đánh Nhật tốt nhất sẽ là người Pháp". Ông ta khuyên Thomas:
Hãy lưu ý rằng người Pháp sẽ vô cùng thất vọng nếu họ bị loại bỏ. Hãy lưu ý
đến ý kiến và lời khuyên của Montfort. Người Pháp tin tưởng chắc chắn rằng chúng
ta không thể đánh Nhật nêu sử dụng Việt Minh. Người Pháp tin nếu chúng ta nói với
họ rằng chúng ta đến đây để đánh Nhật, rằng chúng ta sử dụng họ vì chúng ta đã huấn
luyện họ và biết họ là những chiến binh giỏi, thì chúng ta sẽ nhận được sự hợp tác
từ phía họ và ngài sẽ được đối xử như đại thủ lĩnh.
Davis còn thêm nghi ngờ sự chấp thuận tình hình của Thomas, ông ta đặt câu hỏi:
"Có phải mọi người ở đó đang thổi phồng tầm quan trọng của mục tiêu cục bộ và khoảng
thời gian để đi đến miền đất mới vì những lý do ích kỷ hay không?". Thomas đã khẳng
định trong bức điện ngày 17 tháng 7 rằng:
Có khá nhiều người được huấn luyện tốt ở đây. Giới thiệu mục tiêu mới cụ thể là
tuyến đường Thái Nguyên, Cao Bằng. Bây giờ quan trọng hơn. Phái những người Mỹ còn
lại sớm nhất. Khi sẵn sàng báo cho chúng tôi và chúng tôi sẽ gửi tin thời tiết.
Gửi toàn bộ vũ khí và 1/3 phá huỷ. Xây dựng khu huấn luyện tại đây và căn cứ cố
định khu vực thả dù gần Chợ Chu. Tôi sẽ ở đây cho tới khi có tin tức của các ngài
về nhưng vấn đề trên. Sẽ mất hai mươi ngày đi bộ từ đây tới căn cứ tiền tiêu đầu
tiên của chúng ta.
Trái với yêu cầu của Thomas, Davis nói với Wampler rằng thay vì cử đi ngay những
người còn lại của Đội Nai thì trên thực tế ông ta sẽ hoãn lại một thời gian nữa.
Ngoài ra, Davis còn yêu cầu Thomas giữ thái độ không thiên vị với cả người Pháp
và người Việt:
Tôi ra lệnh cho ngài tỉnh táo cho đến khi đạt được một quyết định. Ngài là chỉ
huy cấp cao của Mỹ, khách quan, hoàn toàn chỉ quan tâm tới đánh Nhật. Nếu ngài muốn
đánh Nhật và làm việc tốt thì có thể gửi một đội khác cho họ. Phương tiện vật chất
sẵn có dành cho ngài là không giới hạn. Ngài là đại diện được lựa chọn của một quốc
gia rộng!ớn và hùng mạnh. Hãy cư xử tốt với các lãnh đạo địa phương nhưng không
luồn cúi. Sau khi xem xét tất cả các góc độ hãy gửi cho tôi những ý kiến, phương
án và lý do đã được cân nhắc kỹ nhằm loại bỏ người Pháp và thay đổi sứ mạng này.
Tin chắc rằng làm việc với người Pháp là lựa chọn tốt nhất, Davis khuyên Thomas
di chuyển đi tới "căn cứ tiền tiêu đầu tiên" gần Lạng Sơn và lạc quan dự đoán rằng
"hiểu biết về đất nước và con người ở đó, người Pháp sẽ được giúp đỡ và có lẽ điều
đó sẽ chứng minh rằng tại khu vực Thomas sẽ tới toán quân chủ lực Pháp sẽ được hoan
nghênh". Davis báo tin cho Wampler rằng "Yêu cầu của Thomas về vũ khí và người Mỹ
là quyết định vội vàng để hoạt động hướng tới mục đích mới mà không có người Pháp".
Tuy nhiên, Wampler lại cởi mở hơn đối với việc sử dụng Việt Minh thay cho người
Pháp, ông gửi điện cho Davis: Nếu ngài và Thomas quyết định rằng Việt Minh là người
tốt, thì tổng hành dinh cho phép các ngài tiến lên và sử dụng họ". Trên thực tế
Wampler ám chỉ rằng Việt Minh có thể chứng minh thái độ sẵn sàng đánh Nhật của họ
bằng cách tuân theo sự chỉ huy của Mỹ và tấn công mục tiêu chính: tuyến đường sắt
Hà Nội - Lạng Sơn. Mặc dù muốn cân nhắc lợi ích của việc tấn công tuyến đường bộ
Thái Nguyên - Cao Bằng vào thời gian nào đó sau này, nhưng Wampler lặp lại rằng
mục tiêu chính vẫn là ưu tiên hàng đầu vì "chỉ thị toàn Mặt trận". Tuy nhiên, Wampler
nhất trí với Thomas rằng Montfort, Logos và Phác nên được rút khỏi nhiệm vụ này.
Wampler nói thêm ông mong nhận được "lý do chi tiết" của Thomas và một bản báo cáo
đầy đủ về "những hội nghị mở rộng" với Hồ Chí Minh.
Chương 7 (b)
Dẫu vấn đề của ba "người Pháp" đã được giải quyết nhưng họ sẽ vẫn ở lại Việt
Bắc trong hai tuần sau chuyến nhảy dù. Rõ ràng ngay từ đầu Montfort phải ra đi,
nhưng tình trạng của Phác và Logos thì mập mờ hơn. Thomas nhớ Hồ Chí Minh đã đề
nghị cho phép hai người kia ở lại và gia nhập Việt Minh. Tuy nhiên, ông cũng
biểu lộ thái độ nghi ngờ là người Pháp sẽ "giải thoát họ". "Sự thực là", Thomas
kết luận, "người Pháp sẽ không làm vậy". Có lẽ thực tế là như thế. Cho rằng hai
người lính kia là một phần trong "sứ mạng bí mật" của M.5 nên Montfort có thể
miễn cưỡng miễn cho họ khỏi nhiệm vụ. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình, dường như
không thể hy vọng rằng một lệnh cấm người Pháp không phải là lý do khiến họ từ
chối gia nhập Việt Minh. Montfort là người Pháp duy nhất trong khu vực thuộc
quyền kiểm soát của Việt Minh, trong vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng, thế mà từ
nơi đó anh sắp sửa bị lưu đày không cố ý.
Nếu Phác và Logos chọn gia nhập Việt Minh và ở lại cùng họ, Montfort cũng khó có
thể làm gì để ngăn cản được.
Patti báo cáo rằng Phác "đã nói với những cán bộ thẩm vấn người Việt là anh ta
đi cùng Montfort với hy vọng Việt Minh sẽ cho anh ta ở lại và chiến đấu chống
Nhật. Rõ ràng họ có cách giải thích khác nhau". Patti kết luận. "Và trung sĩ hay
trung uý Phác đã bị giám sát chặt chẽ cho tới ngày ra đi". Phác chắc chắn không
phải là lính bộ binh thuộc địa bình thường. Theo Sainteny, Phác là một trung uý
trong quân đội Pháp đã rời Đông Dương cùng Alessandri sau cuộc đảo chính của
Nhật. Sau khi đến Vân Nam, Phác đã liên lạc với vài thành viên của Việt Nam Quốc
dân Đảng tại Côn Minh.
Ngay trước khi thực hiện nhiệm vụ cùng với Montfort, Phác đã thăm dò ý kiến
Sainteny về ý định gặp Nguyễn Tường Tam, một văn sĩ Việt Nam và là thành viên
của Quốc dân Đảng, trước kia đã tham gia giáo phái Cao Đài ngay từ khi mới thành
lập năm 1939, nhưng năm 1945 lại là một thành viên quan trọng của Việt Nam Quốc
dân Đảng. Mặc dù Sainteny không mấy chú tâm tới việc này nhưng ông ta cũng đồng
ý về cuộc gặp và cho phép Phác tự do tiến hành nhưng thoả thuận cần thiết. Xét
về quyết tâm giành được sự công nhận đối với VNQDD tại M.5 của Phác, lòng chân
thành của anh ta thể hiện trong ước muốn gia nhập lực lượng của Hồ Chí Minh hẳn
là phải bị nghi ngờ. Dựa vào nguồn tin của nhiều cán bộ Việt Minh hoạt động tại
Côn Minh, Việt Minh có lẽ đã biết rõ thủ đoạn của Phác. Và vì thế họ cũng có thể
không muốn có trong hàng ngũ mình một kẻ rõ ràng thân Pháp và thân Tầu như Phác.
