Chương 2
Tình hình nước Mỹ
Như hầu hết người Mỹ, Franklin D. Roosevelt ít quan tâm hoặc biết đến Đông
Dương thuộc Pháp trước khi Chiến tranh thế giới 2 bùng nổ. Đầu thế kỷ mới, ngay
cả những người Mỹ có học vấn cao, dạn dày kinh nghiệm quốc tế như Roosevelt vẫn
dành mối quan tâm hàng đầu cho châu Âu - nơi vẫn được nhiều người xem như trung
tâm đích thực của tầng lớp quyền quý - hay khu vực Mỹ Latin kế bên. Mối quan tâm
đến những vấn đề quốc tế của Roosevelt sớm được thấm nhuần nhờ cha mẹ ông, "những
nhà quý tộc của thung lũng sông Hudsson". Và trong thời gian theo học ở Groton,
nơi thầy hiệu trưởng dạy các trò rằng người Mỹ có đặc quyền cần phải tham gia làm
giảm những tai ương của quốc gia và quốc tế những bài học của thầy hiệu trưởng đã
ăn sâu vào thế giới quan của chàng trai Franklin, người được nuôi dưỡng trong một
gia đình nổi tiếng vì ý thức bẩm sinh giữ trọng trách càng cao trách nhiệm càng
nặng nề; đặc biệt là người anh họ Theodore Roosevelt của Franklin luôn bảo vệ chính
nghĩa trong suốt sự nghiệp của mình.
Cho dù kinh nghiệm của Franklin Roosevelt ở nước ngoài chủ yếu chỉ giới hạn trong
tầng lớp tinh hoa Tây Âu, nhưng ông đã tham gia tranh luận tại Groton tập trung
vào vấn đề "thôn tính Hawaii, trách nhiệm của Anh và Mỹ về sự toàn vẹn lãnh thổ
của Trung Quốc, độc lập của Philippines và chiến tranh của người Boer". Roosevelt
và những người cùng thời với ông dĩ nhiên hiểu được những tranh cãi về chủ nghĩa
đế quốc và các dân tộc phụ thuộc từng lan rộng trong thời thanh niên của mình. Các
ý kiến thay đổi từ quan điểm của Mark Twain rằng chủ nghĩa đế quốc sẽ để lại nước
Mỹ "tâm hồn tràn đầy sự hèn kém, túi căng phồng những đồng tiền bẩn thỉu và cái
miệng đầy đạo đức giả", đến tuyên bố của Thượng nghị sĩ tiểu bang Indiana Albert
Beveridge rằng người Mỹ là "dân tộc được lựa chọn" từ trước bởi thượng đế "để lãnh
đạo trong cuộc hồi sinh thế giới"; và những tranh cãi xuyên qua xã hội Mỹ lúc chuyển
giao thế kỷ đã đưa Roosevelt đến hai khía cạnh của một vấn đề mà ông sẽ phải giải
quyết trong nhiệm kỳ tổng thống của mình.
Sau khi tốt nghiệp trường Groton, Franklin đến Harvard và trường Luật Columbia.
Năm 1907, ông thực hành nghề luật tại phố Wall và mơ ước được làm chính trị theo
gương người anh họ Theodore. Khát vọng của ông nhanh chóng trở thành hiện thực:
ông được bầu vào Thượng viện tiểu bang New York năm 1910, và sau đó được bổ nhiệm
làm trợ lý hải quân trong chính quyền của Woodrow Wilson. Là một người khát khao
hải quân, Roosevelt ủng hộ chi tiêu nhiều cho hạm dội và thúc giục tân tổng thống
khẳng định sức mạnh Mỹ với cả Nhật Bản và Mexico. Sử gia của tổng thống, Robert
Dallek viết:
"Tính chiến đấu của Roosevelt là sản phẩm không chỉ của khát vọng giành được
danh tiêng và thần tiên trong sự nghiệp chính trí của ông, mà còn là cam kết ngay
thẳng của ông đối với những ý tưởng mà ông đã học được trong những năm trước đó,
và bây giờ chia sẻ với giới ngoại giao, (quân sự và chính trị mà ông cùng cộng tác
ở Washington. Giống như họ, ông tin rằng vai trò to lớn của nước Mỹ trong các vấn
đề quốc tế sẽ phục vụ cả hạnh phúc dân tộc lẫn nhu cầu của những dân tộc chậm tiến
trên toàn thế giới".
Sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới 2 chỉ làm tăng khát vọng dính líu tích cực
vào lĩnh vực quốc tế của Roosevelt. Mặc dù lúc đầu ông hy vọng tham gia vào cuộc
chiến, nhưng hoàn cảnh đã ngăn cản ông đến với quân dội, và đo đó những bài học
mà ông rút ra từ kỷ nguyên mới, từ những nỗ lực chấm dứt chiến tranh nhiều hơn là
bản thân cuộc chiến. Theo dõi và lắng nghe tổng thống và phản ứng của công chúng
khi Wilson kêu gọi chủ nghĩa lý tưởng Mỹ bằng Chương trình 14 điểm, Roosevelt trở
thành người ủng hộ chủ nghĩa thực dụng của Wilson. Được hoàn cảnh thuyết phục, Roosevelt
hiểu rằng "một chính khách có tham vọng cùng những cam kết theo chủ nghĩa quốc tế
lúc này không thể tiến lên cùng thành tích quân sự và các mỹ từ, mà người anh họ
của ông trước đó đã sử dụng rất hiệu quả "Khẩu hiệu" dành cho công chúng thời hậu
Chiến tranh thế giới I là "Giải trừ quân bị và hoà bình". Mười năm sau đó, Roosevelt
tiếp tục xây dựng danh tiếng chính trị của mình: đặt cơ quan cao nhất của đất nước
vào tầm ngắm của ông. Là một chính khách tốt, ông theo dõi sát sao tâm trạng của
công chúng và đưa ý kiến của nhân dân vào những mục tiêu của chính sách đối ngoại
của chính ông. Bằng cách đó, khi xuất hiện những vấn đề quốc tế trong quá trình
vận động tranh cử của Roosevelt, ông tập trung vào chủ nghĩa hoà bình - cái "Chế
ngự suy nghĩ của công chúng ở bất cứ đâu", và ông tin đó là "chủ nghĩa hiện thực
chính trị đơn giản hậu thuẫn cho nỗ lực quốc tế vì hoà bình". Roosevelt hiểu toàn
bộ khát vọng của người dân Mỹ là không muốn vướng vào những cuộc chiến của châu
Âu vốn được cho là một phần của toà nhà đế quốc. Ông viết: "Toàn bộ xu thế của
thời đại đêu chống chiến tranh mở rộng thuộc địa".
Khi cuộc Đại suy thoái ập đến, Roosevelt tập trung vào những yếu kém của nền kinh
tế Mỹ, và trong khi thừa nhận tình cảm của công chúng đối với việc tránh những dính
líu quốc tế hao tiền tốn của, ông vẫn giữ thái độ im lặng đối với các vấn đề chính
sách đối ngoại. Cái im lặng này trong nhiều trường hợp khiến mọi người lầm tưởng
cảm giác thực của ông về sự phụ thuộc lẫn nhau cơ bản của các dân tộc, và làm xa
lánh một số người có cảm tưởng rằng ông đã từ bỏ những quan điểm theo chủ nghĩa
quốc tế của mình.
Những chiến lược vận động tranh cử tập trung vào những rủi ro của quốc gia thay
cho quốc tế của ông đã phát huy tác dụng và ông được bầu làm tổng thống năm 1932.
Theo quy luật tất yếu, nhiệm kỳ đầu tiên ông tập trung vào chế ngự những vấn đề
quốc nội khốc liệt của thời đại. Mặc dù có lẽ đã tiên liệu tình trạng rối loạn toàn
cầu sắp đến, nhưng Roosevelt không thể hành động dựa vào những nghi ngờ của ông
ngay cả khi chúng hiện hữu.
Trong số những dấu hiệu cảnh báo sớm về việc chiến tranh sắp nổ ra là cuộc xâm lăng
của Nhật vào miền Bắc Trung Quốc. Bất kỳ ai tìm kiếm phát súng cảnh báo của Chiến
tranh thế giới 2 đều không cần để ý xa hơn việc Nhật Bản chiếm Mãn Châu bằng vũ
lực năm 1931. Dù Roosevelt, giống như hầu hết các chính khách trên thế giới, chỉ
trích Nhật Bản xâm lược và sau đó sát nhập Mãn Châu, được người Nhật đổi tên thành
Mãn Châu quốc, nhưng ông không có ý định can dự vào cuộc tranh chấp xa xôi này.
Tuy nhiên ở đầu nhiệm kỳ thứ hai của ông (1936 - 1940), những hoạt động của Nhật
Bản một lần nữa gây ra lo lắng. Năm 1937, khi chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, Roosevelt
một lần nữa lên án những hoạt động quân sự của Nhật Bản nhưng không cố gắng ngăn
chặn sức mạnh quân sự của Thiên Hoàng lúc này đã sẵn sàng giày xéo hầu hết những
khu vực đông dân và sản xuất của Trung Quốc. Sự bất hành động của Roosevelt có thể
thấy phổ biến trong tính thực dụng chính trị được điều khiển bởi những mối quan
tâm trong nước vì đương nhiên công chúng Mỹ không ủng hộ những hành động quân sự
của Mỹ nhằm bảo vệ Trung Quốc - dẫu rằng hầu hết người Mỹ thông hiểu tình hình đều
muốn Nhật bại trận. Thiện cảm của Roosevelt rõ ràng còn dành cho người Trung Quốc.
Nền tảng giáo dục mà ông sớm có được, ở nhà và tại trường, (nền tảng ấy nhấn mạnh
nhu cầu tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc cũng như lợi ích thương mại
của Mỹ trong khu vực) khát vọng thúc đẩy hoà bình quốc tế, và tất nhiên, mức độ
lo lắng về những gì Nhật Bản có thể làm tiếp theo - tất cả đã thuyết phục ông giúp
Trung Quốc nếu có thể, nhưng bằng những cách không gây đối kháng với cả Nhật Bản
lẫn những người theo chủ nghĩa biệt lập Mỹ.
Số đông các quốc gia khác cũng theo dõi cuộc xung đột Trung - Nhật, nhưng các nước
Tây Âu có những tài sản thuộc địa ở châu Á thì đặc biệt lo lắng. Cả Anh và Pháp
đều có lý do xác đáng để quan ngại. Đến đầu năm 1938, Hồng Kông thuộc Anh và Đông
Dương thuộc Pháp là hai trong số những điểm còn lại mà từ đó các phương tiện chiến
tranh có thể được chuyển vào Trung Quốc. Những nguồn tiếp tế này đặc biệt cần cho
sự tồn tại của chính quyền Tưởng Giới Thạch, và Nhật Bản nhận thức rõ thực tế đó.
Người Pháp đặc biệt lo ngại Nhật Bản có thể tấn công Bắc Kỳ, nơi những trang thiết
bị có tầm quan trọng sống còn được vận chuyển bằng đường thuỷ đến Hải Phòng và từ
đó theo đường sắt đến Vân Nam hoặc Lạng Sơn rồi theo đường bộ vào trung tâm Trung
Quốc.
Vì lý do đó, Toàn quyền Catroux đã "miễn cưỡng" cho phép vận chuyển đạn được cho
Tưởng Giới Thạch qua ngả Hải phòng "vì sợ Nhật trả đũa". Đặc biệt, ông ta lo rằng
Nhật Bản có thể ném bom đường sắt bằng những máy bay xuất phát từ các hàng không
mẫu hạm đậu ngoài khơi đảo Hải Nam. Như đã lưu ý từ trước, Catroux nhận ra rằng
mình đang "đơn thương độc mã", rằng rất khó xoay sở nên ông ta đã có một số nhượng
bộ đối với Nhật Bản nhưng vẫn cho phép một ít hàng viện trợ đến Trung Quốc.
