Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc (Tập 3)

NHÓM TÂM VIỆT, Sydney, Úc Châu
 

(Tái bản có sửa chữa)
Nhóm Tâm Việt - Tvvn.org
Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 07-2010

MỤC LỤC

Chương 8 Hồ Chí Minh, Kẻ Ném Đá Giấu Tay trang 03
Chương 9 Hồ Chí Minh, Kẻ Đã Đi Hết Biển 45
Chương 10 Hồ Chí Minh, Chính Trị Gia Tồi Tệ 78

++++++++++++++++++++++

Chương 8
Hồ Chí Minh, Kẻ Ném Đá Giấu Tay

Trần Dân Tiên nâng bi Hồ Chí Minh

Bác Hồ nhà ta đã từng nâng bi Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông với nghệ thuật nâng bi thật siêu đẳng. Lúc Bác còn lưu lạc trên đất Pháp, Bác chỉ đọc qua bản Cương lĩnh của Lenin. Khi vừa đến Mạc Tư khoa, nghe tin Lenin chết, Bác đã thương khóc thảm thiết! Trên báo Pravda ngày 27-1- 1924, Bác đã xưng tụng Lenin là CHA, là THẦY, nguyên văn như sau: “Khi còn sống, Người là cha, là thầy, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội. Lenin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta…” Do đó Bác đã khai tâm cho Tố Hữu làm bài thơ “Khóc Stalin” năm 1953, dân gian gọi đó là Bài thơ bợ đít Stalin, bởi lẽ bài thơ có những câu nâng bi trắng trợn đến mức nhục nhã như sau: “Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương Ông thương mười!”

Để nâng bi Stalin và MaoTrạch Đông, Bác Hồ cũng đã nói: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được!” Đề cao Bác Stalin và Bác Mao như vậy, thì cũng như tự đề cao mình, bởi lẽ mỗi một điều gì, Bác Hồ cứ làm y như hai Bác kia “thì cũng không thể nào sai được, Đảng và Dân tộc phải nhất trí vỗ tay khen và vâng lời mà thôi.” Hồ Chí Minh (HCM) biết rằng trong chiến tranh ý thức hệ, vấn đề tuyên truyền và thần thánh hoá lãnh tụ vô cùng thiết yếu, cho nên ông đã hết lòng đề cao Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông. Nhưng còn ông, Chủ tịch HCM, thì ai là người đã tận tụy viết bài, viết sách, làm thơ ca ngợi và thần thánh hóa ông để cho Dân tộc và thế giới biết đến. Thì đã có Trần Dân Tiên và T. Lan đó! Đây, hãy xem Trần Dân Tiên nâng bi Bác Hồ khi viết về ngày 2-9-1945: “Ngày hôm đó, lần đầu tiên thủ đô Hà Nội được mắt thấy người con yêu quý nhất của Dân tộc Việt Nam… Nhân dân nhận thấy Hồ Chủ tịch giản dị, thân mật như người cha hiền về với đám con… Quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của một người Cha…” Ở một đoạn khác, Trần Dân Tiên viết: “Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân. Hồ Chủ tịch được nhân dân yêu mến là do tính cương trực và lòng trong sạch của người. Thái độ của người ngay thẳng… Vì Bác Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng xuất. Đối với nhi đồng, tên Bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn… Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già của Dân tộc…”

Hai đoạn văn nâng bi HCM bên trên được trích dẫn từ quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch mà tác giả là Trần Dân Tiên. Quyển sách xuất hiện vào mùa xuân 1948. Không ai biết Trần Dân Tiên là ai. Mãi đến năm 1985, tức là 37 năm sau, giáo sư Hà Minh Đức viết quyển Tác phẩm văn học của Hồ Chủ tịch để ca ngợi văn tài của Bác thì Dân tộc và cả thế giới mới biết Trần Dân Tiên chính là Bác Hồ. Thì ra HCM đã tự mình nâng bi mình!

Nhân vật huyền thoại Trần Dân Tiên đã thực hiện nhiều đặc công phi thường cho Bác, những công tác mà tự Bác không thể ra mặt làm được. Công tác thứ nhất là nâng bi, đề cao, và thần tượng hóa Bác. Trần Dân Tiên đề cao Bác nào là “người con yêu quý nhất của Dân tộc VN”, nào là “người cha hiền về với các con”, nào là “Cha già của Dân tộc”, v.v… Trong văn học sử hay trong lịch sử chánh trị, không hề có nhân vật nào tự viết sách để thần thánh hoá mình như HCM đã làm. Tự cổ chí kim chỉ có một mình “Bác Hồ nhà ta”! Nhân đây xin chép lại bài thơ độc đáo “Nói láo mà nghe” trong thi văn truyền khẩu để qu‎ý bạn đọc chơi và xem tài láo phét của Bác Hồ có bằng nhân vật trong bài thơ hay không? Nhưng láo phét ai hơn ai thì không quan trọng vì bài thơ Nói Láo chỉ để đọc chơi cho vui mà thôi. Điều quan trọng và vô cùng tai hại là HCM đã láo khoét để dối gạt Dân tộc! Đây bài thơ Nói Láo để đọc chơi cho vui: “Ta con ông Cống cháu ông Nghè. Nói láo trên trời dưới đất nghe. Sức mạnh Hạng Vương cho nửa đấm. Cờ cao Đế Thích chấp hai xe. Lội phăng ra biển lôi tàu lại. Chạy tuốt lên non cưỡi cọp về. Thuở nọ vào chơi trong tướng phủ. Ba ngàn công chúa phải lòng mê!”

Công tác thứ hai của Trần Dân Tiên cũng không kém phần quan trọng. Đó là việc phỉ báng mạ lỵ tất cả lãnh tụ quốc gia như Đề Thám, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Trương Bội Công, v.v… Ngồi vào chỗ Chủ tịch HCM mà không ai biết, Trần Dân Tiên đã dễ dàng và thoải mái “ngậm máu phun” vào tất cả những vị yêu nước kể trên, nhưng cũng biết chừa Nguyễn Thái Học và các Liệt sĩ ở Yên Bái, vì gương hy sinh lẫm liệt của họ không thể nào bêu riếu được. Tuy nhiên đối với Việt Nam Quốc dân đảng, thì Trần Dân Tiên cũng phê bình rằng “không có chính cương rõ ràng và chỉ lo bạo động”. Thì ra, người nào HCM giết được thì đã bị giết như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, v.v… Người nào HCM không giết được thì dùng miệng lưỡi của Trần Dân Tiên phỉ báng mạ lỵ thay cho mình!

HCM và Trần Dân Tiên tuy hai mà một, nhưng tuy một mà hai. Đến năm 1985, mặt nạ Trần Dân Tiên đeo trong 37 năm dài rơi xuống, hóa ra chỉ có một mình Bác Hồ mà thôi! Bác đã chơi trò ném đá giấu tay rồi! Đến khi Dân tộc biết, thì đã quá muộn! Vốn tính gian xảo và tàn ác, Bác đã phối trí, quy tụ, điều động, phân công, sắp xếp, cất đặt, ủy nhiệm tay chân bộ hạ thân tín đi khắp nơi để “LÀM VIỆC” thay cho Bác. Bác đã tổ chức Bộ máy đánh Dân tộc trong thời chiến và Bộ máy nghiền Dân tộc sau khi làm chủ được Đất nước trong ý nghĩa trọn vẹn của chữ “Orchestration” mà tác giả Minh Võ đã diễn tả trong quyển Ai giết HCM (tr. 148). Vì muốn giữ tiếng Cha già Dân tộc, Bác đã phát triển kỹ năng Ném đá giấu tay một cách vô cùng tinh xảo. Bác còn đi qua Nga nhờ cơ quan KGB giải phẫu sửa lại khuôn mặt cho có nét đầy đặn phúc hậu để che giấu bộ mặt thật với đôi mắt cú vọ của mình.

Câu chuyện HCM dùng Trần Dân Tiên thi hành những công tác thay thế Bác là một minh chứng Bác là tay lão luyện trong môn pháp Ném đá giấu tay. Bác thật xứng với ngôi vị Giáo chủ của môn phái đó. Nghiên cứu cuộc đời làm chánh trị của Bác, từ lúc Bác mới bước chân vào nghề làm Việt Cộng cho đến khi Bác sắp sửa đi chầu các ông tổ Cộng sản Mác Lê, Bác đã từng chủ mưu thanh toán biết bao nhiêu người yêu nước mà bàn tay Bác không vấy máu. Nói cách khác, Bác đã từng ném đá biết bao lần và Bác đã giấu tay rất kỹ nên không ai biết. Sau đây là những câu chuyện Bác đã dùng quái chiêu Ném đá giấu tay, trong suốt cuộc đời gian trá từ năm 1924 cho đến những tháng ngày Bác viết Di chúc.

Dịch vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp

Xin xem lại khúc phim lịch sử vào năm 1924. Vào năm đó, cụ Phan Bội Châu 57 tuổi, đã trải 40 năm nặng lòng vì nước từ lúc cụ 17 tuổi và đảm nhận chức Phó đội của Sĩ tử Cần Vương đội đáp ứng Hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi. Cụ đã hoạt động 4 năm với Phong trào Đông Du ở Nhật (1905-1909). Cụ đã bị Long Tế Quang cầm tù ở Quảng Châu (1914-1917). Năm 1924, cụ thành lập tại Quảng Châu một cơ quan gọi là Tâm Tâm Xã làm nơi đi lại hội họp các đồng chí và dịch viết các sách tuyên truyền gởi về nước để cổ động duy trì tinh thần cách mạng cho dân chúng, nâng cao dân trí dân tâm sau những cuộc đàn áp tàn khốc của thực dân Pháp. Vào năm đó, anh em Đông Du lâm vào một tình trạng rất thê lương quẫn bách. Đến nỗi thức ăn hàng ngày còn chưa đủ, huống hồ nói chuyện Cách mạng. Vì vậy mà đoàn thể gần như vỡ lở tan hoang. Trong quyển Ba nhà Chí sĩ Họ Phan, Đào Văn Hội viết (ấn bản đầu ở Sài Gòn 1955, tái bản 1990 do Nxb Văn Sử ở San José, tr. 127):

“Cụ Nguyễn Thượng Hiền thì bỏ lên Hàng Châu nương nhờ cảnh Phật. Cụ Nguyễn Hải Thần thì vào làm việc với chánh phủ Quảng Đông, làm một chân trông nom học sinh trong trường Võ bị Hoàng Phố để lấy lương bổng sinh nhai”.

“Riêng có cụ Phan, tinh thần lúc nào cũng vững vàng thái nhiên, bất chấp cả mọi thiếu thốn khổ sở. Trong khi anh em chia lìa tan tác, cụ nhứt quyết ở lại Quảng Châu để duy trì tàn cuộc. Cụ viết báo Tàu để nuôi sống và nhịn ăn để châu cấp bọn thanh niên hoặc đang tòng học, hoặc đang hoạt động. Trong số đó có Nguyễn Công Viễn tức Lâm Đức Thụ, Trần Đức Quang tức Lê Quốc Đạt, Lê Tấn Anh tức Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong, v.v...”

Giữa hoàn cảnh túng thiếu của anh em cách mạng ở Quảng Châu như vậy, xuất hiện nhân vật HCM rủng rỉnh xu hào dưới ẩn danh là Lý Thụy. Nắm trọn vẹn thế thượng phong trong tay, chi phí công tác do Liên Xô cung cấp, nơi cư trú do đảng Cộng sản Trung Quốc cho ở không mất tiền thuê, lại thêm bài bản tuyên truyền xách động quần chúng và mưu lược địch vận do Đại học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa đào tạo, HCM đã hoàn thành công tác điệp vụ cho Liên Xô quá dễ dàng! Vừa đến Quảng Châu, HCM liền tiếp xúc với Tâm Tâm Xã, và chỉ 2 tháng sau, ngày 19-2-1925, ông báo cáo tin thắng lợi về cho Chủ tịch đoàn Đệ tam Quốc tế rằng “đã lập được một nhóm bí mật gồm 9 hội viên, trong đó có 5 hội viên là Đảng viên dự bị của đảng Cộng sản, và 2 người là Đoàn viên dự bị của Đoàn Thanh niên Cộng sản Lenin” (Trích quyển HCM, Nhận định tổng hợp, tác giả Minh Võ, tr. 515). Xin nhớ kỹ, “Đoàn Thanh niên Cộng sản” HCM thành lập đầu tiên khi mới tập tễnh bước vào nghề làm Cộng sản, đoàn đó ông đặt tên là “Đoàn Thanh niên Cộng sản Lenin”, xin Dân tộc ghi nhớ kỹ điều nầy! Tin thắng lợi cho Cộng sản Liên Xô mà lại là tin thua thiệt về phía Dân tộc. Nhóm bí mật gọi là “Cộng sản đoàn Lenin” đó gồm có HCM và 8 người vốn là hội viên của Tâm Tâm Xã, đến tháng 6-1925, đã đồng ý thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và đặt dưới quyền điều động của HCM. Thế là Tâm Tâm Xã bị xóa sổ!

Cuối tháng 5-1925, Lâm Đức Thụ viết thư và gởi tiền lên Hàng Châu cho cụ Phan mời cụ về Quảng Châu để dự lễ kỷ niệm Đệ nhất chu niên ngày Tuẫn tiết của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái (Xin chú thích: Tiền của ai mà Thụ có để gởi, nếu không phải của L‎ý Thụy - HCM). Bức thư đó chính là kế hoạch đưa cụ vào tay Mật thám Pháp. Trên đường đi, khi tới Bắc Trạm thuộc Tô giới Pháp ở Thượng Hải thì cụ bị Mật thám Pháp đón bắt, bị đưa thẳng xuống tàu để chở về Việt Nam. Lúc Lâm Đức Thụ viết lá thư đó, thì ông đã gia nhập Cộng sản đoàn của HCM, chớ không còn là hội viên của Tâm Tâm Xã nữa. Chi tiết nầy rất quan trọng, bởi lẽ một khi HCM đã xóa sổ Tâm Tâm Xã thì biểu tượng người thành lập Tâm Tâm Xã là cụ Phan cần phải dẹp bỏ luôn để xóa hết dấu tích cho thật sạch. Người xưa đã từng nhận xét: “Nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc”, lẽ nào Đại Mưu sĩ HCM lại không tri hành! Thế mà đến năm 1977, Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng, trong tài liệu về các tổ chức tiền thân của Đảng, CSVN đã mặc nhiên coi tổ chức “Tâm Tâm Xã” của cụ Phan Bội Châu là tổ chức tiền thân của đảng CSVN.

Xét hậu trường chánh trị lúc Nguyễn Ái Quốc - Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Châu đến khi cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt, ta thấy manh nha một nhân vật đầy tham vọng và mưu lược mà mãi sau này, khi cướp được Chính quyền ở Hà Nội, Nguyễn Ái Quốc - HCM hiện nguyên hình như một hung thần tàn sát biết bao nhiêu nhà ái quốc của các đảng phái quốc gia. Những vị tu hành đức độ, những sinh viên và học giả trong tay không một tấc sắt để tự vệ, HCM cũng không tha. Đệ nhất hung thần đại mưu sĩ trên con đường tranh danh đoạt lợi theo lối bàng môn tả đạo từ cổ chí kim chính là HCM. Lấy việc sau luận việc trước, sự triệt hạ Tâm Tâm Xã và dịch vụ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp hẳn nhiên nằm trong vòng sắp xếp của HCM lúc đó còn mang tên Lý Thụy. Đây là tội ác đầu tiên của HCM, có tầm ảnh hưởng quan trọng, được ví như “Phát đại bác đầu tiên bắn vào Dân tộc” như ở Chương 1 đã dẫn giải . HCM đã ném viên đá chính trị đầu tiên đánh trúng cụ Phan Bội Châu và đã giấu tay rất kỹ.

Dịch vụ “bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp” thực hiện khoảng tháng 6-1925 thì mãi đến 1985, Đảng viết lại lịch sử tuyên truyền rằng “Bác Hồ của chúng” là người thừa kế sự nghiệp cách mạng của cụ Phan Bội Châu. “Chuyển giao vai trò lãnh tụ cách mạng VN từ nhà yêu nước lão thành theo chủ nghĩa Dân tộc Phan Bội Châu sang nhà yêu nước theo chủ nghĩa Cộng sản đang tuổi thanh xuân Nguyễn Ái Quốc” (Trích Lịch sử VN, Tập 2, Nhà XB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 198).

Làm gì có sự “chuyển giao”, chỉ có “âm mưu cướp đoạt” thôi! Đến thời CCRĐ, chúng còn tuyên án cụ là địa chủ ác ôn, tịch thu từ đường, làm hình nộm của cụ để đấu tố và bôi phẩn vào mặt (hình nộm)! Sau vụ bán cụ Phan cho mật thám Pháp, với sự tiếp tay của Lâm Đức Thụ, HCM còn tiếp tục bán một số thanh niên đã tốt nghiệp trường Võ bị Hoàng Phố. Đó là những người trong thời gian theo học mà không gia nhập tổ chức của HCM. Trên đường về nước, họ đều bị mật báo cho Pháp bắt ngay ở biên giới Hoa Việt. Về phần Lâm Đức Thụ, mãi sau nầy vào năm 1953, để bịt miệng nhân chứng, Thụ bị đàn em của HCM bắt trói bỏ vào rọ thả sông cho “mò tôm” ở Thái Bình là quê của ông!

Chuyện gian mà không ngoan

Bạn đọc thân mến ơi, có câu chuyện một người chun vào bụi rậm trốn mà không chịu nằm im, anh ta lại lên tiếng khiến cho bị lộ và bị bắt. Do đó, có câu vè “Lạy ông tôi ở bụi này” để diễn tả sự vụng dại đó. Ấy thế mà Chủ tịch HCM cũng đã từng “lạy ông tôi ở bụi này” như vậy! Câu chuyện sau đây là một dẫn chứng (Trích Bối cảnh lịch sử chính trị Việt Nam cận đại và hiện đại của Bùi Anh Trinh, tr. 186). Bùi Anh Trinh thuật lại chuyện Hoàng Tùng và các sử gia CSVN đổ tội cho Phan Bá Ngọc là người bán cụ Phan Bội Châu vì chính HCM đã xác quyết như vậy. Đây, đoạn trích dẫn trong quyển Những kỷ niệm về Bác Hồ của Hoàng Tùng, tác giả Bùi Anh Trinh tham khảo và viết lại như sau: “Nhân nói về chính sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện này. Có lần trong một hội nghị về công tác tổ chức, L‎ý Ban nói: “Đối với con cán bộ, khi kết nạp vào Đảng, không cần có thời gian dự bị mà được chính thức ngay”. Bác nói ngay: “Chú nói như thế không đúng, đối với cách mạng phải xem người ấy cụ thể như thế nào. Vì có chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra con là chó. Phan Bá Ngọc là con của Phan Đình Phùng đã đưa mật thám bắt P.Bội Châu”.

Hoàng Tùng đã nghe Bác nói và thuật lại như vậy. Một số nhân vật thân cận với HCM cũng có nhắc như vậy trong bài tùy bút của họ. Điều đó chứng tỏ HCM đã nói nhiều lần với nhiều người sự việc “Phan Bá Ngọc đưa mật thám Pháp bắt cụ Phan Bội Châu”. HCM đâu có cần phải đổ vấy cho Phan Bá Ngọc là thủ phạm nếu ông không liên can gì đến vụ bán cụ Phan. Bác Hồ nhà ta quả thực gian mà không ngoan! Bác tưởng đâu chuyện xảy ra ở Trung Hoa 30 năm trước không còn nhân chứng, nhưng Bác ta quên rằng sử còn lưu lại rõ ràng là Phan Bá Ngọc đã bị Lê Tản Anh (hay Lê Tấn Anh?) ám sát vào ngày rằm tháng giêng năm Nhâm Tuất (năm 1922).

Vào lúc đó, cụ Phan Bội Châu đang ở Bắc Kinh, làm biên tập viên cho báo Đông Á Tân Văn, chính cụ đã viết lại trong Phan Bội Châu niên biểu khi “thột nhiên nghe được tin Phan Bá Ngọc bị ám sát ở Hàng Châu” (tr. 200): “Ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Tuất, chính là ngày Nguyên tiêu, người Hàng Châu có tục xem đèn bên bờ Hồ Tây, đèn nháy như sao, náo nhiệt cực kỳ. Hốt nhiên trong ngàn tiếng pháo tre, nghe ba tiếng súng lục, tức khắc có người chết nằm ngã giữa đất, máu lấm toàn thân; lính Cảnh sát Tàu lại, soát ở trong người bị bắn có 2.150$ và một đồng hồ vàng trị giá 60$ mà người đó đã tuyệt mệnh. Ôi! Người đó mà cũng đồng bào ta! Mà lại con nhà cựu thù với Pháp đó! Ai giết người nầy? Chính là người thiếu niên sắc sảo đáng gọi là liệt sĩ: Lê Tán Anh (tức Lê Hồng Sơn)”.

Bây giờ, sau Mùa Bịt miệng 2007, đến Mùa Phá Tòa Khâm sứ Hà Nội 2008, nếu có lời chất vấn: “Bác Hồ bảo Phan Bá Ngọc đã bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, vụ mua bán xảy ra ngày 30-5-1925, nhưng Phan Bá Ngọc đã bị bắn chết vào ngày rằm tháng giêng 1922, tức là hơn 3 năm trước đó, làm sao ông có thể đội mồ sống dậy để bán cụ Phan cho được?” Tác giả Bùi Anh Trinh đã đặt câu hỏi như vậy. Bây giờ, để minh oan cho Bác, đứa cháu ngoan nào hay văn nô nào trong Đảng có thể trả lời!? Làm sao minh oan cho được! Bác đã là thủ phạm bán cụ Phan, mà còn “lạy ông tôi ở bụi này”. Bác thật sự “gian mà không ngoan”!

Ném viên đá khổng lồ vào miền Bắc

Đúng ra HCM không ném một viên đá khổng lồ mà đã ném muôn vạn viên đá nhỏ. Trong truyện Tây Du K‎ý, nhân vật thần thoại Tôn Hành Giả làm phép bứt một nắm lông của mình, bỏ vào miệng nhai nhỏ, rồi phun ra thành muôn ngàn Tiểu Tôn Hành Giả để cho ông sai khiến. Trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất, nhân vật HCM cũng làm y như vậy. Từ Phủ Chủ tịch (vào thuở đó có thể ở Tuyên Quang theo lời kể của T. Lan), ông đã ném hàng vạn viên đá ra khắp nơi ở miền Bắc. Viên đá trúng ai thì người ấy chết… Như viên đá đầu tiên, Bác đã ném tới Thái Nguyên, và Bác đã giết ngay bà Năm Cát Hanh Long! Nhưng sức đâu mà “Bác Hồ nhà ta” ném xa như vậy. Thì HCM cũng làm y như Tôn Hành Giả. Bác đã dùng những Tiểu HCM đi khắp nơi để thi hành công tác CCRĐ thay cho mình. Mỗi một viên đá là một Tiểu HCM. Xin qu‎ý bạn đọc thứ lỗi vì người viết đã khá dài dòng để chỉ muốn nói rằng trong chiến dịch CCRĐ, HCM chính là thủ phạm đã ném đá giấu tay và vấy đổ trách nhiệm cho Trường Chinh và các người khác.

Đi ngược dòng thời gian và tìm đến cội nguồn của chiến dịch CCRĐ, từ Cục Lưu trữ Quốc gia Liên Xô tận Mạc Tư Khoa, ta phát giác được 2 bức thư của HCM gởi cho Stalin, viết bằng tiếng Nga (Nguồn http://www.phusa.info/ do Thanh Nam tạm dịch).

Bức thư thứ nhất viết ngày 30-10-1952:

Đồng chí Stalin thân mến,

Tôi bắt đầu soạn thảo đề án Cải cách Ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.

Tôi gởi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.

Những yêu cầu HCM muốn trình bày với Stalin là: 1- Xin Stalin gởi đến Việt Nam hai đồng chí Liên Xô biết tiếng Pháp để làm quen và tìm hiểu thực trạng. 2- Xin gởi tới Liên Xô từ 50 đến 100 du học sinh Việt Nam. 3- Xin 10 tấn thuốc kí ninh. Và điều 4- Xin 144 khẩu cao xạ 37 li, 72 khẩu pháo trận địa 76,2 li, và 200 khẩu súng phòng không và tổng số đạn cho tất cả các loại là 10 cơ số cho mỗi khẩu.

HCM chấm dứt bức thư thứ nhất như sau:

Sau khi nhận những chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.

Gởi tới đồng chí lời chào Cộng sản và lời chúc tốt đẹp nhất.

HCM (kí tên bằng Hán tự), ngày 30-10-1952

Qua hôm sau, 31-10-1952, HCM gởi bức thư thứ hai:

Đồng chí Stalin thân mến!

Tôi gửi cho đồng chí đề án CCRĐ của đảng Lao Động Việt Nam. Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu Shaoshi và Van Szia Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này. Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.

Gửi lời chào Cộng sản.

HCM (kí tên chữ Việt), ngày 31-10-1952

Chuyện đời “có lửa mới có khói”, cho nên hễ có nạn nhân bị sát hại thì phải có kẻ giết người, án sát nhân nào cũng phải có thủ phạm. Khi có nhiều thủ phạm, thì ta lại phân biệt chính phạm và tòng phạm. Do hai bức thư trên làm tang chứng, lịch sử sẽ viết rằng: “Đề án CCRĐ của đảng Lao Động Việt Nam là do HCM qua Liên Xô soạn thảo với sự giúp đỡ của hai đồng chí Trung Cộng Liu Shaoshi và Van Szia Sian. Sau đó đề án được đệ trình lên đồng chí Stalin của Liên Xô để duyệt xét và cho chỉ thị và sau cùng được HCM mang về ban hành trên miền Bắc VN”.

Ta thường nói “Búa rìu dư luận”, dư luận một thời mà còn có búa rìu, lẽ nào lịch sử nghìn đời lại không có tòa án và pháp trường hay sao? Án sát nhân giết chết mấy trăm ngàn nông dân giỏi tay nghề ở miền Bắc, vùng châu thổ sông Hồng (vì giỏi nghề nông, cần mẩn, và biết ăn biết để nên các nông dân nghèo mới thành trung nông, phú nông và địa chủ), vụ án giết người khủng khiếp nhất trong lịch sử Việt Nam bởi lẽ nạn nhân trước khi bị giết còn bị hành hạ, đánh đập, nhục mạ vô cùng tàn nhẫn, sách lược giết người đại quy mô đó lại do Âm mưu Quốc tế của HCM từ hang Pắc Bó đến tận Mạc Tư Khoa để sắp xếp cùng với các đồng chí Cộng sản Nga Tàu của ông. HCM đã đi vào lịch sử là Chính phạm của vụ án CCRĐ, lẽ nào Tử tội HCM trốn thoát khỏi Pháp trường Lịch sử? HCM phải đền mạng, không phải đền một mạng, mà phải đền cả mấy trăm ngàn lần, cả triệu lần cũng nên! Những đoạn viết sau đây chỉ để cho các thế hệ tương lai nhận rõ HCM “mặt người dạ thú và tội ác của ông là tuyệt vô nhân đạo”. Trong bài viết k‎ý tên Đ.X., HCM đã kết án các địa chủ những lời như vậy. Nhưng thật sự không có địa chủ nào “mặt người dạ thú” bởi lẽ không có địa chủ nào ở Việt Nam phạm tội giết người cả. Chỉ có Chủ tịch HCM phạm tội giết vô số địa chủ mà thôi. Cho nên trong lịch sử VN, chỉ có HCM là “mặt người dạ thú và tội ác của ông là tuyệt vô nhân đạo”, duy nhất chỉ có một mình ông xứng danh như vậy! Lời của ông kết án địa chủ, bây giờ luận xét lại, Dân tộc xin hoàn trả lại cho ông! Suy ra chính ông đã tự chửi mình!

Chính phạm giết bà Năm Cát Hanh Long

Ngày 21-7-1953, trên báo Nhân dân của Đảng có một bài viết tựa đề “Địa chủ ác ghê” lời lẽ vô cùng điêu ngoa, vu khống ba mẹ con bà Năm Cát Hanh Long đã giết hại tất cả 260 người nông dân vô tội. Bài báo k‎ý tên là C.B. Không ai biết C.B. là ai. Mãi cho đến 54 năm sau, một người Việt ở Úc Châu tên Nguyễn Quang Duy tìm trong tập 6 của bộ HCM toàn tập có 15 bài viết của HCM k‎ý tên C.B. (=Của Bác). Nhưng trong 15 bài viết đó lại không có bài “Địa chủ ác ghê”! Thì ra bài viết đó quá ư đểu cáng, Bác đặt điều phỉ báng cực kỳ phi lý, đọc lên chỉ làm trò cười cho mọi người, nên Đảng phải đánh lờ bỏ quên đi để cho “Bác của chúng” khỏi mang tiếng.