Trung sĩ Logos ít bí ẩn hơn. Trong suốt hai tuần ở trong trại chờ ra đi, Logos
kết bạn với Henry Prunier, một trong số những người Mỹ đã cùng nhảy dù xuống với
anh ta. Sinh năm 1921 trong một gia đình người Mỹ gốc Pháp, Prunier lớn lên tại
Massachusetts, trước tiên theo học trung học cơ sở Thiên Chúa giáo và sau đó là
trường cao đẳng Thiên Chúa giáo tại Worcester. Mặc dù gia nhập quân đội vào
tháng 8 năm 1942 nhưng Prunier vẫn tiếp tục đi học cho tới khi được yêu cầu tại
ngũ vào tháng 6 năm 1943. Sau khi đào tạo cơ bản, Prunier được phân công vào Khu
vực Hải ngoại (Viễn Đông) và chương trình học tiếng "An Nam" tại Đại học
California, Berkeley. Anh tham gia chương trình đào tạo đặc biệt của quân đội từ
tháng 12 năm 1943 cho tới tháng 9 năm 1944. Trong khi ở Berkeley, OSS đã tuyển
mộ anh. Cuối năm 1944 Prunier được đưa tới Washington để dự kỳ sát hạch đặc biệt
và sau đó là chương trình đào tạo thêm của OSS. Tháng 3 năm 1945 Prunier tới Côn
Minh và tháng 5 được điều đến Đội Nai.
Mặc dù học tiếng Việt chỉ có chín tháng, nhưng đào tạo khá chuyên sâu nên
Prunier có thể sử dụng những kỹ năng ngôn ngữ của mình cho những giao tiếp cơ
bản với bộ đội Việt Nam. Vì thế, Prunier có hai thuận lợi tại Bắc Kỳ: Anh có thể
nói và hiểu được tiếng Việt đơn giản, và vì đã lớn lên trong một gia đình nói
tiếng Pháp, Prunier nói tiếng Pháp khá trôi chảy. Sau chuyến nhảy dù xuống Kim
Lũng ngày 16 tháng 7, Prunier và Logos trở nên "khá thân thiết". Vốn hiểu biết
tiếng Việt và tiếng Pháp của Prunier cho phép hai người có nhiều "cuộc nói
chuyện thú vị" về Việt Nam, chiến tranh, và người Mỹ. Logos đã hỏi, Prunier nhớ
lại, "tại sao người Mỹ chúng tôi lại dính líu với cái nhóm phiến loạn được gọi
là Việt Minh này". Prunier đã quả quyết với Logos rằng sứ mạng của Đội Nai
"không phải là chính trị vì chúng tôi chỉ là người lính và mục đích của chúng
tôi cũng giống như Việt Minh là đuổi Nhật". Prunier cảm thấy buồn phải chứng
kiến Logos ra đi, nhưng anh ít nói về vấn đề này. Hồ Chí Minh đã thể hiện thái
độ rõ ràng đối với Montfort. Thomas đã đi đến quyết định rằng nhiệm vụ của anh
sẽ được tạo điều kiện thuận lợi bởi sự ra đi của người Pháp, và vài ngày sau,
chỉ huy của anh đã đồng tình. Để biểu thị sự hợp pháp và quyền kiểm soát khu vực
của nhóm mình, Hồ Chí Minh đã nói với Thomas: "người Pháp nghĩ chúng tôi là kẻ
cướp. Nhưng để chứng tỏ với các ngài chúng tôi không phải loại người như vậy,
chúng tôi sẽ đưa Montfort và hai người kia quay trở lại biên giới". Ngày 31
tháng 7, Montfort, Phác và Logos ra đi và gia nhập vào một nhóm hai mươi người
Pháp tị nạn, "được tập trung lại dưới sự bảo trợ của AGAS" tại Tam Đảo, một khu
nghỉ mát cách Thái Nguyên 16 dặm về phía tây nam và cách Hà Nội 28 dặm về phía
tây bắc. Những người tị nạn đã chờ đợi AGAS đưa họ sang Trung Quốc kể từ cuộc
tấn công của Việt Minh diễn ra ngày 16 tháng 7 năm 1945. Khi đó một nhóm Việt
Minh đã tấn công một đồn binh Nhật tại Tam Đảo, một đồn nhỏ nằm trên đồi do 9
lính Nhật canh giữ. Bị áp đảo về quân số, Nhật bị đánh tan tác, bảy tên chết.
Nguyễn Hữu Mùi, một thành viên của Việt Minh và cũng làm việc với Đội Nai, có
trách nhiệm lớn trong quyết định tấn công Tam Đảo. Gần đây Nhật phát hiện ra
hoạt động cách mạng của Nguyễn Hữu Mùi tại Vĩnh Yên nên anh phải chạy trốn về
phía đồn binh Nhật, nơi anh tin rằng mình sẽ có "cơ hội đánh Nhật". Một lần, Mùi
phát hiện ra rằng nhiều đồng chí mình có thái độ miễn cưỡng chiến đấu bởi vì
Nhật "có tất cả các loại vũ khí hiện đại, mà chúng tôi chỉ có súng trường và mỗi
khẩu chỉ có mười viên đạn". Nguyễn Hữu Mùi viện lý rằng vì bây giờ anh đã bị lộ
và những người khác rồi sẽ cũng như vậy, và "nếu ta không chiến đấu chống lại
chúng thì chúng sẽ giết ta". Đội quân nhỏ này đã kêu gọi trung đội Hoàng Văn
Thái ở gần đấy hỗ trợ, và lực lượng hỗn hợp này đã tổ chức chiến sĩ của họ, cắt
đứt đường dây điện thoại, chặt cây để cản đường, và bao vây đồn địch. Mặc dù chỉ
là một đóng góp nhỏ nhoi vào thất bại của Nhật, nhưng cuộc tấn công Tam Đảo
chứng minh ý chí sẵn sàng đánh đuổi kẻ thù của Việt Minh khi cuộc chiến dường
như có khả năng kết thúc có lợi cho họ - một trong những nguyên lý cơ bản của
chiến tranh du kích. Donalđ Lancaster, một ký giả có mặt tại Việt Nam trong thời
gian chiến tranh, viết rằng Việt Minh "đã bộc lộ sự miễn cưỡng gánh chịu tổn
thất hay gây ra những hành động trả thù bởi tấn công quân Nhật và hạn chế đóng
góp của mình vào thắng lợi của cuộc tấn công đồn Nhật ở Tam Đảo". Tuy nhiên,
ngay cả Sainteny cũng phải thừa nhận những lợi ích tâm lý của chiến thắng nhỏ
này đối với người Việt Nam, còn Nhật hết sức khó chịu, cay cú và chúng đã gửi
điện về Tokyo, "những hành động của Việt Minh hiện nay mỗi lúc một trở nên trắng
trợn. Chỉ vài ngày trước đã xảy ra một cuộc tẩn công bất ngờ quy mô lớn tại Tam
Đảo do một nhóm người liên kết với phong trào này thực hiện".
Cuộc tấn công Tam Đảo cũng cho thấy nhận thức chính trị ngày càng tăng của Việt
Minh và thực tế là họ không chống Pháp một cách bừa bãi. Sau khi hạ được đồn
binh yếu này, Việt Minh giải phóng "trại tập trung dân sự" của Nhật tại Tam Đảo.