Trong khi theo dõi tình hình châu Á, Roosevelt đã thúc giục các cố vấn của ông tìm
kiếm những biện pháp hoà bình giúp tiếp tục mở những tuyến tiếp tế đến trung tâm
Trung Quốc, nhưng ông không thể - về mặt chính trị và quân sự - gửi quân tới bảo
vệ Đông Dương hay bất kỳ thuộc địa nào khác của châu Âu.
Những lo ngại về khả năng bành trướng của Nhật tiếp tục kéo dài sang năm 1939 và
được bổ sung thêm bằng những tranh chấp giữa Pháp và Nhật về quyền sở hữu quần đảo
Trường Sa (nằm giữa Việt Nam và Philippines trên biển Đông). Lúc đó chính quyền
Roosevelt đã tạo ra một sự khác biệt ôn hoà giữa những yêu sách của Pháp đối với
Đông Dương và quần đảo Trường Sa.
Trong một cuộc đàm luận với đại sứ Pháp Ren Doynel de Saint-Quétin về mối đe doạ
của Nhật, Maxwell Hamilton, một nhân viên ngoại giao Mỹ, đã nói rõ: "Những suy xét
tương tự có khả năng tác động đến Chính phủ về sự chiếm đoạt lãnh thổ bằng sức mạnh
ở châu Âu cũng có thể áp dụng đối với việc Nhật Bản giành lãnh thổ bằng sức mạnh
như trường hợp Hồng Kông hay Đông Dương thuộc Pháp". Khi được vị đại sứ hỏi liệu
những suy xét tương tự có được áp dụng đối với trường hợp Nhật xâm chiếm quần đảo
Trường Sa hay không, Hamilton đã phác ra quan điểm của Mỹ: "Có thể có sự chiếm
đoạt không đặt thành vấn đề như trường hợp Anh sở hữu Hồng Kông hay Pháp sở hữu
Đông Dương, trái lại có tới hai yêu sách một của Pháp và một của Nhật, đòi chủ quyền
quần đảo Trường Sa. Rõ ràng, Đông Dương thuộc Pháp đã đi vào khung câu trúc tinh
thần của tổng thống và nhân viên trong Bộ Ngoại giao, nhưng như một khu vực địa
lý không thể phủ nhận dưới sự kiểm soát của Pháp, và quan trọng đối với chính phủ
kiên gan của Tưỏng Giới Thạch, chứ không như một vùng đất của nguởí bản xứ có những
quyền và khát vọng của riêng mình".
Tình hình trở nên phức tạp hơn đáng kể trong năm 1940. Khi Roosevelt phát động chiến
dịch tranh cử tổng thống nhiệm kỳ ba, ông phải hành động trong một hoàn cảnh cực
kỳ khó khăn: trung hoà yêu cầu đòi đứng ngoài cả tình trạng hỗn độn ở Trung Quốc
lẫn chiến tranh đang ngày một khốc liệt ở châu Âu của những người ủng hộ chính sách
biệt lập và niềm tin của chính ông rằng, Mỹ sẽ phải vào cuộc để bảo vệ nền dân chủ
và tự do thương mại cực kỳ quý giá đối với Mỹ và bị chỉ trích trong thiết lập cũng
như duy trì hoà bình thế giới. Được an ủi phần nào rằng niềm tin của chính Roosevelt
cuối cùng có thể có ảnh hướng lớn nhưng khi nhận ra những khó khăn của ông với công
luận Mỹ, thì cả Anh và Pháp đều sợ rằng sự can thiệp của Mỹ đơn giản là sẽ không
xảy ra. Ngày 16 tháng 6 năm 1940, tại một trong những yêu cầu cuối cùng của mình
nhờ Mỹ trợ giúp khi quân Đức đang tràn qua nước Pháp, Thủ tướng Pháp Paul Reynaud
đã công khai tuyên bố: "Tôi phải nói với ngài… Nếu ngài không bảo đảm với nước Pháp
trong những giờ tới rằng Mỹ sẽ tham chiến ngay lập tức thì bộ mặt của thế giới sẽ
thay đổi. Rồi ngài sẽ thấy nước Pháp chìm nghỉm như một kẻ đang chết đuối và biến
mất sau khi đã mỏi mắt nhìn về xứ sở của tự do mà từ đó nó tìm kiếm sự bảo vệ".
Mặc dù Roosevelt đã cung cấp nhiều nguyên vật liệu bằng tất cả khả năng của ông
trong những giới hạn của pháp luật Mỹ và sự phê chuẩn của nghị viện, nhưng ông không
thể đề nghị can thiệp quân sự và ông không thể ngăn chặn việc nước Pháp đầu hàng.
Với sự sụp đổ của Pháp trước Đức Quốc xã, việc Đông Dương cuối cùng sẽ rơi vào tay
một thành viên trong phe Trục xem ra không thể tránh được. Nhật Bản tiếp tục gây
sức ép lên Chính phủ Vichy đòi thêm nhượng bộ và Mỹ tiếp tục phản đối những hành
động của Nhật. Tuy nhiên không phải mãi đến khi Nhật bắt đầu chiếm đóng miền Bắc
Việt Nam vào tháng Chín thì áp lực của nền kinh tế Mỹ mới được đem ra để áp đặt
một lệnh cấm vận đầy đủ về sắt và thép rời. Nhưng, bất chấp những cố gắng lớn nhất
của chính quyền Roosevelt, không một trừng phạt kinh tế và tài ngoại giao nào có
vẻ có tác dụng trong năm 1940 và chắc chắn cả trong năm 1941, hai chính phủ Nhật
Bản và Mỹ đang nhảy nhót theo những điệu nhạc khác nhau.
Roosevelt cố ngăn chặn sự bành trướng của quân Nhật vào phần còn lại của Việt Nam
và sự lan rộng hơn nữa của chiến tranh Thái Bình Dương bằng đề nghị trung lập hoá
Đông Dương thuộc Pháp như một nước giống Thuỵ Sĩ cùng với mở rộng cửa tiếp cận thương
mại. Nhật Bản bác bỏ đề nghị đó.
Đến cuối mùa hè năm 1941, quân Nhật tiến vào miền Nam Việt Nam. Đáp lại, Mỹ đóng
băng các tài sản của Nhật. Tuy nhiên, việc này không cho thấy dự định đáng tin cậy
nhằm "bảo vệ" Việt Nam, hay thậm chí Trung Quốc trước Nhật Bản. Các nhà ngoại giao
Mỹ tiếp tục các cuộc thảo luận với Tokyo hy vọng trì hoãn, thậm chí có thể cả tránh,
một cuộc chiến tranh trên Thái Bình Dương dựa trên "những lo ngại vẫn tiếp diễn"
của Roosevelt rằng "những nguồn tài nguyên khan hiểm phải được huy động chống Hitler".
Nhưng khi hè chuyển sang thu, "Báo chí, công chúng và ý kiến chính thức đều đồng
loạt phản đối bất kỳ chính sách nhượng bộ nào đối với Nhật Bản". Và với thất bại
ngoại giao của cả hai phía, cuộc tấn công Trân Châu Cảng tháng Mười hai đã đưa nước
Mỹ vào vòng xoáy của chiến tranh thế giới chống lại cả ba cường quốc trong phe Trục
và kéo căng các nguồn lực của nước Mỹ giữa hai mặt trận.
Khi Mỹ trở thành nước tham chiến chính thức trong Chiến tranh thế giới 2, thì quan
điểm của Roosevelt về Pháp và Đông Dương thuộc Pháp cũng dần thay đổi. Cuối cùng
tổng thống và các phụ tá của ông tiếp tục cam kết với người Pháp rằng vị thế quốc
tế của họ, cả ở châu Âu và như một cường quốc thuộc thực dân, sẽ được bảo đảm trong
thời hậu chiến.
Chẳng hạn, tháng 1 năm 1942, trong một nỗ lực ngăn chặn hợp tác của Vichy với phe
Trục, Roosevelt đã chuyển một bức thông điệp năm điểm cho đại sứ Mỹ ở Pháp, đô đốc
William Leahy, để sử dụng nếu điều kiện cho phép - hoặc là với thống chế Pétain
hoặc với tướng Weygand". Điểm số hai đề cập trực tiếp đến các thuộc địa của nước
Pháp khẳng định rằng: "Từ Pháp trong tâm trí tổng thống bao gồm Đế chế thực
dân Pháp". Cũng trong thông điệp đó, tổng thống đã bảo Vichy coi chừng bất kỳ sự
quy phục khả dĩ nào nếu Đức tấn công hoặc nước Pháp hoặc bất cứ thuộc địa nào của
Pháp. Ông khuyến cáo rằng: "Việc sẵn sàng chấp nhận một cuộc tấn công như vậy" của
họ chỉ có thể được xem như "chơi trò chơi của Đức".
Tuy chính phủ Vichy rõ ràng muốn tránh xung đột thêm hoặc với những kẻ chiếm đóng
Đức hoặc người Mỹ, nhưng họ không hoàn toàn hợp tác với bất kỳ bên nào. Cũng tháng
đó, đại sứ Leahy chuyển đi những nội dung trao đổi giữa ông với đô đốc Jean François
Darlan và toàn bộ những ấn tượng của ông khi xem Vichy như đồng minh. Về Đông Dương
thuộc Pháp, Leahy viết: "Tôi tham khảo những bản tin trên báo về một cuộc tấn
công của Đồng Minh vào một sân bay bị Nhật chiếm đóng tại Hà Nội và bày tỏ ý kiến
rằng ở nước Pháp chúng tôi phải được chuẩn bị cho hoạt động quân sự của Đồng Minh
chống Đông Dương bị Nhật chiếm đóng, đặc biệt là các căn cứ và hải cảng bị Nhật
sử dụng. Darlan đáp lại rằng không có các căn cứ ở Đông Dương và các hải cảng không
hữu ích. Khẳng định của Darlan, tất nhiên, chẳng hơn gì một lời nói dối trơ
trẽn không làm gì để giảm bớt những nghi ngờ của người Mỹ. "Ấn tượng chung của
tôi như kết quả của cuộc trao đổi này", Leahy kết luận, "Mỹ không thể hy vọng
vào bất kỳ sự hợp tác nào của Vichy".
Trong những cuộc trao đổi với người Anh vào tháng 1 năm 1942 Roosevelt đã có quan
điểm hơi khác về thuộc địa. Mặc dù mục đích tối thượng của ông là thiết lập một
quan hệ đối tác thời chiến vững vàng giữa hai nước, nhưng Roosevelt cố gắng làm
cho nhà lãnh đạo Anh Winston Churchill nhận thức rõ một số quan điểm của công luận
Mỹ đối với chủ nghĩa đế quốc và nhu cầu "đồng cảm với những mục tiêu phi vật chất
thời hậu chiến" đối với Anh. Cụ thể, Ấn Độ là điểm bất đồng.
Với việc quân Nhật tiến về hòn ngọc trên vương miện của đế quốc Anh, "tiếng nói
phản đối gia tăng tại Mỹ đòi Anh phải thay đổi chính sách đế quốc của nước này".
Về phần mình, người Anh không khóc mà cũng chẳng cười trước sự can thiệp của Mỹ
vào công việc của nước họ.