Với bài báo “Địa chủ ác ghê”, HCM đã quyết tâm kết án tử hình bà Năm Cát Hanh Long rồi! Bà Năm đã sát hại 260 nông dân vô cùng dã man “theo lời vu khống của Bác” thì bà phải chết thôi! Vậy mà Bác lại phát biểu trước Bộ Chính trị rằng: “Tôi đồng ‎ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói rằng không nên đánh đàn bà dù đánh bằng một cành hoa”. Bác đã dã tâm kết án tử hình bà Năm, vậy mà ngoài miệng còn lôi kéo “Phép nịnh đầm” của Pháp vào để chống chế! Thế mới biết bộ mặt giả nhân giả nghĩa đáng ghê tởm của HCM, đúng là “mặt người dạ thú”!

Tìm ra tác giả bài “Địa chủ ác ghê” là HCM đã là một kỳ công trong lịch sử. Sau đó cây viết trẻ Nguyễn Quang Duy còn tìm trong HCM, Biên niên tiểu sử, tập 5 tr. 418, thêm một bài viết khác của HCM dưới ẩn danh là Đ.X. Nguyễn Quang Duy viết như sau: “Bài viết của Chủ tịch HCM “Địa chủ phản động ác ghê”, k‎ý bút danh Đ.X, đăng trên báo Cứu Quốc số 2459 (ngày 2-11-1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với Thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại Chính sách Ruộng đất của chính phủ. Chúng là bọn mặt người dạ thú và tội ác của chúng là tuyệt vô nhân đạo…”

Đến ngày 19-12-1953, Chủ tịch HCM k‎ý sắc lệnh cho thi hành CCRĐ tại tỉnh Thái Nguyên là ATK của Việt Cộng (ATK=An toàn khu). Đến đây, hậu trường chánh trị của CCRĐ hiện ra rõ như chuyện “Đêm giữa ban ngày”. HCM đã chuẩn bị viên đá đầu tiên ném vào bà Nguyễn Thị Năm tuần tự như sau:

1- Ngày 30 và 31-10-1952 đến Mạc Tư Khoa đệ trình lên Stalin “Đề án CCRĐ của đảng Lao Động VN” để xin chỉ thị và nhân tiện xin súng đạn. 2- Ngày 21-7-1953 viết bài “Địa chủ ác ghê” bút danh C.B. để kết án tử hình bà Năm Cát Hanh Long. 3- Ngày 2-11-1953 viết thêm bài “Địa chủ phản động ác ghê” k‎ý bút danh Đ.X. 4- Và sau cùng, ngày 19-12-1953 k‎ý sắc lệnh ban hành CCRĐ khởi đầu ở tỉnh Thái Nguyên để bắt bà Năm Cát Hanh Long phải là nạn nhân đầu tiên. Cần ghi nhớ là viên Đội trưởng chỉ huy vụ đấu tố Bà Năm là người Nghệ An, đồng hương với Bác.

Lịch sử xảy ra đúng theo sự sắp xếp của HCM. Sau khi bà Năm Cát Hanh Long bị giết, các đoàn đội CCRĐ, như những Ông Trời con, gieo kinh hoàng khắp cả 3563 ngôi làng của nông thôn miền Bắc, nâng con số nạn nhân bị đấu tố lên 200.000 người, nếu kể hết số thân nhân liên hệ với người chủ gia đình bị đấu tố, con số có thể tới 500.000 hay hơn nữa! Trước sự bất mãn càng ngày càng gia tăng trong dân chúng, và sau khi thấy đã giết đủ số người cần giết, tức là những người có chiều hướng chống đối chế độ CS, HCM mới phát động Chiến dịch Sửa sai. Tại Hội nghị Trung ương, Trường Chinh bị mất chức Tổng bí thư, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương mất chức ủy viên Bộ chính trị, và Hồ Viết Thắng ra khỏi Trung ương đảng. HCM kiêm nhiệm Tổng bí thư, đoạt chức vị của Trường Chinh một cách dễ dàng.

Ông tổ nghề tố điêu

Như một nhà thiện xạ dùng một mũi tên bắn trúng hai con chim, bài viết “Địa chủ ác ghê” của HCM cũng được ví von như vậy. Mục tiêu thứ nhất HCM nhắm vào là giết bà Năm Cát Hanh Long, mà phải giết bà đầu tiên để gây thanh thế cho cuộc CCRĐ. Mục tiêu thứ hai, không kém phần quan trọng, là nhắm vào việc huấn luyện các cốt cán sau nầy bằng bài tố điêu ngoa mẫu mực đúng tiêu chuẩn của mình để cho các đàn em cốt cán noi theo. Do đó, bài “Địa chủ ác ghê” cần được chép lại nguyên văn để qu‎ý bạn tìm hiểu về ngón nghề của Ông tổ nghề tố điêu HCM. Nhân đây, xin ghi nhận công sưu tầm của Nguyễn Quang Duy, một cây viết trẻ, kiệt xuất trong hàng ngũ tranh thủ Dân chủ, Tự do và Nhân quyền cho Việt Nam.

Địa chủ ác ghê (tác giả C.B. tức HCM)

“Thánh hiền dạy rằng: Vi phú bất nhân. Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa - thế thôi. Nào ngờ bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ. Mụ địa chủ Cát Hanh Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã giết chết 14 nông dân, tra tấn, đánh đập hàng chục nông dân nay còn tàn tật, làm chết 32 gia đình, gồm có 200 người. Năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về phá rừng, khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì khổ cực quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người. Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân. Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói, bắt làm nhiều, ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Cầu Hang. Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi, chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói, mặc rách, bắt làm quá sức, lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng sau, 15 em đã bỏ mạng. Thế là ba mẹ con địa chủ C.Hanh Long đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào.

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô, thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì Thực dân Pháp. Thí dụ: trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột. Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng, hộc máu. Bơm nước vào bụng rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra. Chúng đổ nước cá nước mắm làm cho nôn sặc lên. Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt. Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng Tháng tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến. Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa chứng cớ rõ ràng ra tố cáo, mẹ con Cát Hanh Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân”.

Lời bàn: Tự mình đề cao mình nào là “Cha già Dân tộc”, nào là “Người Con yêu qu‎ý nhất của Dân tộc” là Trần Dân Tiên tức HCM. Nhưng oan nghiệt thay, viết bài “Địa chủ ác ghê” k‎ý bút hiệu C.B. trên đây, cũng là HCM. Từ lúc nhân loại phát minh ra chữ viết, tự cổ chí kim, thật không có bài văn nào viết lên những lời lẽ vu khống và phỉ báng đểu cáng, hèn hạ và ác độc bằng bài “Địa chủ ác ghê” của con người tự xưng là “Cha già Dân tộc”. Than ôi, chỉ vì muốn mang Lá Cờ đỏ của Lenin đi khắp nơi, mà ông đã tự hạ phẩm cách của mình xuống đến mức ĐỂU CÁNG, HÈN HẠ VÀ ÁC ĐỘC NHẤT TRONG LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI! Lời kết án có quá nặng chăng, người viết chỉ xin nhân danh “Mấy trăm ngàn Oan hồn uổng tử trong chiến dịch CCRĐ” và viết lại cho đúng với sự thật, xin qu‎ý bạn bình tâm đọc tiếp.

Trước hết, xin nhắc chuyện cha của HCM là Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng và được cử làm Tri huyện Bình Khê, Bình Định. Đến năm 1910, trong cơn say rượu, ông tra khảo và đánh chết một người tù tên Tạ Đức Quang. Hội đồng Nhiếp chính ở Huế cứu xét và cách chức ông! Đấy, “quan Tri huyện cha của Bác” làm chết một mạng người còn bị cách chức thay. Thế tại sao một địa chủ như bà Năm Cát Hanh Long đã sát hại cả 260 người nông dân mà không bị pháp luật trừng phạt? Hiển nhiên, Bà Năm không bị pháp luật trừng phạt như quan huyện Bình Khê là vì bà vô tội, bà không giết ai cả! Người viết xin lặp lại “Bà Năm không giết ai cả”. Bác đường đường là Chủ tịch Đảng uy quyền tuyệt đối, muốn giết ai mà không được, như trong Lễ Tế cờ, Bác đã giết hàng mấy chục ngàn người, tại sao Bác lại phải viết bài “Địa chủ ác ghê” để vu khống cho bà Năm! Viết làm chi để phạm tội sát nhân còn mắc thêm tội vọng ngữ, rồi còn để lại tiếng xấu là người đểu cáng, hèn hạ, và ác độc nhất trong lịch sử!

Trong tự tình Dân tộc của một xã hội thuần hòa sống về nông nghiệp, không có một địa chủ nào “ác độc đến mức đánh đập người làm, bắt làm việc nhiều, và cho ăn đói đến nỗi người đó phải chết”, tuyện nhiên không! Người viết đã hội ‎‎ý với những vị cao niên tuổi bát tuần hiện ở Sydney. Họ sinh trưởng ở miền Bắc và đã trưởng thành trong nền văn hóa của Dân tộc: như ông P.Đ.K. (cựu thẩm phán), ông T.V.B. (cán sự địa chánh), ông B.V.Nh. (thi sĩ, võ sư, và giám đốc võ đường), ông Ng.Th.S. (nhà giáo), bà Ng.Th.Nh. (thi sĩ, hội trưởng hội TNĐD), ông Đ.Th. (chuyên viên điện toán), nhạc sĩ X.T. v.v… Tất cả đều khẳng định: “Ở miền Bắc, không hề có một địa chủ nào ác độc như HCM đã diễn tả trong bài “Địa chủ ác ghê”. Tuyệt nhiên không hề có! Giết 1 người còn không có, huống hồ giết đến 260 người! HCM chỉ bịa chuyện!”.

Xưa nay, xã hội Việt Nam không có giai cấp mà chỉ phân biệt theo ngành nghề gồm 4 nhóm Sĩ Nông Công Thương, tức là giới sĩ phu, nhóm nhà nông, thợ thuyền, và những người làm nghề buôn bán. Những nhà nông bao gồm nông phu nghèo và địa chủ giàu là giới đã cộng lực làm ra hạt lúa nuôi sống Dân tộc cả ngàn đời. Ngồi viết bài “Địa chủ ác ghê”, HCM đã mặc nhiên đứng vào chỗ đối kháng với nền văn hóa của Việt tộc. Bởi lẽ ông đã bôi lọ và vu khống không phải một người địa chủ là bà Năm mà ông đã phỉ báng trọn cả một bộ phận của Dân tộc. Xét trên phương diện này, HCM đã bước vào đúng vết chân của một giáo sư người Pháp kỳ thị chủng tộc ở trường Quốc học Huế. Câu chuyện sau đây do học giả Đào Đăng Vỹ tường thuật trong bài Cuộc bãi khóa năm 1927 của học sinh Quốc Học & Đồng Khánh (Đặc san Quốc Học & Đồng Khánh, xuất bản tại Sydney năm 2000, tr. 33): “Trong niên học 1927, có một giáo sư người Pháp la rầy một học sinh, ông lại chưởi mắng cả Dân tộc VN, và nhục mạ cụ Phan Bội Châu lúc đó đang bị an trí tại Huế. Bị nhục Quốc thể, tất cả học sinh trường Quốc Học đồng lòng bãi khóa để phản đối vị giáo sư người Pháp kỳ thị chủng tộc đó, và cuộc bãi khóa lan sang trường Đồng Khánh và trường Providence ở Huế”.

Về mặt tâm linh đạo đức, khi viết bài “Địa chủ ác ghê”, HCM đã sai phạm rất nặng vào khuôn vàng thước ngọc của các Tôn giáo trên thế gian. Như đạo Khổng là đạo dạy làm người, trong Ngũ Thường tức Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín thì đứng đầu là “NHÂN tức là lòng nhân từ bác ái”. Trong Thiên Chúa Giáo (Công Giáo), trong 10 Điều Răn (Thập Giới) của Đức Chúa thì điều số 4 là “Chớ giết người” và sau 10 Điều răn, Đức Chúa tóm tắt bằng câu “Hãy thương người như mình ta vậy”. Trong Ngũ Giới theo lời Phật dạy thì điều giới thứ nhất là “Cấm sát sinh vì độ lượng từ bi thương yêu tất cả chúng sinh”. Trong dòng sinh mệnh của Việt tộc, suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước, câu phương ngôn “Thương người như thể thương thân” thì không người Việt nào là không biết! ‎Ấy thế, HCM hô hào “Kách mệnh” mà lại không đếm xỉa tới những điều đạo đức nhân ái đó. Bài “Địa chủ ác ghê” đã khơi dậy lòng hận thù của cốt cán bần cố nông để đưa cả “bầy đàn” vào cuộc chém giết rùng rợn, biến trọn cả miền Bắc thân yêu thành “Sát trường rộng bao la”, và biến mỗi xã thôn thành một “Địa ngục trần gian nho nhỏ” (“bầy đàn” chữ của Vũ Thư Hiên). Bài “Địa chủ ác ghê” viết từ trái tim của HCM, một người độc ác nhất trong lịch sử VN, bài viết đó rất xứng đáng được gọi là “Lệnh Quỉ vương gọi bầy”!

Xin nhắc lại câu nói để đời của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu “Đừng nghe những gì Việt Cộng nói, mà hãy nhìn những gì Việt Cộng làm”. Vâng, đúng vậy, chỉ nhìn những gì HCM làm cho Dân tộc, đã là một Khối tội ác khổng lồ rồi. Nhưng nếu xét tới những gì ông đã làm theo sách lược Ném đá giấu tay, như bài viết “Địa chủ ác ghê” trên đây, thì thật không lời nói nào trên thế gian có thể diễn tả được sự hèn hạ, đểu cáng, nham hiểm, ác độc về nhân cách con người! Chỉ vì muốn mang “Lá Cờ đỏ của Lenin đi khắp nơi”, HCM đã sa xuống mạt hạng cùng đinh vô nhân cách, không một chỗ đứng nào trong nền Tinh hoa Văn hóa Thế giới, thì đừng hòng một địa vị trong lòng Việt tộc!

Tướng Tô K‎‎ý đỡ, đại tá Phùng Thế Tài đánh

Câu chuyện “Đánh và đỡ” của hai vị tướng và tá này liên quan đến cuộc thảm sát hàng trăm thanh thiếu niên miền Nam tập kết ra Bắc mà đàng sau hậu trường chính trị ẩn hiện bàn tay nhớp nhúa của Chủ tịch HCM. Câu chuyện do tác giả Việt Thường tường thuật trong đề mục “Tướng cao bồi” của quyển Chuyện thâm cung dưới triều đại HCM (tr. 64-71). Người viết đã lược thuật trong Chương 5 viết về Những cây người HCM trồng. Nguyên Phùng Thế Tài từng là viên bảo vệ thân cận của HCM. Hắn đúng là một cây người, vô tâm vô cảm, đã sát hại ở bờ sông Đoan Vĩ (Phủ L‎ý) những thanh thiếu niên con những cán bộ miền Nam tập kết. Và đến 1970, trong dịp tết Nguyên đán, chính Phùng Thế Tài cũng đã bắn chết ở bờ sông Bạch Hạc (Việt Trì) gần 200 tân binh gốc Hà Nội đòi công bằng trong nghĩa vụ quân sự sau khi đứng ra dàn xếp dụ dỗ và hứa sẽ khoan hồng (tr. 69 sđd).

Xin nhỏ lệ cho 200 thanh niên Hà Nội con nhà dân giả này và nhất là khóc thật nhiều cho 200 bà mẹ đã bị mất con mà không biết vì cớ gì! Hai trăm cái chết oan khiên đó chỉ còn lưu lại trong vài hàng chữ của tác giả Việt Thường (tr. 70 sđd): “…Con dân thì bị bắt lính, còn con em lãnh đạo thì không. Và, nếu như có bị bắt lính thì không làm bia đỡ đạn, mà để mặc áo lính đi học ở các trường quân sự cao cấp ở Nga Xô hoặc các nước Đông Âu, hoặc học các trường đại học khác ở nước ngoài theo học bổng dành cho quân đội”. Số thanh niên Hà Nội con nhà dân giả đó bị giết vì tranh đấu cho công bằng trong nghĩa vụ quân sự nên không gia nhập “Bộ đội sanh Bắc tử Nam”. Do đó bàn tay chúng không vấy máu đồng bào miền Nam. Xin nguyện cầu cho 200 thanh niên tử nạn đó, với tâm hồn thiện lành lúc sinh thời, hương linh siêu thăng thánh thiện, hòa nhập vào Hồn thiêng Sông núi, và hộ trì cho mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn vật mãi mãi là Địa linh Nhân kiệt, vinh danh cho cả Dân tộc khắp Bắc Trung Nam !

Về vụ bất mãn của thanh thiếu niên gốc miền Nam, tác giả Việt Thường viết (tr. 69 sđd): “Vì bị đối xử bất công, nên chúng cướp tỉnh Ninh Bình, giữ Bí thư và Chủ tịch tỉnh cùng Trưởng ty Công an làm con tin. Tướng Tô K‎ý được lệnh đem quân “dẹp loạn”, đã thuyết phục số thanh niên đó đầu hàng và hứa sẽ khoan hồng cũng như sẽ xem xét những khiếu nại của họ. Trên đường về gặp Phùng Thế Tài. Tài cho đem tất cả số thanh niên đó ra bờ sông Đoan Vĩ (Phủ L‎ý) bắn chết hết”.

Câu chuyện chỉ có vậy, tác giả Việt Thường đã viết như vậy, Phùng Thế Tài cho đem tất cả số thanh thiếu niên đó ra bờ sông bắn chết hết. Nhưng sanh mạng của mấy trăm thanh thiếu niên không phải là chuyện nhỏ rồi cho thông qua. Bác Hồ ơi, đám thanh thiếu niên đó không phải là những tên sát nhân giết người cướp của chẳng gớm tay đáng phải lãnh án tử hình! Trái lại, chúng thuộc thành phần ưu tú, con em của những gia đình yêu nước có công kháng chiến ở miền Nam được chọn lọc để tập kết đưa ra Bắc. Hơn nữa, chúng phải sống cảnh xa nhà, xa cha mẹ, xa anh em ruột thịt, xa nơi chôn nhau cắt rún. Sao lại nỡ lòng sát hại chúng? Tướng Tô K‎‎ý thuộc thành phần tập kết, cùng cảnh ngộ với đàn em bất mãn đó, nên ông cố gắng thuyết phục các em đầu hàng và ông đã thành công. Tướng Tô K‎‎ý đã đỡ cho đàn em, nhưng cú đánh của Đại tá Phùng Thế Tài quá mạnh nên ông Tướng Tô K‎‎ý đỡ không nổi. Tướng Tô K‎‎ý khiếu nại lên cấp trên, Bộ Chính trị ra mặt ủng hộ quyết định cứng rắn của Phùng Thế Tài nên vị Tư lịnh Quân khu Tây Bắc Tô K‎ý bị thất sủng và phải ngồi chơi xơi nước, tác giả Việt Thường đã viết như thế trong sách của ông!

Những nhận xét ở Chương 5 Những cây người HCM trồng, đoạn nói về Đao phủ Phùng Thế Tài, người viết xin được lặp lại: “Xét lại vụ việc này, nghi vấn đặt ra là Phùng Thế Tài cấp bực đại tá thấp hơn tướng Tô K‎ý mà sao lại dám qua mặt thượng cấp. Phải chăng đàng sau đại tá Phùng Thế Tài là ô dù bự của Bác? Phải chăng Tài đã nhận mật lịnh của Bác? Hỏi như vậy tức là đã trả lời! Nếu không có mật lịnh của Bác, làm sao Phùng Thế Tài dám hạ sát cả trăm sinh mạng. HCM chính là người chủ mưu sát hại các thanh thiếu niên miền Nam tập kết. “Bằng bàn tay của Phùng Thế Tài, Bác đã chơi trò ném đá giấu tay”.

Trong vụ án sát nhân tập thể nầy, người viết xin trình thêm một nghi vấn. Vào lúc đó, chính thể Dân chủ Cộng hòa của HCM, thực sự là Bộ máy đàn áp Dân tộc, vừa mới phát động. Với chế độ hộ khẩu tem phiếu khắc nghiệt, với cuộc CCRĐ ác độc tàn sát hàng trăm ngàn người vô tội, với những văn nô như Tố Hữu, Xuân Diệu chế ngự văn thi đàn để ca ngợi Đảng, có sáng tác trăm quyển ngàn bài thì cũng toàn màu hồng nâng bi Bác và Đảng, tóm lại thực chất chỉ là CÁI BÁNH VẼ KHỔNG LỒ. Những thanh thiếu niên miền Nam tập kết ấy, “trẻ người non dạ, hồn nhiên bộc trực như tánh tự nhiên của tuổi thanh xuân”, hẳn cảm nhận được màu sắc rực rỡ của Cái bánh mà không mùi vị gì cả, biết đó là Cái bánh vẽ, không chịu ngồi xuống ăn vì chưa học được chữ “nhẫn” như nhà thơ Chế Lan Viên. Bị đối xử bất công mà bất mãn, rồi lại không chịu ăn Cái bánh vẽ của HCM, tội của các em như vậy thì phải chết thôi. Nhưng điều đáng tiếc là cái chết của các em bị bưng bít, không gây được tiếng vang nào, không có cơ may lịch sử để cảnh tỉnh những trí thức miền Nam như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Luật sư Trịnh Đình Thảo, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, kỹ sư Trương Như Tảng, kỹ sư Hồ Văn Bửu, v.v…, cho nên về sau họ vẫn ào ào nhào vào ăn Cái bánh vẽ của HCM dọn trong Đại yến tiệc Giải phóng Miền Nam, làm chết thêm mấy triệu người nữa, trong số đó có nữ Bác sĩ Đặng Thùy Trâm! Đáng tiếc thay!

Nguyễn Bình, “Viên đá” HCM ném vào Nam Bộ

Sách lược “Tù vận” của Cộng sản

Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, nguyên là đảng viên của Việt Nam Quốc dân đảng. Ông luôn tôn thờ Đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Ông nổi tiếng là một danh tướng ngang hàng với tướng Nguyễn Sơn, vì hai người đã tốt nghiệp Quân sự Học hiệu Hoàng Phố. Năm 1929 ông bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Trong thời gian ở tù, xảy ra chuyện ông làm “ăn-ten” khai báo các tù nhân ở chung trại nên bị anh em trùm chăn dần cho một trận đòn hội chợ làm hư một mắt và su‎‎‎ýt chết! Chuyện Nguyễn Bình làm “ăn-ten” để bị đánh đến chột mắt là một nghi vấn lớn. Con người yêu nước Nguyễn Phương Thảo, gia nhập VNQDĐ, tôn thờ Đảng trưởng Nguyễn Thái Học, lại có biệt tài về quân sự, khí phách hơn người, lẽ nào chịu hạ mình làm “ăn-ten”! Điều đáng ghi nhận là ông ở tù chung với Lê Duẩn, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, v.v… vốn nổi tiếng là những tay xảo quyệt, và chính những người này mới ngầm liên lạc mật thiết với “Thầy Chú”, tức là những cai tù! Có làm “ăn-ten” hay không, chính là những bộ mặt Cộng sản này, chứ không ai khác. Bởi thế việc Nguyễn Bình bị đánh đến chột mắt có thể là ngón đòn dàn dựng theo sách lược địch vận sở trường của Cộng sản mà người viết xin gọi là “Tù vận”. Trần Kim Trúc, nguyên Tham mưu trưởng Trung đoàn 25 Bình Xuyên, tác giả quyển Tôi giết Nguyễn Bình, có ghi một nhận xét khả dĩ rọi vài tia sáng vào ẩn tình (tr. 36): “Có lẽ cũng vì trận đòn này, Nguyễn Bình phần nào thay đổi tính nết: một nửa còn hào khí của con người quốc gia, một nửa của con người Đệ tam Quốc tế”. Xin viết thêm về Trần Kim Trúc: Trung đoàn 25 Bình Xuyên mà Trần Kim Trúc làm Tham mưu trưởng là hậu thân của Bộ đội An Điền, thuộc đảng Đại Việt, vị Tư lịnh là Bùi Hữu Phiệt.

An Khê viết thêm về tù vận

Những hồi k‎ý của k‎ý giả An Khê về Khám lớn Sài Gòn và Nhà tù Côn Đảo cung cấp thêm chứng tích về sách lược tù vận của CS. An Khê thuật chuyện hồi ông ngồi tù ở Côn Đảo, “ông bị rớt cát-sô với 17 người nữa, đa số là tù áo trắng (tức là tù chánh trị) như kỹ sư Phan Khắc Sửu, giáo sư Trần Văn Quế, ông Võ Oanh gọi là Tú Oanh, anh giáo Thảo, anh giáo Thố, anh giáo Khai, ông bang biện Chiêu, ông hội đồng Võ Công Tồn, anh Trần Quốc Bửu, anh Đào Duy Phiên (anh của Đào Duy Anh trong gia tộc Đào Duy), v.v…”. Ông viết tiếp rằng sự việc có một số đông tù áo trắng bị sụp hầm như thế chưa từng xảy ra ở Côn Đảo và đấy là kết quả âm mưu ám hại của phe tù Cộng sản, lúc đó đang làm mưa làm gió trên đảo. Theo k‎ý giả An Khê, ở Côn Đảo có một người tù được giữ chức “mémento”, tức là thơ k‎ý riêng cho ban điều hành khám đường (mémento là tiếng Pháp có nghĩa là sổ ghi chép). Anh mémento là thứ vua con của tù, nói gì xếp chánh cũng nghe. Vào lúc đó người mémento là một người tù thường phạm tên Hoàng, do bọn tù Cộng sản vận động đưa lên làm công cụ để bành trướng thế lực và ám hại tù Quốc gia. Chính tên Hoàng đã tâu với Gardien chef là Hillaire rằng nhân mùa gió thổi về hướng đất liền, cần phải đề phòng âm mưu vượt ngục nên phải nhốt các tù áo trắng nguy hiểm xuống hầm.

Rớt cát-sô hay bị sụp hầm tức là bị giam nơi chuồng cọp, hai người một hầm, trần truồng cả, cửa sắt bít bùng, chỉ hé mở vào buổi sáng đủ thời giờ để thay bô, và sáng chiều hai cữ đưa lọt rá cơm vào. An Khê thuật tiếp: “Chúng tôi đồng lòng tuyệt thực phản đối việc sụp hầm một cách vô cớ, đòi hỏi phải được ra làm việc ngoài chuồng cọp, hưởng chút ánh sáng và không khí”. Trước sự tranh đấu quyết liệt, tên xếp chánh Hillaire phải nhượng bộ. Hắn phát cho mỗi người một bộ quần áo cũ và cho ra ngồi se sợi ngoài hiên. Hai người một máy se, làm theo giờ hành chánh, nhà nước vừa có lợi, lại không mang tiếng ác.

Được làm ngoài trời khoảng nửa tháng, 18 người bỗng nhiên ai cũng đau bụng và đi tiêu chảy. Mấy người già yếu nằm liệt chiếu, không ai hiểu tại sao. Nhìn vào cơm toàn cát và mẻ tĩn đựng khô đầy xác ruồi, không ai dám ăn. An Khê viết: “Chừng gần tuần lễ bọn chúng tôi tưởng nguy đến tính mạng, chợt thấy bớt đau bụng và lần lần bình phục. Thì ra người tù có phận sự mang cơm đến là người Cao Miên, nghe lời xúi giục của bọn tù Cộng sản mới pha nước bẩn vào thức uống, bỏ cát, xác ruồi vào cơm và thức ăn. Làm được mấy hôm, thấy có nhiều người bị bịnh nằm liệt, lương tâm cắn rứt, hắn mới đến lạy và thú nhận tội với ông Lục cụ, cũng đang ngồi tù vì tội đánh Pháp”. Nghe lời khuyên của ông Lục cụ, người tù Cao Miên hối hận mới ngưng việc đầu độc. An Khê cùng 17 bạn tù quốc gia mới thoát nạn.

Mãi đến 49 năm sau, khi viết loạt bài Khám lớn Sài Gòn và Đảo Côn Nôn 49 năm về trước (Làng Văn đăng tải trong các số 81, 86, và 87), người tù An Khê nhận xét về chân tướng Việt Cộng: “Ở Khám Lớn Sài Gòn, phe Cộng là thiểu số. Nhưng khi ra Côn Đảo, họ đông hơn, có thế lực núp bóng cai tù, nên trở mặt, bảo: “Trên đảo chỉ có màu đỏ, không màu vàng.” Cho nên người quốc gia muốn yên thân trả nợ tù, phải nhuộm đỏ! Không là Cộng sản tức là kẻ thù, không có khác, không được lưng chừng!” Viết cho ngắn gọn, “Cuộc chiến tranh của HCM đánh Dân tộc” diễn ra khắp mọi mặt. Ở Côn Đảo thì những tù chánh trị Quốc gia gặp khốn đốn với tù Cộng sản. Ở trong bưng thì bị Cộng sản ám hại hay bị tử hình vì vu cáo là gián điệp. Thật tình khi ấy, người ái quốc phe Quốc gia không còn chỗ dung thân.