Nguyễn Kim Hùng nhớ rằng mục đích tấn công Tam Đảo "chỉ là để đánh Nhật và thu
vũ khí", nhưng khi làm như vậy họ cũng giải thoát nhiều tù nhân người Pháp. Việt
Minh sẵn sàng giúp đỡ "những người Pháp tiến bộ", những người mà Trần Trọng
Trung đề cập đến "đa phần là giáo viên và học sinh của một trường học tại Hà
Nội". "Mặc dù điều kiện sống của người dân địa phương rất thấp, và chúng tôi
trải qua nhiều vất vả khó khăn", Trần Trọng Trung nhớ lại, "nhưng Hồ Chí Minh đã
chỉ đạo cho chúng tôi làm mọi cách có thể để cải thiện điều kiện sống cho những
người Pháp này". Maurice và Yvonne Bernard, hai giáo sư người Pháp sống tại Tam
Đảo và ở trong số những người được Việt Minh quan tâm, đã đưa ra một bản tường
trình rất sống động về cuộc tấn công Tam Đảo và thời gian họ ở cùng Việt Minh.
Trong một bức thư ngỏ gửi "những người bạn ở Hà Nội", họ đã cố gắng chữa lại
những gì họ đã tin tưởng là những ấn tượng sai lầm nghiêm trọng về Việt Minh. Họ
thẳng thắn tuyên bố: "Việt Minh không phải là những tên cướp biển và họ không
căm thù người Pháp; họ chỉ căm ghét chủ nghĩa phát xít và mong muốn đưa đất nước
họ thoát khỏi ách nô lệ của Nhật".
Căn cứ vào thái độ của Việt Minh đối với người Pháp thì sau thắng lợi đó họ có
thể dễ dàng bỏ mặc những kẻ thực dân cho Nhật trả thù. Tuy nhiên, "Việt Minh đã
giúp đàn ông, phụ nữ và trẻ em Pháp đến nơi an toàn, chăm sóc họ cho tới khi máy
bay Đồng Minh tới đón và đưa họ sang Trung Quốc", nhà sử học nổi tiếng Ellen
Hammer kết luận.
Sự kiện Việt Minh "giải phóng" cho những dân thường Pháp thoát khỏi quân Nhật và
giao họ cho người Mỹ chứng tỏ rằng vào đầu tháng 7 năm 1945, Việt Minh đã cố
chứng minh rằng họ không đơn phương chống Pháp và nhận ra con đường đạt được sự
chấp thuận của Mỹ là phải chiến đấu chống lại kẻ thù duy nhất của họ là Nhật
trong khi đó phải đối xử nhân đạo với người Pháp. Mặc dù chính phủ Mỹ không hề
biết gì về chiến thắng Tam Đảo, nhưng nó rất có ý nghĩa đối với những người lính
trên bộ vào thời điểm đó, đặc biệt là Frank Tan, Dan Phelan và Allison Thomas.
Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng với chiến thắng này Việt Minh cũng thành
công trong việc đưa được nhiều hơn người Pháp ra khỏi Việt Nam. Mặc dù AGAS đã
bố trí máy bay đưa phụ nữ và trẻ em Pháp đi tản, nhưng Trung uý Montfort được
Phác và Logos hộ tống, đã dẫn những nhóm tị nạn còn lại từ Tam Đảo đến biên giới
và vào Trung Quốc. Ngày họ xuất phát, Thomas ghi trong nhật ký: "Quá tệ là họ
buộc phải rời đi nhưng những người này không thích Pháp cũng gần bằng không
thích Nhật". Như chính Thomas thừa nhận, khi tới Kim Lũng anh biết rất ít về cả
Đông Dương thuộc Pháp lẫn Việt Minh: Tuy nhiên, thật hiển nhiên, anh nhanh chóng
phát hiện ra thái độ của họ đối với người Pháp. Lòng hiếu khách của Việt Minh và
những cuộc nói chuyện với Tan và Phelan thuyết phục Thomas hơn nữa về khả năng
tồn tại của các hoạt động liên minh giữa OSS và Việt Minh mà không có người
Pháp. Trong suốt thời gian ở với Việt Minh, Thomas và Hồ Chí Minh thường xuyên
nói chuyện với nhau - về chính trị, về sứ mạng quân sự của họ, và về "mối bất
bình" của người Việt Nam đối với người Pháp. Hồ Chí Minh giải thích cho Thomas
rằng ông "với tư cách cá nhân yêu mến nhiều người Pháp", nhưng "phần lớn những
người lính của ông (nguyên văn) thì lại không". Cũng như với Shaw, Fenn, Tan và
Phelan, Hồ Chí Minh mô tả cho Thomas những hành vi tồi tệ nhất của người Pháp.
Người Pháp giữ độc quyền về muối và rượu. Họ "bắt người dân phải mua thuốc
phiện" và phải đóng các loại thuế cao; họ đã "bắn giết và xông hơi ngạt nhiều tù
chính trị"; họ đã xây dựng nhiều "nhà tù hơn là trường học"; và họ đã tước đi
của nhân dân Việt Nam những quyền tự do được xem là cơ bản trong đời sống của
người Mỹ: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp. Tuy nhiên, thậm
chí rất lâu sau chiến tranh, Thomas cương quyết khẳng định rằng lúc đó anh không
hề biết Hồ Chí Minh là cộng sản:
Rõ rành ông là người. rất hiểu biết và rất có giáo dục. Nhưng tôi nhớ tôi
không hề biết ông là Cộng sản. Tôi không biết ông nói được tiếng Nga, tôi cũng
không biết ông đã từng đến nước Nga… Tôi cảm thấy ông rất chân thành… ông dường
như là một người quả quyết… Tôi còn nhớ rằng lúc đó tôi có mặt trong một sứ mạng
chính. Đó là một sú mạng quân sự thuần tuý. Tôi chỉ hơi nghi ngờ ông vì binh sĩ
của ông sử dụng kiểu chào bắt tay. Nhưng khi tôi nói chuyện đó với Dan Phelan và
Frankie Tan thì cả hai đều cảm thấy rõ ràng rằng Hồ Chí Minh không phải là một
người Cộng sản giáo điều, rằng ông là một người yêu nước chân chính.
Dù mối quan hệ giữa OSS và GBT đã căng thẳng tới đỉnh điểm nhưng tại Việt Nam,
Tan và Phelan, cũng như những người khác, vẫn ăn ý với nhau. Chỉ vài ngày sau
khi Thomas đến, Tan đã gửi cho Fenn lúc đó đang ở Côn Minh một bức điện: "Thomas
là một anh chàng tuyệt vời, rất có cảm tình với Việt Minh và đã gửi điện cho OSS
đề nghị họ nên làm việc với Hồ Chí Minh chứ không phải với người Pháp". Trên
thực tế, điều này là sự thật. Ngay sau khi có mặt, Thomas đã hỏi thẳng Hồ Chí
Minh về định hướng chính trị của Việt Minh và ông đã quả quyết rằng thành phần
của Việt Minh gồm rất nhiều các đảng phái chính trị khác nhau và Việt Minh "đang
chiến đấu giành tự do và độc lập hoàn toàn cho Đông Dương từ tay tất cả các thế
lực nước ngoài". Thomas nhớ lại, và "sau khi đã giành được tự do họ mới lo đến
vấn đề chính trị".
Hồ Chí Minh đề cập một cách thận trọng đến vấn đề này: không phải là nói dối
nhưng cũng không đưa ra toàn bộ sự thật. Trong báo cáo chính thức đầu tiên của
Đội Nai gửi về Côn Minh, được viết chỉ một ngày sau khi có mặt, Thomas tuyên bố
dứt khoát: "Hãy quên đi bóng ma Cộng sản. Việt Minh không phải là Cộng sản. Họ
ủng hộ tự do và những cải cách thoát khỏi ách thống trị sự hà khắc của Pháp".