Trong một phát biểu gây ấn tượng mạnh, Roosevelt than với phu nhân của tác giả Louis
Adamic(1) rằng Churchill "không hiểu phần lớn người dân chúng tôi có cảm
giác ra sao về nước Anh và vai trò của nó trong đời sống của các dân tộc khác… Tất
nhiên có nhiều loại người Mỹ, nhưng là một dân tộc là một quốc gia, chúng tôi phản
đối chủ nghĩa đế quốc - chúng tôi không thể chịu đựng được nó". Mặc dù cảm tưởng
của Roosevelt về quan điểm của công chúng Mỹ có thể chứa đựng nhiều sự thật, nhưng
dĩ nhiên ở đó không hề có quyết tâm lớn nhằm cáo chung chủ nghĩa đế quốc trên phạm
vi toàn cầu. Ví dụ, sự đồng cảm, tuy đôi khi kiêu ngạo, biểu lộ đối với người Ấn
Độ và khát vọng độc lập của họ hiển nhiên không mở rộng đến Burma, cũng là một thuộc
địa của Anh có những nhà ái quốc dầy khao khát. Như một phần giác thư gửi Churchill
năm 1942 đề cập đến những cộng tác viên Burma, Roosevelt đã thể hiện rõ sự thiếu
bằng chứng xác thực với những người bị chủ nghĩa thực dân áp bức:
"Tôi chưa từng thích Burma và người Burma! Và người dân nước ngoài hẳn là đã
có khoảnh thời gian khủng khiếp với họ từ 5o năm qua. Ơn Chúa là các ngài khoá chặt
NÓ - THẤY CHÚNG TA - THẤY CÁC BẠN - THẤY (ám chỉ chính khách Burma gây nhiều tranh
cãi U Saw)(2). Tôi ước chi ngài tống chúng vào một chiếc chảo rán có tường bao quanh
và mặc xác chúng trong món nước sốt của chính chúng".
Để giữ công luận Mỹ ủng hộ Anh, Roosevelt đã tế nhị thúc giục Churchill thay đổi
một số biện pháp ở Ấn Độ, ngoại trừ Burma không được mấy quan tâm. Các thuộc địa
của Pháp về cơ bản rơi vào cùng một hạng như Burma. Đặc biệt vì ít người Mỹ biết
rõ về những nước này huống hồ là về những khát vọng dân tộc chủ nghĩa của họ, nên
Roosevelt có thể đề cập đến người Pháp và đế chế của họ như những nhu cầu quân sự
và ngoại giao thời chiến phù hợp nhất không theo tình cảm ngạo mạn của những người
chống đế quốc hay khát vọng của các dân tộc thuộc địa. Ví dụ, khi Mỹ mưu toan thiết
lập lãnh sự quán của mình tại Brazzaville, Equatorial Africa thuộc Pháp (nay là
Congo), thứ trưởng Bộ ngoại giao Sumner Welles một lần nữa cố xoa dịu lo ngại của
người Pháp về thế giới thời hậu chiến: như đã vài lần thông báo với chính phủ các
ngài, chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ công nhận quyền hạn tối thượng của người Pháp
đối với lãnh thổ Pháp và các thuộc địa của Pháp ở hải ngoại. Chính phủ Hợp Chủng
Quốc Hoa Kỳ thiết tha hy vọng có thể thấy sự tái thiết độc lập và toàn vẹn lãnh
thổ của nước Pháp".
Những tuyên bố có tính an ủi này được lặp lại ít thường xuyên hơn trong năm sau
khi Roosevelt trở nên tỉnh ngộ hơn với cách điều hành của cả nước Pháp Vichy và
nước Pháp Tự do dưới sự lãnh đạo của De Gaulle, người mà ông không tin tưởng và
thân thiện. Nhằm tạo dựng một thế giới hoà bình sau chiến tranh, khai thác chủ nghĩa
lý tưởng, giành được sự đồng thuận của công chúng Mỹ, và tạo ra cảm giác tin tưởng
đối với Đồng Minh trong người dân Mỹ, Roosevelt bắt đầu nói về trong số nhiều vấn
đề khác, khả năng uỷ trị quốc tế thời hậu chiến.
Trong cuộc đàm đạo với Bộ trưởng ngoại giao Nga Vyacheslav Molotov giữa năm 1942,
Roosevelt "đã bày tỏ niềm tin tưởng của ông rằng sự cáo chung của các thuộc địa
sẽ đáp ứng hoà bình thế giới bằng ngăn chặn những cuộc đấu tranh thời hậu chiến
đòi độc lập và rằng sự uỷ trị quốc tế cần được thiết lập đại diện cho các thuộc
địa cũ cho đến khi chúng sẵn sàng cho một chính phủ tự trị". Trong ảo tưởng của
Roosevelt về thế giới sau chiến tranh, Mỹ, Liên Xô, Anh và có khả năng cả Trung
Quốc sẽ là các "sen đầm" thế giới chịu trách nhiệm về an ninh quốc tế, kể cả giám
sát những quốc gia được uỷ trị. Mặc dù kế hoạch uỷ trị nếu được thực hiện có thể
gặp phải sự phản đối dữ dội trong những người Mỹ không ủng hộ chủ nghĩa thực dân,
nhưng nó cũng mang nhiều nỗi kinh hoàng đến cho những kẻ nắm giữ các đế quốc - nhất
là Anh và Pháp. Như sẽ thấy, Roosevelt có khuynh hướng làm dịu những vấn đề với
nước Anh, ông nhấn mạnh rằng những thuộc địa trong tình trạng tranh chấp như Triều
Tiên sẽ là vùng lãnh thổ đầu tiên được đặt dưới sự uỷ trị, nhưng ông trở nên cực
kỳ căm ghét đế quốc Pháp.
Suốt năm 1943 Roosevelt đưa ra nhiều tuyên bố về kế hoạch uỷ trị đã được thiết lập
một cách lỏng lẻo của ông và về tình hình thuộc địa nói chung, nhấn mạnh đến mối
liên kết giữa chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Trong một cuộc trao đổi với con
trai Elliott, Roosevelt nói rõ học thuyết của ông rằng nếu không có thay đổi trong
hệ thống thuộc địa trước chiến tranh thì thế giới sẽ còn lâm vào một cuộc chiến
tranh nữa ngay khi kết thúc cuộc chiến này. Tất nhiên ông không xa rời mục đích.
"Vấn đề là", ông tuyên bố, "hệ thống thuộc địa có nghĩa là chiến tranh. Cứ bóc lột
các nguồn tài nguyên của Ấn Độ, Burma, Java; cứ lấy đi của cải của những nước này
nhưng không đem lại cho họ thứ gì như giáo dục, mức sống tử tế, những nhu cầu tối
thiểu về y tế - tất cả những gì người ta đang làm là tích trữ rắc rối dẫn đến chiến
tranh".
Thật thú vị, đến năm 1943, Burma, nước mà ông đã đề cập đến một cách mỉa mai trong
giác thư gửi Churchill chỉ một năm trước, lại trở thành một trong những ví dụ về
một dân tộc bị áp bức xứng đáng được thay đổi. Nhưng tuyên bố này và những tuyên
bố tương tự khác liên quan đến các thuộc địa của Anh và Hà Lan có vẻ quá ôn hoà
khi so sánh với những chỉ trích người Pháp của Roosevelt. Đặc biệt, ông đã nhấn
mạnh một cách khác thường đến Đông Dương thuộc Pháp - khác thường bởi mặc dù sự
thống trị của đế quốc Pháp đã mang đến cho người nông dân Việt Nam cảnh bần hàn,
nhưng đấy dĩ nhiên không phải là hoàn cảnh đặc thù trong thế giới thuộc địa. Trong
một cuộc trao đổi với Elliott, ông đã lên án sự cai trị của Pháp:
"Người Nhật lúc này kiểm soát thuộc địa đó. Tại sao Nhật lại quá dễ dàng xâm
chiếm vùng đất ấy? Người dân Đông Dương đã bị áp bức trắng trợn đến mức họ tự nhủ:
Bất kỳ cái gì cũng hẳn tốt hơn phải sống dưới ách thống trị của Pháp! Một miền đất
có nên thuộc về Pháp hay không? Theo logic nào, theo tục lệ hay theo quy luật lịch
sử nào? … Cha đang nói về một cuộc chiến khác, Elliott ạ… Cha đang nói về những
gì sẽ xảy ra với thế giới của chúng ta nếu sau cuộc chiến tranh này chúng ta lại
bỏ mặc hàng triệu người trở lại tình trạng bán nô lệ như cũ".
Một lựa chọn đối với quyền lực thuộc địa của Pháp, tổng thống đề nghị người Anh
rằng Đông Dương thuộc Pháp cũng như Triều Tiên, nên trở thành những quốc gia được
Mỹ, Liên Xô và có thể cả Trung Quốc uỷ trị. Chính phủ Anh không ủng hộ ý tưởng này
và nêu rõ, trong số những vấn đề khác, rằng Trung Quốc không phải và không thể được
xếp loại như một cường quốc thế giới bên cạnh Anh, Mỹ và Liên Xô. Tuy nhiên theo
Roosevelt, đề nghị này có một ý nghĩa hoàn hảo. Với nhiều người Mỹ, Trung Quốc là
"đồng minh được mến chuộng nhất" bởi nước này "chưa bị đổi màu bởi chủ nghĩa cộng
sản hay chủ nghĩa đế quốc, là nạn nhân hơn là kẻ thực hành quan điểm chính trị dựa
trên sức mạnh. Trung Quốc trên tất thảy, được xem như một đồng minh dân chủ tự nhiên
của Mỹ". Và có vẻ logic là, chia sẻ sự gần gũi về địa lý với cả hai quốc gia, Trung
Quốc nên có chân trong việc dẫn dắt hai thuộc địa theo hướng chế độ tự trị dân chủ.
Trung Quốc bị tác động bởi nạn tham nhũng và tranh chấp nội bộ, vì vậy chỉ là một
lựa chọn không đáng kể với tư cách quốc gia trông coi một lãnh thổ được uỷ thác
quốc tế. Song nếu một chính phủ vững chắc về mặt chính trị thân thiện với Mỹ xuất
hiện tại đó thì kế hoạch uỷ trị trọn vẹn của Roosevelt đã có tiềm năng.
Giả dụ rằng tình trạng của các thuộc địa là chiếc chìa khoá đích thực cho nền hoà
bình bền vững sau chiến tranh và góp phần xây dựng sức mạnh quân sự và kinh tế Mỹ,
thì Roosevelt "đã hy vọng hệ thống uỷ trị sẽ cho phép Mỹ thiết lập các căn cứ hải
quân và không quân dài hạn tại những vị trí chiến lược trên Thái Bình Dương và bất
kỳ nơi nào không phải đương đầu với mối ác cảm Mỹ truyền thống đối với quan điểm
chính trị dựa vào sức mạnh". Trong ý kiến của Roosevelt, "một hệ thống quyền lực
tập thể vì lợi ích của các nước đang nổi lên sẽ làm giảm quyền năng quân sự của
Mỹ" và "có thể cung cấp tài chính cả trợ giúp những dân tộc bị bóc lột lẫn một hệ
thống an ninh khả thi khu vực Thái Bình Dương cho tối thiểu hai mươi năm". Roosevelt
nhìn nhận Đông Dương như một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh châu Á sau chiến
tranh, vì thế điều duy nhất phù hợp là ông cần trao cho thuộc địa đó vai trò chính
trong kế hoạch uỷ trị. Trung Quốc và Liên Xô, cả hai có vấn đề của riêng mình, hầu
như chỉ biết phục tùng kế hoạch của Mỹ.
Trên thực tế, những chỉ trích người Pháp của Joseph Stalin rõ ràng cũng tương tự
của Roosevelt. Tóm lại là "toàn bộ giai cấp thống trị Pháp đã mục ruỗng đến lõi",
và "đang tích cực tiếp tay cho kẻ thù của chúng ta". Stalin đã xác định rằng "giao
vào tay Pháp bất kỳ vị trí chiến lược nào sau chiến tranh sẽ chẳng những không đúng
đắn mà còn nguy hiểm nữa", và Đông Dương thuộc Pháp rơi vào loại đó. Những nghi
ngờ về ý định và mục đích của kế hoạch uỷ trị chỉ làm tăng sự phản đối của Anh đối
với các cuộc tranh luận về vị thế của Đông Dương sau chiến tranh. Những phản đối
nóng nảy của Churchill tại Hội nghị Teheran năm 1943 đã bị Roosevelt đáp trả gay
gắt: "Xem đây, thưa ngài Winston", ông vặn lại, "về vấn đề Đông Dương thuộc Pháp
ngài đã thua với tỷ số phiếu".