Chuyện Thiếu tướng Nguyễn Bình

Năm 1936, Nguyễn Bình được tha, về Bắc tìm lại VNQDĐ, lúc đó do Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, và Chu Bá Phượng lãnh đạo. Nguyễn Bình được giao tổ chức cơ sở ở vùng Hải Phòng, Hòn Gai, Móng Cáy và ông đã hoàn thành nhiệm vụ. Theo tác giả Bùi Anh Trinh (Quyển Bối cảnh lịch sử chính trị Việt Nam cận đại, hiện đại, tr. 389): “Ngày 2-9-1945 ông chỉ huy 2.500 quân của QDĐ tham dự duyệt binh tại quảng trường Hà Nội, trong khi toán của Võ Nguyên Giáp là 350 người.” Không biết l‎ý do vì sao Nguyễn Bình đứng vào hàng ngũ của HCM mà lại không gia nhập Đảng. Phải chăng vì cấp bậc Thiếu tướng của HCM phong tặng cho ông? Phải chăng vì trận đòn hội chợ ở Côn Đảo làm ông chột mắt là mưu kế của CS ly gián ông với VNQDĐ? Có thể cả hai l‎‎ý do đều đúng?!

Cuối năm 1945, Nguyễn Bình được điều động vào Nam trong phái đoàn do Lê Duẩn cầm đầu với lời phủ dụ của HCM: “Chú Bình, Nam Bộ đương là nơi để anh hùng tạo thời thế, tôi giao Nam Bộ cho chú đó”. Xin nhắc lại chi tiết lịch sử này (Trích quyển Tôi giết Nguyễn Bình, tr. 239): “Nguyễn Bình vào Nam Bộ, với danh nghĩa là một nhân vật trong phái đoàn do Lê Duẩn cầm đầu, rồi lãnh chức vụ Khu trưởng Khu 7 nhưng vẫn chưa hẳn là đảng viên CS”. Điều này rất quan trọng khiến cho ta hiểu rằng những hành động do Nguyễn Bình làm sau nầy đều phát xuất từ sự huy động của Lê Duẩn. Nói cách khác, Ng.Bình chỉ là tay sai, mặc dầu với cấp bực Thiếu tướng, Nguyễn Bình chỉ là viên đá HCM ném vào miền Nam! Tất cả những vụ sát hại các vị yêu nước có tinh thần Quốc gia Dân tộc ở miền Nam đều do sự điều động của Chánh phạm là Lê Duẩn và đàng sau Lê Duẩn là Đại chánh phạm Chủ tịch HCM!

Mặt trận Quốc gia Thống nhất

Nguyễn Bình lập căn cứ ở quận Tân Uyên thuộc tỉnh Biên Hòa, giáp với Chiến khu Đ. Lúc đó thực lực của bộ đội Cộng sản ở miền Đông chẳng có là bao. Theo tác giả quyển Tôi giết Nguyễn Bình (tr. 65): “Huỳnh Văn Nghệ, Kiều Đức Thắng, Đào Sơn Tây, Tô K‎ý, Tám Chùa (tức Huỳnh Tấn Chùa), chỉ có danh có tướng mà không có quân nhất là không có vũ khí”. Hãy xem Nguyễn Bình làm cách nào để thâu nạp bộ đội và vũ khí. Thì cũng cùng một sách lược của Cộng sản Đệ tam Quốc tế y như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn áp dụng 8 tháng trước đó, Nguyễn Bình cũng đã sát hại những lãnh tụ quốc gia yêu nước và bắt tay với quân đội Pháp để triệt hạ lực lượng võ trang của họ!

Nhắc lại lịch sử: sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh và chính phủ Trần Trọng Kim từ chức, để đối phó với tình trạng vô chính phủ ở Nam Bộ, vào ngày 14-8-1945, đáp lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà, các vị như Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Trần Văn Thạch, v.v… đã liên kết các đảng phái và thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Mặt trận thể hiện sự đoàn kết toàn Nam Bộ, nên được hoan hô khắp mọi nơi. Nhưng bỗng nhiên đến ngày 25-8-45, Trần Văn Giàu cướp chính quyền và thành lập Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ gồm 8 ủy viên là Cộng sản Đệ tam và 1 ủy viên thân cộng, để gạt ra ngoài Mặt trận QGTN! Ngày 13-9, quân Anh đại diện lực lượng Đồng minh do tướng Douglas Gracey đến Sài Gòn để giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Đến ngày 16-9, quân Pháp theo chân quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn, thì lập tức Lâm ủy HCNB của Trần Văn Giàu rút về Chợ Đệm không kèn không trống, để mặc cho các lực lượng của Mặt trận QGTN liều chết chống xâm lăng.

Ngày 23-9 quân Pháp tấn công các bót và cơ sở hành chánh Nam Bộ: trang lịch sử Nam Bộ kháng chiến bắt đầu từ ngày nầy, và danh dự nầy phải dành cho Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Một ủy ban phong tỏa Sài Gòn được thành lập do Nguyễn Văn Sâm, Kha Vạng Cân, Trần Văn Ân, Hồ Văn Ngà… Từ ngày 27-9 đến 30-9 Sài Gòn bị bao vây, khói lửa rực trời, thực vật khan hiếm, Pháp dụng kế hoãn binh để chờ tiếp viện và vận chuyển lương thực nên đề nghị hưu chiến. Ngày 1-10 cuộc hưu chiến Việt Pháp bắt đầu ở Sài Gòn. Lợi dụng dịp hưu chiến, Trần Văn Giàu và bộ máy công an Việt Minh bủa vây và bắt các chiến sĩ cách mạng quốc gia: Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Huỳnh Văn Phương, Hồ Vĩnh K‎‎ý, Nguyễn Thị Sương, Lê Kim Tỵ, Lâm Ngọc Đường, Bùi Quang Chiêu, Trương Lập Tạo, một số đã bị giết để diệt trừ đối lập. Tất cả đảng viên nồng cốt Đệ tứ đều bị chôn sống ở sông Lòng Sông (Bình Thuận): Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Nguyễn Văn Sổ, Phan Văn Hóa, Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Soái, Nguyễn Văn Tiền, v.v…

Đến đây, tưởng cũng nên trình diện cho Dân tộc biết Bộ máy ám sát của Lâm ủy HCNB của Trần Văn Giàu. Một nhân chứng là Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong tác phẩm Phan Văn Hùm, thân thế & sự nghiệp đã viết như sau (tr. 379): “Trong lần biểu tình ngày 2-9-1945, dân chúng Sài Gòn lần đầu tiên đã thấy được trong các đoàn biểu tình phô trương lực lượng, có một đám người kỳ lạ, ngực để trần, mình xâm chằng chịt, biểu diễn dưới tấm bảng ghi “Ban ám sát xung phong”. Thiên hạ đồn với nhau: đây là tổ chức dưới quyền của Dương Bạch Mai, người phụ trách Quốc gia Tự vệ cuộc”. Với Bộ máy ám sát như thế, sau khi hoàn tất nhiệm vụ sát hại những chiến sĩ quốc gia yêu nước kể trên, Trần Văn Giàu chạy tuốt sang Bangkok và Dương Bạch Mai bỏ Nam Bộ chạy đi Bắc Việt.

Mặt trận Quốc gia Liên hiệp

Trần Văn Giàu đi, thì Nguyễn Bình đến! Vẫn bổn cũ soạn lại! Các lực lượng quốc gia yêu nước vẫn kiên quyết vừa chống Pháp vừa đề cao cảnh giác đối với Ng. Bình. Ngày 2-4-1946, một Ủy ban Liên hiệp Kháng chiến được thành lập tại Bà Quẹo. Tác giả Nguyễn Long Thành Nam, trong quyển sử kiệt xuất nhan đề Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử Dân tộc, đã viết thêm về biến cố đó như sau (tr. 383):

“Nhưng liên hiệp quân sự không đủ, phải tiến đến liên hiệp chính trị tức liên hiệp toàn bộ. Vì thế, một đại hội quân chính được triệu tập bởi ông Vũ Tam Anh vào ngày 20-4-1946… Sau 3 ngày thảo luận liên tiếp và sôi nổi, mọi người đều chấp thuận lấy nghị quyết thành lập một mặt trận, mang danh nghĩa Mặt trận Quốc gia Liên hiệp với mục đích được minh thị là: huy động toàn lực các đoàn thể tôn giáo, chánh trị, quân sự và quần chúng để chống xâm lăng.”

Một Ban Chấp hành được thành lập và vị Chủ tịch được bầu là Hoàng Anh (bí danh của Đức Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ). Bác sĩ Lê Văn Hoạch đại diện cho Cao Đài giáo làm Phó chủ tịch, Nguyễn Văm Sâm làm Cố vấn Chánh trị, Bùi Hữu Phiệt Cố vấn Chánh trị và Quân sự. Nhìn vào thành phần tham dự đại hội quân chính 20-4-1946 và Ban Chấp hành Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ta thấy rằng Cộng sản Đệ tam chỉ là thiểu số: Phạm Thiều, Mai Thọ Trân (chính trị), Phan Định Công, Huỳnh Tấn Chùa (quân sự). Khuynh hướng quốc gia chiếm đa số. Sự xuất hiện của Mặt trận QGLH biểu lộ ‎ý chí của các tổ chức đấu tranh miền Nam muốn lấy lại vị thế chủ động kháng chiến tại Nam Bộ, không để cho Cộng sản Đệ tam thao túng. Thấy mình thế yếu, Nguyễn Bình và Phạm Thiều tuyên bố rút ra khỏi Mặt trận QGLH và gia nhập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (tức “Hội Liên Việt”) do HCM thành lập để tạo hoang mang trong quần chúng về hai danh xưng gần giống nhau: Liên Việt và Liên Hiệp.

Thật không may cho Miền Nam (và đây cũng là đại họa cho cả nước), sự kháng chiến của Mặt trận QGLH vô cùng khó khăn vì tình trạng lưỡng đầu thọ địch. Trước mặt phải đối đầu với Pháp với võ khí tối tân có không lực yểm trợ và mạng lưới tình báo Phòng nhì hữu hiệu, nhưng sau lưng là “Chiến hữu Nguyễn Bình”, một “Chiến hữu quá đặc biệt y khuôn Chủ tịch HCM” sẵn sàng đâm sau lưng chiến hữu của mình kể cả lòn tin cho Pháp biết địa điểm đóng quân để Pháp oanh tạc. Hãy xem lại 4 đoạn sử hào hùng (Quyển Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử Dân tộc của Nguyễn Long Thành Nam, tr. 380-403): 1- Cộng sản không kháng chiến, chỉ giành quyền. 2- Nguyễn Bình và Mặt trận Quốc gia Liên hiệp. 3- Thế kẹt lịch sử và chiến thuật gỡ kẹt. 4- Chiến ược thoát kẹt của Miền Nam.

Hãy xem lại, cả Dân tộc hãy xem lại, nhất là những thế hệ trẻ hãy xem lại, tất cả hãy xem lại để thương khóc những anh hùng yêu nước của miền Nam, để tự hào khắp Nam Trung Bắc nơi nào cũng có người yêu nước, và nhất là để thấu hiểu những thủ đoạn gian xảo và tàn ác của Nguyễn Bình đã trở thành tay sai của HCM, mà HCM lại hết lòng phục vụ Cộng sản Đệ tam Quốc tế của Stalin, NGUỒN CỘI CỦA TẤT CẢ GIAN XẢO VÀ TỘI ÁC!

Cuộc đối thoại nẩy lửa

Nhưng Chiến lược Thoát kẹt của Mặt trận QGLH bị biến cố đêm 16-4-1947 làm thay đổi tất cả. Vào đêm đó, Việt Minh Cộng sản ám hại Chủ tịch Hoàng Anh, tức vị Lãnh đạo Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, sau một phiên họp tại địa điểm Tân Phú, Đồng Tháp Mười. Để biết kẻ chủ mưu ám hại nầy, xin đọc một trích đoạn của Cuộc đối thoại nẩy lửa giữa Nguyễn Bình và người chỉ huy Bình Xuyên là Bảy Viễn (Trích quyển Phật giáo Hòa Hảo, của Nguyễn Long Thành Nam, tr. 402):

...Bảy Viễn đứng lên tiến tới phía trước, bên hông đeo tòn ten khẩu súng lục: “Tôi xin nói”. Và Bảy Viễn nhìn thẳng về phía Nguyễn Bình: “ Nếu tôi phải kể hết mọi tội ác mà đồng chí đã phạm đối với các chiến sĩ quốc gia, thì phải nói cả giờ đồng hồ mới hết. Tôi chỉ muốn nói đến một vụ: Tại sao đồng chí ám hại Giáo chủ Hòa Hảo?” - “Đó là kẻ lúc nào cũng mưu tính diệt Cộng sản và cá nhân tôi. Cho nên phải tiêu diệt” - “Nói láo!”

Bảy Viễn gầm lên. Nguyễn Bình cũng nổi giận đùng đùng. Chủ tịch Ủy ban Hành chánh phải can gián. Bảy Viễn lại lên tiếng: “Đồng chí tự tin bởi vì đồng chí nghĩ rằng kẻ khuất mặt không thể nói lên sự thật được. Nhưng còn tôi đây, tôi còn sờ sờ đây, thì tôi phải nói. Tôi kết tội đồng chí đã hai lần âm mưu ám sát chính tôi”.

Nguyễn Bình bậm môi cười, phản công: “Không thể kết án vô bằng chứng như thế.Tôi thách đồng chí trưng bằng cớ ra đây” - “Đồng chí lầm rồi. Tôi đang nắm trong tay một bằng cớ còn hùng biện hơn là nhân chứng nữa. Đó là tài liệu do chính tay đồng chí Nguyễn Bình k‎‎ý tên chỉ thị cho ban ám sát…”

Bảy Viễn rút trong túi ra một mảnh giấy xếp tư, đã lấy được trong người của tên sát thủ năm 1947, và đặt tờ giấy đó lên mặt bàn. Nguyễn Bình lặng lẽ mở tấm giấy, nét mặt mờ đi, giận đến run lên. Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam Bộ cầm lấy tờ giấy, và chính ông cũng giận run…

Cuộc khẩu chiến nẩy lửa nói trên tất nhiên sẽ dẫn đến cuộc trao đổi bằng súng đạn nếu vị Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam Bộ không đủ đức độ và uy tín để hai bên cảm phục (Vị Chủ tịch là Phạm Văn Bạch, thuộc Quốc gia Độc lập đảng, được đề cử do sự giới thiệu của Dương Văn Giáo và Trần Văn Ân). Sau cuộc va chạm trên, Bảy Viễn bỏ ra về lại Rừng Sát. Trên đường về, Bảy Viễn thoát khỏi ổ phục kích của Nguyễn Bình, nhưng chiến khu Rừng Sát cũng không về được vì Nguyễn Bình đã ra tay trước cho bộ đội đến đánh chiếm rồi!

Cuộc trở về với Dân tộc

Có một chiến hữu như Nguyễn Bình cam tâm làm “viên đá của HCM ném vào Nam Bộ”, người hùng Bình Xuyên Bảy Viễn phải “dinh tê” vì biết không thể nào đứng chung trong hàng ngũ kháng chiến được. Đó là tình huống mà Thi sĩ Hoàng Phong Linh diễn tả bằng 2 câu trong bài thơ Tiếng chim bên dòng thác Champy để tưởng niệm hương hồn người em là chiến hữu Vũ Hoài tử nạn trên đường về phục quốc (Trong Thi phẩm mang cùng tên, tr. 18): “Anh không sợ kẻ thù trước mặt. Mà ngại tình “chiến hữu” sau lưng”

“ngại tình chiến hữu sau lưng”, nên biết bao nhiêu người yêu nước phải bỏ kháng chiến về thành, ngôn ngữ thời đó gọi là “Dinh tê”. Những câu chuyện về dinh tê thật nhiều, như nghệ sĩ Tạ Tỵ dinh tê một mình, nhạc sĩ Phạm Duy dinh tê với cả gia đình, còn Bảy Viễn thì dinh tê với trọn cả bộ đội. Trường hợp đặc biệt, giáo phận Phát Diệm của Đức Cha Lê Hữu Từ, tuy không dinh tê vì vẫn ở Phát Diệm, nhưng lập trường “Chống Cộng để trở về với Chính nghĩa Dân tộc” của giáo phận dứt khoát hơn, nhờ mưu kế tiếp vận võ khí của Cựu hoàng.

Cơ may của lịch sử là vào ngày 20-5-1948, hai vị Chủ tịch Hội đồng An dân ở Hà Nội và Huế là Đặng Hữu Chí và Trần Văn L‎‎ý vào Sài Gòn họp với Hội đồng Nam Bộ cùng các nhân sĩ thuộc các đảng phái quốc gia và các giáo phái. Hội nghị cấp thời nầy k‎ý chung một Kiến nghị đặt tín nhiệm vào tướng Nguyễn Văn Xuân trong việc thành lập Chánh phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam. Ngày 27-5-1948, Tân Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân trình diện nội các với Cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó còn tạm trú ở Hồng Kông. Ngày 2-6-1948, Thủ tướng Xuân công bố quốc ca và quốc kỳ Việt Nam. Tất cả những điều thuận lợi nói trên nâng cao UY THẾ CHÍNH TRỊ CỦA CỰU HOÀNG và đưa đến việc k‎ý Hiệp ước Hạ Long ngày 5-6-1948 trên soái hạm Duguay-Trouin giữa Thủ tướng Xuân và Cao ủy Pháp Émile Bollaert, dưới sự chứng kiến của Cựu hoàng. Sau đó Cựu hoàng qua Pháp để tranh đấu bằng đường lối ngoại giao khôn khéo với các chính đảng của Pháp và Cựu hoàng đã thành công. Ngày 8-3-1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol k‎ý với Cựu hoàng Bảo Đại Hiệp ước Élysée nhìn nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam. Sử liệu nầy vô cùng quan trọng, xin Dân tộc ghi nhớ kỹ: Chính vì uy thế chính trị của Cựu hoàng Bảo Đại cho nên Chính phủ Pháp dứt khoát với giải pháp HCM.

Ngày 17-6-1948, Bảy Viễn dẫn bộ đội về thành với Bản Tuyên bố lời lẽ thật đẹp như sau (Trích Việt Luận Xuân Bính T‎‎ý 1996, bài Bình Xuyên - Bảy Viễn, tác giả Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần):

“Xét vì nạn độc tài đẫm máu đã lan tràn khắp Nam Bộ do bọn Nguyễn Bình cùng đảng Cộng sản gây nên,

Xét vì trong bao nhiêu năm tranh đấu anh dũng khắp chiến khu, toàn thể chiến sĩ Bình Xuyên, chẳng những không được nâng đỡ, lại còn bị thiệt thòi và ngược đãi về mọi phương diện vì không chịu mạng lệnh của đảng Cộng sản và nhứt là tên độc tài khát máu Nguyễn Bình,

Xét vì Bình Xuyên chỉ tranh đấu vì quyền lợi tối cao của Tổ quốc với nguyện vọng duy nhứt là giành độc lập và thống nhất cho nước nhà,

Xét vì bọn Cộng sản trong ba năm qua chỉ đưa nước nhà vào cảnh khổ sở lầm than tàn khốc,

Tôi, nhơn danh nhà lãnh đạo tối cao quân đội Liên khu Bình Xuyên kiêm Khu Bộ phó Khu 7 nước Việt Nam, tuyên bố:

Đứng lên cương quyết đối lập bọn Nguyễn Bình Cộng sản độc tài,

Nhìn nhận chánh phủ Trung ương Việt Nam,

Đặt hoàn toàn tín nhiệm nơi Hoàng đế Bảo Đại trong sự vận động độc lập và để đem lại tự do, hạnh phúc cho giống nòi.”

Tổng hành dinh, ngày 17 tháng 6 năm 1948

Nhà Lãnh đạo Liên khu Bình Xuyên,

Khu Bộ phó Khu 7 nước Việt Nam.

Lê Văn Viễn” (Chữ k‎ý, kèm theo “tạm không mộc”)

Đọc lịch sử thì xin đọc cho trọn vẹn. Bài viết Bình Xuyên – Bảy Viễn của Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần còn ghi thành tích kháng chiến của Bình Xuyên: “Chỉ trong năm 1947, Bình Xuyên thực hiện 42 cuộc hành quân, đánh lấy 16 đồn lính Tây, thu về được trên 200 vũ khí đủ loại, phá hủy nhiều cầu, 9 tàu bè võ trang và 4 đoàn xe công voa, bắt giữ 2 xà lúp, hạ tên xếp Tây nổi tiếng vùng Chợ Lớn, Trung úy Barazza.” Sau khi về thành, và quy tụ được đám thuộc hạ 900 người, Bảy Viễn lần lượt kiểm soát hết Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, phá vỡ mọi hệ thống đặc công và kinh tài của Việt Minh Cộng sản. Người dân chỉ đóng thuế có một mối và được bảo vệ an toàn, không còn lo sợ cán bộ kinh tài Việt Cộng đến sách nhiễu như trước kia. Một năm sau, Bảy Viễn chiếm lại toàn bộ chiến khu Rừng Sát. Trọn quốc lộ 15 từ Sài Gòn đi Vũng Tàu trở thành khu an toàn.

Cuộc dinh tê của tướng Bình Xuyên Lê Văn Viễn, xin được gọi bằng một từ chính xác là “Cuộc trở về với Dân tộc” để ngăn chận “Làn sóng đỏ”. Đó là cuộc chuyển hướng chính trị đúng đắn trọn đầy chính nghĩa bởi lẽ sau ba năm kể từ lúc cướp được chính quyền, HCM và bè đảng đã đang tâm sát hại biết bao nhiêu người quốc gia yêu nước. Chiêu bài “Kháng chiến chống Pháp” thật sự chỉ là chiêu bài, đã che giấu dã tâm của HCM thực hiện “Cuộc chiến tranh đánh Dân tộc” để phục vụ Cộng sản Đệ tam Quốc tế của Stalin.

Chỉ vì suy luận Xốt-Xít

Nhân cuộc dinh tê tức là “Cuộc trở về với Dân tộc” của Bảy Viễn, xin mời qu‎ý bạn xét qua vài cuộc dinh tê khác được chép lại trong thời Kháng chiến chống Pháp. Chúng ta có câu “Chuyện bé xé ra to” để diễn tả sự việc giống y như sách lược “Suy luận Xốt-Xít” của Việt Cộng. Chuyện kể trong một buổi kiểm thảo do học sinh tổ chức, một giáo sư bị nêu “hiện tượng” là đã cho một học sinh một điểm quá cao vì thế vị giáo sư đó bị kết tội theo lối suy luận xốt-xít. Câu chuyện do một hiệu trưởng trường Trung học kể cho tác giả Hoàng Văn Chí và ông ghi chép lại trong quyển Từ Thực dân đến Cộng sản (tr. 167).

Hiện tượng: Anh chấm bài anh X và cho anh ấy 1 điểm quá cao.

Suy luận: 1- Anh tâng bốc anh X để cốt ‎‎ý gây chia rẽ giữa anh X và các học sinh khác trong lớp; 2- Học sinh đã chia rẽ thì chỉ lo cãi lộn, không chịu học hành; 3- Vì không lo học nên trình độ kém; 4- Trình độ học sinh kém thì phụ huynh học sinh không bằng lòng; 5- Họ sẽ bảo giáo dục dưới chế độ cụ Hồ không bằng giáo dục thời Pháp thuộc; 6- Họ sẽ cho rằng chế độ Thực dân tốt hơn chế độ dân chủ Cộng hòa; 7- Khi anh cho anh X một điểm quá cao, anh có dụng ‎‎ý làm tay sai cho Thực dân Pháp.

Kết luận: Anh là tay sai đắc lực của T.dân Pháp và Đế quốc Mỹ.

Thảm thương thay cho số phận các nhà giáo dưới chế độ cụ Hồ! Chính trị xốt-xít đã thô bạo chen vào ngành mô phạm khiến cho sự phê điểm của thầy có thể biến thầy thành tội đồ của Dân tộc. Tác giả Hoàng Văn Chí viết tiếp: “Những cuộc sỉ vả thầy giáo như vậy có thể nói là thường xuyên và không mấy thầy thoát khỏi. Vì vậy nên hồi năm 1950 - 51 vô số giáo sư bỏ hậu phương chạy vào thành”.

Bắt y sĩ làm công an

Các giáo sư bỏ hậu phương chạy vào thành vì không dám dạy “học sinh cụ Hồ”! Đến phiên các bác sĩ cũng bỏ cụ Hồ mà dinh tê. Câu chuyện cũ xảy ra trên 50 năm được Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên thuật lại cho Luật sư Lâm Lễ Trinh trong buổi Mạn đàm ngày 1-9-2001 tại Quận Cam (Trích Tài liệu của Làng Văn, số 248, tr.103). Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên thuật rằng vào năm 1951, trên 10 bác sĩ đã dinh tê về Hà Nội, ông viết: “Mùa hè năm đó, trong Đại hội Quân y Liên khu 3 và 4 tại Thanh Hoá, BS Chủ tịch Hoàng Đình Cầu, sau này là Thứ trưởng Y tế và Viện trưởng Y khoa Bắc Việt, dõng dạc chỉ thị: “Khi bạn vào một gia đình chăm sóc bịnh mà biết được gia đình này có tư tưởng phản cách mạng thì bạn phải tức khắc báo cho trạm công an gần nhất hay biết”. Vì không muốn tiếp tay làm “công an cho cụ Hồ”, các y sĩ có mặt trong buổi họp thoái thoát rằng hành động này trái với lời thề Hippocrate của họ khi ra trường, theo đó họ đã cam kết gạt bỏ mọi thành kiến khi chữa bịnh. Hoàng Đình Cầu liền phản pháo gay gắt: “Lời thề Hippocrate là một sự bịa đặt của tư bản phản động để gạt các anh”. Như giọt nước làm tràn ly, Nguyễn Lưu Viên nhận xét về câu nói đó như thế. Tất cả y sĩ nhìn nhau ngao ngán và từ đó, trong thâm tâm, ai cũng tìm cách thoát thân.

Nhắc lại khi Nhật đảo chánh Pháp đêm 9-3-1945, thì Nguyễn Lưu Viên đang học năm thứ 5 trường thuốc Hà Nội. Ông cùng Tổng hội Sinh viên hăng hái phát động Phong trào Cứu đói. Sau đó, ông cùng một số sinh viên gốc Nam Bộ tổ chức về Nam bằng xe đạp. Lúc Nam Bộ kháng chiến ngày 23-9-1945, ông làm phụ tá cho BS Nguyễn An Trạch tại tỉnh nhà Trà Vinh (BS Trạch là con rể của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm). Sau đó ông lại ra Bắc bằng ghe bầu từ Bà Rịa đến Tam Quan và đi tiếp bằng đường hỏa xa ra Hà Nội. Ông đang tập sự ở nhà thương Bạch Mai, chưa kịp trình luận án bác sĩ thì bùng nổ cuộc Toàn quốc Kháng chiến vào tháng chạp 1946. Ông cũng tham gia kháng chiến, từng là Quân y trưởng Trung đoàn 48 Thăng Long, sau cải tổ thành Sư đoàn 320, ông cũng là Quân y trưởng của Sư đoàn.

Với câu hỏi của Lâm Lễ Trinh: “Vì sao anh trở về thành? Năm nào? Bằng con đường nào? Có gặp khó khăn gì không?”. Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên trả lời rằng tin Cựu hoàng k‎ý hiệp ước Hạ Long và thành lập chính phủ đã thúc đẩy ông và một số đồng nghiệp tìm cách rời bưng. Lại thêm lời tuyên bố gạt bỏ lương tâm người thầy thuốc của Hoàng Đình Cầu bằng cách phỉ báng lời thề Hippocrate là giọt nước đã làm tràn ly. Hơn nữa, ông phải về Hà Nội để học xong y khoa và vào Sài Gòn để trình luận án. Nguyễn Lưu Viên, người “Cựu Quân y trưởng” của Sư đoàn 320 viện cớ đi kinh l‎ý sát vùng tề, thoát khỏi Chiến khu 3 và dinh tê bằng ngả Phát Diệm. Thương cho thân ông, biết rằng con đường “Về với Dân tộc” đầy gian nan nguy hiểm, nên ông đã thủ sẵn trong người một liều thuốc độc arsenic phòng khi bị bắt, nhưng may mắn thay, ông không phải dùng đến!