Tin rằng Hồ Chí Minh và Việt Minh chắc chắn thân Mỹ - Hồ Chí Minh nói với Thomas
ông sẽ "vui lòng chào đón 10 triệu người Mỹ" - Thomas chuẩn bị một loạt phương
án hành động cho sứ mạng của Đội Nai. Anh báo cáo rằng Hồ Chí Minh được cho là
có "ít nhất 3.000 người được vũ trang tại Bắc Kỳ", và rằng ông có thể cung cấp
cho Thomas bao nhiêu trong số đó cũng được nếu anh cần. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh
đề nghị Thomas nên sử dụng "không quá 100 người". Ông nói thêm "nhiều người đã
được huấn luyện đặc biệt dưới sự chỉ huy của một vị lãnh đạo từng được Hải quân
huấn luyện đánh du kích tại Trung Quốc".
Thomas cũng gửi đi phương án của Hồ Chí Minh chuyển mục tiêu hoạt động của Đội
Nai tới tuyến đường bộ Thái Nguyên - Cao Bằng và liệt kê những lý do thay đổi
dưới đây:
- Không quân đã cắt đứt giao thông trên tuyến đường bộ Hà Nội - Lạng Sơn.
- Tuyến đường này đã mất tầm quan trọng kể từ khi Nam Ninh bị chiếm. quân Nhật có lực lưọng mạnh hơn nhiều tại khu vực đó.
- Việt Minh chưa mạnh và chưa được vũ trang tại khu vực đó
- Quân Nhật liên tục sử dụng tuyến đường bộ Thái Nguyên - Bắc Cạn. Nhiều hơn so với tuyên Hà Nội - Lạng Sơn.
- Đây là khu vực tốt hơn cho công tác huấn luyện.
- Khu vực hiện nay hoàn toàn do Việt Minh kiểm soát. Không có sự xâm nhập của quân Nhật.
Khu vực này đang trở nên yên tĩnh và từ đây chúng ta có thể chuyển quân được
huấn luyện về phía nam để hoạt động trên tuyến đường đi Lào Cai và cuối cùng là
trên tuyến đường Hà Nội - Sài Gòn có ý nghĩa sống còn và quan trọng hơn nhiều,
hoặc nếu cần thì đưa quân được huấn luyện của chúng ta hoạt động trên tuyến
đường Hà Nội - Lạng Sơn.
Như đã trở thành phong cách của mình, trong một cơ sở hợp lý Hồ Chí Minh đã kết
hợp chặt chẽ mọi yếu tố xác thực (Việt Minh hiển nhiên mạnh nhất trong căn cứ
địa), những mối quan tâm đối với người Mỹ (khả năng phá vỡ tuyến đường sắt then
chốt Hà Nội - Sài Gòn tại Việt Nam), và những chi tiết lợi ích đặc biệt đối với
ông (triển vọng về việc huấn luyện kỹ lưỡng và trang bị cho các chiến sĩ của ông
tại Việt Bắc). Cách phân tích của Hồ Chí Minh có ý nghĩa đối với Thomas, người
đã đề xuất với Bách Sắc và Côn Minh rằng việc thay đổi nhiệm vụ của Đội Nai phải
được thực hiện, rằng một "căn cứ tương đối ổn định" dành cho huấn luyện sẽ đặt
tại Kim Lũng, và mục tiêu ban đầu bị hoãn lại cho tới khi Đội Nai hoàn thành
công tác huấn luyện. Tonnesson bình luận: "Đáng ngạc nhiên hơn, Thomas đã đồng ý
- với sự chấp thuận của cấp trên - hoạt động tạm thời trên tuyến liên lạc ít
quan trọng về mặt chiến lược được Hồ Chí Minh ủng hộ. Do đó Thomas đã trì hoãn
nhiệm vụ được chỉ thị thi hành, nhiệm vụ này là một phần quan trọng trong
CARBONADO".
Thomas có thể đã bị ảnh hưởng trong việc ra quyết định bởi một báo cáo tình báo
đề ngày 8 tháng 7 về sức mạnh của quân Nhật. Báo cáo này đã đánh giá 700 lính
tại Thái Nguyên và 2.000 tại Cao Bằng, thêm vào đó là 2.500 lính tại ngôi làng ở
Bắc Cạn - những con số đầy ý nghĩa đối với những người đang hy vọng được đánh
Nhật. Ngoài ra, Thomas yêu cầu những phần còn lại của Đội Nai và Đội Mèo, gồm
nhân viên y tế, vũ khí và trang thiết bị, phải được thả dù càng sớm càng tốt.
Thậm chí anh còn gửi một tấm bản đồ vẽ tay mô tả lộ trình chuyến bay tốt nhất và
điểm thả dù để tránh "những khu vực do Nhật kiểm soát".
Thomas cũng đề nghị được cung cấp một số lượng lớn trang thiết bị hỗn hợp, gồm
10 khẩu M-3 có bộ giảm thanh ("tốt khi chiến đấu với lính gác và quân tiên phong
Nhật"); 100 màn chống muỗi; 100 "bộ quần áo đã chiến xanh lá cây cỡ nhỏ, hay
quần áo nguỵ trang trong rừng và mũ" (không có quần áo ka ki); 5 bộ bản đồ toàn
thể Đông Dương, được xem là "yếu tố cần thiết" đối với các nhóm tuần tra và là
"món quà cho các lãnh đạo đảng và quân sự rất cần đến bản đồ"; "nhiều tạp chí
ảnh (Tạp chí Life), sách báo"; muối ("những người dân địa phương rất
thiếu muối"); và 10 chiếc đồng hồ "để làm quà cho các lãnh đạo đảng và quân
đội". Thomas đề nghị lấy những trang thiết bị cần thiết đó từ người Pháp.
Anh đề xuất, "Lấy lại trang thiết bị đã phát cho người Pháp, vì chúng tôi cần
tất cả những thứ đó (cả khẩu M-45 của tôi đã đưa cho Langlois)".
Tuy nhiên Thomas không biết rằng các trang thiết bị của Mỹ phát cho người Pháp
ngày 11 tháng 6 dự kiến cho Đội Nai sử dụng đã bị thu hồi. Trung uý Défourneaux
không may lại là người chuyển tin này chỉ vài ngày trước khi Thomas đưa ra đề
xuất. Không may cho Défourneaux, anh đã tạo ra nhiều kẻ thù trong những người
Pháp ở miền nam Trung Quốc. Trong khi làm việc và trò chuyện với binh lính Pháp,
anh phát hiện ra họ "đã có kế hoạch quay lại thuộc địa, không cần phải đánh nhau
nhiều với Nhật mà vẫn tái lập quyền kiểm soát trên một thế giới mà họ xem là của
họ".
Cho rằng đây là nhiệm vụ của mình, Défourneaux đã báo cáo lên cấp trên. Anh tin
rằng thông tin sẽ dừng lại ở đó. Tuy nhiên, không lâu sau anh được lệnh hướng
dẫn cho người Pháp để lấy lại trang thiết bị Mỹ đã phát cho họ.
Défourneaux nhớ lại tình huống hết sức khó chịu này:
Khi một nhóm sĩ quan quân đội Pháp từ từ vây quanh và đẩy tôi vào tương, tôi
biết mình đang ở trong tình thế rất mong manh. Tôi cố nói với họ rằng tôi không
liên quan gì tới quyết định này, nhưng họ khó chịu bởi thực tế là trước đó tôi
đã bội ước đối với họ. Họ thực sự tin rằng chỉ có tôi mới có thể báo cho Biệt
đội Mỹ rằng mục đích chủ yếu của họ là giành lại thuộc địa… Thực tế là tôi là
một sĩ quan Mỹ bình thường, nhưng với họ, tôi lại là người Pháp và là một kẻ
phản bội.
Mặc dù quan hệ giữa Défourneaux với người Pháp rất căng thẳng, nhưng anh vẫn
thất vọng khi nhận được tin của Thomas, theo đó người Pháp phải bị loại khỏi sứ
mạng của Đội Nai. Mặc dù nghi ngờ động cơ của Pháp, anh vẫn cảm thấy động cơ của
Việt Minh cũng không tốt gì hơn. Trên thực tế Défourneaux tin rằng không bên nào
thực sự muốn dành Nhật. Qua những cuộc trò chuyện với người Pháp, và thậm chí
với vài người Trung Quốc trong vùng, anh đã hình thành một ý kiến tiêu cực về
Việt Minh và cảm thấy rằng làm việc với họ sẽ là một sai lầm. Tuy nhiên, là một
sĩ quan cấp dưới nên anh quyết định giữ ý kiến đó cho riêng mình.