Thậm chí sau những hội nghị năm 1943 tổ chức ở Cairo và Teheran, Roosevelt tiếp
tục nói về vấn đề chấm dứt ách thực dân của Pháp, đặc biệt là ở Đông Dương và thuộc
địa châu Phi Dakar, cả hai được xem là cần thiết cho các căn cứ quân sự Mỹ nhằm
bảo đảm an ninh thời hậu chiến. Và nước Anh tiếp tục phản đối kế hoạch này một phần
vì những ẩn ý về số phận của Đế quốc Anh. Mặc dù Churchill nhất quyết là sự tan
rã của đế quốc không xảy ra trong nhiệm kỳ của ông, bằng việc ký kết Tuyên bố
Đại Tây Dương bên cạnh Roosevelt tháng 8 năm 1941, ông đã mở toang cửa tranh
luận về ý nghĩa của sự giải phóng, tự quyết và những thuật ngữ này có thể ứng với
ai. Thực vậy, điểm Ba của Tuyên bố đã gây ra nhiều bất ổn trong người Pháp và dem
lại hy vọng cho những người theo phong trào đòi độc lập trên toàn thế giới, trong
đó có người Việt Nam. Điểm này ghi rõ: "Các bên tôn trọng quyền của tất cả các
dân tọc lựa chọn hình thái chính phủ tương lai của mình, và hy vọng chứng kiến các
quyền tối thượng và tự quản được khôi phục cho tất cả những ai đã bị tước đoạt các
quyền đó bằng vũ lực".
Trong bối cảnh Chiến tranh thế giới 2, tuyên bố này có thể được hiểu theo nhiều
cách khác nhau. Một mặt, cách diễn đạt bảo thủ ám chỉ khát vọng chỉ đối với sự giải
phóng các lãnh thổ bị Đức Quốc xã và Nhật Bản chiếm đóng. Mặt khác, cách diến đạt
thoáng hơn ám chỉ một cam kết cáo chung toàn bộ chủ nghĩa thực dân, bênh vực cho
những dân tộc phụ thuộc đã thực sự bị tước đoạt các quyền của mình. Cả Roosevelt
và Churchill đều hy vọng rằng những mục tiêu khái quát được thể hiện trong Tuyên
bố Đại Tây Dương, bao gồm cả điểm Ba, sẽ giúp gắn công luận Mỹ vào nỗ lực chiến
tranh của Anh và đặt nền tảng cho tăng cường viện trợ của Mỹ trong cuộc chiến chống
chủ nghĩa Quốc xã. Sau khi Mỹ chính thức tham chiến, Tuyên bố Đại Tây Dương
còn trở nên quan trọng hơn, như một trong những mối liên kết chủ yếu gắn cuộc chiến
tranh này với một thế giới lý tưởng hơn thời hậu chiến.
Đến cuối năm 1944, những tuyên bố của Franklin Roosevelt cho thấy, chí ít trong
những trường hợp đã được lựa chọn, ông đã quy cho lối giải thích gây tranh cãi hơn
của điểm Ba. Với chủ trương thay đổi hệ thống thuộc địa, Roosevelt tiếp tục đưa
Pháp ra chỉ trích đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến tình hình Đông Dương. Theo quan
điểm của ông, trong suốt thời kỳ chiếm đóng Việt Nam, Pháp đã thất bại trong cải
thiện mức sống của người dân và, vì những thất bại của họ, đã từ bỏ quyền cai trị.
Ngoài ra, Bộ trưởng ngoại giao Cordell Hull tin rằng một trong những nguyên nhân
Roosevelt quá quan tâm đến Đông Dương là vùng đất này đã là "bàn đạp cho cuộc tấn
công của Nhật vào Philippines, Malaysia và Đông Ấn thuộc Hà Lan". Vào tháng Giêng,
Roosevelt gửi một giác thư cho Hull, nêu rõ:
Dù mối quan tâm của Roosevelt về Đông Dương thuộc Pháp bắt nguồn từ khát vọng trừng
phạt Pháp chủ yếu là vì những nhà thực dân "tồi" hay chủ yếu vì thất bại của họ
trong việc "đương đầu" với Đức và thật thì vẫn rõ ràng Đông Dương đã trở thành một
yếu tố quan trọng trong suy nghĩ của Roosevelt về chủ nghĩa thực dân. Ngoài xem
xét những gì pháp đã và không làm được, Roosevelt còn tập trung vào vấn đề tình
hình thuộc địa có ý nghĩa gì đối với Mỹ "trong bối cảnh ông lo ngại thất bại trong
trợ giúp những khát vọng đòi độc lập ở châu Á sẽ làm mất thể diện của Mỹ trong mắt
một tỷ con người". Một kế hoạch uỷ trị quốc tế "có thể giúp nâng cao sự nghiệp chính
nghĩa của Đồng Minh trong các dân tộc thuộc địa bởi nó có thể cho thấy rằng mục
đích của chiến tranh không phải là tái thiết các đế quốc châu Âu". Kế hoạch này
có ý nghĩa đa quốc gia hơn là quên lãng các cựu thuộc địa của Mỹ và "sự gắn bó bên
ngoài của nó với chế độ tự quản quốc gia" có thể giúp tạo ra dư luận trong nước
"kiên quyết hậu thuẫn việc Mỹ tiếp tục can dự vào những vấn đề hải ngoại".
Tình cảm chống thực dân của Roosevelt hầu như là sự bày tỏ ý kiến của công chúng
có học thức, nhưng không phải lúc nào chúng cũng được chia sẻ bởi những nhân vật
quân sự chủ chốt - những kẻ chắc chắn phải chịu trách nhiệm về xử lý tình trạng
tách rời các thuộc địa cũ của châu Âu. Tuy nhiên, tại Trung Quốc, tướng Joseph Stilwell
và Albert Wedemeyer là những người chống thực dân và "nói chung kiên quyết phản
đối việc châu Âu chiếm giữ lãnh thổ châu Á như những thuộc địa chính thức. Họ tin
tưởng một cách đơn giản rằng chủ nghĩa thực dân sai, hơn nữa còn nghĩ rằng các cường
quốc thực dân như Anh, Pháp, Hà Lan và Trung Hoa Dân Quốc quá yếu ở châu Á để có
thể làm được nhiều trong cuộc chiến thực sự chống Nhật Bản". Theo dõi kế hoạch của
các cường quốc thực dân, năm 1944 Wedemeyer báo cáo rằng Anh, Hà Lan và Pháp đã
có mọi dự định giữ lại các thuộc địa của họ, và ông cảm thấy, như nhà sử học Bradley
Smith đã tổng kết, "không nghi ngờ gì nữa, chính phủ ba nước đó dứt khoát đã đạt
được một thoả thuận riêng rẽ về những vấn đề này". Để minh chứng, Wedemeyer dẫn
ra việc Pháp huấn luyện lính dù, những người sau đó sẽ được tha xuống Đông Dương,
ở Ấn Độ.
Ông được thuyết phục rằng, những nước đế quốc dự định đòi lại quyền thống trị thuộc
địa của mình sau khi đánh bại Nhật với sự giúp đỡ của Mỹ, và ông cương quyết đề
nghị Mỹ phải xem xét "một cách thận trọng tất cả những yêu cầu về nguyên vật liệu
để đảm bảo chắc chắn rằng người ta có thể "đẩy mạnh nỗ lực chiến tranh hơn là những
mục đích thời hậu chiến". Có lẽ John Davies, cố vấn chính trị của Stilwell, đã tổng
kết khúc triết nhất những gì nằm trong ý nghĩ của nhiều người Mỹ - những người,
theo lời Roosevelt, "không tiêu hoá được" chủ nghĩa đế quốc: "Tại sao thanh niên
Mỹ lại cần phải chết để tái tạo các đế chế thực dân của Anh cùng các chư hầu Hà
Lan và Pháp của họ chứ?".
Tất nhiên, có những người ở cả trong giời quân sự và chính quyền không chống đế
quốc và vẫn duy trì mối quan hệ tương đối hữu hảo với những đối tác châu Âu của
họ, trong đó có người Pháp. Giám đốc OSS, William J. Donovan là một trong số những
người này. Mặc dù cả Roosevelt và Donovan đều là người New York và muốn nổi danh
trong nước cũng như quốc tế, nhưng thành phần của hai ông hoàn toàn khác nhau. Trong
khi Roosevelt nhảy cỡn lên với giới tinh hoa châu Âu thì Donovan giao du với đám
trẻ cần lao trong cộng đồng Ai-len ở Buffalo và giành được biệt danh "Bill liều"(3),
biệt danh này theo ông suốt sự nghiệp của mình.
Sinh năm 1883 trong một gia đình Công giáo Ai-len công nhân đường sắt thuộc thế
hệ đầu tiên, William Joseph Donovan thành thạo công việc nặng nhọc và hiểu rõ những
hy sinh mà ông bà gốc Ai-len di cư của mình đã phải trả để đến Mỹ. Ông đã phải làm
việc vào ban đêm và mùa hè để kiếm tiền trang trải học phí đại học và giúp việc
với tư cách là quản lý trụ sở nam sinh viên để đổi lấy chỗ ở và cơm tháng.
Donovan nổi trội trên sân bóng nhưng lại trình diễn rất tồi trong lớp học, tuy nhiên
nhân cách và cố gắng của ông đã mang lại cho ông kết quả cuối cùng ở cả hai lĩnh
vực. Ông tiếp tục theo học tại Đại học Luật Columbia như Franklin Roosevelt, cho
dù cả hai ông thuộc về những giới xã hội khác nhau khi ở đó.
Sau khi tốt nghiệp Donovan bắt đầu hành nghề luật, sau đó gia nhập một nhóm những
người trẻ tuổi mưu toan thành lập đơn vị Bảo vệ Quốc gia địa phương. Tháng 5 năm
1912, ông trở thành thành viên danh dự của Phân dội I thuộc Binh đoàn Kỵ binh New
York thứ nhất, và đến tháng 10 được thăng hàm đại uý. Con đường thăng tiến của Donovan
tiếp tục với việc ông làm rể một gia đình giàu có ở Buffalo và lời mời năm 1916
của John D. Rockefeller đi châu Âu lúc đó đang điêu đứng vì Chiến tranh thế giới
lần thứ I nhằm giành được sự chuẩn y từ những nước tham chiến cung cấp đồ cứu trợ
chiến tranh cho Ba Lan - lúc đó đang bị giày xéo bởi ý định tiêu diệt nước Nga Sa
hoàng của quân Đức.
Khi Donovan đã quen với London và châu Âu như một phần sứ mạng của ông thì nghĩa
vụ quân sự đòi hỏi ông quay về Mỹ. Năm 1916, Donovan và Binh đoàn Kỵ binh New York
thứ nhất nhanh chóng được điều tới Texas giúp dàn xếp những rắc rối với nhà cách
mạng người Mexico, Pancho Villa, người đã thao túng thị trấn nhỏ Columbos ở New
Mexico.
Donovan đã dành ra sáu tháng cưỡi ngựa theo sau Villa và huấn luyện người của ông
ta thành những chiến binh cứng rắn. Vì ông, cũng giống như Roosevelt và nhiều người
khác, tin rằng nước Mỹ sẽ không thể tránh khỏi việc tham gia vào cuộc chiến tranh
thế giới vẫn chưa có hồi kết.