Tránh xa kẻ có bàn tay vấy máu Đồng bào

Chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, người thiết lập nền Đệ nhị Cộng hòa năm 1965, thì 20 năm trước, ông cũng tham gia cao trào toàn dân Kháng chiến chống Pháp. Nhờ có tài về quân sự, nên ông đã được đảm nhận chức Huyện đội trưởng, một chức vụ chỉ huy không nhỏ trong những ngày đầu kháng chiến. Nhưng rồi ông cũng từ bỏ kháng chiến mà dinh tê vì không muốn đi theo kẻ có bàn tay vấy máu đồng bào: cán bộ Việt Minh đã sát hại những thành phần đối lập và triệt tiêu Hội đồng Bô lão trong làng của ông. Ông từ bỏ chức Huyện đội trưởng của Việt Minh Cộng sản, quay trở về với Dân tộc, và trở thành một trong những sĩ quan đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam quyết tâm ngăn chận Làn sóng đỏ của Cộng sản.

Con rận cụ Hồ

Nhân đọc quyển “Vũ Đức Nghiêm, anh tôi”, sách do người em út trong gia đình là Vũ Trung Hiền viết về người anh nhạc sĩ tài hoa của mình, người viết nhặt được một “hạt kim cương lóng lánh” về dinh tê và xin được trích dẫn (Sách do Vũ Trung Hiền tự xuất bản năm 1988, tái bản lần đầu 1988 và lần hai 2005). Bên hương trà Tàu loại 313, hai anh em trong gia đình gia giáo họ Vũ, Đức Nghiêm và Trung Hiền, tâm tình và kể lại chuyện xưa… Đầu năm 1950, Vũ Đức Nghiêm 19 tuổi rưỡi, đang học lớp Đệ tam trường Nguyễn Thượng Hiền ở làng Ngô Xá, bên bờ sông Chu, Thanh Hóa. Khi một cán bộ Việt Minh đến trường chiêu mộ binh sĩ, thì Vũ Đức Nghiêm cùng với một số bạn học tình nguyện ghi tên theo học khoá 6 trường Lục quân Trần Quốc Tuấn. Có cả một cô bạn cùng lớp cũng tình nguyện ghi tên theo học ngành y tá cứu thương.

Đám tân binh cả trăm người đó đi bộ từ Thanh Hóa về hướng tây bắc, phải mất cả tháng trời, trèo đèo lội suối băng rừng mấy trăm cây số mới đến huyện Đại Từ, vùng rừng núi Thái Nguyên. Lúc đó là vào tháng 4-1950. Nhưng sau 4 tháng huấn luyện, tân binh Vũ Đức Nghiêm bỗng “ngộ”, ông nhờ “ở trong chăn nên mới biết chăn có rận”. Đây, Vũ Đức Nghiêm tâm tình với người em Vũ Trung Hiền về “Con rận cụ Hồ” như sau: “Họ chia thành phần. Những người là đảng viên, đoàn viên, được đối xử đặc biệt. Những người được coi là cảm tình viên, họ đối xử cũng tốt, tuy không bằng đối với đảng viên, đoàn viên. Nhưng với bọn anh, được coi như thành phần “quần chúng”, họ nghi kỵ, và kỳ thị ra mặt!”

Trên đường dinh tê, BS Nguyễn Lưu Viên mang theo một liều độc dược arsenic, còn Vũ Đức Nghiêm thì vừa đi vừa chạy, “vì sợ họ đuổi theo bắt lại, thì chỉ có nước tự tử nếu không muốn chết nhục”. Ngày đầu, đi suốt 13 tiếng không dám ngừng nghỉ, ông đi được bốn, năm mươi cây số. Phải mất 10 ngày đi ròng rã như vậy, ông mới về lại Thanh Hóa. Vũ Đức Nghiêm không muốn thành bộ đội cụ Hồ vì sợ bị “Con rận cụ Hồ” hút máu, nên ông phải dinh tê. Sau ông nhập ngũ khoá 1 Trừ bị Nam Định và đời binh nghiệp đưa ông đến cấp bậc sau cùng là Trung tá Quân lực VNCH với hệ lụy 13 năm 2 tháng 16 ngày trong ngục tù Cộng sản. Quân lực VNCH hào hùng đó, tuy bây giờ không còn nữa, nhưng đã phục vụ đắc lực Quốc gia Việt Nam, Đệ nhất Cộng hòa, và Đệ nhị Cộng hòa. Quân lực đó đã giúp xây dựng một nền dân chủ tuy còn non trẻ song cũng bảo đảm đủ các quyền tự do, do đó đã mang đến cho Dân tộc và Đất nước “Những ngày tháng năm tuyệt đẹp của thế kỷ!” Quân lực đó, thật xứng đáng như lời Đảng trưởng VNQDĐ Nguyễn Thái Học: “Không thành công thì thành nhân.”

Chỉ ưu đãi Thanh niên Cứu quốc

Trong thời Nam Bộ kháng chiến, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu ở Nam Bộ cũng có nhận xét y như cựu Trung tá Vũ Đức Nghiêm ở Việt Bắc. Trong quyển hồi k‎‎ý Những ngày qua, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết rằng vào lúc đó ông là học sinh trường Petrus K‎ý cùng với rất nhiều thanh niên phần đông là các bạn cùng trường, tất cả tình nguyện đi học về huấn luyện quân sự ở Trường Cán bộ Thanh niên tại chiến khu Đồng Tháp. Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết tiếp rằng (tr. 22 sđd):

“Rất nhiều anh em đã đi từng đợt vào khu, nhưng sau khi Mao Trạch Đông thắng được ở Trung Quốc, thì ở VN, các nhà lãnh đạo Cộng sản không còn giấu che chủ trương của họ nữa. Nhiều anh em được huấn luyện trong khu đã chán nản trở về vì ở trường chỉ có Thanh niên Cứu quốc mới được ưu đãi. Các anh em khác, hoặc là được khéo léo khuyên nên gia nhập Thanh niên Cứu quốc, hoặc là thấy nên rời bỏ trường vì cảm thấy bị nghi ngờ vì lập trường không đảng phái của họ.”

Một cuộc đấu súng kiểu “Bang bang”

Chuyện quốc gia đại sự, nhưng thực chất lại xảy ra y như chuyện đấu súng kiểu “Bang bang” trong bản “Khi xưa ta bé, bang bang” nhạc ngoại quốc, lời Việt của Nhạc sĩ Phạm Duy. Chỉ vì lịch sử xảy ra y như vậy, nên người viết xin qu‎ý độc giả lượng thứ. Chuyện do Cựu hoàng Bảo Đại kể trong quyển Con rồng VN (tr.386) rằng “Cựu hoàng nhận được một bức thư cầu cứu của Đức Cha Lê Hữu Từ”. Lúc đó Đức Cha Lê Hữu Từ ở giáo phận Phát Diệm có nhiều mối lo âu cũng như Đức Cha Phạm Ngọc Chi ở Bùi Chu, bởi lẽ (tr.387 sđd) “VM bắt đầu đè nặng lên hai giáo xứ mỗi ngày một chặc chẽ thêm. Nhiều đám thủ tiêu, ám sát, mặc dầu bọn tự vệ đã hoạt động mạnh, nền an ninh cứ mất dần”.

Nhận được thư cầu cứu của Đức Cha, Cựu hoàng tổ chức cho Nguyễn Văn Vĩ, vào lúc đó là đại úy, nhảy dù xuống Phát Diệm, trá hình làm một nông dân, và vào gặp Đức Cha để bàn kế hoạch. Vài ngày sau, đó là ngày Chúa nhật 16-10-1949 vào khoảng 8 giờ sáng, đại úy Nguyễn Văn Vĩ chỉ huy 2 đại đội Nhảy dù (toàn người Việt) nhảy xuống vùng nghĩa địa Lưu Phương nằm giữa Yên Mô và Phát Diệm. Tự vệ quân của Phát Diệm ra ngăn cản đoàn quân của đại úy Vĩ ở bên kia sông. Theo mật ước, cả hai toán quân cùng nhau chĩa súng bắn lên trời, tự vệ quân của Phát Diệm “đóng vai thua trận” phải để cho quân Dù của Đại úy Vĩ vào chiếm Phát Diệm, và toán quân Pháp của tướng Alexandri tiến theo sau. Quân Dù của đại úy Vĩ “phải chịu” để cho dân chúng Phát Diệm mắng chửi là “Việt gian”, nhưng cũng theo mật ước, tự vệ quân của Phát Diệm nhận được nhiều võ khí tiếp tế.

Cựu hoàng kết luận rằng (tr. 388 sđd): “Đó là mở đầu một loạt xoay xở, nay Sở nay Tề, khi đầu khi đánh, nhưng các giáo khu miền Bắc dần dà đi sâu vào sự chống lại VM. Thật vậy, theo gương các giáo phận Phát Diệm và Bùi Chu, các giáo dân ở nơi khác đều trang bị và phát động phong trào Thánh chiến gọi là Liên tôn diệt Cộng”.

Tình chiến hữu sau lưng

Chiến sĩ Võ Đại Tôn tức thi sĩ Hoàng Phong Linh đã diễn tả “Tình chiến hữu sau lưng” trong 2 câu thơ: “Anh không sợ kẻ thù trước mặt. Mà ngại tình chiến hữu sau lưng”. Trong thơ văn thì nhà thơ khéo dùng chữ “ngại” rất nhẹ nhàng, nghe như ta chỉ cần chú tâm đề phòng là được. Nhưng “Chiến hữu sau lưng” hoàn toàn không phải là kẻ gian rình ăn cắp gà hoặc kẻ xấu đâm heo thuốc chó láng giềng của ta. Thật sự, trong toàn cảnh “Cuộc chiến tranh của HCM đánh Dân tộc”, “Tình chiến hữu sau lưng” có nghĩa là “Mời đi họp rồi thủ tiêu” hoặc “Liên hiệp trước mặt sát phạt sau lưng” gây ra cảnh máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát. Sau đây là những câu chuyện minh chứng “Tình chiến hữu sau lưng” với chiến hữu Nguyễn Bình trong thời Nam Bộ kháng chiến.

Vụ sát hại Nguyễn Văn Sâm

Nguyễn Văn Sâm giữ chức Cố vấn chánh trị nhưng thật sự là linh hồn của Mặt trận QGLH. Lúc đó ông là chủ nhiệm nhật báo Quần Chúng, tiếng nói của Mặt trận. Ngày 19-9-1947, Nguyễn Bình, với danh nghĩa là đảng viên của VNQDĐ, hẹn gặp ông để thảo luận về tình hình đất nước, nơi gặp gỡ là một địa điểm trong Chợ Lớn. Chiều hôm ấy, sau khi hoàn tất công việc trong toà soạn báo, Nguyễn Văn Sâm từ tòa soạn ở đường Tôn Thất Đạm (Chợ Cũ) ra bến xe bu‎‎ýt để vào Chợ Lớn. Khi vừa bước tới điểm hẹn với Nguyễn Bình thì ông bị Cao Đăng Chiếm của Đội Công tác thành bắn nhiều phát vào lưng chết liền tại chỗ. Thế là Chánh trị cục của Mặt trận QGLH mất một đoàn viên hoạt động đắc lực. (Tài liệu trích quyển Tôi giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc, tr.233).

Vụ phục kích Chi đội 6 và 7 của Cao Đài

Ngoài những vụ thảm sát tín đồ Cao Đài ở Quảng Ngãi trong 3 tuần lễ sau ngày 19-8-1945, số nạn nhân bị giết gồm chức sắc trong hàng giáo phẩm và tín đồ lên đến 2791 người; tại Nam Phần, Nguyễn Bình phục kích giết hai Chi đội 6 và 7 của quân đội Cao Đài. Không đầy một tuần sau, Việt Minh bắt Phối sư Thượng Vĩnh Thanh, tên thật là Trần Quang Vinh, người sáng lập và tổ chức quân đội Cao Đài. Kể từ đó, chúng thẳng tay khủng bố Tòa thánh Tây Ninh và các chi phái, bắt bớ, giam cầm, hoặc thủ tiêu tín đồ, quân sĩ, và chức sắc Cao Đài. (Tài liệu trích quyển Lớn lên với Đất nước của Vy Thanh, tr. 448).

Đánh phá chiến khu Bình Quới Tây của Cao Đài

Đây là chiến thắng của Việt Minh CS, kẻ thua không phải là Pháp mà là Bộ đội Cao Đài, tức là những lực lượng đầu tiên của Dân tộc quyết tâm ngăn chận Làn sóng đỏ CS! Chiến khu Bình Quới Tây nằm dọc sông Sài Gòn, chỗ uốn khúc quanh co khi chảy qua khỏi cầu Bình Lợi. Nằm ở vị trí hiểm trở lại do Bộ đội Cao Đài trấn đóng, Bình Quới Tây biến thành một trong những vùng quốc gia đầu tiên bảo vệ Sài Gòn. Nguyễn Bình cho người cài vào Ban chỉ huy của khu quốc gia nầy. Người được chọn là Hoàng Của, một tín đồ Cao Đài đã phản đạo để theo Cộng sản! Phải mất nửa năm, Hoàng Của mới tạo được lực lượng “chém vè”. Khi thấy đã “chín muồi”, Việt Cộng ra tay “đại phá”. Vào 2 giờ chiều ngày 10-12-1947, giữa trận đá banh giao hữu, Việt Cộng nổ súng lệnh, bắn chết 5 sĩ quan Cao Đài, chụp bắt các phần tử trung kiên, và chiếm kho vũ khí. Hoàng Của và bè đảng thu gọn chiến lợi phẩm cả kho, vượt qua sông Sài Gòn và được bộ đội của Lương Đường Minh (sau nầy là Thiếu tướng Trần Hải Phụng) đón sẵn đưa vào mật khu. (Trích quyển Bảy Viễn, thủ lĩnh Bình Xuyên của Nguyên Hùng, tr.153).

Sát hại chỉ huy trưởng “Bộ đội Ba Dương”

Nếu trong quân đội có những cấp bậc Tướng, Tá, Úy, Hạ sĩ quan, v.v… thì trong tổ chức của Bình Xuyên có bốn cấp Long, Ly, Quy và Phụng. Ba Dương tức Dương Văn Dương thuộc đẳng cấp Long, là “con Rồng xanh số 1” trong 10 con Rồng của Bình Xuyên. Trong 10 con Rồng đó, Bảy Viễn đứng hàng số 9. Ba Dương là một triệu phú, làm chủ hai nhà máy xay lúa và một nhà máy dệt bao bố ở Chợ Lớn. Ông tinh thông Hán học, luôn luôn “khăn đóng áo dài đen” như một ông đồ nho. Ông cũng là một tay võ nghệ tuyệt luân.

Có câu chuyện võ sĩ Sáu Cường vừa đả lôi đài ở Chợ Lớn và đoạt chức “vô địch Nam Kỳ”. Thừa thắng xông lên, Sáu Cường tìm đến Ba Dương xin chỉ giáo. Trong giới võ lâm, “xin chỉ giáo” là cách nói lịch sự và khiêm nhường có nghĩa là xin được đấu võ. Nếu là hai võ sĩ quyền Anh thượng đài, thì không bao giờ Ban tổ chức cho cáp độ giữa Sáu Cường và Ba Dương vì Ba Dương chỉ là “hạng lông” thấp hơn Sáu Cường 10 phân và nhẹ cân hơn Sáu Cường ít lắm cũng 20 k‎ý. Nhưng Ba Dương chấp nhận đấu! Sáu Cường nổi tiếng về thế Liên Châu, chỉ tung chân nhảy một lần mà có thể đá liên tiếp nhiều cú để hạ địch thủ. Khởi trận, hai người đứng cách nhau 6 thước. Ba lần, Sáu Cường nhún mình nhảy liên tiếp 3 bước toan dùng thế Liên Châu, thì Ba Dương tung chân đá gió khiến cho Sáu Cường ba lần đều phải thối lui. Sau ba lần như vậy, Sáu Cường chợt hiểu và vòng tay cúi đầu chịu thua và cám ơn Ba Dương đã không đá mình bị thương! Trận đụng độ hi hữu đó được truyền tụng trong giới võ lâm Nam Kỳ.

Với tinh thần mã thượng đẹp như vậy, không ai ngờ Ba Dương lại bị ám hại bởi tay Từ Văn Ri, tức Henry Từ! Vậy Henry Từ là ai? Là một người không phải gốc Bình Xuyên, được Nguyễn Bình đưa vào làm Trung đoàn phó cho Bảy Viễn. Khi Bảy Viễn được phong Khu phó Khu 7 mới giao Trung đoàn 2 Bình Xuyên cho Henry Từ. Ba Dương bị sát hại ở Gò Công, vào lúc đó có 2 thám thính cơ L19 của Pháp đang bắn xuống và Ba Dương chạy quanh cây rơm lẩn tránh phi cơ dễ dàng. Henry Từ cũng đang núp gần đấy và xác nhận rằng Ba Dương bị phi cơ Pháp bắn chết. Nhưng chỉ cần coi vết thương, anh em trong Bộ tham mưu của Trung đoàn 25 biết rằng Henry Từ nói dối. Vết thương phải do một người nằm dưới đất bắn lên vì vết đạn từ sau gáy trổ ra ở đỉnh đầu! Anh em Bộ tham mưu Trung đoàn 25 nhân dịp đến thăm Ba Dương mấy ngày trước là những nhân chứng nhìn vết thương mới quả quyết Henry Từ là thủ phạm, nhưng không dám tiết lộ vì sợ bị giết để bịt miệng. Chỉ vài ngày sau khi Ba Dương từ trần thì Từ Văn Ry dẫn Trung đoàn 2 rời khỏi hàng ngũ Bình Xuyên về với Nguyễn Bình!

Sát hại Phạm Hữu Đức

Phạm Hữu Đức, tức Tư Đức, nguyên là Tư lịnh phó Đệ tam Sư đoàn của Nguyễn Hòa Hiệp, từng là nhân viên cao cấp trong Hiến binh Nhật, đã từng nuôi và bảo bọc Trần Văn Giàu trong nhà để khỏi bị Nhật lùng bắt. Trong Mặt trận QGLH, Phạm Hữu Đức giữ chức Tư lịnh Trung đoàn 5, thuộc VNQDĐ. Nguyễn Bình áp đặt Kiều Mãnh Giá làm Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 5. Đến ngày 1-8-1948, Giá bất thần uy hiếp Tư Đức, buộc Tư Đức phải theo y về trình diện Khu trưởng Khu 7, lúc đó là Huỳnh Văn Nghệ. Mặc dầu bị thất thế, Phạm Hữu Đức rút súng nhanh như điện chớp bắn hạ Kiều Mãnh Giá nhưng toán nằm vùng của Giá phục kích cách Tổng hành dinh không đầy 100 thước xả súng bắn hạ Tư Đức. Trước biến cố bất ngờ, các nhân viên cao cấp của Trung đoàn 5 đều bị bắt, sau đó bị tra tấn dã man và bị thanh toán.

Sát hại Bùi Hữu Phiệt

Bộ đội An Điền, sau trở thành Trung đoàn 25 Bình Xuyên, được thành lập tại tổng An Điền, quận Thủ Đức do Trần Văn Quới, một người dân địa phương là sinh viên luật đảng viên Đại Việt từ Hà Nội trở về quê. Thành lập xong, đang chỉ huy bộ đội chống Pháp thì Trần Văn Quới được lịnh Đảng trưởng Trương Tử Anh gọi ra Bắc. Quyền chỉ huy Bộ đội An Điền được trao lại cho Bùi Hữu Phiệt, một nhà cách mạng quốc gia vừa từ Côn Đảo trở về. Nhận quyền chỉ huy Bộ đội An Điền, tức Trung đoàn 25 Bình Xuyên, Bùi Hữu Phiệt liền gia nhập Đại Việt. Trong Mặt trận QGLH, Bùi Hữu Phiệt là Cố vấn Chánh trị và Quân sự.

Nhắc lại ngày 15-5-1948, Bảy Viễn với tư cách Khu phó Khu 7 nhận lệnh của Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam Bộ mời lên họp với Khu trưởng là tướng Nguyễn Bình. Linh cảm chuyến phó hội vô cùng nguy hiểm, Bảy Viễn mang theo 200 tay súng thiện nghệ xử dụng toàn súng tối tân. Cuộc hội họp không bình thường đó đưa đến cuộc đấu khẩu nẩy lửa xém dẫn đến trận trao đổi bằng súng đạn như trên vừa trình bày. Trên đường về Bảy Viễn bị phục kích nhưng thoát được. Trong khi đó tại Rừng Sát, đạo quân nằm vùng Nguyễn Văn Hay của Nguyễn Bình mặc sức tung hoành theo mưu kế đã tính trước. Bùi Hữu Phiệt và Bộ tham mưu của ông bị sát hại! (Theo quyển Tôi giết Nguyễn Bình của Trần Kim Trúc, tr.237).

Hiện trường chánh trị đến đây đã rõ ràng: ẩn hiện trong hàng ngũ kháng chiến chống Pháp có kẻ gian người ngay, có kẻ phản trắc người trung nghĩa, có kẻ ác giết người và người hiền bị hãm hại. Dân tộc đã nhìn ra nhóm Cộng sản Đệ tam Quốc tế của HCM theo Stalin là phe ác độc, phản dân hại nước. Tướng Bình Xuyên Lê Văn Viễn đã sớm nhận thức chính nghĩa nên đã trở về với Dân tộc. Đến đây, xin ghi lại nhận xét của một nhân chứng là học giả Hứa Hoành: “Chưa có cuộc kháng chiến chống ngoại xâm nào trong lịch sử diễn ra kỳ lạ như vậy! Giặc ngoài không đánh, lại tìm người đồng hương khác chính kiến thủ tiêu một cách dã man. Ai có sống trong thời kinh hoàng đó mới rõ dã tâm của bọn Cộng sản.”

Nhưng biết bao người vẫn một lòng theo đuổi mục tiêu kháng chiến, rốt cuộc thành nạn nhân của những “Chiến hữu sau lưng” của mình. Trong số đó, người viết xin tiết lộ, có ông Lê Văn Hạo! Ông là một người quốc gia yêu nước, từng là Đoàn trưởng Thanh niên Tiền phong ở tỉnh Biên Hòa, thuộc đảng Dân chủ, cùng một thời với Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng…, thuộc gia đình gia thế ở làng Bình Sơn, Biên Hòa. Đối với tướng Huỳnh Văn Nghệ, ông là bậc đàn anh. Ông tham gia kháng chiến ở Chiến khu D ngay từ ngày Nam Bộ kháng chiến, nhưng đến 1951, ông bị sát hại vì bị ghép tội làm gián điệp cho Pháp! Viết lại lịch sử ở giai đoạn này, từ 1945 đến 1948, chỉ trong 3 năm HCM, Trần Văn Giàu, Nguyễn Bình tự chứng tỏ là tội đồ của Dân tộc vì tay đã vấy máu của biết bao nhiêu người quốc gia yêu nước!

K‎‎ý tên bán nước bằng bàn tay Phạm Văn Đồng

Có một câu nói của HCM vào năm 1946 mà sau này Đảng không muốn nhắc lại. Vào năm đó, HCM đã phát biểu (Trích Lịch sử Việt Nam 1940-2007 của Trần Nhã Nguyên, tr. 738): “Thà ngửi cứt thằng Tây trong thời gian ngắn còn hơn là ăn cứt Tàu (hay “đạp cứt Tàu”?) suốt cả đời (It is better to sniff French shit for a while than to eat China’s for the rest of our lives)”. Đó là lúc HCM lập mưu thương thuyết với Pháp mời quân Pháp đến Bắc Bộ để thay thế quân Tiếp phòng Tàu.

Hai năm sau đó, vào mùa xuân năm 1948, HCM, dưới ẩn danh Trần Dân Tiên, đã viết rằng lúc ông mới lên 15 tuổi, ông đã biết nhận xét về Phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu: “Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

HCM đã nói và viết như thế để chứng tỏ mình là người lãnh đạo tài ba biết hiểm họa của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc cùng sự nguy hiểm của cảnh “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Bác đã nói và viết như thế kia mà! Cho nên Dân tộc đã đặt hết lòng tin vào “Bác, Cha già của Dân tộc”. Nhưng đâu là sự thật? Muốn tìm sự thật, phải nhìn thẳng vào những việc HCM đã làm! Tham khảo quyển Tướng đi đêm của tác giả Trần Nhu, Ban biên tập của Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận (số 60 ngày 1-10-2008, tr. 1) trích dẫn lời phát biểu của HCM trong cuộc họp của Bộ Chính trị trước khi Phạm Văn Đồng ra Công hàm bán nước ngày 14-9-1958. HCM nói: “Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc… Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối?”.

Đấy, lời phát biểu của HCM năm 1958, lời phát biểu này vô cùng quan trọng, rõ ràng là lời nói của KẺ BÁN NƯỚC, xin viết lại cho thật rõ ràng: “Bây giờ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Trung Quốc muốn quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, lẽ nào ta từ chối”. Về sự trợ giúp VN của Trung Quốc, tác giả Nguyễn Văn Lục đã tường thuật đầy đủ. Trong bài viết Hãy can đảm định hướng đi ra biển (Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 73, ngày 15-4-2009, tr. 23), Nguyễn Văn Lục nghiên cứu nhiều tài liệu về phía Trung Quốc và viết:

“Tháng 1-1950, HCM đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung ương đảng CS Trung Quốc viện trợ VN chống Pháp…”

“Bước đầu tiên viện trợ VN là để khai thông giao thông biên giới Trung Việt, vì có thế, vật tư viện trợ mới có thể chở sang VN thuận lợi”.

“Sau khi kết thúc thắng lợi Chiến dịch Biên giới, ngày 14-10-1950, HCM gửi thư cho đồng chí Mao Trạch Đông: “Chúng tôi đã thắng lợi hoàn toàn chiến dịch Thất Khê - Cao Bằng. Nguyên nhân lớn nhất của thắng lợi này là sự viện trợ tận tình của đảng Cộng sản Trung Quốc, đảng Cộng sản Liên Xô… Tóm lại tôi cho rằng thắng lợi này là thắng lợi đường lối Mao Trạch Đông, Cách mạng Quốc tế chủ nghĩa”.

Tác giả Nguyễn Văn Lục tham khảo một tài liệu khác của Trương Quảng Hoa về toàn bộ sự giúp đỡ của Trung Quốc cho VN đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ: “Chỉ nhắc một điều thôi, phái đoàn Phạm Văn Đồng đi phó hội Geneva gồm 30 người đến Bắc Kinh. Bọn họ không có ai có lấy một bộ áo veste. Trung Quốc đã may cho mỗi người hai bộ veste để đi phó hội Geneva”.

Những đoạn trích dẫn trên chỉ là một phần nhỏ Nguyễn Văn Lục đã tham khảo, nhưng đã làm cho ông phải than lên rằng: “Lệ thuộc đến thế thì thôi!” và ông hạ bút kết luận: “Từ HCM đến mọi cấp lãnh đạo Cộng sản đều đi bằng hai đầu gối sang Bắc Kinh, ăn mày từng bát cơm, manh áo, khẩu súng nên ngày nay nó mới ra nông nổi này. Cứ trách Lê Chiêu Thống, có thiếu gì thứ Lê Chiêu Thống ngày nay!”

Vâng, đúng vậy, có thiếu gì thứ “Lê Chiêu Thống ngày nay”! Trước tiên, HCM là “Lê Chiêu Thống đầu sỏ” vì ông đã khai trương “Cửa hàng bán Nước”. Dịch vụ “bán Nước” quá ư lợi lộc và dễ làm nên các “Lê Chiêu Thống nối nghiệp” như Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng, v.v… đều giàu bạc tỷ Mỹ kim cả nên ai ai cũng cố gắng giữ gìn “Sự nghiệp bán Nước của Bác”!

Theo những điều luận giải trên, HCM đã quyết định trả ơn cho Trung Quốc bằng “một vài hòn đảo nhỏ”, thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng phải nhất trí với Bác thôi. Bởi thế, như đã trình bày ở Chương 5 Tư tưởng HCM, người viết xin lặp lại: “Cho nên việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng k‎ý Công hàm giao hai quần đảo cho Trung Quốc được tác giả Hoàng Quốc Kỳ diễn tả là do HCM cầm tay Phạm Văn Đồng k‎ý, giống như cô giáo cầm tay em bé lớp vỡ lòng viết những chữ A, B, C đầu đời. HCM đã k‎ý tên bán nước bằng bàn tay của Phạm Văn Đồng! Thêm một lần nữa, Bác đã chơi trò ném đá giấu tay!”