Défourneaux nhớ lại:
Tôi cảm thấy chúng tôi đang mắc phải một sai lầm lớn như sai lầm của người
Pháp… Tôi có cảm giác rằng không có ai có thể giao thiệp thành công với Việt
Minh. Họ sẽ không giữ lời hứa vì mục đích chính của họ không phải là đánh đuổi
Nhật ra khỏi FIC, mà là đòi hỏi nhiều vũ khí trong khả năng của họ và cố gắng
kiểm soát Bắc Kỳ. Họ biết rằng không sớm thì muộn Nhật sẽ rời khỏi Đông Dương,
vậy thì tại sao họ phải mạo hiểm cuộc sống vì một kết quả nhãn tiền?
Không chú ý tới những cảm giác cá nhân, Défourneaux và các đồng dội quay trở lại
Bách Sắc theo mệnh lệnh. Davis thông báo rằng Défourneaux cùng những người còn
lại của Đội Nai, cũng như Đội Mèo, sẽ nhảy dù xuống Kim Lũng vào ngày 29 tháng
7. Davis đề nghị rằng căn cứ vào thái độ của Việt Minh đối với người Pháp, như
được chứng minh bởi việc triệu hồi Montfort, anh nên cân nhắc đến một cái tên
giả và nói rõ, với cái tên Pháp "Défourneaux" anh có thể vấp phải những khó khăn
tương tự. Thế là Défourneaux trở thành Raymond Douglass. Đội dành cả ngày hôm
sau để chuẩn bị những đồ dùng sẽ được thả dù cùng với họ. Sau những khó khăn
trong việc tìm khu vực nhảy dù, Đội Nai và Đội Mèo nhảy xuống một nơi với họ là
những khu rừng rậm xa lạ ở Bắc Việt Nam.
Hồ Chí Minh bị ốm nên không thể có mặt tại khu vực nhảy dù để chào đón họ, tuy
nhiên ông vẫn cố gắng tranh thủ sự kiện họ đến nơi. Nằm trên giường bệnh, ông đề
nghị nhân dân địa phương đến khoảng rừng thưa và chờ đợi những người Mỹ "rơi từ
trên trời xuống". "Chúng tôi rất hồ nghi", một người dân địa phương nhớ lại,
"nhưng vì rất tin tưởng vào Bác Hồ, vì thế chúng tôi đi. Chúng tôi chờ đợi gần
hết ngày và không có chuyện gì xảy ra. Nhưng sau đó chúng tôi nhìn lên bầu trời
và trên đó xuất hiện một chiếc máy bay, và rồi từ chiếc máy bay họ nhảy xuống.
Mọi người phải nói rằng Bác Hồ quả là một bậc kỳ tài. Làm sao Bác có thể biết
một việc như vậy sẽ xảy ra?". Dĩ nhiên Hồ Chí Minh biết rõ kế hoạch nhảy dù này.
Thomas đã cho ông biết kế hoạch đồ bộ, và các cán bộ Việt Minh đã giúp bố trí
khu vực nhảy dù với một dấu hiệu quan sát (hình chữ T màu trắng trên mặt đất) để
hướng dẫn phi công. Tuy nhiên, sự sáng suốt là tất cả mọi thứ, và lại một lần
nữa Hồ Chí Minh đã chứng minh ông làm chủ tình thế.
Khi các thành viên Đội Nai tiếp đất an toàn, họ được Tan, Phelan, Zielski và
"Mr. Văn", bí danh của Võ Nguyên Giáp, chào đón. Không một ai bị thương, và
những người Mỹ một lần nữa lại được hộ tống đi trên lối đi dưới mái vòm tre có
khẩu hiệu "Chào đón những người bạn Mỹ của chúng ta". Cả đội không được gặp
Thomas và Prunier cho tới đêm hôm sau; hai người Mỹ này lúc đó đi trinh sát vị
trí phòng thủ của Nhật tại Chợ Chu, nơi Thomas muốn lập kế hoạch tẩn công nhưng
chiến tranh đã kết thúc trước khi anh có cơ hội làm điều đó. Mặc dù lấy làm lạ
về sự vắng mặt của chỉ huy, cả đội cũng thấy nhẹ nhõm là cuối cùng họ đã đổ bộ
đúng địa điểm, và họ nghỉ ngơi qua đêm. Bây giờ thì Đội Nai "đã đến nơi theo kế
hoạch, sẵn sàng và háo hức thực hiện nhiệm vụ". Défourneaux nhận thấy mình đang
nghĩ về "những nỗ lực lãng phí của chúng ta, chúng ta thiếu chỉ thị và lãnh đạo.
Mặc dù Défourneaux và những thành viên khác trong đội đội che giấu nỗi oán giận
về cái họ cho là thiếu sự lãnh đạo, nhưng Thomas vẫn khá dửng dưng trước mối bất
động nội bộ này. Vài ngày sau họ chuẩn bị bắt đầu nhiệm vụ huấn luyện của mình,
xếp gọn đồ quân nhu, chọn địa điểm huấn luyện, nơi ăn ở, và thăm chớp nhoáng
những bản làng xung quanh, ở đó họ luôn được tiếp đón nồng hậu. Khi Đội Nai ổn
định tại khu vực này thì một số người khác lại ra đi. Đội Mèo của đại uý Holland
khởi hành vào ngày 31 tháng 7 để thiết lập căn cứ tại khu vực khác. Và Tan rời
khỏi Đông Dương trên một chiếc L-5 được gửi tới để đón ông.
(Ảnh tư liệu của Nguyễn Học chụp lại từ bản gốc) [không có hình]
Tan đã trì hoãn ngày ra đi trong chừng mực có thể, phớt lờ vô số lệnh triệu
tập về Côn Minh của Gordon. Tuy nhiên, khi Đội Nai đã đến, Đội Mèo bắt đầu nhiệm
vụ của mình, và Phelan vẫn làm việc cho AGAS, Tan không còn lý do gì để ở lại
Đông Dương. Ngoài ra, Tan và Hồ Chí Minh đã "thiết lập được một mạng lưới tình
báo gồm các điệp viên người địa phương thay thế hoàn toàn mạng lưới của Pháp đã
không còn tồn tại sau cuộc đảo chính của Nhật". Tan cũng cảm thấy buồn khi phải
rời xa những con người mà ông đã coi như bạn bè tại Bắc Kỳ, đặc biệt là Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh cũng lấy làm tiếc vì sự ra đi của Tan. Tan nhớ lại câu nói
cuối cùng của Hồ Chí Minh dành cho ông: "Ngài sẽ luôn có cơ hội để đến với thế
giới và người Pháp cũng vậy. Nhưng bây giờ sự phối hợp của chúng ta đã kết thúc,
tôi sẽ không có cơ hội đó". Tuy nhiên, lúc đó Tan đã không đánh giá hết những
khó khăn mà Hồ Chí Minh sẽ sớm phải đối mặt. Mặc dù rất có thiện cảm với Hồ Chí
Minh và Việt Minh, những người ông đã cùng làm việc, nhưng Tan cũng rất vui mừng
khi được gặp lại bạn bè tại tổng hành dinh GBT.