Ngày 15 tháng 3 năm 1917, chỉ ba ngày sau khi Donovan từ Mexico trở về, ông lại
ra trình diện, lần này trở thành chỉ huy Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn bộ binh 69,
được biết đến với tên gọi Người Ai-len chiến đấu và được phiên chế vào đơn
vị bộ binh 165, Sư đoàn Cầu vồng 42, sau đó lên đường đến những chiến hào đẫm máu
của nước Pháp. Ở đó, Donovan và binh lính của ông thu được nhiều kinh nghiệm quân
sự - cái mà Roosevelt bị từ chối. Donovan, lúc này là thiếu tá, và người của ông
chiến đấu dũng cảm và tiếng tăm của ông nổi như cồn. Dẫu khét tiếng vì quy định
nghiêm ngặt về uống rượu và huấn luyện không ngừng, nhưng viên thiếu tá vẫn được
binh sĩ ngưỡng mộ. Một trong số những người cổ vũ nồng nhiệt cho ông, cha tuyên
uý của trung đoàn Patrick Duffy, đã viết: "Kết quả của việc theo dõi Donovan qua
6 ngày chiến đấu - sự bình tĩnh, thái độ sẵn sàng, tài xoay sở của ông cho thấy
lúc này lòng ngưỡng mộ (của binh lính) đối với ông là không có giới hạn". Không
bao giờ chấp nhận ngồi ở nơi an toàn trong khi binh sĩ của mình đang trong vòng
nguy hiểm, Donovan chiến đấu sát cánh cùng những chiến binh người Ai-len chiến đấu,
định hàng loạt vết thương và được tặng Huân chương Trái tim màu Tía có hai bó sồi.
Ông nhận Huân chương Chữ thập vì thành tích trong trận đánh thứ hai tại Marne và
được thăng chức trung tá. Tinh thần "thường bất chấp hiểm nguy và thành tích trong
chiến thắng quân thù tại Landres-et- St. George đã đem lại cho ông Huân chương Danh
dự và quân hàm đại tá".
William Donovan trở lại New York như một người con nổi tiếng, được tôn kính và có
nhiều cơ hội. Sự trung thành triệt để của ông đối với triết lý lời nói đi đôi với
việc làm, nhanh chóng đưa danh tiếng nổi như cồn của ông vốn gắn với chủ nghĩa anh
hùng trên chiến trường đến chỗ bị xã hội ruồng bỏ.
Nhờ tiếng tăm trận mạc, ông đã được mời tham gia một trong những câu lạc bộ nam
có chọn lọc nhất Buffalo, nơi những nhà lãnh đạo quan trọng và có ảnh hưởng lớn
nhất thành phố được hưởng đều đặn nguồn cung ứng tiền lãi rượu Whiskey - sau này
mới bị cấm bởi Luật cấm nấu và bán rượu(4). Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của
Donovan cũng đã mọc, và đến năm 1922 ông trở thành công tố viên. Trên cương vị này
ông đã hậu thuẫn cho những sửa đổi không được lòng người. Những cuộc bố ráp bất
ngờ theo lệnh Donovan vào chính câu lạc bộ của ông và việc bắt bớ nhiều thành viên
của nó là nguyên nhân khiến ông bị tẩy chay khỏi giới thượng lưu Buffalo một thời
gian và gây ra khó khăn nghiêm trọng cho sự nghiệp từng có lúc đầy hứa hẹn của ông.
Nỗ lực tranh chức thống đốc New York vào năm 1932 của ông thất bại, nhưng sự nghiệp
pháp lý của ông tiếp tục tiến triển tốt trong suốt những năm 1920 và 1930, và ông
vẫn duy trì quan hệ với nhiều chính khách, đáng chú ý nhất là Herbert Hoover(5)
trong thời gian ứng cử tổng thống khá thành công của ông này năm 1928.
Song song với việc để mắt đến tình hình trong nước, Donovan còn thường xuyên đi
công cán nước ngoài, và giống Roosevelt, ông cho rằng tình trạng hỗn loạn đang gia
tăng ở cả châu Âu và châu Á chắc chắn sẽ dẫn đến một cuộc chiến mà nước Mỹ không
thể tránh được. Donovan, nhà viết tiểu sử Richard Dunlap giải thích, sẽ "đi đến
đóng vai trò chủ đạo trong cộng đồng người Mỹ, những người vì lý do yêu nước đã
theo kịp những diễn biến quan trọng ở nước ngoài. Cùng lúc đó ông tỏ ra thích thú
với những sự kiện lý thú và nguy hiểm tiêu biểu cho diện mạo sát chiến tranh". Tự
quảng cáo mình là một luật sư giàu có đại diện cho một số tổ hợp lớn nhất nước Mỹ
và lợi dụng danh tiếng quân sự của mình, Donovan đã thuyết phục nhà độc tài Italia
Benito Mussolini cho phép ông đi thăm và đánh giá tình hình quân đội nước này ở
châu Phi.
Donovan đến Ethiopia tháng 12 năm 1935, với tư cách là đại diện của Mussolini ông
được phép tiếp cận tất cả những gì ông mong ước đánh giá - vũ khí, triển khai quân,
tinh thần và sức khoẻ của binh lính, tình trạng đường sá - và để lại châu lục này
dự báo về một chiến thắng nhanh chóng của Italia, và tiếp theo là bước thiết lập
thuộc địa của Rome.
Donovan, người có báo cáo trái ngược với những thông tin của Hội Quốc Liên và những
tổ chức khác ở cả châu Âu và Mỹ - những người mong muốn Italia thất bại, được triệu
tập về gặp Mussolini và sau đó là đại diện Hội Quốc Liên của Mỹ ở Geneva. Trở về
Mỹ, ông chuyển những đánh giá tình hình Italia lên Hội đồng Chiến tranh và viết
một báo cáo riêng gửi Tổng thống Roosevelt. Trong vòng vài tuần, đúng như Donovan
dự đoán, Ethiopia rơi vào tay Italia. Dẫu vậy, nghề nghiệp mới của Donovan - theo
dõi và danh giá tình trạng hỗn loạn đang gia tăng ở nước ngoài - vẫn chưa thực sự
bắt đầu.
Trong khi theo đuổi nghề luật dầy hứa hẹn, Donovan vẫn tiếp tục những chuyến đi
dài hơi đến châu Âu với tư cách cá nhân. Mùa xuân năm 1937 ông tới Đức, Czechoslovakia,
Balkans, Tây Ban Nha và luôn luôn đánh giá tình hình chính trị, kinh tế, quân sự
một cách cẩn trọng như thể ông đang lên kế hoạch chiến tranh. Phát biểu của ông
tại Học viện Chiến tranh quân sự sau khi ông trở về có thể lấy ra từ một bài viết
sau chiến tranh: "Chúng ta đang đối mặt với một loại hình chiến tranh mới", ông
tuyên bố, "không có nhiều trong quan điểm tiến hành chiến tranh, bởi vì trong chiến
tranh những nguyên lý cơ bản vẫn giữ nguyên, nhưng cuộc chiến mới liên quan tới
máy móc và vũ khí. Hơn thế nữa, cuộc chiến tranh này diễn ra với tốc độ mới… Đặc
trưng thứ hai của cuộc chiến mới là sự kết hợp hoàn hảo hán giữa không quân và bộ
binh". Nhưng dù cho có là một "cựu" anh hùng và ông biết chính xác những gì mình
nói, lúc đó nhiều người đã không thèm đếm xỉa đến và thậm chí còn phẫn nộ với việc
ngài uỷ viên công tố giàu có xâm phạm lãnh địa của chính quyền Đảng Cộng hoà của
Roosevelt - nơi ông chưa thuộc về cho đến thời điểm đó. Tuy nhiên, tổng thống đã
lắng nghe báo cáo của Donovan - và phần lớn những gì ông nói đều phù hợp với những
lo ngại về tình hình quốc tế của chính Roosevelt.
Tháng 10 đó, khi Roosevelt đọc bài diễn văn được gọi là "Cách ly"(6) tại
Chicago thì Donovan là một trong số ít đảng viên Dân chủ tầm cỡ vừa tán thành vừa
lên tiếng ủng hộ cảnh báo của tổng thống:
"Nếu chúng ta có một thế giới mà ở đó chúng ta có thể tự do hít thở và sống trong
tình bằng hữu, thì các dân tộc yêu chuộng hoà bình phải có những nỗ lực cụ thể để
giữ gìn pháp luật và Các nguyên tắc bảo đảm hoà bình. Chiến tranh là một căn bệnh
truyền nhiễm cho dù có được tuyên chiến hay không. Chiến tranh có thể nhấn chìm
các quôc gia và các dân tộc cách xa khu vực chiến sự. Chúng ta cương quyết tránh
chiến tranh, nhưng chúng ta không thể bảo đảm sinh mạng mình trước những tác động
thảm khốc của chiến tranh và những nguy hiểm liên quan. Chúng ta sẽ áp dụng những
biện pháp giảm thiểu tối đa rủi ro liên quan, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn
yên ổn trong một thế giới hỗn loạn, nới lòng tin và an ninh đã bị sụp đổ".
Những chiến thắng chớp nhoáng của quân đội Hitler tại châu Âu năm 1939 và 1940 đã
đưa Donovan và Roosevelt lại gần nhau hơn. Lo ngại về vai trò của lực lượng phá
hoại thứ năm trong sự sụp đổ nhanh chóng của các nước Tây Âu và tâm lý bị quan về
khả năng người Anh chống trả các cuộc tấn công của quân Đức, mùa hè năm 1940, Roosevelt
cử Donovan đến London để cùng phóng viên Nhật báo Chicago Edgar Mowrer đánh giá
tình hình. Sứ mạng này hoàn toàn không chính thức, với Donovan đây được coi là chuyến
công cán cá nhân. Tuy nhiên, những nhân vật quan trọng, trong đó có vua và nữ hoàng,
Churchill và đại tá Steward Menzies - "trùm mật vụ Anh" - đã được thông báo tình
hình thực tế và mở cửa tiếp kiến ông. Ngay sau khi trở về Mỹ, Donovan đã được Roosevelt
mời cùng đi nghỉ một kỳ nghỉ ngắn tại New England, và trong hai ngày tháng 8 đó
ông đã có "cái tai của tổng thống", ông tiếp tục nói những gì tổng thống muốn nghe
- những điều hoàn toàn trái ngược với những dự báo u ám và khắc nghiệt của đại sứ
Mỹ tại Anh Joseph Kenedy. Lượng "bửu bối" ông đặt lên bàn rất phong phú: nhiều mối
quan hệ của ông, cả trong và ngoài nước; khả năng thận trọng tiếp cận tình hình
quốc tế dựa trên những suy xét về quân sự, kinh tế chính trị và xã hội; và thực
tế là thông điệp của ông phù hợp với chương trình nghị sự đang tiến triển của Roosevelt.
Tất cả những cái đó, kết hợp với một ít giúp đỡ của người bạn "danh giá" Frank Knox,
đã đem lại cho Donovan một vị trí trong chính quyền Roosevelt.