Đến bây giờ, sau Mùa Bịt miệng 2007, sau Mùa Phá tòa Khâm Sứ 2008, đến Mùa Ngư dân Miền Trung bị cấm biển 2009, nhắc lại câu nói năm 1946 về “cứt Tây cứt Tàu” rồi nối kết với lời phát biểu năm 1958 về “Lòng nhớ ơn Trung Quốc” cũng của HCM, bây giờ có ai ngờ được Bác Hồ nhà ta mưu lược đến thế mà phải bị ngửi cả cứt Tây và ăn luôn cả cứt Tàu.

Như thế thì câu nói của Bác Mao “Trí thức không bằng cục phân” có sai không? Xin trả lời: “Sai! Hoàn toàn sai! Câu nói của Bác Mao “Trí thức không bằng cục phân” sai, vì lẽ Bác Hồ không phải là trí thức!” Chuyện Bác Hồ không bằng cái gì thì kệ Bác Hồ, nhưng sự việc ngư dân miền Trung bị “cấm biển” và bị “Tàu lạ” đâm chìm thì ai chịu trách nhiệm? Chủ tịch HCM và Thủ tướng Phạm Văn Đồng có chịu trách nhiệm trước lịch sử hay không?! Câu hỏi cũng là để trả lời, cũng y như thành ngữ người dân quê Việt Nam thường nói: “Ai trồng khoai đất nầy!”

Ném viên đá khổng lồ vào Miền Nam

Người hùng Điện Biên thứ nhất

Trong chiến dịch CCRĐ, “Nhân vật vĩ cuồng” HCM đã ném viên đá khổng lồ vào Miền Bắc, gây tang tóc trên khắp 3563 ngôi làng. Chiến dịch chỉ chấm dứt khi HCM thấy đã giết đủ số người cần giết! Trong số nạn nhân bị sát hại có vô số người yêu nước có công kháng chiến. Xin đan cử một trường hợp. Đó là pháo thủ Phạm Đình Sơn thuộc Trung đoàn sơn pháo 675, đã tham dự trận Điện Biên, 2 lần bị thương. Lần bị thương thứ hai phải xé vạt áo rịt vết thương ở cánh tay, rồi tiếp tục chiến đấu, máu chảy đỏ người. Cũng trong chiến trận Điện Biên, gia đình anh Sơn có 5 người tham gia trong đoàn dân công (gồm mẹ, chị dâu, và 3 người cháu), và 2 đã tử nạn trong công tác. Năm 1955, anh Sơn phục viên, gia đình bị đấu tố, gia sản bị tịch biên. Cha phải làm chòi lá ở giữa đồng trú ngụ. Mẹ thắt cổ chết vì nhục. Sơn vào Sài Gòn năm 1977, hai năm sau đưa gia đình vượt biên, hiện cư trú ở Naples, miền nam nước Ý. (Phạm Đình Sơn được sử gia Cao Thế Dung phỏng vấn ngày 20-6-1988 và câu chuyện được viết trong quyển Việt Nam ba mươi năm máu lửa, tr. 411).

Người hùng Điện Biên thứ hai

HCM không mang tự do cho Dân tộc cho nên pháo thủ Phạm Đình Sơn phải vượt biên tìm tự do, nhưng một người hùng Điện Biên khác là Trung tá Pháo binh Hoàng Tiến Như không được may mắn như vậy. Ông chết trong trại tập trung Hoàng Xu Phì ở Hà Giang, đã chết rồi mà còn bị tên đại úy quản giáo, giống như loài khỉ vượn chưa kịp hóa kiếp thành người, trong cơn giận dữ, rút dao găm “đâm ngoáy” vào đôi mắt chưa chịu nhắm hẳn. Chuyện kể: sau chiến thắng Điện Biên, người hùng Trung tá Hoàng Tiến Như về thủ đô, ngực mang đầy huy chương, nhưng lại mất niềm tự do lớn nhất của đời mình: ông không cưới được người mình yêu! Nàng là Lê Thị Phượng, sinh viên Đại học Văn khoa năm thứ hai bị đuổi học vì tham gia phong trào Nhân văn - Giai phẩm nên Đảng không cho phép ông cưới nàng! Để đi theo tiếng gọi của con tim, Trung tá Như xin ra khỏi Đảng. Thảm kịch đời ông bắt đầu. Ông bị bắt đưa về trại tâm thần Sơn Tây, bị tra tấn dã man gần một tháng, và tiếp tục bị tra tấn ở trại tập trung Hoàng Xu Phì đến khi lê lết, quằn quại, sống như một cái xác không hồn. Đúng một năm, khi gượng đi lại được, sau mấy tháng lao động đền tội, ông bị rút gân chân, lột từng mảnh da đầu, cắt trụi tai, và để cho cái chết đến từ từ trên tấm thân tàn phế! Câu chuyện bi thảm này được viết lại trong quyển Địa ngục sình lầy (tr.201-264), tác giả Trần Nhu là bạn đồng tù đã nhận xét: “Đời tù! Sống cực hình, chết lại càng cực! Và thê thảm. Tôi chưa hề thấy cái chết nào ghê rợn như cái chết của viên Trung tá Pháo binh Điện Biên Phủ.”

Đất nước vừa mới bước vào nền “Dân chủ Cộng hòa” của HCM mà đã đầy tang tóc, toàn những cái chết oan khiên! Những người như Phạm Đình Sơn, Hoàng Tiến Như, và biết bao nhiêu người khác nữa… bằng tấm lòng yêu nước vô biên và bằng xương máu, đã giúp HCM xây dựng nền Dân chủ Cộng hòa mà đã bị đối xử tệ bạc nếu không bị sát hại tàn nhẫn! Bây giờ, Dân tộc chỉ có thể ném vào mặt HCM hai chữ “PHẢN BỘI” mà thôi! Người chết thì đã yên nghỉ, nhưng trong những người còn sống, chứng nhân của lịch sử, lương tâm có bị “đâm ngoáy” hay không? Ít nhất cũng có một người! May thay, hào quang Hồn thiêng Sông núi còn đủ tỏ rạng để soi đường! Người đó là nhà văn Tô Hoài

“Chuyện ba người” biến thành “Ba người khác”

Trong những “bầy đàn”, những “đám đôm” gồm 48.812 ông đội trong CCRĐ, nhà văn Tô Hoài là 1 và ông ta đã tự thú rằng vào lúc ngoại tam tuần, ông là “một tên đểu cáng trong cái tập thể Cán bộ Cải cách tàn ác vô nhân”. Đến lúc thất thập cổ lai hi, bị lương tâm cắn rứt và muốn được thanh thản trước khi từ giã cõi đời, nhà văn Tô Hoài cố gắng hoàn thành quyển “Chuyện ba người” về CCRĐ. Định xuất bản vào năm 1993, nhưng sách bị cấm. Mười ba năm sau, đến năm 2006 lúc ông 87 tuổi, sách mới được phép in với tựa đề là “Ba người khác”. Nhưng lần này, người ta đề nghị ông cần sửa lại đôi chút rằng “Những sai lầm trong CCRĐ là do những phần tử bất hảo nấp trong Đảng chứ không phải là bản chất của Đảng. Nhân vật tàn ác nhất trong truyện là một tay bất hảo, sau này lộ nguyên hình là một tay chiêu hồi, chạy theo ôm chân đế quốc Mỹ”.

Sửa làm chi, đính chính mà làm chi, chỉ là việc thừa! Sự thật rất rạch ròi trong lịch sử. Trong chiến dịch CCRĐ dùng để “đào trốc” Dân tộc, kẻ tàn ác nhất không phải là nhân vật nào trong truyện của Tô Hoài cả. Kẻ tàn ác nhất đó đã nấp thật sâu và leo thật cao trong Đảng, đúng ra đã leo cao nhất, đó là C.B., là tác giả đã viết bài “Địa chủ ác ghê”. Mãi đến năm 2007, nhờ công sưu tầm của Nguyễn Quang Duy, Dân tộc mới biết C.B. chính là HCM, chứ không phải ai khác! Chính Chủ tịch HCM lộ nguyên hình là “BỰ ĐỘI”, là Ông Đội lớn nhất và tàn ác nhất, bởi lẽ TỘI ÁC của ông là tội ác của cả 48.812 ông đội cộng lại (Trong 1 bài viết, Dương Thu Hương đã dùng chữ “BỰ GIÒI”). Cuối cuốn truyện, nhà văn Tô Hoài “tự kiểm thảo” bằng câu: “Chúng tôi đều nhơ nhớp cả, có gì mà nói…” Nhưng thông điệp nhà văn Tô Hoài để lại cho Dân tộc thật đáng ghi, và thật đáng qu‎ý. Theo Tô Hoài thì “rõ ràng không có Cách mạng, không có Giải phóng Giai cấp, không có mình vì mọi người, không có đổi đời, v.v… mà chỉ có khủng bố, tra tấn và hành hình dã man, sau đó là giành giựt chiến lợi phẩm. Đây là hành vi vô đạo của một tập thể vô học mà Karl Marx đã đặt tên là “Giai cấp Vô sản lưu manh”.

Chuyện giải phóng Miền Nam

Ném đá vào Miền Bắc xong, như trên đã dẫn giải, đến ngày 19-12-1960, HCM thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam để chính thức ném đá vào Miền Nam. Vẫn bổn cũ soạn lại, vẫn những việc làm trong bóng tối để sát hại Dân tộc ở phương Nam, vẫn những việc tranh giành quả thực vô cùng bẩn thỉu và hèn hạ! Về việc chuẩn bị “những viên đá”, ngay sau ngày 20-7-1954, bàn tay lông lá của Đảng đã sắp xếp hết mọi vụ: từ việc Lê Duẩn lên tàu tập kết về Bắc buổi sáng, đến tối mới lén xuống tàu ở lại miền Nam, việc chôn giấu vũ khí, việc để lại các cán bộ nằm vùng, việc tổ chức hàng ngàn hàng vạn đám cưới tập thể theo cách chạy tang giữa cán binh sắp tập kết ra Bắc cùng các cô thôn nữ trong làng…!

Chuyện Giải phóng Miền Nam là chuỗi dài những hành động ném đá giấu tay ám muội và thâm độc. Việc HCM phát biểu “Miền Nam trong trái tim tôi” hay việc Bác trồng “Cây vú sữa biểu tượng của Nam Bộ” để ngày ngày vun phân tưới nước, tất cả đều là trò BỊP BỢM đáng vất vào sọt rác lịch sử! Cho đến khi các “Bự giòi của Bắc Bộ phủ” vào vơ vét vui vẻ về làm cho miền Nam nghèo, nghèo, nghèo, thì Dân tộc mới rạch ròi: “Rõ ràng không có Cách mạng, không có Giải phóng. Tất cả đều nhơ nhớp cả, có gì mà nói!”

Chuyện “Hai Xe Ngựa”

Hai Xe Ngựa là nhân vật thật nhỏ gần như vô danh, đã đóng một vai thật nhỏ trong Canh bạc bịp lớn nhất trong lịch sử VN. Nhắc lại chuyện Kỹ sư Trương Như Tảng, từ Sài Gòn được giao liên VC đưa vào Bưng để họp, đến ngày 18-12-1960, ông gặp Hai Xe Ngựa, người mà ông không biết là ai, do Huỳnh Tấn Phát đưa đến để trao “tài liệu” cho ông học tập trước. Tài liệu là Cương lĩnh Mặt trận do Bộ Chính trị Hà Nội soạn. Trong Hồi k‎ý “Mémoires d’un Việt Cộng”, Trương Như Tảng thuật rằng: “Ông được ở riêng một phòng có màn che kín, ăn cơm một mình, có người được cắt ra lo mọi việc cho ông. Ra khỏi phòng ông phải bịt mặt. Ông chỉ được tiếp xúc với Hai Xe Ngựa mà thôi.”

Ông họp suốt ngày 19 và cả đêm hôm đó, họp cùng với một số người mà ông không biết là ai vì mỗi người được xếp ngồi riêng trong một buồng nhỏ, có màn che kín, không ai nhìn thấy ai. “Tài liệu” Hai Xe Ngựa đưa cho ông, có chỗ ông không thực sự đồng tình, nhưng vì thấy không có ai đưa ‎ý kiến hay lập trường khác để bàn cãi nên ông cũng nín thinh. Buổi họp kéo dài đến nửa đêm, mọi người đồng thanh biểu quyết chấp thuận Tuyên ngôn, chương trình, cờ quạt, đúng theo “tài liệu” Hai Xe Ngựa, chẳng người nào nói không! (Chuyện Hai Xe Ngựa nầy được trích dẫn từ quyển HCM, Ngô Đình Diệm và Mặt trận Giải phóng, tác giả Hồ Sĩ Khuê, tr. 365)

Chuyện Quốc gia đại sự

Đại hội thành lập Mặt trận DTGPMN xảy ra như thế đó. Những “chánh khách” được giao liên đưa đến Đại hội như Trương Như Tảng đều bịt mặt và nhất trí biểu quyết chấp thuận Cương lĩnh soạn thảo từ Hà Nội. Ông Tảng và bạn bè của ông ưng và chịu nhận là thành viên của Mặt trận mà không biết xuất xứ bản Cương lĩnh là do Bộ Chính trị Hà Nội thì làm sao họ biết được những chuyện “Quốc gia đại sự” được trình bày sau đây. Nhắc lại vào thập niên 50, Mao Trạch Đông đã từng khuyên các nhà lãnh đạo Miền Bắc về bài học “Cái chổi và đống rác”. Theo Mao, thì miền Nam là đống rác, tạm thời hãy để yên, vì chưa đến lúc chổi phải quét đến.

Thái độ của Trung Cộng chỉ thay đổi từ sau khi Phạm Văn Đồng k‎ý Công hàm 14-9-1958 nhìn nhận lãnh hải mới do Bắc Kinh công bố ngày 4-9-1958. Ngày 11-3-1959, Trung Cộng cực lực đả kích Chủ nghĩa Đế quốc xâm lược của Mỹ. Đến tháng 10-1959, Phạm Văn Đồng dẫn một phái đoàn qua Bắc Kinh xin viện trợ quân sự để đánh miền Nam. Một tháng sau, Bắc Kinh cử Luo Riqing, Tham mưu trưởng Không quân Trung Cộng, cầm đầu một phái đoàn qua Việt Nam nghiên cứu tình hình với chỉ thị cho phái đoàn này là Trung Cộng sẽ thỏa mãn bất cứ những gì Hà Nội yêu cầu nếu Trung Quốc có khả năng. Phái đoàn Luo Riqing đến Hà Nội ngày 10-11-1959 và tham quan 5 quân khu, phi trường, cửa biển, và các nhà máy. Phạm Văn Đồng, nhân danh Bộ Chính trị Đảng LĐVN, ba lần tuyên bố đặt mọi hy vọng ở sự giúp đỡ của Bắc Kinh. Tháng 5-1960, các lãnh tụ Trung Cộng và Cộng sản Bắc Việt bắt đầu thảo luận chiến lược áp dụng tại miền Nam VN. Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình muốn có một chiến thuật linh động: tại thành thị sẽ mở mặt trận chính trị; trong khi tại nông thôn sử dụng quân sự… (Sử liệu Chuyện Quốc gia đại sự được trích dẫn từ quyển Cuộc thánh chiến chống Cộng, tác giả Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu, tr. 350).

Bàn tay lông lá của Bắc Bộ phủ

Từ việc nhỏ nhặt như sắp xếp Hai Xe Ngựa để chăm sóc và hướng dẫn Trương Như Tảng đến chuyện quốc gia đại sự như việc Phạm Văn Đồng đi Bắc Kinh cầu viện Trung Cộng, tất cả đều do Bộ Chính trị Cộng sản quyết định, tất cả đều được sắp xếp trong âm mưu “Ném đá giấu tay” của HCM. Tóm lại, cái gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam thực ra chỉ là trò hề chính trị của Bắc Bộ phủ, và Chủ tịch Luật sư Nguyễn Hữu Thọ chỉ là thân phận một “viên đá” để HCM ném vào miền Nam. Nhưng HCM còn ném biết bao viên đá khác nữa, danh sách thật dài, xin kể: Đảng Nhân dân Cách mạng (Chủ tịch Võ Chí Công), Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới Miền Nam (Chủ tịch Phùng Văn Cung), Liên minh Dân chủ Dân tộc và Hòa bình Việt Nam (Chủ tịch Luật sư Trịnh Đình Thảo), Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chủ tịch Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát).

Những cơ cấu và nhân vật kể trên chỉ là bộ mặt tuyên truyền để tô son điểm phấn lòe loẹt bên ngoài, thành phần chính yếu của Mặt trận toàn là đảng viên nòng cốt Cộng sản, những Ủy viên Trung ương hay trong Bộ Chính trị, xin kể: - Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Tổng Tư lệnh Lực lượng Giải phóng. - Tham mưu trưởng: Trung tướng Trần Văn Trà. - Đệ nhị Tham mưu trưởng: Trung tướng Trần Nam Trung (kiêm Chỉ huy trưởng Cục Hậu cần). - Tư lệnh Phó kiêm Chính ủy cục R: Trung tướng Trần Độ

Chỉ là đá thôi

Rất xứng đáng là “Kim cương của Dân tộc”, nhưng bất hạnh thay, họ đã bị mai một! Kẻ thì bị ám sát một cách hèn hạ, kẻ thì bị “đào trốc” không thương tiếc, kẻ thì bị biến thành những “viên đá” để HCM ném vào Dân tộc! Mất đi rồi cả một thế hệ tài hoa: Ls Nguyễn Mạnh Tường đã đậu Tiến sĩ hai khoa Luật và Văn chương vào năm 22 tuổi, Học giả Phạm Quỳnh đã giúp Sứ quán Pháp ở Bắc Kinh phiên dịch quyển Histoire de la guerre của Gabriel Hanoteaux ra Hán văn, Triết gia Trần Đức Thảo nổi danh như Jean-Paul Sartre triết gia hàng đầu của Pháp, Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa tốt nghiệp Đại học Y khoa Paris, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát tốt nghiệp thủ khoa ban Kiến trúc Đại học Hà Nội, Thạc sĩ Nguyễn Văn Bông người đầu tiên khai khoa cho ngành Công pháp Quốc tế tại Đại học Paris, nhạc sĩ tài hoa Lưu Hữu Phước tác giả bản Sinh viên hành khúc, v.v… danh sách thật dài nói lên nét vượt trội của Dân tộc, nhưng rồi tất cả đều bị mai một trong chế độ HCM.

“Cuộc chiến tranh của HCM đánh Dân tộc” là cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ 20, mà lại không chấm dứt vào ngày 30-4-1975. Đến thời điểm đó chỉ là hết giai đoạn nóng! Đảng Cộng sản của ông vẫn tiếp tục đánh Dân tộc qua giai đoạn lạnh. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, con giáo sư Dương Văn Thới, có người anh là Luật sư Dương Trung Tín bị ám sát bằng lựu đạn ở Đà Lạt, một cái chết đầy nghi vấn, khiến cho sau đó Bác sĩ Hoa phải bỏ thành vào bưng. Đến năm 1981, chính BS Hoa, người đã từng làm Bộ trưởng Y tế trong Chính phủ CMLTMNVN, đã cay đắng thốt lên: “Suốt đời tôi, đã là một người Cộng sản. Nhưng nay, lần đầu tiên tôi nhìn thấy trên thực tế chủ nghĩa Cộng sản là gì. Đó là một sự thất bại – quản trị tồi tệ, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, áp bức. L‎‎ý tưởng của tôi đã mất.”

Trường hợp Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát bi thảm hơn nhiều. Ba người thân trong gia đình, cha ông, chú út của ông là Luật sư Huỳnh Văn Phương và cô Tám của ông, cả ba đã bị Việt Minh sát hại trong thời gian Trần Văn Giàu nắm trọn quyền sinh sát ở Nam Bộ. Ông được chọn làm Chủ tịch (tức là Thủ tướng) trong Chính phủ CMLTMNVN (1969) và sau là Phó Thủ tướng của CHXHCNVN (1979). Luật sư Lâm Lễ Trinh, trong bài phê bình về Ván bài lật ngửa, đã tiết lộ rằng: “Một thân nhân của Phát hiện sống tại Paris cho ông biết một cuộc ám sát hụt do CS tổ chức tại Sài Gòn để cảnh cáo Phát vì bị nghi có sự bất mãn với Đảng. Phát bị thương và điều trị tại Nga Xô”. Giấc mơ cuối đời theo tâm sự của bà Nga vợ ông: “Phó Thủ tướng Huỳnh Tấn Phát ước mơ có một xe gắn máy để chiều chiều chở cháu đi chơi!”

Trường hợp Kỹ sư Trương Như Tảng bỏ Sài Gòn vào bưng tham gia “Giải phóng Miền Nam” và được phong làm Bộ trưởng Tư pháp trong Chánh phủ CMLTCHMNVN. Nhưng khi Miền Nam “được giải phóng” thì ông lại bỏ đi vượt biên. Đến Pháp, ông viết tự truyện “Mémoires d’un Việt Cộng” bằng Pháp văn và mượn lời của mẹ, lúc đó đã 78 tuổi, nói thay cho ông: “Những người bạn Cộng sản của con chỉ toàn ăn nói lật lọng, tráo trở, dối trá, và tàn ác. Họ đã gieo gió, rồi đây có ngày họ sẽ gặt bão.”

Trường hợp Kỹ sư Hồ Văn Bửu thì thật vô cùng bi thảm. Tốt nghiệp kỹ sư canh nông ở Paris năm 1958, ông về Sài Gòn và được bổ nhiệm vào trường Kỹ thuật Nông nghiệp. Đến 1964, ông sang làm chuyên viên khảo cứu cho các đồn điền cao su của Pháp ở miền đông Nam Phần. Rồi ông ngã theo Mặt trận GPMN, đến 1968 ông được Cộng sản đề cử vào Ủy ban Trung ương của Liên minh Dân tộc Dân chủ Hòa bình Việt Nam. Khi đã lọt vào tay Cộng sản rồi, thấy mình bị mắc lừa, ông cố tìm cách thoát thân. Ông trốn qua Miên, bị cầm tù một thời gian, rồi bị trục xuất qua Lào. Ở đây, ông bị điều tra mấy tháng rồi giải giao cho Chánh phủ VNCH. Phải mất 6 tháng vượt thoát khỏi nanh vuốt của Cộng sản ông mới trở lại mảnh đất tự do của Miền Nam. Ông không bị kết tội đã theo Cộng sản, trái lại ông được đưa đi công du để tố cáo chế độ Cộng sản (như sang Ấn Độ chẳng hạn, học giả Hứa Hoành có đọc Hồi k‎ý của ông và ghi lại như thế). Sau ngày 30-4-1975, Kỹ sư Hồ Văn Bửu bị bắt cầm tù đến 1980 mới được thả. Sau 10 năm sống không có hộ khẩu, ông tìm cách vượt biên nhiều lần. Sau cùng ông đến được Thái Lan năm 1990, nhưng rủi thay vào lúc Cao ủy Tỵ nạn quyết định chấm dứt phong trào thuyền nhân. Ông bị rớt thanh lọc và bị trả về Việt Nam để làm thân phận “vỏ chanh” bị vất bỏ đến ngày tàn của cuộc đời!

Viết Di chúc cũng ném đá giấu tay!

Trước khi khép lại hồ sơ Ném đá giấu tay, người viết xin thêm vài hàng rồi thôi. Khi HCM qua đời ngày 2-9-1969, ông để lại Di chúc viết ngày 10-5-1969. Bản Di chúc này được công bố ngay sau đó. Mãi đến thập niên 80, lại xuất hiện thêm một Di chúc khác viết ngày 14-8-1969 (Xem lại Ch. 3 HCM, Kẻ mang tên giả). Trong bản Di chúc thứ hai này, HCM tố cáo rằng ông đã bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ ép buộc phải viết Di chúc trước theo ‎ý họ nên ông viết mà trong bụng ấm ức vô cùng. Điều này thực sự có xảy ra. HCM viết tiếp: “Nay tôi viết thêm tờ Di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi không công nhận bất cứ bản Di chúc nào khác. Tôi ước mong một ngày nào đó, bản Di chúc tôi viết đây sẽ được nhiều người biết tới, thì ở thế giới bên kia tôi mới được thỏa lòng”.

Khởi đầu Di chúc thứ hai, HCM nhắc lại một câu nói thông dụng ở Trung Quốc ngày xưa: “Con chim trước khi chết thì tiếng kêu thương, con người trước khi chết thì lời nói phải”. Chúng ta cứ tin như vậy đi: “Con người trước khi chết thì lời nói phải”, thế gian thường tình là như vậy! Nhưng HCM vì suốt đời gian xảo tráo trở, đến khi gần chết, viết Di chúc cũng dối trá, những mong lường gạt đặng hậu thế. Đọc thật kỹ Di chúc 2, ta cũng tìm được những lời chối tội theo kiểu ném đá giấu tay!

Viên đá thứ nhất trong Di chúc

HCM viết: “Tôi cũng ngay tình mà dùng những người hợp tác với tôi. Tôi cứ tưởng những người đó yêu qu‎ý tôi, đâu ngờ họ đều là mật thám của Nga sô, vây quanh tôi chỉ là để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đã vạch sẵn”.

Lời bàn: Nói về gián điệp và mật vụ thì HCM là tay kiệt xuất. Ông đã học qua nhiều khóa ở Liên Xô, ông đã từng phục vụ KGB của Liên Xô, Cơ quan Phản gián của Trung Cộng, làm điệp viên cho Trương Phát Khuê, hợp tác với OSS tiền thân của CIA của Hoa Kỳ, và là mật báo viên của Phòng Nhì của Pháp. (Còn có lời đồn ông có hợp tác với Tình báo của Anh ở Hương Cảng nữa). Chính ông mới là người cắt đặt dàn dựng màng lưới tình báo để kiểm soát những đảng viên, nhất là những người trí thức mà ông không tin cậy. Trong quá trình thành lập Đảng, vì ông là Quốc tế ủy nên hàng hàng lớp lớp Xã ủy, Huyện ủy, lên cao tới Thành ủy, Xứ ủy, Khu ủy… những “bầy đàn”, những “đám đôm” đó đều do tay ông sắp xếp cất nhắc cả (“bầy đàn” chữ của Vũ Thư Hiên trong quyển Đêm giữa ban ngày, “đám đôm” chữ của Trần Huy Quang trong bài Linh nghiệm). Kết tội thủ hạ của ông là mật thám của Nga sô, kết tội họ đã kiểm soát và lèo lái ông đi vào quỹ đạo của Nga, thật là sự vu khống trắng trợn vô cùng hạ cấp. Chính ông lúc tập tễnh bước vào nghề làm Cộng sản đã quyến dụ những thanh niên thuộc Tâm Tâm Xã của cụ Phan Bội Châu để thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Lenin, tên của đoàn này do chính ông đặt và đó là Chi bộ Cộng sản đầu tiên và từ đó Đảng lớn mạnh. Do đó chính ông đã thành lập Đảng và đưa Đảng của ông vào con đường “Kách mệnh Mác Lê Xít Mao” chứ không phải ai khác. Đầy đủ chứng tích rõ ràng, thế mà ông lại viết: “Họ kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đã vạch sẵn”. Thật không thể tưởng tượng nổi lời nói của KẺ BẤT LƯƠNG nói không thành có, vừa ăn cướp vừa la làng! Thật không ngờ, đó lại là những lời Chủ tịch HCM viết trong Di chúc!

Viên đá thứ hai trong Di chúc

HCM viết: “Họ đề cao và tâng bốc tôi để khi nào làm điều độc ác thì tôi phải chịu hết trách nhiệm với Dân tộc”.

Lời bàn: Bác Hồ ơi, nếu Bác sống khôn thác thiêng, thì xin về đọc những lời sau đây và hiểu cho kỹ. Bọn văn thi sĩ nô bộc đề cao, tâng bốc và thần thánh hóa Bác là việc riêng của họ, họ phải làm như vậy để lấy điểm với Bác. Nếu họ đề cao thái quá và nếu Bác biết mình không phải là thần thánh, sao Bác không bảo họ ngưng đi! Còn việc Bác làm điều độc ác là việc riêng của Bác. Bác làm ác thì Bác phải chịu tội, sao Bác lại ca bài “Qu‎ít làm Cam chịu”. Bác là chủ tịch Đảng trong một chế độ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản l‎ý, Nhân dân làm chủ” thì Bác phải chịu hết trách nhiệm lãnh đạo về việc làm tốt hay xấu của các Đảng viên, cho dù đó là những việc Bác không làm, Bác cũng phải lãnh phần trách nhiệm lãnh đạo! Bác viết Di chúc đổ lỗi cho đám thủ hạ nâng bi Bác như thế, Bác thật vô trách nhiệm, như vậy Bác ơi, Bác tự xem có xứng đáng là Lãnh đạo hay không?

Viên đá thứ ba trong Di chúc

HCM viết: “Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ Cải cách Điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ nhân dân có quyền rủa oán trách tôi không biết để đâu cho hết”.