Vui mừng vì không biết gì về căng thẳng giữa Gordon và Fenn, bất bình của Gordon
với những cuộc gặp gỡ Việt Minh của mình, ngay lập tức Tan bắt đầu ca ngợi Hồ
Chí Minh và Việt Minh. Gordon không có mặt tại trụ sở GBT khi Tan đến và Fenn
cảnh báo anh "đừng khen ngợi (đối với Hồ Chí Mình) khi gặp nhau". Fenn mô tả
thiện cảm của Tan đối với Hồ Chí Minh là "không thể kìm nén được", và Tan không
hề có ý định ngăn những cảm xúc của mình chỉ vì Gordon. "Laurie sẽ phải đối mặt
với sự thật", Tan tuyên bố. "Người Pháp tại Đông Dương coi như đã kết thúc. Khi
chiến tranh chấm dứt Việt Minh chắc chắn sẽ nắm được chính quyền. Và lúc đó Hồ
Chí Minh có thể làm được nhiều việc để giúp chúng ta!". Nhiều tháng sau, Tan vẫn
thường xuyên nói về Hồ Chí Minh cùng nỗi khát khao giành độc lập của người Việt
Nam, và có lẽ đó chính xác là những gì Hồ Chí Minh mong đợi. Trong một bức thư
gửi Fenn, được viết trước chuyến trở về Côn Minh của Tan, Hồ Chí Minh giải
thích: "Tôi muốn viết cho ngài một lá thư dài, thật dài để cảm ơn tình bạn
của ngài. Không may tôi không thể viết được nhiều vì ngay lúc này tôi không được
khỏe (không ốm nặng đâu, ngài đừng lo?). Nhưng gì tôi muốn nói thì ngài Tan sẽ
nói giúp tôi".
Mặc dù Tan đã nói nhiều, nhưng vào tháng 8 năm 1945 vẫn còn có đôi điều để nghe.
Khi tháng cuối cùng của chiến tranh bắt đầu, những người Mỹ ở Việt Nam không hề
biết rằng Nhật sắp thất bại, đã ổn định cuộc sống cùng Việt Minh. Ngày 1 tháng
8, họ chứng kiến lễ khai trương "hội trường" mới được xây dựng của Việt Minh,
với các bài phát biểu và kịch ngắn trào phúng chính trị, gồm một vở mô tả "Quân
Nhật đang tàn phá đất nước họ" ra sao và một vở khác khắc hoạ việc giải cứu
thành công một phi công Mỹ. Trong những ngày đầu ở doanh trại, các thành viên
của Đội Nai đã gặp gỡ nhiều Việt Minh và một vài người dân ở khu vực xung quanh.
Tuy nhiên, một người đáng quan tâm lại vắng mặt: Hồ Chí Minh. Hôm cả đội đổ bộ,
Võ Nguyên Giáp đã xin lỗi vì sự vắng mặt của Hồ Chí Minh, ông nói với những
người Mỹ mới đến là "chỉ huy" của họ bị ốm. Đến ngày 3 tháng 8, Hồ Chí Minh vẫn
không xuất hiện. Một vài thành viên trong đội, gồm Défourneaux và Paul Hoagland,
quyết định đi vào ngôi làng gần đó để gặp Hồ Chí Minh và xem ông có cần giúp đỡ
gì không. Đã được người Pháp cảnh báo về người đàn ông "tàn nhẫn" và "nguy hiểm"
này, Défourneaux rất ngạc nhiên về diện mạo của ông. Thay vì một con người gớm
guốc, Défourneaux chỉ thầy dường như đây là một người ốm yếu đang lơ lửng gần
cái chết:
Nằm trong góc tối của căn phòng là một bộ xương được bao phủ bởi làn da vàng
khô. Một đôi mắt đờ đẫn nhìn chúng tôi chằm chằm. Người đó đang run nên giống
như chiếc lá và rõ ràng đang bị sốt cao. Khi mắt đã bắt đầu quen với bóng tối
tối nhận ra chòm râu dài lởm chởm đang xoã xuồng từ một cái cằm nhọn… Hoagland
nhìn qua nhanh và nói. "Người này không còn sống được bao lâu nữa".
Nhưng Hoagland đã sẵn sàng ứng phó.
Hoagland, sinh ra tại Romulus, New York, đã được đào tạo y sĩ tại Bệnh viện
Willard trước Chiến tranh thế giới 2.
Anh cũng có vài năm kinh nghiệm làm lính cứu thương trên con tàu Thuỵ Điển Gripsholm. Hoagland được tuyển vào OSS năm 1942 và đến nhận công tác tại Đội Nai vào tháng 5 năm 1944. Sau khi khám qua cho bệnh nhân, Hoagland cho rằng ông đang bị bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, bệnh lỵ hay kết hợp của cả ba loại bệnh trên. Anh đưa cho ông thuốc ký ninh, sulfa và "những thuốc khác". Vài ngày sau Hoagland "điều trị cho ông theo định kỳ". Allison Thomas sau đó nhận xét rằng mặc dù trông Hồ Chí Minh "rất ốm yếu" nhưng anh vẫn không tin ông sẽ chết. Trong vòng mười ngày, ông đã hồi phục được ít nhiều, đã có thể đứng lên và đi lại. Ngoài chăm sóc cho Hồ Chí Minh, Hoagland, người nói tiếng Pháp trôi chảy, còn huấn luyện cho Triệu Đức Quang thành một lính cứu thương. Không những trở thành "đội cứu thương cho nhóm binh sĩ Việt - Mỹ", Quang và Hoagland còn trở thành những người bạn tốt. Theo đề nghị của Hoagland về việc thử nấu vài món địa phương mà Hồ Chí Minh đã từng đề xuất với Thomas không nên cho những người Mỹ ăn, hai anh lính cứu thương "lén đi tới một ngôi làng dưới chân đồi để nấu nướng". "Lần đầu tiên chúng tôi trốn đi không có vấn đề gì Quang nhớ lại, "nhưng lần thứ hai vì quá vội và cơm nấu chưa được chín nên chúng tôi bị bệnh tiêu chảy".
Tình bạn nảy nở giữa Quang và Hoagland không phải là duy nhất. Trần Trọng
Trung, 22 tuổi, và Henry (Hank) Prunier, Zi tuổi, cũng xây dựng được một tình
bạn. Họ nói với nhau bằng tiếng Pháp và vốn tiếng Việt sơ đẳng của Prunier.
Trung có rất nhiều câu hỏi cho Prunier, ví như Roosevelt là ai, và hai người đã
dành nhiều thời gian để trò chuyện. Trung dạy cho Prunier "hát một khúc ballad
quân hành", bài hát này sau đó trở thành quốc ca Việt Nam. Điều đó rõ ràng làm
cho chàng trai Mỹ được nhiều người Việt Nam trong doanh trại quý trọng.
Trong sáu ngày đầu tháng 8, người Việt Nam và người Mỹ cùng nhau dựng trại huấn
luyện. Trong khi người Việt tập trung dựng "những toà nhà" - thường không nhiều
hơn bốn bức tường, một mái tranh và một cái nền - thì người Mỹ tập trung vào nội
thất của ngôi nhà mới. Họ làm vội những chiếc giường ngủ, bàn ghế và vách ngăn.
Trong vòng một tuần, trại huấn luyện gồm 3 doanh trại dành cho binh lính người
Việt, một doanh trại dành cho lính OSS, một phòng họp, một nhà bếp, một kho
hàng, một trạm xá và "trụ sở" liên lạc, một trường bắn rộng 150 thước Anh(1),
và một khu vực huấn luyện ngoài trời. Cuối bãi huấn luyện có một cây cao được
dùng làm cột treo cờ Việt Minh: một ngôi sao vàng ở giữa nền đỏ. Những tân binh
trẻ người Việt tham gia huấn luyện quân sự (do người Mỹ huấn luyện) và huấn
luyện chính trị (do Việt Minh huấn luyện) vui sướng được ở đó. Défourneaux nhớ
rằng dường như các tân binh có vẻ rất vui đơn giản là "được ở cùng nhau mà không
bị gò bó, được đàm đạo và học hỏi lẫn nhau". Từ nhóm 110 tân binh, chỉ huy của
họ Đàm Quang Trung và Đội Nai chọn ra 40 người lính trẻ "nhiều triển vọng nhất"
để bắt đầu huấn luyện ngay. Những tân binh, háo hức được làm việc cùng Đội Nai,
đã được Hồ Chí Minh đặt tên chính thức là "Bộ đội Việt - Mỹ". loại trừ William
Zielski luôn bận liên lạc điện đài với Bách Sắc và Côn Minh, tất cả các thành
viên của Đội Nai đều tham gia huấn luyện cho người Việt. Thomas đã mang theo
những cuốn giáo trình huấn luyện của quân đội Mỹ hướng dẫn luyện tập và cách sử
dụng vũ khí Mỹ và đợt huấn luyện bắt đầu ngày 9 tháng 8 - ba ngày sau vụ ném bom
nguyên tử xuống Hiroshima. Không hề biết gì về những sự kiện đang gây chấn động
địch cầu, Đội Nai tiếp tục huấn luyện nhóm tân binh được lựa chọn của Việt Minh
để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh du kích chống Nhật. Những tân binh trẻ được
huấn luyện cách sử dụng súng cacbin M-1, súng tiểu liên Thompson, súng trường,
bazoca, súng máy hạng nhẹ và Bren. Chương trình huấn luyện gồm phép đạc tam
giác, tập bắn và lau chùi vũ khí. Họ còn được hướng dẫn cách sử dụng súng cối và
lựu đạn. Việc tập luyện tương đối căng thẳng từ ngày 9 cho đến 15 tháng 8, từ 5
giờ 30 sáng đến 5 giờ chiều. Ngày 10 tháng 8 họ nhận được một đợt thả đồ tiếp tế
bổ sung vũ khí và đạn được để tiếp tục công tác huấn luyện tân binh. Chắc chắn
Võ Nguyên Giáp rất vui mừng với những khí tài bổ sung này.