Knox trở thành trợ lý hải quân của Roosevelt vào tháng 6 năm 1940. Là một đảng viên
Đảng Cộng hoà thân Đồng Minh, Knox mang lại cả trạng thái lưỡng viện cho nội các
của Roosevelt và vô số ý tưởng được trù tính ủng hộ nỗ lực chiến đấu của Anh. Một
trong những ý tưởng của Knox là đưa người bạn thân và là thành viên Đảng Cộng hoà,
Bill Donovan, vào chính quyền Roosevelt. Mặc dù dự định ban đầu của ông thất bại
nhưng chính nhờ gợi ý của Knox cho Roosevelt mà Donovan có sứ mạng "bí mật" ra nước
ngoài. Tháng 12 năm 1940, Donovan rời nước Mỹ cùng William Stephenson, chỉ huy tác
chiến của Cơ quan Tình báo Anh (MI6) tại Mỹ. Cả hai ông đều đã quen biết nhau. Trên
thực tế, chính Stephenson là người đã mở đường cho Donovan tới thăm Menzies(7)
trong "sứ mạng" đầu tiên của ông, và họ nhanh chóng trở nên thân thiết, tin tưởng
lẫn nhau trên cương vị đứng đầu ngành tình báo. Donovan đã dành hơn hai tháng công
du. Từ Anh ông đến Tây Ban Nha, Bắc Phi, Đông Âu và Trung Đông, lắng nghe lãnh đạo
các địa phương, quân đội, hải quân, đảng phái và bắt chước những điệu bộ đánh giá
của họ cùng cuộc chiến đang diễn ra.
Danh tiếng của Donovan cũng tăng lên cùng chuyến đi này. Trong cuộc tiếp xúc báo
giới nhân chuyến trở về, các phóng viên nhận thấy Donovan "không có gì để nói" sau
khi đã đi 30.000 dặm trong vòng 14 tuần. Những ký giả hoài nghi đã đúng khi gán
cho ông biệt danh "Người đàn ông bí ẩn, "Thầy tế im lặng". Donovan rõ ràng khoái
những biệt danh này cùng địa vị của người nổi tiếng. Ông đã sử dụng "danh tiếng"
của mình để gửi thông điệp cho người dân Mỹ. Tin rằng Mỹ sẽ phải tham chiến bên
cạnh Anh, biết rõ sức mạnh và hiểu được mục đích của chế độ Quốc xã, vào tháng Sáu,
Donovan đã đọc diễn văn gửi đến thính giả của Hệ thống Truyền thông Columbia. Ông
đã cảnh báo họ không được để mình bị phỉnh phờ bởi tuyên truyền của chế độ Quốc
xã và tình cảm biệt lập tại quê nhà - cái khuyến khích người Mỹ tin rằng nước Mỹ
an toàn trước cuộc chiến ở châu Âu. Donovan khuyến cáo:
Nếu dân chủ Cơ đốc giáo có thể không thích chiến tranh, nhưng chúng ta không
được bỏ qua thực tế là chúng ta có thể buộc phải chấp nhận chiến tranh để sinh tồn.
Nếu Hitler thắng, những quyền lợi cốt tử của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng.
Chúng ta sẽ phải phác thảo lại các kế hoạch cho tương lai nền mậu dịch của chúng
ta, mức sống của chúng ta, quan niệm của chúng ta về cuộc sống con người, tất cả
sẽ có nguy cơ bị tổn hại. Chúng ta sẽ phải đối chọi lại quân đội và hải quân Đức
chỉ đơn thuần và để tồn tại. Vì cuộc xung đột giữa hai hệ thống và một mất một còn
và không thể tránh được…
Hitler tấn công bất cứ thứ gì, điều đó ảnh hưởng đến nguyện vọng của chúng ta,
của các bạn và của tôi. Hắn cố đặt đội quân thứ năm vào trái tim của mỗi chúng ta
- đội quân thứ năm của nghi ngờ và chia rẽ. Nếu những vũ khí đó phát huy tác dụng
và đẩy chúng ta ra khỏi Đại Tây Dương, hay nếu hắn ngăn chặn được chúng ta gửi những
chuyến hàng viện trợ thiết yếu, thì thất bại trong cuộc chiến Đại Tây Dương sẽ thuộc
về người Anh và chúng ta. Với thất bại đó, trở ngại cuối cùng của nước Đức trên
con đường thống trị châu Âu được dỡ bỏ. Tấm lá chắn bảo vệ phía sau mà chúng ta
có thể chuẩn bị và trở nên mạnh mẽ bị đập tan. Chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Mỹ
quắc sẽ mặt đối mặt. Một nước Đức hùng cường và tự tin cảm nhận sự thôi thúc mạnh
mẽ cho một cuộc chinh phạt mới và một nước Mỹ không có đồng minh, chưa sẵn sàng
một mình đối mặt với một kẻ thù mạnh đến nhường ấy… Không ai có thể phủ nhận một
cách tương đối rằng nguy hiểm đang đe doạ nền cộng hoà của chúng ta. Chúng ta sẽ
đối đầu với nguy hiểm bằng tinh thần của các thế hệ ấy, những người đã đi trước
chúng ta, hay chúng ta sẽ chờ đợi cho đến khi hiểm hoạ vượt qua ngưỡng cửa nhà chúng
ta và chạm đến gia đình và bàn thờ của chúng ta?
Trở về, Donovan cũng phải đến gặp tổng thống, nhưng chỉ đạt kết quả tối thiểu. Mặc
dù Roosevelt bắt đầu nghĩ tới giải pháp thay thế "tình trạng lộn xộn của tình báo
Mỹ", song ông không đi đến kết luận mà Donovan là một phần câu trả lời. Nhưng những
người khác thì có. Knox, người đã khích lệ Donovan viết ra những ý kiến của mình
về việc thành lập một cơ quan tình báo trung ương, và những nhân vật có quan hệ
gần gũi với Stephenson cũng như Cơ quan Tình báo Anh tin rằng Donovan là người cứu
chữa những thiếu sót của tình báo Mỹ.
Trong một sứ mệnh khám phá sự thật được phác thảo một cách cơ bản nhất nhằm "lôi
kéo Mỹ vào mạng lưới tình báo Anh", đô đốc John Godfrey, giám đốc Cơ quan Tình báo
Hải quân Anh, sĩ quan Ian Fleming (sau này lừng danh với nhân vật James Borg) đã
họp bàn với các nhân viên tình báo đại diện cho Quân đội, Hải quân, Bộ ngoại giao
và Cục Điều tra Liên Bang Mỹ (FBI). Mặc dù Godfrey và Fleming nhận thấy nhiều ban
bệ rõ ràng có hợp tác, nhưng họ lấy làm ngạc nhiên trước cả sự thiếu cộng tác liên
ngành và mức cạnh tranh cao độ trong các cơ quan này.
Ngài đô đốc đã rút ra kết luận:
Không có Cục Mật vụ của Mỹ. Người Mỹ có xu hướng trông cậy vào "S.I.S"(8) của
họ, nhưng qua đó họ muốn nói tới lực lượng "đặc nhiệm" nhỏ bé và không có khả năng
phối hợp, những người lên đường ra nước ngoài thay mặt cho cơ quan này hay cơ quan
khác của chính phủ. Những "đặc vụ" này thường là nghiệp dư có những phẩm chất đặc
biệt và không được huấn luyện tại lò quan sát. Họ không có các phương tiện liên
lạc đặc biệt hay các trang thiết bị khác và ít khi có chỉ dẫn rõ ràng hơn là "đi
và nhìn".
Kế hoạch tình báo của Donovan dĩ nhiên nhằm chữa trị tình hình đó. Những theo hệ
thống tình báo Anh và trên diện rộng là sản phẩm của nhiều cuộc trao đổi đầy kết
quả của ông với Stephenson, Donovan đề xuất một cơ quan "duy nhất thực thi nhiệm
vụ tình báo ở nước ngoài" mà giám đốc phải là người đứng trên các đảng phái chính
trị và chỉ chịu trách nhiệm trước tổng thống. Mặc dù cố vấn hải quân hài lòng với
phác thảo của bạn ông ta, nhưng những người khác trong nội các của Roosevelt thì
không. Chẳng hạn, hồi đáp của Bộ Chiến tranh rằng đề xuất "siêu cơ quan kiểm soát
toàn bộ tin tức tình báo" và "rất có thể dưới trướng đại tá Donovan" có thể "trở
nên cực kỳ bất lợi, nếu không nói là tai hoạ", phản ánh quan điểm của FBI và những
nhân vật khác, những kẻ không muốn thấy quyền kiểm soát thông tin của mình bị thu
nhỏ. Vì mặc dù sự phối hợp thông tin có thể có lợi cho tất cả, nhưng "đố kỵ và cạnh
tranh, người Mỹ đã thử nghiệm giả thuyết kiến thức là sức mạnh, song khi kiến thức
bị chia sẻ thì quyền lực cũng giảm bớt". Tuy thế, nhận thức được nhu cầu sửa chữa
sự thiếu phối hợp thông tin của mình, ngày 17 tháng 1 năm 1941 Roosevelt đã chỉ
thị thành lập Cơ quan phối hợp Tin tức tình báo nhằm thông báo một cách hiệu quả
cho ông "về những sự kiện quốc tế có thể đe doạ an ninh, hay chí ít là những mối
quan tâm của nước ngoài" về Mỹ.
Trước sự kinh ngạc của Bộ Chiến tranh và những kẻ lo sợ quyền lực của mình sẽ giảm
bớt, Roosevelt chỉ định Donovan làm người điều phối thông tin.
Khi mới được thành lập, cơ quan của Donovan, được biết đến với tên gọi chung là
COI(9), tập hợp tám đơn vị tình báo riêng biệt trong chính phủ Mỹ: Quân đội
G-2, Cơ quan Tình báo Hải quân (ONI), FBI trong Bộ Tư pháp, Tình báo Đối nội thuộc
Bộ ngoại giao, Thanh tra Hải quan Bộ Thương mại, Cơ quan Tình báo Bộ Tài chính,
Thanh tra Di dân và nhập tịch, Bộ Lao động và Tình báo của Uỷ ban Thông tin Quốc
gia. Những vấn đề nảy sinh với một hệ thống như vậy là hiển nhiên: cho dù một số
lượng lớn tài liệu thô có thể được tập trung, nhưng đó là chủ đề cho ít nhất tám
cách diễn giải khác nhau. Thậm chí ngay cả khi xét đến những ý định tốt nhất, thì
thời gian và nỗ lực cần thiết để phân loại, danh giá và chuyển thông tin cũng thường
cản trở việc chia sẻ thông tin được phát hiện giữa các đơn vị với nhau. Trong trường
hợp tồi tệ nhất, việc bảo vệ mối quan tâm của riêng từng đơn vị thường ngăn chặn
liên ngành chia sẻ và mặc cho tất cả mọi người bị điếc tai bởi tiếng ồn màu trắng(10)
của thông tin và thông tin sai lệch. Còn có nhiều vấn đề khác nữa.
Cho đến khi mở rộng COI, ở đây không có lãnh đạo tập trung, không có phòng xử lý
thông tin và không có mối liên kết trực tiếp đến người ra quyết định cuối cùng -
Roosevelt. Trong kịch bản tối ưu, những đặc vụ làm việc cho COI sẽ "tổng hợp và
truyền bá thông tin tình báo" thu được từ cả tám đơn vị và chuyển nó cho những người
có trách nhiệm bảo vệ đất nước.
Donovan sẽ hành động như mối liên lạc trực tiếp với tổng thống. Nhiệm vụ của COI
về lý thuyết là bí mật, nhưng COI và Donovan đã được công luận chú ý không lâu sau
khi thành lập cơ quan này. Tháng Giêng năm 1942, bài báo của ký giả Walter Karig
có tựa đề "Cơ quan bí mật nhất ở Washington" xuất hiện trên tờ Tự do không úp mở
ca ngợi cả Donovan và COI. "COI", Karig viết, "là cơ quan siêu gián điệp và phản
gián của chính phủ. Biên chế của nó là tập hợp lớn nhất những bộ não đồ sộ và trí
tuệ nhanh nhạy mà một chính phủ từng huy động được từ các giảng đường đại học, cơ
sở quân sự các đoàn ngoại giao và cơ quan báo chí". Những bộ não đồ sộ của COI liên
quan tới "thông tin mật thu thập được bởi tất cả các cơ quan mật vụ liên bang khác"
và đặt "rắc rối lên bàn tổng thống" chuẩn bị tuyên truyền và phản tuyên truyền thông
qua Ban Thông tin Đối ngoại, và bố trí nhân viên cho Vụ nghiên cứu và Phân tích,
trung tâm trí tuệ của COI.