Lời bàn: Nếu không kể TỘI BÁN NƯỚC, thì tội ác lớn nhất của HCM là tội gây Cuộc chiến tranh đánh Dân tộc kéo dài 30 năm sát hại và làm thương tật cả chục triệu người ở hai bên chiến tuyến. Tội ác lớn thứ nhì của HCM chính là Chiến dịch CCRĐ với số nạn nhân có thể lên đến nửa triệu người. Vào lúc đó, trong khi VNCH ở phương Nam dốc hết toàn lực xây dựng Đất nước để đua theo đà phát triển như Đài Loan và Nam Hàn, thì VNDCCH ở miền Bắc, HCM đã nhẫn tâm giết hại biết bao nhiêu người, trong số đó có rất nhiều người có công với Kháng chiến! Việc CCRĐ long trời lở đất như vậy, thế vì sao HCM lại viết trong Di chúc: “Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ cải cách điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn”.

Chuyện CCRĐ ở miền Bắc là Đại quốc nạn “long trời lở đất” bao trùm cả 3563 ngôi làng chớ không phải chuyện nhỏ như một ổ gà đẻ để có thể lấy thúng che úp được. Do đó, lời chạy tội này của HCM thật vô cùng ấu trĩ, ví như em bé ăn vụng mà không biết chùi mép! Thế tại sao ông lại khổ công viết Di chúc thứ hai? Hiển nhiên ông muốn chống chế, gỡ gạc cốt sao cho mình được nhẹ tội. Di chúc này ông viết ngày 14-8-1969, chỉ 19 ngày trước khi ông qua đời. Quanh giường bệnh của ông lúc đó, có hay không có triệu triệu vong linh lạc loài, oan hồn uổng tử khắp ba miền Đất nước tề tựu để đòi ông đền mạng khiến cho ông mụ đầu mủn óc? Có hay không có? Chúng ta trả lời sao? Trong cõi siêu nhiên mầu nhiệm, tất phải có điều linh ứng xảy ra khiến cho chúng ta mới hiểu được tại sao HCM vốn là một tay Đại mưu sĩ, bình sinh rất giảo hoạt, vô cùng sắc sảo trong lời ăn tiếng nói, mà lại viết những lời lú lẫn, ngu ngơ, ấu trĩ trong Di chúc thứ hai này! Bản Di chúc không thuyết phục được ai, không thể ngờ được do một tay đại mưu sĩ như HCM viết ra. Thà không viết còn hơn! Không người trần mắt thịt nào của cõi nhân gian hữu hình xui giục ông viết được! Nếu không tin theo luật “nhân quả linh thiêng”, ta không tài nào hiểu tại sao! Thế mới biết “Trời cao có mắt”, thế mới biết “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Chân l‎ý nghìn đời ghi chép lại trong Tự tình Dân tộc quả không sai!

Di chúc thứ hai phản tác dụng. Trong Di chúc, HCM thú nhận ông không làm gì cả, không biết gì cả, tức là ông đã chối bỏ ngôi vị Chủ tịch Đảng của ông rồi! Ông không minh oan cho ông được. Trong Di chúc ông cố dùng tàn lực để ném đá giấu tay lần cuối trong đời! Nhưng tay đã không giấu được! Mà đá đã bị ông ném vào người ông! Đúng là “gậy ông đập lưng ông” như dân gian thường nói. Kho tàng Văn học dân gian còn ghi “cháy nhà ra mặt chuột”. Suy ra, “Ngôi nhà Kách mệnh” do Chủ tịch HCM xây dựng suốt đời, vốn không đẹp đẽ gì, Dân tộc chỉ muốn phá bỏ đi, thì may thay, đến khi gần chết, HCM lại đốt bằng Di chúc của mình! Nhà cháy, chạy ra không phải là “Chủ tịch” mà là “Mặt chuột”! HCM đã hoàn tất nhiệm vụ lịch sử của ông rồi! Thôi, thôi nhé… ! Đừng nói đến HCM nữa! Đừng học Tư tưởng HCM nữa! Đừng thần thánh hóa HCM nữa! Dân tộc ơi, hãy trả HCM về với Sự thật Lịch sử! Hãy can đảm xếp Trang sử HCM lại! Và hãy can đảm đứng lên làm lại Cuộc Cách mạng và xây dựng lại Đất nước với đầy Tình người theo ánh Hào quang của Hồn thiêng Sông núi!

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Ngư dân bị cấm biển 2009
Nhóm Tâm Việt Sydney

Chương 9
Hồ Chí Minh, Kẻ Đã Đi Hết Biển

Đảng đối phó với thuyền nhân

Trong vòng không đầy 2 năm, từ cuối năm 2003 đến giữa năm 2005, đúng hơn là khoảng 18 tháng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo và sắp xếp, khi công khai lúc bí mật, ba sự việc sau đây:

1. Việc thứ nhất: Đưa cán bộ Trần Văn Thủy sang Mỹ công tác kiều vận và ông ta đã hoàn thành nhiệm vụ khi viết xong quyển Nếu đi hết biển do nhà xuất bản Thời Văn ấn hành với lời giới thiệu của Kevin Bowan ngày 21-11-2003. Quyển sách được đón nhận và không lâu sau đó được tái bản với lời giới thiệu của nhà văn Hoàng Khởi Phong viết thay nhà xuất bản vào tháng 10-2004.

2. Việc thứ hai: Công bố Nghị quyết số 36-NQ/TƯ về công tác đối với Người Việt Nam Ở nước ngoài ngày 26-3-2004. Thực chất đây là sách lược kiều vận nhằm đánh phá “Khúc ruột ngàn dặm” là những thuyền nhân mà 30 năm trước đã liều chết để tìm tự do, những người mà Bộ trưởng Ngoại giao vào thời đó là Nguyễn Cơ Thạch phỉ báng là “những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động…”. Sách lược gồm những vụ việc như: “Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gởi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng.”

3. Việc thứ ba tồi tệ nhất: Làm áp lực với 2 nước Mã Lai và Nam Dương để họ phá bỏ các tấm bia tưởng niệm những thuyền nhân đã tử nạn trên đường vượt biên. Bia ở Bidong bị phá ngày 16-6-2005 và bia ở Galang bị đục khoét ngày 17-6-2005. Dòng chữ trên tấm bia Galang viết bằng tiếng Anh chuyển sang Việt ngữ như sau: “Tưởng nhớ hàng trăm ngàn người Việt Nam đã thiệt mạng trên đường tìm tự do (1975-1996). Dù họ đã chết vì đói, khát, bị hãm hiếp, bị kiệt sức hoặc vì một nguyên nhân nào khác, chúng ta cầu xin rằng họ bây giờ được bình yên vĩnh cửu. Sự hy sinh của họ không bao giờ bị quên lãng”.

Bia đã bị phá bỏ chỉ vì Đảng Cộng sản Việt Nam không muốn ghi lại TỘI ÁC LỚN NHẤT trong lịch sử nhân loại do mình gây ra: Tội ác đuổi dân đi để ăn cướp tài sản.

Ba sự việc, nhưng chỉ một sách lược, một ý đồ, tất cả đều do bàn tay lông lá của Đảng Cộng sản chuyên nghề cướp bóc, phá hoại và chém giết Dân tộc. Tuân hành chỉ thị của Đại hội Đảng lần thứ IX và hội nghị Ban Chấp hành T.Ư. lần thứ 7, Nghị quyết 36 được ban hành, bản chất là Sách lược kiều vận mà mục tiêu là lũng đoạn, thao túng cộng đồng người Việt hải ngoại để bóc lột tối đa trên 3 phương diện: về khả năng kinh tế, về trí tuệ tức chất xám, và về ảnh hưởng chính trị của chúng ta đối với quốc gia chúng ta định cư.

Hãy đọc kỹ một đoạn của Nghị quyết sau đây, ta mới thấy Đảng đã động viên toàn lực để đối phó với 3 triệu người Việt ở nước ngoài, cũng như ngày xưa, Đảng đã tung hết sức mạnh quân sự và tuyên truyền để đánh chiếm miền Nam cho kỳ được, không từ nan bất cứ hành động khủng bố tàn bạo hay luận điệu tuyên truyền xảo trá nào:

“Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết Dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

Đảng Cộng sản phản bội Tổ quốc ơi, đối phó với 3 triệu người Việt tỵ nạn chúng tôi ở khắp nơi trên thế giới, Đảng đâu có cần phải huy động toàn lực “Nhân dân và đoàn thể cả nước” như vậy! Nếu Đảng thật sự yêu nước và muốn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng hãy viết lại Nghị quyết trên, chỉ cần bỏ 10 chữ “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài…”, thay thế bằng 11 chữ “Công cuộc tranh đấu đòi lại Trường Sa và Hoàng Sa…”, và viết lại thành bài Hịch Cứu Quốc thật đẹp như sau: “Công cuộc tranh đấu đòi lại Trường Sa và Hoàng Sa là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và các đoàn thể nhân dân, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết Dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

Việc đòi lại Trường Sa và Hoàng Sa là điều Dân tộc và Đất nước cần phải làm! Vậy mà Đảng không làm! Đảng chỉ “khôn nhà dại chợ, thượng đội hạ đạp”, cứ giỏi nghề đàn áp truy nã những sinh viên yêu nước ở Hà Nội và Sài Gòn chỉ vì họ đã biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm hải đảo của Việt Nam! Đảng thật tệ làm sao! Thảo nào nữ sĩ Dương Thu Hương đã viết bài “Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”.

Vào năm 1990, sử gia Cao Thế Dung cho ra đời tác phẩm nhan đề Cơn hồng thủy Biển Đông (Exodus Vietnam), với phụ đề “Ba ngàn triệu Mỹ kim với hãm hiếp, vàng và máu” để nói lên nội dung của quyển sách. Xin trích một đoạn trong chương Làm giàu trên thân xác phận người (tr. 15 sđd):

“Mười năm sau, thế giới vẫn còn bàng hoàng: Hỏa ngục Biển Đông là điều có thực, nhưng thế giới vẫn chưa biết rõ sự thực này: Ai là người giàu có nhờ Hỏa ngục Biển Đông? Mười lăm năm, kể từ đợt sóng tỵ nạn cuồn cuộn xô dạt về phía Nam, lênh đênh vô định trên biển cả sóng gió hãi hùng, cũng mười lăm năm ấy, tập thể lãnh đạo Cộng đảng Việt Nam đã thực hiện được một việc lạ lùng và thành công có một không hai trong lịch sử nhân loại: Vụ xuất cảng người từ các thuyền nhân vượt biển đến chương trình ra đi có trật tự ODP và vụ hồi hương con lai Amerasians (những đứa con cha Mỹ mẹ Việt). Họ trở nên giàu có cũng nhờ Hỏa ngục Biển Đông. Nhờ có Hỏa ngục Biển Đông nên mới có chương trình ODP; nhờ có ODP nên mới có chương trình hồi hương con Mỹ lai, vụ nào Cộng đảng khai thác cũng lời to”.

Buôn dân từ năm 1925

HCM thường nói con người là vốn quý. Nghe thì nghe vậy, nhưng xin đừng tưởng HCM quý trọng mạng người. Trong chiến tranh hay khi hết chiến tranh, lúc nào Dân tộc cũng là vốn để Bác và Đảng khai thác cho đầy túi tham. Là người châm ngòi, quạt gió, và chế dầu vào cho ngọn lửa chiến tranh Đông Dương cháy bùng lên, HCM đã phát biểu với Sainteny trước khi ký Tạm ước Modus Vivendi tháng 9-1946: “Nếu chúng tôi phải chiến đấu thì chúng tôi sẽ chiến đấu. Các ông sẽ giết 10 người của chúng tôi, nhưng chúng tôi sẽ giết được 1 người của các ông. Và cuối cùng chính các ông sẽ thấm mệt.”

HCM đã chủ trương thế chiến đấu hạ sách lấy 10 đổi 1 như vậy, và Võ Nguyên Giáp đã tuân theo đúng đường lối. “Ba mươi năm máu lửa - một cuộc chiến tàn sát thương binh”, đó là chủ đề sử gia Cao Thế Dung dẫn giải trong quyển sử thật dày đầy ấn chứng của ông. Chúng ta đã biết: “Trong chiến tranh hay khi hết chiến tranh, lúc nào Dân tộc cũng là vốn để Bác và Đảng khai thác cho đầy túi tham”. Thực vậy, ngay vừa mới bước vào “nghề làm Cộng sản” giữa thập niên 20, HCM đã biết nhà ái quốc Phan Bội Châu là vốn quý, đúng ra cụ là “vốn quý trọng đến vô giá”, Bác mới gạ bán cho Thực dân Pháp lấy một trăm ngàn đồng bạc Đông Dương (có tác giả viết “một trăm năm mươi ngàn”). Sau đó, Bác cũng đã bán cho Pháp những thanh niên yêu nước tốt nghiệp Trường Võ bị Hoàng Phố mà không “đoàn kết” với Bác. Xin dẫn giải: đó là những thanh niên có lý tưởng quốc gia, sau khi tốt nghiệp Trường Hoàng Phố mà không gia nhập đảng Cộng sản, Bác cùng Lâm Đức Thụ mới mật báo cho Pháp biết, làm cho tất cả đều bị Pháp đón bắt trên đường về nước khi vượt qua biên giới Việt Hoa. Vì thiếu sử liệu, nên không biết Bác bán những thanh niên yêu nước này bao nhiêu một người. Lục xét hết những ngõ ngách của lịch sử, mới tìm ra chân lý: vào lúc đó, HCM còn mang tên Nguyễn Ái Quốc và Lý Thụy và chưa về nước mà đã khởi sự “BUÔN DÂN” rồi! Chuyện “BÁN NƯỚC” sau đó tuần tự sẽ đến!

Khai thác tù nhân để làm giàu cho Đảng

Suốt dòng lịch sử bốn ngàn năm của Dân tộc, triều đại Cộng sản là chế độ tàn ác bắt giam người nhiều nhất. Nhắc lại lịch sử sau Hiệp định Genève chia đôi đất nước, gần một triệu đồng bào miền Bắc đã di cư vào Nam tìm tự do, những người ở lại cũng không được yên thân với “Bác và Đảng”. Bức tranh xã hội bi thảm ở miền Bắc do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện tô vẽ như sau (Trích tác phẩm Hỏa Lò, tr. 200):

“Những người tự nguyện ở lại miền Bắc, ít nhiều đều có lòng tin ở cách mạng, coi cách mạng là chính nghĩa, hoan hô cách mạng, mà chính quyền lại gọi họ là ngụy quân, ngụy quyền? Họ ở lại theo lời kêu gọi của cách mạng không đi Nam. Đất nước đã hòa bình rồi, đâu bằng quê hương. Họ tin vào chính sách lưu dung, giữ “nguyên lương, nguyên chức” cho những người ở lại mà Hồ Chủ tịch đã công bố. Tại sao họ đã quy phục, sợ hãi, không dám có hành động, hoặc lời nói nào đả kích chế độ, thậm chí nhiều người còn phải nịnh bợ, tâng bốc, mà Đảng vẫn bắt bớ một cách triệt để đến thế? Tại sao lại phải tống giam cả đến anh lính trơn, anh dân vệ, anh cảnh sát giao thông, anh hộ phố, bác Lý, bác Phó ở thôn xóm? Một cuộc bỏ tù vĩ đại chưa từng có trong lịch sử!”

Một người tù già, lăn lóc qua hàng chục trại tù, gặp không biết cơ man nào là giáo dân, tu sĩ, linh mục, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà sư, phạm binh, phạm cán, đảng viên, không ai cho lão một câu trả lời thỏa đáng về việc bắt bớ vô cớ, tràn lan này. Cho tới khi gặp một tù nhân phản cách mạng chính hiệu, thắc mắc mới được người tù này am tường về “Bác và Đảng” giải đáp như sau:

“Rất dễ hiểu, rất dễ hiểu. Thứ nhất, về mặt kinh tế, tù nhân là một lực lượng khai hoang sản xuất có lời nhất. Anh bạn tính thử. Nuôi một người tù, tốn 5 hào một ngày, kể cả ăn, mặc, thuốc men. Toán đan là toán già ốm, lao động kém nhất, mỗi tù nhân cũng làm ra bình quân 2 đồng một ngày, gấp 4 lần nhà nước chi ra nuôi hắn. Các toán mộc, xẻ, rèn, lâm sản, bình quân 10 đồng một ngày, gấp 20 lần. Do đó, tù càng nhiều, càng tốt…”

Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện nhận xét rằng bắt tù càng nhiều càng có lợi về kinh tế. Về mặt chính trị, tác giả Nguyễn Hợp Minh nhận xét rằng bắt tù càng nhiều càng diệt trừ hậu họa (Trích Lịch sử giữ Nước của Dân tộc Việt Nam, tập VII tr. 91):

“Đa số trí thức Quân Dân Cán Chính kháng chiến Việt Nam phản đối quyết liệt việc chia cắt đất nước. Việt Minh Cộng sản đã dùng vũ lực, bắt giam, tù đày, và tàn sát thẳng tay các chiến hữu kháng Pháp bằng các tội danh tư sản, tiểu tư sản lừng khừng, mất lập trường vô sản, v.v... đồng thời triệt hạ quốc dân kháng Cộng để diệt trừ hậu họa”.

“Theo ước lượng chưa đầy đủ, sau 20-7-1954, có khoảng 28 vạn Quân, Dân, Cán, Chính kháng chiến bị Việt Minh Cộng sản bắt giam, tù đày và sát hại. Một số ít trốn thoát vào Nam vĩ tuyến sau 300 ngày, hạn chót, Pháp phải rút hết quân ra khỏi Bắc vĩ tuyến 17”.

Trước khi giết còn gạ gẫm để bóc lột

Cướp được miền Bắc xong, CS không lo kiến tạo miền Bắc, mà chỉ lo đi đánh miền Nam để cướp trọn cả Đất nước. Chiêu bài “Giải phóng Miền Nam” chỉ là chuyện hoang đường! Những chuyện CS ăn cướp của Dân tộc, nếu chép lại cũng phải dài hơn bộ HCM toàn tập (gồm 12 tập, 7.866 tr.). HCM đã CƯỚP cả nước còn được, sá gì những chuyện lẻ tẻ. Chuyện ăn cướp nhỏ sau đây, nhỏ nhặt nhưng lại nói lên bản tính hèn hạ, bẩn thỉu đến tận cùng đáy của lòng tham.

Chuyện xảy ra vào Tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Trong số 428 nạn nhân bị thảm sát tại Khe Đá Mài (chỗ chôn người được tìm ra sau cùng) và biến thành 428 bộ hài cốt trắng xoá dồn lại một đống dưới đáy khe, chỉ có 2 thanh niên may mắn trốn thoát. Một trong hai thanh niên đó thuật lại chuyện thoát hiểm. Linh mục Nguyễn Hữu Giải và Linh mục Phan Văn Lợi chép lại thành bài Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài. Từ bài đó, người viết xin trích ra câu chuyện ăn cướp giết người này. Ăn cướp thì lặt vặt nếu so với sách lược đánh cướp đại trà cả trăm nghìn triệu trong những vụ bốc hốt trương mục tiết kiệm và hộp an toàn của tất cả ngân hàng, vụ đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp, và ba lần đổi tiền sau nầy, nhưng phương cách cướp giựt thì bẩn thỉu, hèn hạ, và đểu cáng vô cùng.

Những người bị bắt dẫn đi bị Việt Cộng trói bằng dây điện thoại và kết thành chùm bằng dây kẻm gai, mỗi chùm 20 người, anh ta đếm được 25 chùm. Trước khi ra tay tàn sát, một tên Việt Cộng nói lớn cho cả đoàn, lời tử tế rất dễ nghe: “Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Vậy trong anh em có một là vàng, hai là tiền, ba là đồng hồ, bốn là bật lửa thì nộp lại để Cách mạng giữ cho, học xong 3 ngày sẽ trả. Kẻo vào trại, ăn cắp lẫn nhau rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng, nói xấu cán bộ!”.

Anh thuật tiếp rằng mọi người đều riu ríu và khổ sở móc ra những thứ quý giá còn giữ trong người. Ai chậm chạp hoặc ngần ngừ thì mấy tên bộ đội tới “giúp” cho. Bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Người thuật chuyện kể tiếp rằng: “Lúc đó tôi mới để ý thấy tay bộ đội áp giải chùm của tôi đang mang trên hai vai và cột quanh lưng ít nhất cả chục cái radio lớn nhỏ mà chắc chắn đã cướp được của dân dưới thành phố”.

Sau đó người may mắn sống sót thuật tiếp cuộc đào thoát thật ly kỳ của anh và người bạn. Hai người xoay lưng vào nhau để giúp nhau cởi trói, lại nhờ bóng đêm và rừng rậm nên chạy thoát. Khoảng 20 phút sau, họ bỗng nghe tiếng súng AK và lựu đạn nổ vang rền. Phải mấy chục băng đạn và mấy chục quả, họ đoán thế. Việt Cộng đã đưa 428 nạn nhân đến “Trại học tập” rồi! Trại học tập ở dưới đáy Khe Đá Mài! Vĩnh viễn và vĩnh viễn, chứ không phải ba ngày! Nhưng mấu chốt ly kỳ của chuyện ăn cướp vặt nầy là Việt Cộng cướp của dân, đã ăn cướp giết người mà còn có thể mở miệng xưng tụng Cách mạng bằng những lời tử tế thật dễ nghe: “Để Cách mạng giữ cho. Học xong 3 ngày Cách mạng sẽ trả lại. Kẻo vào trại ăn cắp lẫn nhau. Rồi lại đổ lỗi cho Cách mạng. Nói xấu cán bộ”.

Nhớ lại lời Cách mạng thường hay nói “Không lấy của dân một cây kim, một sợi chỉ”, Cách mạng nói thật đúng! Cách mạng đã cướp hết tài sản của cải nhà cửa của dân rồi còn gì! Cách mạng còn cướp tự do, hạnh phúc, và cả mạng sống của dân nữa! Chưa đủ sao? Sá gì cây kim sợi chỉ! Đúng là “Kách mệnh khát máu của HCM”.

Giết xong còn bóc lột xác chết

Vào tháng 4 năm 1972, Cộng quân vượt qua sông Bến Hải và tấn công thành phố Quảng Trị. Với hỏa lực hùng hậu, với quân số đông lấy thịt đè người, chúng chiếm được thành phố và dân Quảng Trị chạy về Huế lánh nạn bằng tất cả phương tiện kể cả chạy bộ và mang theo bất cứ tài sản gì mà họ có thể mang được. Trong 4 ngày liên tiếp, từ 29-4 đến 3-5-1972, đoàn người di tản trên quốc lộ Quảng Trị - Huế bị Việt Cộng phục kích và tàn sát bằng tất cả hỏa lực của chúng như súng máy, súng cối, đại bác trên chiến xa hạ nòng bắn trực xạ. Số người chết lên đến cả 20.000 người. Mùa loạn đó đã đi vào lịch sử tội ác Việt Cộng với tên Mùa hè Đỏ lửa (Tựa quyển sách của tác giả Phan Nhật Nam) và đại lộ Quảng Trị - Huế nổi tiếng với tên Đại lộ Kinh hoàng.

Trong suốt 4 ngày, ban ngày thì Việt Cộng tha hồ bắn giết người dân chạy loạn. Ban đêm thì họ đi lục xét các xác chết và vơ vét của cải của nạn nhân mà họ coi đó là chiến lợi phẩm. Họ đã thu được gạo, súng, vải vóc, máy thu thanh, đồng hồ đeo tay… Lính CSBV tịch thu những thứ này để giao lại cho thượng cấp Trung đoàn… Họ còn tịch thu cả tiền mặt, họ lột hết mọi thứ như nhẫn, vàng, bút máy, võng…

Nhân chứng thấy Việt Cộng lột sạch tài sản của cải trên xác nạn nhân đã bị chúng giết chết là một cán binh Việt Cộng tên Lê Xuân Thủy. Anh Thủy vì thấy tận mắt Việt Cộng tàn sát dân một cách dã man nên phẫn chí, anh tỉnh ngộ và về hồi chánh Quân lực VNCH. Tác giả Hải Triều viết lại những sự việc trên trong tác phẩm Máu và nước mắt trên lưng Trường Sơn (tr. 40). Đó là quyển sách tác giả Hải Triều hoàn thành để chứng minh rằng cái chết đau thương của nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm là do HCM, do chính Cuộc chiến tranh của HCM gây ra để đánh Dân tộc.

Chuyện Thiên An Môn trên Đại lộ Kinh hoàng

Trong chiến sử, biến cố Mùa hè Đỏ lửa với Đại lộ Kinh hoàng có vẻ mờ nhạt hơn sánh với cuộc Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, bởi lẽ mỗi khi nói đến tính tàn ác của Việt Cộng, thì ai ai cũng nghĩ ngay đến Tết Mậu Thân ở Huế. Nhưng nói về số người bị giết thì không phải vậy. Ở Đại lộ Kinh hoàng, không phải Việt Cộng chỉ giết 4.000 người hay 4800 người như ở Huế (số liệu 4000 theo bài viết của tác giả Nguyễn L‎ý‎ Tưởng trong Tuyển tập tài liệu Thảm sát Mậu Thân ở Huế, tr. 87), mà chúng đã giết đến 20.000 người! Người viết xin nhắc lại: “HCM và Đảng có qu‎‎ý gì dân đâu!” Để thấu hiểu sự kinh hoàng trên quốc lộ Quảng Trị - Huế, hãy tưởng tượng trên đoạn đường trong vùng tác xạ tự do của Việt Cộng, khoảng 10 cây số tức 10 ngàn thước, có đến 20 ngàn xác chết, nếu rải đều ra thì mỗi 1 thước đường có xác 2 người. Hãy tưởng tượng đi trên con đường đầy thây ma như vậy, cứ mỗi bước đi, chúng ta phải bước qua một xác người!

Tác giả Mường Giang trong bài “Từ Tết Mậu Thân 1968 tới Mùa Hè 1972” ở mục Một thuở Kaki (Nam Úc Tuần báo, số 732 ngày 19-2-2010) đã viết về sự tàn sát dã man đồng bào vô tội trên Đại lộ Kinh hoàng. Ông nhắc tới nhà văn Phan Nhật Nam và viết rằng: “Nhưng diễn tả đúng mức sự tàn ác dã man có một không hai của bộ đội Bắc Việt, nhắm vào đồng bào mình, là nhà văn quân đội Phan Nhật Nam”. Thật đúng vậy, với văn phong “sát tử” của người chiến sĩ Nhảy dù Phan Nhật Nam, SỰ CHẾT trên Đại lộ Kinh hoàng được ông diễn tả như sau: “Sự chết trên 9 cây số đường này, là chín cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, và vạn vật chết trong lòng ánh sáng, thứ ánh sáng có mùi người…” Mường Giang lại hạ bút viết tiếp: “Thê thảm quá, bất lương ghê cho chiến tranh không biên giới và những người Việt Cộng do HCM ươm trồng, không còn một chút tình Việt Nam và hơi hám của con người đi bằng hai chân biết nói”.

Nếu dùng nhóm từ “Thiên An Môn” để chỉ sự tàn ác của “Kẻ cầm quyền” dùng súng đạn bắn vào người dân vô tội trong tay không có võ khí để tự vệ, thì biến cố Thiên An Môn thật ở Bắc Kinh với số tử nạn 3.000 người chẳng thấm vào đâu so với “Thiên An Môn trên Đại lộ Kinh hoàng ở Việt Nam” do Việt Cộng gây ra! Điều khác biệt là ở Bắc Kinh, người dân đương đầu với Đảng để đòi tự do dân chủ, còn trên Đại lộ Kinh hoàng thì người dân trốn chạy để tìm tự do, vậy mà Đảng vẫn không tha, Đảng vẫn bắn giết tận tuyệt rồi sau đó lại cướp bóc tài sản trên xác chết của họ!

Chưa đi hết biển, mà đã trở về để bị cướp!

Một câu chuyện ăn cướp vặt khác liên quan với chiếc tàu Việt Nam Thương Tín xảy ra sau 30-4-1975. Câu chuyện do nhà văn Doãn Quốc Sỹ tường thuật trong tác phẩm Mình lại soi mình (tr. 176). Đó là 1652 người được đến đảo Guam Hoa Kỳ an toàn, lại không muốn định cư tại đấy, mà quyết tâm đòi trở về quê hương. Hoa Kỳ đành phải cung cấp đầy đủ quần áo, riêng về lương thực thì dư cho cả chuyến “về Việt Nam” và chuyến “trở lại Hoa Kỳ” nếu họ không được tiếp nhận.