Trang thiết bị được thả dù xuống Việt Bắc vào ba vị trí thả đồ tiếp tế của Đội
Nai, kết hợp với "những loại vũ khí nhẹ do Việt Minh chế tạo tại những nhà máy
quân khí đơn sơ của họ trong rừng" đã tạo thành một đội quân "được trang bị vũ
khí đầy đủ gây ấn tượng cho những người dân nông thôn". Võ Nguyên Giáp nhớ lại:
nhìn thấy nhóm quân mới đứng trong hàng ngũ chỉnh tề và được trang bị súng
trường mới cùng lưới lê sáng loáng khiển chúng tôi phấn khởi và tin tưởng".
Người viết tiểu sử của Võ Nguyên Giáp, Cecil Currey, nói thêm: "Ông Giáp đã kiểm
tra cho chắc rằng những đơn vị trang bị mới của ông được càng nhiều người trông
thấy càng tốt". cả Thomas và Défourneaux cũng bị ấn tượng với những đơn vị mới
này. Cả hai đã ghi lại trong trong nhật ký của mình tinh thần hăng hái và khả
nãng tiếp thu nhanh chóng hầu hết các kỹ nãng quân sự của những người lính trẻ
Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai đều không nhìn thấy tận mẳt toàn bộ giá trị của
nhiệm vụ này. Trong khi Thomas đề nghị huấn luyện binh lính tại khu căn cứ và
sau đó, "khi họ đã thành thạo" thì tấn công Nhật tại những khu vực nguy hiểm hơn
gần Thái Nguyên và Lạng Sơn, thì trung uý Défourneaux không đồng ý với bản chất
của cả huấn luyện lẫn giả thuyết huấn luyện Việt Minh tổng thể. Về bản chất huấn
luyện anh viết:
Chúng tôi đang huấn luyện tân binh cho cuộc chiến tranh thông thường trong khi
dự tính các hoạt động du kích. Nhân tố quan trọng nhất đối với một hoạt động du
kích thành công là sự hiểu biết địa hình. Điều này chắc chắn không có trong phạm
vi chuyên môn của chúng tôi. Những người mà chúng tôi đang huấn luyện có thể
hoạt động khắp Đông Dương mà không sơ bị phát hiện như những người không phải là
dân bản xứ. Là người phương Tây, chúng tôi không có cách nào thuyết phục người
dân địa phương cầm lấy vũ khí và chống lại thế lực xâm lược… Tất cả những gì cần
từ chúng ta là vũ khí, và huấn luyện cách sử dụng những loại vũ khí này.
Défourneaux thậm chí còn chỉ trích gay gắt hơn ý tưởng huấn luyện Việt Minh,
những người anh tin là cộng sản khi so sánh cách chào kiểu nắm tay, bài hát ca
ngợi và cách cư xử của họ với những gì tương tự của những người cộng sản Pháp mà
anh đã thấy khi còn là một thanh niên lớn lên tại miền Đông nước Pháp:
Thật khó cho tôi khi làm theo ý tưỏng huấn luyện quân sự cơ bản cho một nhóm
người bản xứ, những người nhờ mưu mẹo đã thoát khỏi sự chú ý của những chủ thuộc
địa người Nhật và sống sót được… Nếu những người này được tổ chức thành những
trung đội, đại đội chính qui và nhưng đon vi cỡ tiểu đoàn thì dù có thể, chúng
tôi cũng không "việc gì phải dính vào việc xây dựng một lực lượng vũ trang cho
mục đích chiến đấu chống Nhật".
Mặc dù nghi ngờ động cơ của họ, nhưng Défourneaux vẫn thú nhận rằng Việt Minh là
những học viên quân sự giỏi và thậm chí chính Hồ Chí Minh cũng là một "người tài
ăn nói, có phạm vi hiểu biết rộng". Với hầu hết những người khách Mỹ Hồ Chí Minh
chí ít cũng dành một phần thời gian để bàn luận về sự vượt quá giới hạn của Pháp
tại Việt Nam và khát vọng giành tự do của người Việt. Ông nói với Défourneaux,
cũng như với Thomas và Phelan, rằng thậm chí ông sẽ chấp nhận một "thời kỳ quá
độ, trong đó Pháp sẽ hướng dẫn và cuối cùng sẽ chuyển giao trách nhiệm điều hành
cho những người Đông Dương được lựa chọn".
Thomas cũng nhớ là Hồ Chí Minh đã đề cập tới một thời kỳ quá độ từ năm tới mười
năm dưới sự hướng dẫn của Pháp. Thậm chí nhiều năm sau khi rời Việt Nam, Thomas
vẫn nhớ lại sự quan tâm đặc biệt đối với những bức điện mà anh đã thay mặt ông
gửi cho người Pháp gần như ngay sau khi anh đặt chân tới Kim Lũng. Ngày 17 tháng
7, Hồ Chí Minh đề nghị Thomas báo cho người Mỹ tại Côn Minh biết rằng ông sẵn
sàng nói chuyện với một sĩ quan cấp cao của Pháp, ví dụ như tướng Sabattier.
Patti mô tả nỗ lực này là khả năng nắm bắt "thời điểm thích hợp" của Hồ Chí Minh
với hy vọng người Pháp sẽ thực sự bị ấn tượng bởi sự hiện diện của người Mỹ tại
căn cứ của ông, qua đó phải có thái độ tôn trọng ông. Bản kiến nghị gồm năm điểm
của Việt Minh yêu cầu người Pháp "tôn trọng tương lai chính trị của Đông
Dương thuộc Pháp" với các điều khoản sau:
Một quốc hội sẽ được lựa chọn bằng phổ thông đầu phiếu. Đó sẽ là cơ quan lập
pháp của đất nước. Một thống đốc người Pháp sẽ thực hiện trách nhiệm của tổng
thống cho tới khi nền độc lập của chúng tôi được bảo đảm. Vị tổng thống này này
sẽ lựa chọn nội các hoặc một nhóm cố vấn được quốc hội chấp thuận. Quyền lực rõ
ràng của tất cả những cơ quan này có thể được định rõ trong tương lai.
Độc lập sẽ được trao cho đất nước này trong thời gian tối thiểu là 5 năm và
tối đa là 10 năm. Những nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước sẽ được trả
lại cho nhân dân sau khi bồi thường sòng phẳng cho những người hiện đang sở hữu
chúng. Nưóc Pháp sẽ có lợí từ đặc quyền kinh tế.
Tất cả những quyền do Liên Hợp Quốc đã công bố sẽ được bảo đảm tại Đông
Dương.
Cấm buôn bán thuốc phiện.