Song, ngay từ đầu COI đã có kẻ thù. Giám đốc FBI J. Edgar Hoover đã mô tả COI là
"sự điên rồ của Roosevelt", và cố ý làm phá sản ít nhất một sứ mạng của COI nhằm
bảo vệ thế lực của chính mình. Trong khi đó ONI và G-2 rất ít ngỏ lời hợp tác và,
trong một vài trường hợp, đã cố tình giữ lại thông tin đối với nhóm của Donovan.
Ngay trong COI cũng có bất đồng - về thủ tục, cách diễn giải và vai trò của Donovan.
Những vấn đề của COI đã thúc đẩy Roosevelt bãi bỏ cơ quan này ngày 13 tháng 6 năm
1942.
Vì nhiều nguyên nhân, COI đã thất bại, nhưng khái niệm cơ quan mật vụ tập trung
được Donovan đỡ đầu đã có chỗ đứng vững chắc. Cùng ngày COI sụp đổ, Donovan trở
thành giám đốc kẻ kế vị của nó, Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS) được thành lập
bởi mệnh lệnh quân sự theo thẩm quyền của Ban Cố vấn Quân sự Liên quân (JCS). Sắp
xếp mới dưới quyền JCS không diễn ra một cách dễ dàng. Ngay từ đầu quân đội đã chống
đối Donovan; ông là dân thường tham gia vào lĩnh vực quân sự theo kiểu tài tử hoặc
đề xuất các chiến dịch mà họ phê phán. Trong cả hai trường hợp ông đều là kẻ chen
ngang thiếu kinh nghiệm có những kế hoạch đe doạ an ninh, hiệu quả, và thành công
quân sự". Tuy thế, JCS cũng đành miễn cưỡng đồng ý tiếp nhận Donovan và OSS với
hy vọng kiểm soát được cả ông và tổ chức này.
Bất chấp những lo ngại của JCS, OSS nhanh chóng phát triển các chi nhánh chủ yếu
của nó và thuê nhân viên. Một trong năm chi nhánh quan trọng là Chi nhánh nghiên
cứu và phân tích (R&A) khá giống với COI; nó tuyển dụng một số người xuất chúng
nhất nước Mỹ; chẳng hạn Ralph Bunche(11) được thuê để "xử lý những vấn đề
về chính sách và chính quyền thuộc địa, vấn đề của người bản xứ và các quan hệ chủng
tộc trong Đế quốc Anh". Các chuyên gia R&A lựa chọn và phân tích dữ liệu rồi chuẩn
bị các báo cáo tình báo cho cơ quan và tổng thống. Các chi nhánh khác, bao gồm Chi
nhánh Tình báo (SI) tham gia thu thập bí mật tin tức tình báo; Chi nhánh Phản gián
(X-2) chủ yếu đối phó với những hoạt động gián điệp, Chi nhánh Công tác Đặc biệt
(SO) hoạt động sau phòng tuyến địch, huấn luyện và giúp các nhóm kháng chiến trên
khắp châu Âu và châu Á, cung cấp tin tức về mục tiêu, giúp các phi công bị bắn rơi;
và Chi nhánh Công tác Tinh thần (MO) có nhiệm vụ tạo ra và phân phát sản phẩm tuyên
truyền "đen", tức là loại hình tuyên truyền được làm giả một cách tinh vi. Đến khi
OSS bị bãi bỏ ngày 1 tháng 10 năm 1945, cơ quan này đã phát triển được "hơn 40
chi nhánh và đơn vị với một đội ngũ nhân viên được tuyển chọn kỹ lưỡng lên đến gần
13.000 người".
Suốt chiến tranh thế giới 2, những nam nữ thành viên OSS có nhiều phương thức hoạt
động - từ chiến đấu cùng Kháng chiến Pháp phía sau phòng tuyến dịch đến chuẩn bị
những báo cáo thống kê về dân số Burma - ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các
sĩ quan được OSS lựa chọn và những ai không được Donovan hay nhân viên của ông tuyển
mộ thì phải xin được phục vụ. "Hầu hết những bổ nhiệm vào chức vụ cao nhất trong
OSS nghiêng về phía các ứng viên Wasp(12), đặc biệt là những người tốt nghiệp
nhóm các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ", nhà sử học Lawrence Mcdonalđ
viết, "kích thích những người chỉ trích giễu cợt rằng những chữ viết tắt tên của
cơ quan này là "Ôi, xã hội quá ta"(13) và "Ôi, trưởng giả học làm sang"(14).
Giành được một vị trí trong OSS - đặc biệt là tại Chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích
- đối với một số người là ngon lành để phục vụ đất nước mà không phải dấn thân vào
nguy hiểm chết người. Barry Katz viết:
Chí nhánh Nghiên cứu và Phân tích đã huy động một tiểu đoàn đáng nể toàn những
học giả tiên tiến - những người có thiên hướng sử dụng tưởng tượng, hiểu chiến tranh
trong các thuật ngữ chính trị và muốn góp sức. Washington thời chiến không phảí
là dưới thời Pericles, Florence dưới thời Medici hay Weimar của Goethe, nhưng ở
đây vẫn còn cái gì đó truyền cảm hứng về nó, cho dù động cơ của những cá nhân riêng
biệt thường thực dụng hơn: chuyển đến OSS, nơi được biết đến trong quân đội như
những uỷ ban trong suốt" - người ta có thề nhìn xuyên qua nhưng không thể phác thảo
chúng.
R&A không phải là nơi duy nhất bị chỉ trích. Robert Sherwood, đã từng là sếp của
Ban Thông tin Đối ngoại thuộc COI và là người viết diễn văn cho Roosevelt, một tác
giả kịch bản (ông đã nhận 4 Giải thưởng Báo chí Pulitzer từ năm 1936 đến 1949),
không mặn mà với MO và không đồng tình với sự ưa thích sử dụng biện pháp tuyên truyền
đen của Donovan.
Sherwood và những người khác nêu ý kiến rằng tuyên truyền bắt nguồn từ nước Mỹ nên
chủ yếu dựa vào sự thật chứ không phải những điều giả dối. Cho dù một số người tin
rằng dẫu công tác rất cơ bản của MO trái đạo đức, nhưng tầm quan trọng của việc
sử dụng những nhân viên đặc vụ mật, những người loan truyền tin đồn và thông i:n
sai lạc nhằm gây ra và làm trầm trọng hơn các mối bất hoà trong nội bộ đã được biết
đến từ nhiều thế kỷ, và quan điểm của Donovan rõ ràng đã thắng những ý kiến không
đồng tình. Trong OSS, MO trở thành bộ phận quan trọng của các chiến dịch diễn ra
trên toàn thế giới.
Không kể những người phản đối sử dụng tuyên truyền đen, ở đây còn có những người
chỉ trích đích thân Donovan.
Để chống Donovan, một vài người trong số họ còn sử dụng biệt danh cũ "Bill liều",
mô tả cả Donovan và cơ quan của ông là hiếu chiến và vô trách nhiệm. Nhớ về OSS
và Donovan, cựu Giám đốc CIA Ray S. Cline viết:
"Bill liều" xứng là biệt hiệu của ông ta vì hai nguyên nhân chính. Thứ nhất,
ông ta cho phép phát triển một dạng hỗn loạn hành chính và thủ tục liều lĩnh nhất,
cẩu thả nhất, trong khi tập trung vào tuyên mộ nhân tài ở bất kỳ nơi nào ông ta
tìm được - tại các trường đại học, các cơ sở kinh doanh văn phòng luật sư, trong
các đơn vị quân đội, tại các bữa tiệc đứng ở Georgetown, mà thực ra là ở bất cứ
đâu ông ta tình cờ gặp hay nghe thấy có những chàng trai, cô gái trẻ thông mình
và đầy nhiệt huyết muốn góp sức mình. Những trung uý thân cận của ông ta và trợ
lý của họ đều làm cùng một công việc tại cơ quan, và điều đó diễn ra trong một thời
gian dài trước khi các phương pháp hệ thông cơ cấu nhân sự nhiều thứ tiếng bổ sung
được soạn thảo. Donovan thực ra cũng chẳng quan tâm. Ông ta tin tưởng một số người
trẻ tuổi có năng lực đến từ hãng luật của mình ở New York có thể gíải quyết ổn thoả
những bừa bộn hành chính tồi tệ nhất với lý lẽ rằng thành tích, nếu tốt, sẽ bào
chữa cho cơ quan của ông ta và châm trước cho tất cả những bật hợp lý và lộn xộn.
Donovan và thuộc cấp hầu như rất may mắn trong việc tuyển mộ những thanh niên Mỹ
có năng lực về làm cho OSS.
Thực vậy, chính uy tín và huyền thoại cá nhân của Donovan đã lôi cuốn một số người
đến với tổ chức này. Ký giả và là điệp viên của OSS Edmond Taylor nhớ lại sự thất
vọng đôi lúc xảy ra đối với chính sách của OSS và quan hệ của ông với Donovan.
Tôi phục vụ trong OSS - Taylor hồi tưởng - Mặc dù đôi khi gắn bó với nó chẳng
vì điều gì rõ ràng hơn sự hiện diện vô hình của Donovan trong tâm trí tối… Donovan
là người đặc biệt tin vào học tập bằng làm việc, và chất tài tử đầy cảm hứng của
ông vốn đã giúp tạo dựng bầu không khí trong OSS đôi khi gởi lại những tác phẩm
trữ tình của Compton Mackenzie hay Evelyn Waugh. Mặt khác, thực tế là nhiều người
còn chưa qua huấn luyện hay huấn luyện chưa đến nơi đến chốn, nhiều người Mỹ trẻ
tuổi thoát chết trong những nhiệm vụ dựng tóc gáy của OSS và giành được những thành
tích vẻ vang, thậm chí gây ấn tượng sâu sắc. Tất cả nói lên tằng triết lý của Donovan
không hoàn toàn bất ổn.
Dĩ nhiên là có nhiều điệp viên, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động mà OSS không đạt
được các mục tiêu đã dự định của nó. Trong bài báo "Sự ra đời của các chiến dịch
đặc biệt", Noel Poirier giải thích rằng "thiếu sót của OSS là kết quả của những
nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và kém hiệu quả", và nhà sử học Gian Sutherland nói
rõ, "các chiến dịch của OSS ở Bắc Phi không có giá trị chiến lược". Nhưng đặc biệt
ở châu Âu, đóng góp của OSS là rất lớn. Đơn cử chiến dịch Italia, "nhiều sư đoàn
OSS, từ từng cá nhân trên chiến trường đến những nhà hoạch địch chính sách ở Toà
Bạch Ốc" đều góp phần vào thắng lợi cuối cùng của Đồng Minh. Ngoài ra, các nhóm
Jedburgh (những đơn vị đặc nhiệm 3 người nhảy dù xuống hậu phương địch để giúp các
nhóm kháng chiến) ở Pháp đã phá hoại cơ sở hạ tầng then chốt địch đang sử dụng và
được xem là đã làm chậm phản ứng của Đức 48 tiếng đồng hồ trước cuộc đổ bộ ngày
D.
Hoạt động của OSS tại châu Á khó khăn hơn nhiều so với ở châu Âu vì nhiều nguyên
nhân, trong đó có đặc trưng chủng tộc lớn hơn, vấn đề ngôn ngữ và những khác biệt
văn hoá mà các điệp viên phải giải quyết trên thực địa. Tuy nhiên, ở đó cũng có
những vấn đề về triết lý liên quan đến việc tái lập các thuộc địa của châu Âu.