Khi tàu cập bến Nha Trang, họ đã chuẩn bị cử người đọc diễn văn trước chính quyền, vì họ nghĩ rằng sự trở về của họ sẽ được đón nhận tốt. Nhưng thật ngỡ ngàng, nhà văn Doãn Quốc Sĩ đã viết rằng họ bị khám xét từ mái tóc đến gấu quần, khám xét không phải từng bao thuốc lá mà từng điếu thuốc lá, tịch thu hết đô la, vàng bạc, kim cương, đồng hồ, bút máy, các đồ trang sức… Rồi tin sét đánh: tất cả đều bị giam giữ vì bị liệt vào hạng “những kẻ đã trốn theo quân thù trở về nước trái phép”. Họ bị bắt đi học tập cải tạo ở Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái, thân mạng còn chưa biết được an toàn, nói chi đến của cải tài sản bị tịch thu!

Sự thực xảy ra như vậy, nhưng báo Đảng từ Bắc chí Nam nhất tề đề cao họ là phần tử “ngoan cường”, chống sự dụ dỗ của đế quốc đến cùng, lột mặt nạ hiếu chiến, giả nhân giả nghĩa, cưỡng ép di tản của đế quốc đến cùng! Những người “chưa đi hết biển” ấy đã vội trở về trên tàu VNTT chỉ giúp cho Việt Cộng được dịp tuyên truyền chống đế quốc và để bị bóc lột hết của cải họ mang đi. Việt Cộng có quý gì dân đâu!

Đòi tiền chuộc mạng như mẹ mìn Xạ Phang

Chuyện người Xạ Phang làm mẹ mìn bắt cóc trẻ con đòi chuộc mạng hoặc đem đi bán là những truyện viết cho thiếu nhi vào thập niên 40. Có thể đó là những chuyện bịa đặt không có thật. Nhưng đến thập niên 80 thì Ủy ban Nhân dân Thành Phố HCM thực sự là Mẹ mìn Xạ Phang thật 100 phần 100. Họ đã biết khai thác để đòi tiền chuộc mạng như câu chuyện sau đây. Đó là vấn đề tù nhân chính trị VNCH được Hoa Kỳ tiếp nhận theo diện HO. Trong tháng 6 năm 1986, Ủy ban Nhân dân Thành Phố HCM đã đưa ra Thông cáo số 162 quy định về quy chế các ứng đơn xin xuất cảnh ra hải ngoại. Một phụ lục của thông cáo này, cũng do Phan Văn Khải ký ngày 17-6-1986, nói rằng:

“1- Chính phủ Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về việc thanh toán cho Chính phủ Việt Nam các chi phí giam cầm các viên chức dân và quân sự của chính quyền Cộng hòa trước đây hiện vẫn còn bị giữ trong các trại cải tạo. Giá biểu là 2 mỹ kim/mỗi ngày/mỗi người, kể từ ngày 30-4-1975. 2- Thân nhân sống tại hải ngoại có nghĩa vụ trả cho Chính phủ Việt Nam một số tiền là 7.000 mỹ kim/ mỗi gia đình được phép rời VN.”

Giáo sư Nguyễn Văn Canh đã bàn về Thông cáo 162 và bản phụ lục trong tác phẩm CS trên đất Việt (tr.27) như sau: “Rõ ràng là vấn đề các tù nhân chiến tranh này đã bị xử dụng như một khí cụ thương thảo với Hoa Kỳ. Đây thực sự là một hành vi của kẻ khủng bố chuyên bắt cóc và giam giữ nạn nhân để đòi một đệ tam nhân bỏ tiền chuộc mạng và cũng là một phương tiện để đối thoại với Hoa Kỳ nhằm giành được sự thừa nhận.”

Lại làm tiền khi nhận thuyền nhân về

Làn sóng vượt biên ào ạt từ 30-4-1975, sau cùng rồi cũng đến lúc thoái trào. Phần vì Việt Cộng tổ chức vượt biên bán chánh thức để lấy vàng, lại thừa cơ hội cho công an, cán bộ, và gia đình trà trộn vào để được xuất ngoại, phần vì lòng độ lượng tiếp nhận tỵ nạn của các quốc gia Tây phương đã đến mức bão hòa, các trại tỵ nạn bắt đầu đóng cửa. Cao ủy Tỵ nạn phát động phong trào hồi hương. Sự cưỡng bách hồi hương gây ra nhiều trường hợp thương tâm: như thuyền nhân Nguyễn Văn Hải đã thắt cổ chết ở trại cấm Whitehead Hongkong, và cũng có nhiều người tự rạch bụng chết. Theo báo Hongkong Standard thì đã có tới 10 thuyền nhân tìm lấy cái chết để phản đối chính sách thanh lọc và cưỡng bách hồi hương.

Xin nhắc lại để nhớ “trong chiến tranh hay khi hết chiến tranh, lúc nào Dân tộc cũng là vốn quý để Bác và Đảng khai thác cho đầy túi tham”. Thời điểm sau khi các trại tỵ nạn đóng cửa, sử gia Cao Thế Dung viết (Trích Cơn hồng thủy Biển Đông, tr. 286): “Không kiểm soát, thả lỏng để dân bỏ nước ra đi (ghi chú: đến lúc Đảng thấy càng có nhiều thuyền nhân, càng có lợi), một mặt gây khó khăn cho Tây phương, đặc biệt là Hoa kỳ, một mặt làm ung thối vấn đề thuyền nhân tỵ nạn, mặt nào Cộng sản Việt Nam cũng “thắng lợi”. Vào giữa năm 1989, Bộ Chính trị và Nhà Nước thấy rằng, nếu hồi hương tính theo 300$ một đầu người, số tiền đã lên đến con số đáng kể.”

Cao Thế Dung đã ước lượng tổng số lợi lộc Cao ủy Tỵ nạn tặng cho Hà Nội có thể lên đến 25 triệu Mỹ kim, nếu tất cả thuyền nhân còn kẹt ở Macau, Hongkong, Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương được giao hoàn về Việt Nam (nhưng Nam Dương không chủ trương trục xuất thuyền nhân). Cũng trong quyển Cơn hồng thủy Biển Đông (tr. 284), tác giả Cao Thế Dung ghi lại bài phát biểu của triết gia kiêm k‎ý giả Pháp Jean-Francois Revel trên đài phát thanh Europe I ngày 2-12-1989 để nói lên chính nghĩa tìm tự do của thuyền nhân Việt Nam: “…Chính phủ Luân Đôn sẵn sàng trả và tặng cho chính phủ Hà Nội khoảng 600 đến 1.000 Mỹ kim mỗi đầu người. Giá cả còn đang thương lượng. Đây là một sự buôn bán thịt người xảy ra giữa hai nước. Còn đây không phải trả tiền để giải thoát thuyền nhân mà trả tiền để đem bắt giam họ trở lại”.

Làm tiền theo cung cách của Tổng bí thư

Lịch sử Đảng Cộng sản VN là chuỗi dài vô tận của bội bạc, xảo trá, giết người, cướp của. Với cung cách Tổng bí thư như Lê Duẩn thì việc cướp của thật quá cỡ “đại trà” như trong những Chiến dịch Đổi tiền sau khi cướp được miền Nam. Tác giả Cao Thế Dung trong quyển Cơn hồng thủy Biển Đông đã viết rằng vào 15-9-1985, Hà Nội công bố Lệnh đổi tiền (lần thứ ba). Tỷ giá hối đoái từ 1 Mỹ kim ăn 12 đồng tiền cũ đổi thành 1 Mỹ kim ăn 15 đồng tiền mới (bằng 150 đồng cũ). Như vậy chỉ trong chốc lát, tiền Việt Nam sụt giá 1250 phần trăm! Tác giả Cao Thế Dung viết như sau (tr. 206 sđd):

“Một nhà ngoại giao Tây phương tay cầm một xấp giấy bạc Việt Nam nói với giọng căm phẫn rằng: “Số tiền này đã trở thành nắm giấy lộn”. Mấy nhà ngoại giao của Sứ quán Ấn Độ cũng bất mãn nói rằng, mới hôm qua họ dùng 400 đô la đổi được 4800 đồng VN ở Ngân Hàng Việt Nam, ngờ đâu hôm nay số tiền này chỉ còn bằng 30 đô la thôi! Sau khi giao số tiền này, họ cự tuyệt nhận tiền mới và tuyên bố nhất định sẽ nói chuyện với Bộ Ngoại giao Việt Nam”.

Nhân viên Sứ quán Ấn Độ còn có quyền nói chuyện với Bộ Ngoại giao VN, cho nên không bị thiệt hại. Nhưng dân chúng Việt Nam như cá nằm trên thớt thì phải “ôm đầu máu” mà thôi! Tác giả Cao Thế Dung viết tiếp (tr. 207): “Trước ngày đổi tiền đột ngột năm 1985 và cũng như đợt đổi tiền năm 1978, tập đoàn Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cho các tay em đi vơ vét vàng và đôla. Hàng trăm triệu tiền cũ của các “anh lớn Trung ương” và Thành uỷ TP HCM đã được bí mật đổi tiền mới trước khi Pháp lệnh được đài phát thanh công bố có hiệu lực vào lúc 6 giờ sáng”.

Thảm họa của đất nước sau Tháng Tư đen

Nhắc lại chuyện cán bộ Trần Văn Thủy sang Hoa Kỳ làm công tác kiều vận và viết quyển Nếu đi hết biển. Trong sách ông đã viết một câu hết sức ngô nghê (tr. 28): “Tôi không biết trong lịch sử thịnh suy của đất nước tôi có thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán sâu thẳm, dẫn đến việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không. Nhưng tôi biết rất rõ không ít người Việt xa xứ “qua các đại dương và các châu lục, “đi mãi, đi mãi” mà cuối cùng không thể trở về quê mình, làng mình được”.

Giá mà Trần Văn Thủy không viết câu ngô nghê nầy! Làm sao ông lại không biết chứ! Trong thế kỷ 20, có 3 nước bị phân chia làm hai là Triều Tiên, Đức và Việt Nam: Bắc Hàn, Đông Đức, và Bắc Việt Nam (tức VNDCCH của HCM) nằm trong quỹ đạo Cộng sản và phân nửa kia là Nam Hàn, Tây Đức, và Nam Việt Nam (tức VNCH) thuộc khối Thế giới tự do. Và cũng ngay trong thế kỷ 20, có hai nước đã được thống nhất. Việt Nam được (hay bị!?) thống nhất ngày 30-4-1975 khi đảng CS cưỡng chiếm miền Nam. Sau đó 14 năm, nước Đức cũng được thống nhất khi Bức tường Ô nhục Bá Linh bị phá vỡ ngày 9-11-1989.

Cuộc Thống nhất của nước Đức đẹp vô cùng! Không lời nói nào dưới thế gian có thể diễn tả! Chỉ bằng con số trong toán học, ta mới nói lên được tấm lòng bao la của Tây Đức. Họ đã mang 1.250 tỷ Âu kim trong ngân sách thặng dư của họ sang giúp cho Đông Đức. Số Âu kim 1.250 tỷ đó tương đương 2.000 tỷ Mỹ kim, tính ra bằng 2 tỷ lượng vàng, tức là 60 ngàn tấn vàng, ví như một cây cầu khổng lồ đúc bằng vàng khối để người dân Đông Đức bước lên cho theo kịp Tây Đức và các nước Tây Âu!

Xin dẫn chứng một việc nhỏ. Một tuần ngay sau khi Bức tường Bá Linh được phá bỏ, người dân Đông Đức ào ạt sang thăm viếng Tây Đức, tất cả 8 triệu rưỡi người, mỗi người được lãnh 50 Mỹ kim gọi là Tiền chào mừng. Với số tiền tặng nhỏ nhoi đó, người dân Đông Đức vào siêu thị ở Tây Đức mua hết những hàng nhật dụng mang về, những món mà họ hằng ước mơ trong 40 năm dài sống thiếu thốn trong thiên đường XHCN Đông Đức.

Việc nhỏ thứ hai, thật sự việc này không nhỏ. Theo lời kể của nữ sĩ Lê Thị Huệ trong bài Bệnh Cuồng Tín (Trong loạt bài Văn hóa trì trệ nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ 21): toàn bộ chúng cư cao tầng tiền chế Plattenbau ở Đông Đức được đập bỏ và xây cất lại đúng theo tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh. Những cao ốc tiền chế đó, chỉ vì mị dân, chánh quyền Cộng sản Đông Đức đã cho xây cất vội vã vào năm 1959 theo lệnh Trung ương Đảng để tuyên truyền cho chế độ, nên rồi có cũng như không! Cần nhắc lại để nhớ rằng Đông Đức được đánh giá là quốc gia mẫu mực thành công về XHCN mà các nước Cộng sản luôn lấy làm điểm nhắm để noi theo!

Và còn biết bao điều tốt đẹp khác nữa không kể xiết! Như về việc thống nhất tiền tệ, Tây Đức định hối xuất là 1 đổi 1, phần lợi nghiêng về cho người dân Đông Đức vì tiền Đông Đức vốn không có giá trị bằng đồng Đức Mã. Về chính trị, đảng Cộng sản Đông Đức, đổi tên mới là đảng Dân chủ Xã hội chủ nghĩa (PDS), vẫn được phép hoạt động và họ cũng giành được một số ghế cho nghị sĩ của họ trong Quốc hội của nước Đức thống nhất. Tây Đức không hô hào những khẩu hiệu dao to búa lớn về Hòa hợp hòa giải như Hà Nội. Họ chỉ ban hành những luật lệ để mang ấm no và hạnh phúc cho người dân Đông Đức vốn bị thiệt thòi trong 40 năm sống dưới ách độc tài của nhà nước XHCN Đông Đức (Tài liệu tham khảo: Die Deutsche Einheit von A. Gerlach, Lê Hoàng Thanh chuyển ngữ).

Cuộc Thống nhất của nước Đức đẹp như thế, còn Cuộc Thống nhất của VN ngày 30-4-1975 thì sao? Xin thưa: “Thì giống như lấy băng keo dán lại!” Xin mời qu‎ý bạn đọc lời dẫn giải. Luật sư Nguyễn Hữu Thống, với cương vị một học giả nghiên cứu lịch sử và một nhà luật học, trong quyển Giải thể chế độ CS (tr.129), đã có nhận định như sau: “Bằng chiến tranh võ trang, HCM đã cầm tay xé đôi tấm bản đồ năm 1954 để cướp chính quyền tại miền Bắc. Và rồi cũng bằng chiến tranh võ trang, năm 1975, các đồng chí của ông ta đã cướp nốt chính quyền tại miền Nam. Rồi họ lấy băng keo dán 2 mảnh dư đồ lại và tuyên bố rằng: “HCM có công thống nhất đất nước”.

Luận về Cuộc Thống nhất “lấy băng keo dán lại” của Việt Nam, chúng ta có hàng loạt những câu vè truyền khẩu trong dân gian không đẹp đẽ gì nhưng vô cùng trung thực, nào là: “Người Nam nhận họ, người Bắc nhận hàng”, nào là “Vào vơ vét vui vẻ về”, nào là “Đả đảo Thiệu Kỳ muốn gì cũng có! Hoan hô HCM mua cây đinh phải sắp hàng!”, có bài hát nhại lời của trẻ con “Như có bác Hồ đang ngồi binh xập xám…, HCM ăn gian, ăn gian!”, lại có chuyện tiếu lâm kể rằng nhạc sĩ cổ nhạc Văn Vĩ bị mù mà “sau 30 tháng 4 thì lái xe Honda được vì mắt đã sáng!”, và có những câu ‎ý‎ nghĩa sắc bén như “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công L‎ý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự do”. Bài ca “Giải phóng Miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng đã thành bài quốc cấm, bởi lẽ vào lúc đó, các em học sinh thanh thiếu niên toàn miền Nam đã ăn ‎ý gào thét “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng…” bằng tất cả sức hồn nhiên của tuổi trẻ làm cho Cộng sản Bắc Bộ Phủ không an tâm! Thật ra có cả một kho tàng Văn học dân gian được truyền khẩu về HCM và Đảng của ông, tất cả đã được Giáo sư Nguyễn Ngọc Phách biên tập và phê bình trong tác phẩm Việt sử đương đại qua 200 câu vè bất hủ, phát hành năm 2007 ở Melbourne.

Về việc “vào vơ vét vui vẻ về”, người viết xin được dẫn chứng bằng lời tâm sự của Giáo sư D.N.S. (hiện định cư ở Cali), lúc đó là Thanh tra Trung học ở Sài Gòn. Trong những ngày ngắn ngủi ở Bộ Giáo dục sau 30-4 và trước khi đi học tập cải tạo, Giáo sư D.N.S. là nhân chứng thấy tận mắt sự ăn cướp tài sản của Bộ, Nha, Sở, và các trường học ở miền Nam mang về Bắc (để giữ làm của riêng hay giao cho ai không biết!). Ông tường thuật như sau:

“Ở Bắc đưa vào một cán bộ chính trị trình độ giáo viên cấp 1, nhưng về chính trị anh ta có uy quyền rất lớn. Chính anh ta quyết định về thời gian đi học tập cải tạo của tất cả giáo chức miền Nam. Anh ta cũng là người nhận bàn giao tất cả các cơ sở giáo dục. Mỗi lần bàn giao một sở, một nha, hay một trường học, anh ta mang về văn phòng của anh nào là máy thu thanh, máy truyền hình, máy đánh chữ, quạt máy, tủ lạnh, đàn dương cầm, v.v… Sau vài lần bàn giao như vậy thì văn phòng anh đầy chiến lợi phẩm, anh ta cho xe về Bắc, rồi lại tiếp tục đi nhận bàn giao ở các địa điểm khác. Thế là hết đợt chiến lợi phẩm nầy, đến đợt chiến lợi phẩm khác, anh ta tha hồ vào vơ vét vui vẻ về”.

Giáo sư D.N.S., người giáo chức đầy khả năng sư phạm và nặng lòng với giáo dục được thăng Thanh tra Trung học rồi lại phải bị đi học tập cải tạo (!), đã cay đắng nhận xét rằng: “Công tác của viên cán bộ chính trị của Bộ Giáo dục VC chỉ có vậy mà thôi!” Học giả Nguyễn Hiến Lê, sau 30-4-1975 được sống dưới ách Cộng sản, đã nhận xét (Trích Hồi k‎ý, tập ba, tr. 95): “Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa, ve chai… đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam nầy là thiên đường”.

Người viết thật không đành tâm dùng câu vè “Vào vơ vét vui vẻ về” đối với những thu lượm vụn vặt “từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa, ve chai” như vậy, nhưng trong lòng không khỏi xót xa thương cảm đồng bào miền Bắc thân thương phải sống cuộc đời cơ cực thiếu thốn, đồng thời không hiểu được tại sao bọn văn nô XHCN lại có thể ca ngợi và tự hào là “Đỉnh cao trí tuệ loài người”!

Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 2008 này, đã 33 lần 30-4 kể từ ngày tập thể người Việt phải bỏ nước ra đi, kéo dài từ hơn ba thập niên qua. Một cuộc ra đi vĩ đại chưa từng bao giờ xảy ra trong lịch sử Dân tộc Việt! Cũng có người cho rằng đó là những cuộc ra đi tìm tự do, nhưng thực tế mang nhiều ý nghĩa của những cuộc chạy trốn, chạy trốn muôn vạn bạo tàn và khắc nghiệt do CSVN đổ lên đầu người dân Việt, sau ngày họ đặt toàn ách thống trị lên toàn cõi đất nước.

Đảng Cộng sản phản bội Dân tộc ơi, có thấy cuộc thống nhất của nước Đức đẹp tuyệt vời hay không? Có thấy tấm lòng bao la của Tây Đức hay không? Ngân sách thặng dư của Tây Đức, 1.250 tỷ Âu kim, nếu đem chia cho 16 triệu dân Đông Đức, và nếu tính bằng vàng, thì mỗi người dân Đông Đức sẽ nhận được khoảng 120 cây vàng! Còn trong cuộc Thống nhất của Việt Nam, do Lê Duẩn người học trò kiệt xuất nhất của HCM thực hiện, thì số vàng bạc của cải do toàn thể dân chúng miền Nam làm ăn lương thiện cả mấy trăm năm lại chảy ngược lại vào tay các tên Cách mạng vô sản (các BỰ GIÒI) của Bắc Bộ Phủ để chúng trở thành TỶ PHÚ MỸ KIM! Thật đúng “VÀO VƠ VÉT VUI VẺ VỀ” cách “đại trà”, một Cuộc Thống nhất ô nhục! Nhìn lại cuộc thống nhất ô nhục đó, tính bằng con số trong thống kê, ta mới có thể thấy được thảm họa do CSVN gây ra, và mới biết tại sao hàng triệu người dân Việt đã phải liều thân, bất kể sinh mạng, miễn sao thoát ra khỏi bàn tay hung bạo của bạo quyền. Người viết xin được trích dẫn mục Quan điểm của tuần báo Nhân quyền xuất bản ở Melbourne (Bài Tưởng niệm 30 Tháng 4 Đen, số 1142, 22-28/4/2008). Tài liệu từ chính các cơ quan thẩm quyền quốc tế cho biết, chỉ nội trong thời gian hai năm, từ năm 1975 đến 1977, CSVN đã:

- hành quyết (xử tử): 100.000 người; - đày ải khổ sai đến chết trong các trại giam gọi là trại cải tạo: 95.000 người; - xua đuổi thành phần trung lưu, thân nhân quân dân cán chính miền Nam đến các vùng rừng thiêng nước độc gọi là kinh tế mới, đến phải bỏ xác: 48.000 người; - danh sách trên còn phải cộng thêm từ 600.000 đến 800.000, có thể lên đến cả triệu người vùi xác giữa biển Đông trên đường tìm tự do vì sóng to gió lớn, vì lạc đường cạn lương thực đến chết đói chết khát, vì bị hải tặc hãm hiếp sát hại.

Và toàn cảnh đất nước là đói nghèo cùng cực, người dân bị o ép, tước đoạt mọi quyền sống căn bản của con người. Nhà tù nhỏ mọc lên khắp nơi, trong một Nhà tù lớn là toàn cõi quê hương. Chưa hết, “những đỉnh cao trí tuệ của XHCN” lại nghĩ ra một loại Nhà tù di động làm bằng những Cây người công an vô hồn vô cảm. Và đây là phát kiến vĩ đại của chế độ HCM! Những tù nhân như Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt hay Trần Khải Thanh Thủy ở Hà Nội có “tự do” đi chợ, đi chữa bịnh, đi thăm mẹ bịnh, v.v… nhưng tù nhân đi đến đâu thì Nhà tù di động cứ lẽo đẽo theo đến đó để gây khiếp đảm cho tất cả mọi người. Cũng chưa hết, bằng sách lược “Quản chế tại gia”, bất cứ ngôi nhà hay ngôi chùa nào cũng có thể bị biến thành Nhà tù biến cải (Nhà và chùa được cải tạo thành nhà tù) bằng những Cây người công an bao vây suốt ngày đêm, không cho người chủ nhà hay chủ chùa đi đâu và cũng ngăn cản không cho khách đến thăm!

Thảm họa của đất nước trong thế kỷ 20

Xin trở lại câu nói ngô nghê của cán bộ Trần Văn Thủy “Tôi không biết trong lịch sử thịnh suy của đất nước tôi có thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán sâu thẳm, dẫn đến việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không…”

Cán bộ Trần Văn Thủy không ngô nghê t‎ý nào, người viết xin đính chánh. Khi ông thú nhận “không biết gì cả…” như vậy, nhất là khi ông đã đạo diễn phim truyện với chủ đề “Chuyện tử tế”, Dân tộc xin hỏi tại sao ông không có “lời nào tử tế” về “Thảm họa của đất nước sau Tháng Tư đen” và “trong thế kỷ 20”? Câu giải đáp chỉ có thể là ông đã giả vờ ngây thơ cụ, đúng nhất là ông chỉ sáng Đảng mà mù tình Dân tộc. Thật quá ngỡ ngàng khi ông đã biết dùng câu của Karl Marx “Chỉ có loài thú mới quay lưng lại với đồng loại để chăm lo cho bộ da của mình” để giới thiệu phim “Chuyện tử tế” của ông!

Cán bộ Trần Văn Thuỷ đã đứng cùng phe với nhóm người chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Ông đứng về phía Đảng, chỉ muốn cho Đảng bền lâu như Tố Hữu, vị cai thầu văn nghệ vì muốn thâu thuế để nuôi sống Đảng, còn Dân tộc thì “sống chết mặc bây”, nên đã viết những dòng “thơ giết”: “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong. Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng. Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt”

Và một bài “thơ tự khoe là người” cũng của Tố Hữu: “Bọn địa chủ cắm vòi hút máu. Phải vùng lên mà đấu thẳng tay! Thực dân địa chủ một bầy. Chúng là thú vật, ta đây là người”

Cán bộ Trần Văn Thủy đứng về phía Đảng cũng như nhà thơ Xuân Diệu đã mang “chất sắt” vào trong thơ theo lời dạy của Đảng Trưởng họ Hồ và đã sản xuất những dòng “thơ máu” hô hào đấu tố:

“Anh em ơi! Quyết chung lưng. Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù. Địa hào, đối lập ra tro. Lưng chừng phản động đến giờ tan xương. Thắp đuốc lên cho sáng khắp đường. Thắp đuốc lên cho sáng đình làng đêm nay. Lôi cổ bọn chúng ra đây. Bắt quỳ gục xuống, đọa đày… chết thôi!”

Chưa hết, Xuân Diệu còn có những dòng “thơ bắn” như sau: “Máu kêu máu trả thù. Súng đâu anh em đâu. Bắn nó thủng yết hầu. Bắn tỉa bắn dài lâu”

Những nhà thơ với tâm hồn “thương mây khóc gió đa sầu đa cảm” như Tố Hữu và Xuân Diệu, đến khi bắt gặp cuộc “Kách mệnh khát máu của HCM” mang từ Nga Hoa về và bị nhuộm đỏ, thì tâm tánh biến đổi quá phũ phàng để trở thành những cái “Loa người” hô hào hành hạ, đọa đầy, bắn giết Dân tộc! Các nhà thơ mà đã như vậy, còn nói chi đến bọn bần cố nông, cán bộ răng đen mã tấu, công an cán bộ quản giáo mất tình người. Thảm họa của Dân tộc và Đất nước trong thế kỷ 20 xin được trưng diễn bằng Cuộc chôn sống điển hình ở Huế trong Tết Mậu Thân. Câu chuyện do Thông tín viên Nam Dao của Đài TwoVNR phỏng vấn Phan Văn Tuấn và được viết lại trong bài Vụ thảm sát Tết Mậu Thân (Bns Tự do Ngôn luận số 46 ngày 1-3-2008).

Hiện tại anh Phan văn Tuấn là một thuyền nhân được định cư ở Sydney, Úc Châu. Vào Tết Mậu Thân 1968, cậu bé Tuấn 16 tuổi đang học lớp Đệ tam trường tư thục Nguyễn Du ở Huế. Ngày mồng hai Tết (Thứ năm 1-2-1968), VC tràn ngập Huế, Tuấn bị bắt cùng với mười mấy thiếu niên khác cùng lứa tuổi với anh. Mấy ngày đầu, VC bắt họ làm dân công đi khuân vác. Sau đó, VC bắt họ đào hầm vào ban đêm ở quanh vùng Gia Hội, những hầm mà Tuấn tưởng rằng chỉ để bọn chúng ẩn núp, không ngờ đó sẽ là những hầm chôn người. Đến bây giờ, tuổi đã gần lục tuần, Phan Văn Tuấn nhớ lại chuyện xưa, thuật lại rằng những người bị VC bắt, bị trói hai tay sau lưng thành từng chùm, mỗi chùm khoảng 15, 16 người, và bị sắp đứng xoay lưng về cái hố. Một tên VC ăn mặc theo lối chính quy với nón cối đọc bản án tử hình. Rồi một tên du kích áo đen ngắn tay, quần đen ngắn, mang dép râu, đội nón tai bèo, dùng súng AK bắn một tràng vào người đầu tiên. Ông này bị trúng đạn, té ngược ra sau, và lọt xuống hố, kéo theo cả chùm người bị cột chung. Đây, lời tả chân của Phan Văn Tuấn, Nam Dao ghi lại:

“Ông té xuống, qu‎ý vị biết không, mấy người sau có trúng đạn gì đâu, cũng lăn xuống. Lăn và lộn, lộn vòng xuống, lật ngửa ra. (Tuấn khóc rống lên). Nó bắt tôi lấp! Nó kêu lấp, lấp, lấp lẹ! (Vẫn khóc). Tôi không lấp, nó đánh tôi. Tôi nhìn mấy người đó, tôi khóc, tôi khóc! Không! Người ta còn sống mà! Lấp đi! Không! Thế là nó dọng báng súng vào tôi, súng AK nó dọng, nó dọng đàng sau xương sống tôi (Vừa thở như bị ngộp, vừa khóc). Chưa được, nó quay mũi lưỡi lê nó đâm tôi, nó đâm vào sườn tôi. Trời ơi, máu me! Nó đâm! Mấy thằng bạn, thằng nào cũng khóc! Nó đánh, nó đánh! Tôi phải lấp, phải lấp. Tôi lấp đồng bào tôi (Khóc nức nở). Trời ơi, trời ơi, Thượng Đế coi này! Bây giờ tôi nhớ tôi có tội quá Tôi nhớ mấy con mắt đồng bào, mấy người dưới hố ngó tôi. Trời, trời, trời, trời ơi! VC ơi là VC! Không lấp thì nó đánh! Lấp thì bà con tôi chết! Thôi, thôi, lạy Phật, lạy Trời, lạy Thượng Đế. Chưa có thằng nào nó tàn ác như vậy… (Tiếp tục khóc).”