Trong chừng mực những gì Patti có thể xác định được lúc đó, thông điệp của Hồ
Chí Minh không được người Pháp đáp lại. David Marr viết: "Người Pháp đã chuẩn bị
trả lời hoà giải, dù là lấp lửng, nhưng lại không chuyển nó qua các kênh của OSS
rõ ràng là để Sainteny đích thân trao cho Hồ Chí Minh. Nhưng thời gian dành cho
hoà giải thời chiến đang nhanh chóng kết thúc. Ngày 6 tháng 8, những suy đoán
trên cơ sở đó các nguyên tắc của chúng ta đang phát huy tác dụng đã bị đổ vỡ bởi
trái bom nguyên tử tàn phá Hiroshima".
Tại doanh trại Đội Nai, tin tức về khả năng đầu hàng được gửi đến qua Dan
Phelan. Phản ứng trong binh lính khá mâu thuẫn. Mặc dù rất phấn khích trước viễn
cảnh được trở về nhà, nhưng họ cũng thất vọng vì chiến tranh có thể kết thúc
trước khi họ có cơ hội được đánh nhau trực tiếp với Nhật. Ngày 11 tháng 8, trung
uý Défourneaux đã viết vào nhật ký: "Chúng tôi vẫn mong có trận đánh nào đó
trước khi chiến tranh kết thúc?"
Défourneaux báo cáo rằng tất cả thành viên Đội Nai "đang làm việc khá tốt" trong
mọi hoàn cảnh, ngoại trừ trung sĩ Vogt. Vogt không vui với nhiệm vụ huấn luyện
của mình và nói rõ với viên trung uý rằng anh ta "đã tình nguyện đi giết lính
Nhật chứ không phải làm một trung sĩ huấn luyện". Tuy nhiên, Thomas lại rất vui
khi nhận tin này. Trong nhật ký ngày 15 tháng 8 anh viết: "Hôm nay là một ngày
vui. 9 giờ sáng nghe qua radio rằng những cuộc đàm phán về đầu hàng cuối cùng đã
gần kết thúc". Niềm vui của viên thiếu tá dường như càng làm tăng thêm nỗi thất
vọng của cả đội. "Ba tháng trước", Défourneaux nói, "tất cả đều muốn được chiến
đấu với quân Nhật, nhưng bây giờ họ cảm thấy rằng vị thiếu tá đã sai lầm vì
không cho họ cơ hội". Khi tình cờ nghe được sự hoan hỷ của Thomas, binh lính
"phẫn nộ về thái độ của anh khi những cơ hội chiến đấu của họ bị co lại". Khát
vọng đánh nhau với Nhật này là một trong những đặc tính người Việt Nam ngưỡng
mộ. David Marr kết luận: Người Việt Nam bị mê hoặc bởi những con người xa lạ
này, những người rơi từ trên trời xuống với hàng tấn trang thiết bị của phương
Tây, những người giữ được liên lạc đường dài với các nguồn quyền lực to lớn ở
thế giới bên ngoài, thường khăng khăng đòi được cởi trần (hoàn toàn không giống
thực dân Pháp có ý thức về ăn mặc) khi đi lại và cho thấy mọi biểu hiện về mong
muốn được giết Nhật ngay khi chương trình huấn luyện vừa kết thúc". Mặc dù sự
đầu hàng của Nhật dường như đã diễn ra vào ngày 10 tháng 8, nhưng cả người Mỹ
lẫn người Việt tại Việt Bắc đều không thể chắc chắn là chiến tranh thực sự kết
thúc, vì vậy công tác huấn luyện vẫn tiếp tục hơn bốn ngày sau. Nhưng ngay khi
người Mỹ đang kết thúc cuộc chiến của họ, thì Việt Minh lại đang sắp đặt những
kế hoạch mới. Từ ngày 13 tới ngày 15 tháng 8, ICP, đảng lãnh đạo chính trị của
Việt Minh, tổ chức một "hội nghị chiến lược" tại một ngôi làng gần Tân Trào.
Niềm phấn khởi lan truyền khắp nơi khi các phái đoàn từ xa như miền Nam, miền
Trung, Lào và Thái Lan trên đường về Tân Trào, khi những cán bộ đã nhiều năm
không gặp nhau tìm hiểu lại về nhau và khi tự do dường như sắp đến gần. Như một
hoạt động bên lề hội nghị, các đại biểu được đưa tới những trại huấn luyện để
chứng kiến công tác huấn luyện của Lực lượng Việt - Mỹ. Đối với hầu hết các đại
biểu, các thành viên Đội Nai là những người Mỹ đầu tiên họ đã từng gặp. Mặc dù
không xuất hiện vào lúc khai mạc hội nghị vì bị ốm, nhưng lại một lần nữa Hồ Chí
Minh lặng lẽ thể hiện quyền lực và những mối quan hệ của ông với người Mỹ. Nhà
sử học Stein Tonnesson đã nhắc nhở về sự nhấn mạnh thái quá ảnh hưởng của sự
hiện diện của Đội Nai tại Tân Trào và chỉ ra các nhân tố đưa Hồ Chí Minh đến với
quyền lực tại Việt Nam - gồm danh tiếng đáng kể của ông trong một số đại biểu
với tư cách là nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc có nhiều tác phẩm, và cơ sở cách mạng
- cái đã được Đảng gây dựng trong cả nước. Theo quan điểm của Tonnesson, sự hiện
diện của người Mỹ chỉ có vai trò "làm tăng nhuệ khí" hơn là những thứ khác. Tuy
nhiên, với tất cả các nhân tố hợp lại, và khi bế mạc hội nghị, ưu tiên của Hồ
Chí Minh phát động "tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc" đã chiếm
ưu thế.
Chương 7 (c)
Đình Tân Trào, nơi diễn ra Đại Hội Quốc Dân ngày 16-8-1945(Ảnh tư liệu của Nguyễn Học) [không có hình]
Hôm sau, ngày 16 tháng 8, ban lãnh đạo Việt Minh "triệu tập Đại Hội Quốc Dân tại Tân Trào". Đại hội đã thông qua quốc kỳ mới có một ngôi sao vàng trên nền đỏ và quốc ca mới. Ngày 15 tháng 8, khi hội nghị lần thứ nhất bế mạc thì Thomas ăn mừng tin về sự đầu hàng "sắp diễn ra", anh và Võ Nguyên Giáp quyết định hạ trại, đến gặp Hồ Chí Minh và tiến về Thái Nguyên. Ngay khi Thomas và Giáp tới trụ sở chính của Hồ Chí Minh thì ông đến trên một chiếc cáng. Ông báo tin Nhật đã "đầu hàng vô điều kiện" vào buổi chiều.
Thomas phát những vũ khí Đội Nai đã sử dụng trong huấn luyện cho bộ đội Việt Minh và thông báo với cả học viên và những người Mỹ rằng họ có thể sẽ "ra đi" ngày hôm sau.
Đêm hôm đó những người Mỹ và người Việt liên hoan đến khuya. "Chúng tôi bắn pháo hiệu và pháo hoa trước các binh sĩ của mình", Thomas ghi lại. "Tất cả mọi người cùng hét to "Hoan hô! Hoan hô!" Đêm nay chúng tôi là những chàng trai hạnh phúc. Chúng tôi sẽ có bộ dạng khá tệ khi lên đường sáng ngày mai. Trong lúc các binh sĩ ăn uống và hát hò, Triệu Đức Quang nói với những người Mỹ là anh đã coi họ như những người bạn. Những người bạn Mỹ của chúng ta giải thích rằng hoà bình đã đến và bây giờ tôi không phải đánh nhau nữa", anh nhớ lại. Nhưng", Triệu Đức Quang vội nói thêm, "quân Nhật vẫn còn có mặt trên đất nước tôi, và nước chúng tôi vẫn còn chiến tranh vì thế chúng tôi vẫn phải tiếp tục chiến đấu". Khi Đội Nai và Lực lượng Việt - Mỹ ăn mừng chiến thắng của Đồng Minh, không ai trong số họ nhận ra là chẳng bao lâu họ sẽ được tham gia đánh Nhật
Chú thích:
(1) một thước Anh bằng 0,914m.
hết: Chương 7, xem tiếp: Chương 8