Là người gần gũi với Roosevelt, không nghi ngờ gì nữa, Donovan đã nghe được tình
trạng bất bình nhưng không nói ra liên quan đến sự tham gia của Mỹ hay sự phản đối
trao trả các thuộc địa ở châu Á cho các chủ cũ châu Âu, nhất là pháp. Dẫu vậy, vị
trí cá nhân của Donovan trong vấn đề này không được rõ ràng. Hiển nhiên, Donovan
là (và đã từng là trong suốt sự nghiệp của ông) người ủng hộ mạnh mẽ cho Anh và
những nỗ lực chiến đấu của nước này. Nhưng Donovan có lẽ cũng phê phán chính sách
thuộc địa của Anh. Tác giả Anthony Cave Brown, người được tiếp cận nhiều hồ sơ giấy
tờ về đời tư của cả Donovan và người bạn đồng thời là đồng nghiệp của ông - Otto
C. Doering, đã viết: "Hồ sơ của ông Donovanl cho thấy ông đã lấy làm tiếc về những
khía cạnh nào đó của chủ nghĩa tư bản và đế quốc Anh sau Chiến tranh Thế giới thứ
1, đặc biệt là về ách thống trị của Anh tại Ấn Độ".
Nhà sử học Stein Tonnesson đã đi đến những kết luận khác, đặc biệt liên quan đến
chủ nghĩa thực dân Pháp: "Vị giám đốc OSS không chia sẻ về mặt cá nhân với thái
độ chống Pháp và chủ nghĩa thực dân của Roosevelt, Tonnesson viết, "nên ông có lẽ
chỉ là lựa chọn bất đắc dĩ cho việc thực thi tham vọng chống Pháp của tổng thống".
Mặc dù bản chất chính xác trong quan điểm về chủ nghĩa thực dân của Donovan còn
chưa rõ ràng, nhưng có thể thấy Donovan duy trì thành công các mối quan hệ hữu hảo
với rất nhiều người châu Âu. Tác giả Brown, giống như những người khác, khâm phục
tình bạn khăng khít giữa Donovan và Stephenson ở MI6 và quan hệ công tác tốt đẹp
với ngài Louis Mountbatten - cả hai đều chứng minh rõ ràng rằng Donovan có thái
độ làm việc thân ái với người Anh trong cố gắng chung của họ vì chiến thắng của
Đồng Minh. Donovan cũng có "tình yêu sâu sắc nước Pháp", và ông duy trì mối quan
hệ chân thành với de Gaulle và với giám đốc tình báo, đại tá Andre Dewavrin cũng
như với nhiều người Pháp khác. Dẫu Tonnesson nhất trí rằng Donovan có thái độ thân
Pháp, nhưng ông cũng chống chế rằng về Đông Dương thuộc Pháp, "lòng trung thành
đối với Roosevelt của Donovan hầu như nặng ký hơn tình cảm thân Pháp của ông".
Không nghi ngờ gì nữa, Donovan trung thành với Roosevelt và làm theo những chỉ thị
chính thức được gửi đến cho ông. Nhưng Donovan rõ ràng còn là một nhà tư tưởng độc
lập và là một người hành động như biệt danh "Bill liều" của ông biểu thị. Lòng trung
thành của ông đối với Roosevelt trong bối cảnh này hàm ý rằng Donovan có thể tránh
ủng hộ người Pháp trong nỗ lực cuối cùng giành lại thuộc địa của họ. Nhưng Donovan
là một người say mê sâu sắc vai trò của tình báo và quan niệm thắng cuộc chiến.
Thiếu những chính sách rõ ràng về vị trí của Mỹ trên các đế chế của châu Âu, Donovan
và OSS hầu như tự do theo đuổi công tác tình báo ở những nơi và với những ai mà
họ thấy phù hợp - trong đó có Pháp, những kẻ khát khao giành lại thuộc địa như đã
khát khao chiến thắng kẻ thù.
Dù sao chăng nữa, như đã bàn đến trong chương I, hầu như trong Chiến tranh thế giới
thứ II, Đông Dương thuộc Pháp là một trong những khu vực yên tĩnh hơn của mặt trận
Thái Bình Dương. Đến năm 1944, bất chấp cuộc tấn công quyết liệt nhằm giành lại
vùng lãnh thổ bị thật chiếm đang diễn ra, không có một chiến dịch lớn nào của Đồng
Minh được tiến hành tại Đông Dương và nơi này cũng không nằm trong danh sách có
vị trí chiến lược hàng đầu để phát động tấn công. Nhưng Đông Dương cũng không hẳn
là không quan trọng. Đã có cân nhắc tấn công Indonesia để mở mặt trận phía nam chống
quân Nhật tại Trung Quốc. Những thông báo về thời tiết cũng như sự chuyển quân và
đồ tiếp tế cũng có ý nghĩa quan trọng đối với lực lượng Mỹ ở Trung Quốc, đặc biệt
là Không đoàn 14 của tướng Claire Chennault. Donovan đã biết bao nhiêu, đặc biệt
là về tình hình Đông Dương thuộc Pháp, thật "khó mà xác định", nhưng đối với ông
nó không quan trọng bằng Trung Quốc và Philippines trên mặt trận Thái Bình Dương
và dĩ nhiên không bì kịp tầm quan trọng của chiến trường châu Âu.
Tướng Claire Lee Chennault, chỉ huy phi đội Hổ Bay của Mỹ (ảnh tư liệu của Nguyễn Học) [không có hình]
Tuy nhiên, trong trường hợp Đồng Minh có thể tấn công Đông Dương thuộc Pháp thì
năm 1944, Kháng chiến Pháp dường như là nguồn cung cấp thông tin tốt nhất cho Mỹ.
Trong một giác thư gửi Tổng thống Roosevelt vào tháng 7, Donovan báo cáo rằng cả
de Gaulle và tướng Antoine Bethouart đã nói với ông về phong trào kháng chiến ở
Đông Dương. Lúc đó OSS đang cộng tác với tướng Zinovi Petchkoff (người mà Tưởng
Giới Thạch gọi là "đại sứ" Pháp tại Trung Quốc) về "vấn đề khoảng 500 lính Pháp",
những người được "huấn luyện cho các chiến dịch đặc biệt và sẽ, vào thời gian thích
hợp, nhảy dù xuống Đông Dương". Nếu điều đó được thực hiện thì các đặc vụ Pháp có
thể đem lại sự giúp đỡ quý giá cho nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh. Ngoài ra họ
có thể tập trung chuẩn bị cho việc Pháp đòi lại Đông Dương sau chiến tranh. Tuy
quan ngại của Donovan trong sử dụng lính dù Pháp đã khép lại vấn đề thực thi quyền
hạn mặt trận (liệu chiến dịch này vào tay tướng Anh Mountbatten ở Ấn Độ hay tướng
Mỹ Stilwell ở Trung Quốc) nhưng lại không chấm dứt những ý kiến chỉ trích triết
lý về bản chất đế quốc có thể chấp nhận được của chiến dịch đặc biệt này.
Mùa hè năm 1944 nhiệm vụ quan trọng nhất của Donovan là cung cấp cho tổng thống,
JCS và các chỉ huy quân đội thông tin tình báo cần thiết để giành chiến thắng. Lập
trường của Donovan là đứng ngoài vấn đề đế quốc, nhiều giới chức trong OSS biết
rõ quan điểm của Roosevelt về chủ nghĩa thực dân Pháp và đồng tình với ông. Nhờ
có họ, và có thể nhờ Donovan, "OSS đã trở thành công cụ chính đối với thái độ và
chính sách của Roosevelt". Bradley Smith viết: "Các quan chức cấp cao Mỹ còn khó
chịu và lúng túng rằng "một nước Mỹ dân chủ lại liên minh với những đế quốc bóc
lột nhưng yếu đuối ở châu Á". Nhưng ngay cả "những người của Donovan thực sự nản
lòng bởi viễn cảnh đứng cùng các đế quốc châu Âu" cũng cộng tác tốt với nhau, nhất
là với người Anh, vì một sự nghiệp lớn lao hơn. Các điệp viên OSS có khả năng bị
lộ diện trước chủ nghĩa thực dân nhất nằm bên ngoài tôn ty của tổ chức và chắc là
đã tự tập hợp vào trong công chúng Mỹ - những người Roosevelt tin là "không thể
tiêu hoá" chủ nghĩa để quốc. Nhưng những thanh niên nam nữ này cũng được tập trung
vào mục đích chính của họ - giành chiến thắng. Và việc đạt được mục tiêu thực tế
đó để lại rất ít cơ hội cho tranh luận tư tưởng về khả năng tạo ra một "thế giới
tự do" không có những dấu hiệu tồi tệ hơn của chủ nghĩa đế quốc mà Roosevelt mường
tượng trong những thời điểm thích hợp hơn của mình.
Tại Đông Dương, cố gắng cung cấp viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống Nhật Bản
đồng thời ngăn cản nỗ lực giành lại thuộc địa của nước này đã chứng thực một nhiệm
vụ khó khăn cho tất cả các bên liên quan - từ những kẻ đưa ra quyết định cấp cao
nhất đến những người có mặt trên thực địa tại Đông Dương. Dứt khoát không thể bảo
đảm rằng viện trợ chống Nhật Bản sau đó sẽ (thậm chí còn cùng một lúc) được sử dụng
chống lại người Việt Nam. Lúc đó Mỹ đã yêu cầu thông tin về tình hình dân chúng
tại Đông Dương và cần ai đó thu thập tin tức cho họ. Trong khi OSS đang vật lộn
để tìm chỗ đứng của mình ở Đông Dương thuộc Pháp thì những người khác đã tìm ra
phương pháp thu thập tin tức tình báo trong khu vực này, và OSS sau đó sẽ cố gắng
lợi dụng thành công của họ, đặc biệt là kinh nghiệm của đại uý Milton Miles của
Hải quân Mỹ, và nhóm 3 người có hiệu quả cao trên phạm vi quốc tế còn được biết
đến với cái tên GBT.
Chú thích:
(1) Louis Adamic (1899 - 1951) sinh tại Áo - Hung, năm
1913 di cư sang Mỹ. Có nhiều tác phẩm nổi tiếng như "Tiếng cười trong rừng rậm",
"Cái nôi của cuộc sống", "Nước Mỹ của tôi".
(2) U Saw: Nhại sang tiếng Anh "you saw" nghĩa là "các bạn thấy".
(3) Wild Bill trong nguyên bản
(4) Prohibition: Luật cấm sản xuất, vận chuyển và buôn bán rượu có hiệu lực
từ 1920-1933 tại Mỹ.
(5) Herbert Hoover (1874-1964): Tổng thống thứ 31 của nước Mỹ từ năm 1929
đến năm 1933.
(6) Roosevelt đọc Diễn văn Cách ly (Quarantine Speech) ngày 5/10/1937 kêu
gọi cộng đồng quốc tế cách ly các quốc gia xâm lược.
(7) Robert Gordon Menzies (1894-1978), chính trị gia người Australia, giữ
chức thủ tướng nước này hơn 18 năm.
(8) Secret Intelligence Service: Cục Tình báo.
(9) Central Office of Information: Cơ quan Thông tin Trung ương
(10) White noise: Thông ồn ngẫu nhiên có cùng một mức năng lượng âm trong
các tần số.
(11) Ralph Johnson Bunche (1904 - 1971): Nhà khoa học và ngoại giao Mỹ, nhận
giải Nobel Hoà bình năm 1950.
(12) White Anglo-Saxon Protestant: Người Allglo-Saxon da trắng theo đạo Tin
lành.
(13) "Oh So Social" trong nguyên bản.
(14) "Oh Such Snobs" trong nguyên bản.
hết: Chương 2, xem tiếp: Chương 3