Người phỏng vấn Nam Dao cũng khóc theo và an ủi Tuấn: “Anh không phải là người giết đâu. Tội đó là mấy thằng Cộng sản”

Cả hai người Nam Dao và Tuấn đều khóc và người viết hàng chữ nầy đến đây cũng khóc theo, phải lau nước mắt mới viết tiếp được, và lần nào đọc lại bản thảo cũng không cầm được nước mắt, thương cho Đồng bào Huế và thương cho cả Dân tộc VN! Những lần chôn sau, Tuấn thuật tiếp, VC chỉ lấy báng súng AK dộng vào người đứng đầu cho anh ta ngã té xuống kéo theo cả dây người xuống hố, người nào ngoi lên thì VC xoay ngược cuốc đập vào đầu cho bể sọ. Tuấn thuật tiếp rằng suốt mười mấy đêm, họ đã đào mười mấy cái hố và đã chôn mười mấy lần. Đến khi phi cơ trực thăng của Quân Lực VNCH xuất hiện để truy kích, thừa lúc VC lo trốn máy bay, Tuấn cùng ba người bạn cùng xóm bỏ chạy. VC bắn theo, bắn chết một thằng chạy chậm đàng sau.

Đến khi Tuấn và hai thằng còn lại gặp lính của Quân lực VNCH, một cảnh vô cùng cảm động diễn ra, ngắn ngủi thôi, nhưng là bức tranh tình cảm tuyệt đẹp đủ sức nói lên tất cả Tình Quân dân như cá với nước và Chính nghĩa của Quân lực VNCH. Trong suốt “Cuộc Chiến tranh của HCM gây ra để đánh Dân tộc”, Quân đội QGVN được thành lập từ thời Quốc trưởng Bảo Đại với mục tiêu ngăn chận làn sóng đỏ của Cộng sản để bảo vệ dân. Quân đội lớn mạnh và đổi tên thành Quân lực VNCH qua Đệ nhất Cộng hòa và Đệ nhị Cộng hòa. Thành tích bảo vệ Dân tộc suốt gần ba mươi năm đó, CHÍNH NGHĨA CỦA QUÂN LỰC VNCH, xin được diễn tả hùng hồn bằng lời thuật của anh Tuấn với chị Nam Dao như sau:

“Trời ơi, tôi kể chị nghe*: trong tay bọn VC mấy chục ngày, đến lần đầu tiên gặp anh lính Cộng hòa (ảnh cầm khẩu súng, ảnh ngoắc ngoắc tới). Trời ơi, tôi tới tôi ôm ảnh đó chị! Trời ơi, giống như mẹ đi chợ về! Tôi ôm ảnh tôi khóc, khóc nức nở. Ba thằng ôm ảnh khóc nức nở, không bảo nhau gì hết. Tự nhiên cái lòng thương người lính VNCH, một người mà mình thấy có sự bảo vệ… Tôi ôm ảnh khóc! Ảnh vuốt đầu nói: “Không sao đâu! Không sao đâu! Không sao đâu em!” Bắt đầu tôi kể từ đầu đến cuối. Ảnh dắt vô cho ăn. Phía sau có nước, ảnh cho tắm…”

Tàn cuộc, trong số mười mấy thiếu niên Huế bị VC bắt đi đào hầm và chôn người trong chiến trận Tết Mậu Thân đó, chỉ có Tuấn và 2 người chạy thoát. Số còn lại bị VC dẫn theo và bắn chết hết khi chúng rút lui khỏi Huế! Mấy ngày sau, khi tìm đặng xác, “Trời ơi, đứa nào cũng lỗ chỗ trên đầu!”, anh Tuấn vừa kể vừa khóc.

Sau đây là câu chuyện nói lên “thành tích đuổi dân đi vùng kinh tế mới” để cướp đoạt nhà cửa ở Sài Gòn. Câu chuyện về một người mẹ trẻ bị đưa đi vùng Kinh tế mới đã tự thiêu và ôm chặt 2 đứa con để cùng chết chung với mình. Thời điểm: người tường thuật là người tù học tập cải tạo Uyên Thao không nhớ rõ mùa đông năm 79 hay 80. Vào lúc đó, Uyên Thao ở Trại tù K6 trên đồi Phượng Vĩ dưới chân núi Chứa Chan, tiếp giáp với khu Kinh tế mới của người mẹ trẻ. Gần đấy có chợ Ngã Ba Đồn. Ba tuần lễ trước đó, Uyên Thao lao động phác cỏ và gặp người thiếu phụ cũng đang dọn đất gần đó. Người mẹ cuốc cỏ và cào cỏ lại, thằng bé 5 tuổi và con chị nó không lớn hơn nó bao nhiêu giúp mẹ ôm những bó cỏ vào góc bờ. “Tôi ở quận Năm, lên đây hơn hai năm rồi. Mười tám tháng nay, ba mẹ con tôi chưa biết hạt gạo là gì. Tội nghiệp thằng bé mới năm tuổi”. Đó là tâm sự của người mẹ, Uyên Thao chỉ nghe được như vậy, chưa kịp nói lời an ủi, thì cán bộ quản giáo võ trang phát hiện khoảng cách quá gần giữa họ nên ôm súng đi tới!

“Sự nghiệp giải phóng biến miền Nam thành địa ngục trần gian” hoà hợp hoà giải với “thành tích đuổi dân đi vùng Kinh tế mới” đã đến “trình độ” 3 tuần lễ sau đó. Buổi tối đó, cán bộ giảng dạy về lập trường đấu tranh cách mạng và chỉ trích thói hư tật xấu trong nếp sống cũ của người dân miền Nam. Một điều bất ngờ và cực kỳ hi hữu trong các Trại học tập cải tạo của VC, người thiếu phụ mà chồng không biết lưu lạc phương nào đó, người mẹ trẻ có hai con còn quá nhỏ bị bỏ cho đói khát và thất học đó, người cư dân ở quận Năm Sài Gòn bị Đảng đuổi đi để cướp nhà, “người con gái Việt Nam da vàng” mà Đảng ác nhân đã dồn đến đường cùng đó, chính Người thiếu phụ can cường đó vụt đứng lên giữa lớp học và nói như hét vào mặt người cán bộ: “Tôi khỏi cần nghe ai dạy dỗ. Tôi bị lùa tới cái xó rừng nầy là quá đủ rồi. Tôi chẳng biết Đảng với Cách mạng của các ông là những thứ gì. Bây giờ tôi phải về lo cho mấy đứa con tôi”.

Khuya hôm ấy, cơn hoả hoạn nhỏ bùng lên, thiêu rụi túp lều của ba mẹ con. Cả khu Kinh tế mới đều chạy đến túp lều để cùng đứng chết trân nhìn ngọn lửa hoành hành. Giữa đống tro tàn, xác người mẹ trẻ cháy đen tay còn vòng ôm chặt hai đứa con cũng cháy đen như mẹ. Lời giải thích tìm ra dễ dàng: người mẹ “về lo cho mấy đứa con” đã nổi lửa hoả thiêu và ôm chặt hai đứa con để cùng chết chung với mình!

Câu chuyện ba mẹ con chết thiêu cứ ám ảnh nhà văn Uyên Thao mãi. Câu hỏi cứ dai dẳng đeo theo anh: “Do đâu mà người mẹ lại tìm cho chính những đứa con của mình cái kết thúc kinh hoàng đó?” Đem chuyện bàn với người bạn tù già là Luật sư Vũ Đăng Dung, từng là cựu Thủ lãnh Luật sư Đoàn ở Huế, cụ Dung lắng nghe, rồi cũng lắc đầu thở dài! Nhưng trong bài viết súc tích của Uyên Thao, tác giả nhớ và viết lại vài dòng trong Nhật k‎ý‎ của Đặng Thùy Trâm: “Bọn Mỹ như những con quỷ khát máu… Bao giờ đuổi được hết chúng ra khỏi đất nước Việt Nam, lúc đó máu mới ngừng chảy…”

Vào lúc “Thảm nạn ba mẹ con tự thiêu” xảy ra, tức là vào mùa đông năm 79 hay 80 gì đó, thì không còn “bọn Mỹ” nào trên đất Việt nữa, đúng như ước vọng của nữ Bác sĩ Đặng Thùy Trâm! Nhưng điều kinh hoàng nhất đã đến với Dân tộc, khi Đảng làm chủ trọn vẹn cả Đất nước, thì Đảng đã “giải phóng” VN thành Nhà tù khổng lồ và cuộc sống người dân thành cảnh Địa ngục trần gian. Người mẹ trẻ trong câu chuyện của Uyên Thao, chỉ vì quá thương con, nên muốn hai đứa con mà mình đã mang nặng đẻ đau được thoát khỏi “cảnh sống đáng sợ hơn cõi chết”, Uyên Thao đã viết như vậy (Trích bài Từ thơ tới những mảnh đời, Btb Việt Luận đăng tải trong số 2174 ngày 15-6-2007).

Văn phong Uyên Thao tuyệt vời! Nhà văn đã viết, xin lặp lại, “người mẹ trẻ vì quá thương con, nên muốn hai đứa con của mình thoát khỏi “cảnh sống đáng sợ hơn cõi chết!”. Bạn đọc thân mến ơi! Có “Cảnh sống” nào lại đáng sợ hơn “Cõi chết” hay không?! Thật không có nơi nào trên thế giới, không có thời nào trong lịch sử mà lại có “Cảnh sống đáng sợ hơn cõi chết” như vậy. Chỉ có ở miền Nam khi Quân lực VNCH không ngăn chận được Làn sóng đỏ của Cộng sản từ phương Bắc! Dân tộc thân thương ơi! Viết đến đây, người viết không ngăn được xúc động, cứ thả lòng thương cảm cho Dân tộc bất hạnh, thương cảm người mẹ trẻ tự thiêu với hai đứa con của mình, và thương cảm cho nữ Bác sĩ Đặng Thùy Trâm hy sinh đời xuân xanh của mình không phải vì Dân tộc, tuyệt nhiên không, mà chỉ để giúp cho Làn sóng đỏ tràn ngập miền Nam! Và trong LÀN SÓNG ĐỎ đó, ẩn hiện những kẻ cai trị tham lam, tàn ác, gian xảo, đểu cáng, và hèn hạ nhất trong lịch sử loài người!

Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có những thi sĩ văn nô ca ngợi đấu tố đày đọa giết người như Tố Hữu và Xuân Diệu. Chưa bao giờ Đất nước thân yêu có những tên đồ tể chôn sống người vô tội một cách man rợ như cảnh Tết Mậu Thân ở Huế. Chưa bao giờ xã hội bốn ngàn năm văn hiến của Việt Nam lại thoái hoá biến thành “Cái cảnh sống mà đáng sợ hơn cõi chết” như vậy. Tất cả những nghịch cảnh đau lòng đó xảy ra vì Đất nước bất hạnh đã nảy sinh Đại Văn nô Trần Dân Tiên viết sách để ca ngợi và thần thánh hoá Đại Đồ tể HCM thành “Cha già Dân tộc”.

Nhưng Đại Văn nô Trần Dân Tiên và Đại Đồ tể HCM chỉ là một. Đó là một “kẻ đã đi hết biển”, đã đặt chân lên đất Liên Xô và Trung Quốc nhiều lần, và khi trở về cố hương để “làm việc”, đã mang Xã hội chủ nghĩa của Mác Lê Xít Mao, như con rắn cực kỳ độc ác, đem về để giết hại gà nhà. Thảm kịch của Đất nước trong thế kỷ 20 bắt đầu từ đó. Một tay Trần Dân Tiên - HCM đã đào tạo biết bao nhiêu Tiểu Văn nô và Tiểu Đồ tể tung ra khắp Đất nước để “làm việc” thay cho mình. Cái “cảnh sống đáng sợ hơn cõi chết” của ba mẹ con ở đồi Phượng Vĩ dưới chân núi Chứa Chan chỉ là một cao điểm trong toàn bộ Cuộc chiến tranh của HCM đánh Dân tộc.

Chúng ta đã biết Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Anh Ba - Nguyễn Ái Quốc - L‎ý Thụy - C.B. - Trần Dân Tiên vân vân… chỉ là một người, là một “kẻ đã đi hết biển” và khi về nước “làm việc” thì lại mang tên HCM. Đó là một người duy nhất trong lịch sử khi đi mang tên nầy, lúc về lại mang tên khác. Nhưng việc thay tên đổi họ chỉ là việc nhỏ. Điều bất hạnh cho Dân tộc VN là HCM đã gây những vết nhơ vô cùng ghê tởm trong Lịch sử nước nhà, không thể nào tẩy xóa. Ông đã mang chủ nghĩa Mác Lê về gây cảnh nồi da xáo thịt, và gây cuộc chiến tranh tương tàn giữa lòng dân tộc và phá hoại đất nước!

Nhưng người Việt không phải thế! Dân tộc Việt Nam không phải thế! Có biết bao nhiêu người Việt Nam “đã đi hết biển”, đã mang cái hay cái đẹp của nước ngoài về tô điểm cho quê hương. Những chuyện Sứ thần của Việt Nam từ thời xa xưa là những dẫn chứng hùng hồn.

Chuyện sứ thần của Việt Nam ngày xưa

Trong lịch sử VN, kể từ những Triều đại Độc lập Đinh Lê L‎ý Trần… hùng cứ ở phương Nam đối lập với Bắc Triều, những “người đã đi hết biển” là những vị sứ thần VN đi sứ sang Tàu. Đó là những vị tài cao học rộng, đổ đạc cao, làm quan thanh liêm đức độ, lại có tài mẫn tiệp nên được vua chọn làm sứ thần sang Tàu như những câu chuyện sau đây.

Chuyện ông Đào Tông Nguyên. Ông là danh thần đời vua Lý Nhân Tông, không rõ năm sinh năm mất. Ông hết lòng tham gia việc chính trị, văn hóa nước nhà. Khoảng năm Mậu Ngọ (1087), ông đi sứ nhà Tống, đưa voi sang cống và trình quốc thư, đòi lại những châu, huyện ở mạn Quảng Nguyên mà nhà Tống đã chiếm đoạt trước đó. Do tài ngoại giao của ông, nhà Tống thuận trả Quảng Nguyên lại cho ta, ta trả lại cho họ những tù binh đã bắt được do công trận của danh tướng Lý Thường Kiệt.

Chuyện ông Đinh Củng Viên (?--1294). Ông là danh thần đời Trần Thánh Tông, giỏi biện thuyết. Năm Canh Ngọ (1270) gặp Nguyên Thế Tổ sai sứ sang khiến vua Trần phải nộp biểu xưng thần, ông cùng với đại phu Lê Đà sang sứ nhà Nguyên để biện luận quyết không nhục quốc thể. Vua Nguyên Tông bảo: “Quân của Thiên triều đi đến đâu san bằng đến đó, không ai dám chống cự, trái mạng, chúa các người không rõ phận nước mà toan địch với ta sao?” Ông thản nhiên đáp: “Nếu nhà vua định đem điều nhân nghĩa mà khiến mọi người kính nể thì mới thuyết phục được chúng thần. Nếu đem binh lực ra dọa nạt thì dù nhỏ, nước tôi vẫn có binh hùng tướng mạnh, có núi non hiểm trở để ngăn chặn và tiếp đón binh thiên triều”. Thấy ông biểu dương tinh thần bất khuất của Dân tộc ta, Nguyên Thế Tổ mến phục. Do đó tránh được việc binh đao một thời. Khi trở về, ông được ca tụng là trang biện sĩ kỳ tài.

Chuyện ông Mạc Đĩnh Chi, Lưỡng quốc Trạng nguyên. Ông đỗ Trạng nguyên đời Trần Thánh Tông, đi sứ nhà Nguyên dưới đời Trần Hiến Tông và sang đời Trần Anh Tông, ông lại đi sứ sang Tàu. Do tranh tài văn chương với sứ thần Cao Ly, ông được vua Nguyên khuyên son phê tặng “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng trong thơ văn về bài văn tế chỉ với “bốn chữ nhất” mà ông nhận lịnh phải đọc, ông đã ứng xử nhanh và xuất khẩu thành bài Tứ tuyệt với bốn chữ nhất đó. Bài văn tế của ông được người đời truyền tụng như sau: «Vu sơn nhất đóa vân. Hồng lô nhất điểm tuyết. Thượng uyển nhất chi hoa. Quảng hàn nhất phiến nguyệt». Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!

Điều mà rất ít người biết là Mạc Đĩnh Chi cũng nổi tiếng về tài đánh cờ. Chuyện kể khi ông đi sứ xong, trên đường về nước, đi ngang qua nhà ông Trạng Cờ của Tàu ở Yên Kinh, ông mới xin vào giao đấu. (Vào lúc đó, đệ nhất danh kỳ gọi là “trạng cờ”, sau nầy đến thời dân chủ, ta mới dùng chữ “kỳ vương”). Ván cờ đánh bằng quân ngà suốt ba ngày và Mạc Đĩnh Chi đã thắng ông Trạng Cờ nước Tàu chỉ bằng một con chốt. Khi thua cờ, ông Trạng Cờ Tàu phải trao cho ông tấm bảng Trạng Cờ, nhưng ông từ tốn hoàn trả lại.

Nhân đây, người viết xin nhắc lại một chuyện vui hồi Đệ nhất Cộng hòa, khoảng gần cuối thập niên 50. Vào lúc đó, Kỳ vương Lý Chí Hải ở Hồng Kong sang Sài Gòn giao đấu, cũng bị bại dưới tay danh kỳ Việt Nam là Phạm Thanh Mai. Ván cờ Phạm Thanh Mai Việt Nam thắng Kỳ vương Lý Chí Hải Hồng Kong cũng chỉ bằng một con chốt, y như ván cờ của Mạc Đỉnh Chi trong chuyện đi sứ ngày xưa!

Chuyện ông Bùi Công Hành, ông tổ nghề làm lọng. Ông Bùi Công Hành quê xã Quất Đông, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, nay là Hà Tây. Ông là công thần đời vua Lê Thái Tổ, đến đời vua Lê Thái Tông, ông được sung sứ bộ sang nhà Minh. Tại Yên Kinh, các quan Minh có ý thử thách, mời ông lên một tòa lầu cao, nói là để duyệt kinh Phật và hội họp ngâm thơ rồi lén lút đi tất, rút luôn cả cái thang. Trên lầu chỉ có một tượng Phật và hai cây lọng dựng hai bên cửa lầu. Ông thản nhiên giương lọng ra, cặp vào nách mà lao mình xuống đất. Người Minh khen ngợi, hậu đãi ông rồi ân cần tiễn ông và sứ bộ ra về. Ông xin luôn hai cây lọng về nước làm kỷ niệm. Vua Lê Thái Tông bèn sai thợ noi theo kiểu lọng ấy mà chế nhiều lọng khác. Do đó nghề làm lọng đời sau tôn ông là thủy tổ.

Chuyện ông Phạm Đôn Lễ, ông tổ nghề trồng cói và đan chiếu. Ông là văn thần đời Lê Thánh Tông, đậu Trạng nguyên khoa Tân Sửu, niên hiệu Hồng Đức 12 (1481). Tương truyền khi ông đi sứ nhà Minh đến vùng Ngọc Hồ thuộc Quế Lâm, thấy dân trong vùng chuyên sống bằng nghề dệt chiếu, ông lưu tâm khảo sát học hỏi. Khi về nước, ông truyền bá cách trồng cói dệt chiếu, đem lại nguồn lợi quan trọng cho đất nước.

Chuyện ông Lê Công Hạnh, ông tổ nghề thêu. Ông quê ở tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây), là một đại thần, làm đến Thượng thư đời vua Lê Chiêu Tông. Khi đi sứ Trung Quốc, ông lưu tâm quan sát công nghệ nước ngoài, chú ý nhiều đến nghề thêu. Do đó, khi trở về nước, ông chỉ bảo nhân dân trong vùng Hướng Dương, Võ Lăng, Đào Xá học nghề thêu đan. Sau khi ông mất, nhân dân suy tôn ông làm ông tổ nghề thêu đan nước ta.

Chuyện ông Lê Như Hổ, tổ sư nghề làm dù. Ông quê xã Tiên Châu, huyện Tiên Lữ, nay thuộc tỉnh Hải Hưng. Ông đỗ Tiến sĩ đời Mạc Phúc Hải. Tương truyền khi đi sứ Trung Quốc, ông học được nghề làm dù và sau này người Việt xem ông là tổ sư của nghề làm dù nước ta.

Chuyện ông Nguyễn Thời Trung, ông tổ nghề thuộc da và đóng giày. Ông sinh vào thế kỷ 15, năm 19 tuổi ông đỗ Tiến sĩ, năm 35 tuổi ông đi sứ sang Tàu. Khi ngang qua thành phố Hàng Châu ở tỉnh Hà Nam, ông thấy có nhiều người làm nghề thuộc da đóng giày. Ông muốn học nhưng không ai chịu dạy. Ông phải cải trang làm người Tàu, rồi ngày ngày lân la trò chuyện với những người thợ giỏi. Do trí thông minh, chỉ sau một tháng, ông bắt nắm được kỹ thuật thuộc da đóng giày. Ông về làng Trúc Lâm, tập họp dân làng và dạy họ cách thuộc da trâu da bò và cách đóng các loại giày. Ông được tôn thờ là ông tổ của nghề thuộc da đóng giày Việt Nam.

Chuyện ông Lê Văn Phức. Ông là danh sĩ đời vua Gia Long, quê làng Hồ Khẩu, nay thuộc phường Bưởi Hà Nội. Ông đi công cán nhiều lần ở Tân Gia Ba, Quảng Đông, Lữ Tống. Năm Tân Mão (1831), quan nhà Thanh là nhóm Trần Khải bị bão đánh giạt thuyền vào vùng biển ta. Ông nhận lệnh triều đình làm trưởng phái đoàn sang Phúc Kiến giao trả nhóm ấy. Khi tới sứ quán, thấy biển đề Việt Nam Di Sứ Quán, ông nhất định không vào và nói: “Nước ta không phải là man di, nên ta không vào chỗ này”. Quan Thanh phải xóa dòng chữ ấy và phải xin lỗi và đề lại hàng chữ Việt Nam Quốc Sứ Quán Công Quán. Chừng ấy, ông mới tỏ vẻ thân thiện giao hữu, rồi lại làm bài Di biện, giải thích thế nào gọi là Man di cho họ bỏ thái độ khinh mạn. Tinh thần bất khuất và lập trường tranh đấu của ông khiến họ phải cảm phục.

Những bậc tiền phong về Tây học

Từ đầu thế kỷ 19, ngọn gió văn minh và học thuật đã xoay chiều, Dân tộc hướng về Tây Phương để học hỏi. Tuy triều đình nhà Nguyễn vẫn thủ cựu với chính sách “bế quan tỏa cảng”, nhưng các bậc thức giả Tân học với công sức cá nhân cũng cố gắng mang những điều hay đẹp về tô điểm cho Đất nước. Xin mời đọc những chuyện sau đây.

Chuyện ông Nguyễn Trường Tộ (tham khảo quyển Việt Nam Tinh hoa của Hương Giang Thái Văn Kiểm). Ông sinh năm 1828, vào năm Minh Mạng thứ 9, người tỉnh Nghệ An và mất năm Tự Đức thứ 24 (1871) hưởng thọ 41 tuổi. Thuở nhỏ ông học chữ Nho với cha ông rồi mở trường dạy học và được thiên hạ gọi là Trạng Tạ, là Thầy Lân. Ông được giám mục Pháp là Gauthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu) dạy tiếng Pháp, tiếng La tinh cùng những môn khoa học phương Tây và cho đi du lịch ở Hương Cảng và Tân Gia Ba. Sau ông lại được tháp tùng với Cố Hậu Gauthier sang Ý và Pháp. Trong mấy năm lưu lại trên đất Pháp, ông đã đi nhiều nơi, học hỏi và quan sát tường tận những nhà máy, cơ xưởng, học viện, xí nghiệp, bịnh viện, các trung tâm xã hội và văn hóa, các xưởng đóng tàu, xưởng dệt vải, xưởng đúc thép, hầm mỏ. Ông vừa quan sát, vừa ghi chép, vừa xin tài liệu, sách vở và dụng cụ nhẹ mang về nước. Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ rời Âu Châu trở về Việt Nam với hoài bão lớn là đem những điều học hỏi được để tham gia công cuộc canh tân và kiến thiết quốc gia. Năm 1866, ông dâng lên vua Bản Điều trần đề nghị cải tổ giáo dục, gởi sinh viên du học ngoại quốc, kỹ nghệ hóa công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, mở rộng đường bộ, thiết lập đường sắt, khuếch trương ngành thương mãi, cải cách quân đội, hành chánh, tài chánh và quan thuế.

Ông Petrus Trương Vĩnh Ký sanh ngày 6-12-1837 tại Cái Mơn thuộc tỉnh Trà Vinh ngày xưa. Ông nổi tiếng thần đồng từ thuở nhỏ. Năm 11 tuổi, ông được đưa đi học ở Chủng viện Pinhalu, gần thủ đô Nam Vang. Ông là chủng sinh nhỏ nhất, nhưng lại thay thầy thông dịch bài giảng tiếng La tinh sang tiếng Nhựt, tiếng Tàu, tiếng Thái cho các bạn học. Một năm sau, ông nói thêm được tiếng Lào, tiếng Miên, và tiếng Ấn độ. Ông đỗ đầu lớp và được đưa đi học ở chủng viện Penang, Mã Lai. Ở chủng viện Penang, ông cũng nêu cao tên tuổi người Việt. Trong khóa học nầy gồm 300 chủng sinh khắp châu Á, ông đã đỗ thủ khoa. Trong cuộc thi viết về 3 đề tài tôn giáo, văn chương, và khoa học bằng tiếng La tinh, ông cũng đoạt giải nhất và được Toàn quyền Penang thưởng 100 bảng Anh. Ông Petrus Trương Vĩnh Ký đã nêu danh thật rạng rỡ xứng với câu “Mang chuông đi đánh xứ người” không hổ danh là người nước Nam. Khi học xong, ông về nước với 11 thùng sách gồm đủ loại triết, sử, địa, khoa học, ngôn ngữ, văn chương, tôn giáo… Ông cũng đã mang về nước những hạt giống các loại cây ăn trái như sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, và bòn bon mà sau nầy đã nuôi sống biết bao “nhà vườn” ở đất Nam Kỳ Lục Tỉnh.

Chuyện ông Bùi Viện. Tác giả thi sĩ Huy Lực Bùi Tiến Khôi trong bài Ông Cao tổ của chúng tôi: Bùi Viện (do Nguyệt san Tự do Nhân bản, số 36 ngày 1-12-1988 tr. 95) đã viết như sau. Ông Bùi Viện sinh năm 1839 tại Thái Bình, Bắc Việt, đỗ cử nhân năm 1868 dưới triều vua Tự Đức. Trong chiến dịch dẹp loạn Cờ Vàng, Cờ Trắng, Cờ Đen, nhờ chiến thuật tấn công chớp nhoáng trong chức Tham tán quân vụ, ông đã giúp Hình bộ Thượng thư Lê Tuân tiễu trừ bọn giặc đem lại an ninh cho lãnh thổ Bắc Phần. Nhờ chiến công này, ông được cử đi mở mang cửa biển Ninh Hải, và ông đã biến làng đánh cá nghèo nàn Ninh Hải trở thành hải cảng phồn thịnh Hải Phòng ngày nay.

Ông lại được vua Tự Đức cử đi sang Hoa Kỳ 2 lần vào năm 1873 và 1875 để vận động với chánh phủ Hoa Kỳ để xin viện trợ chống Pháp xâm lăng. Lần đầu vì không mang quốc thư của vua, lần thứ nhì ông trở lại với quốc thư, nhưng chính sách Hoa Kỳ đã thay đổi. Trong 2 chuyến công du đó, ông đã thu thập những điều tiến bộ và đệ trình vua Tự Đức những Bản Điều trần để canh tân xứ sở. Năm 1876, vua Tự Đức phong ông chức Chánh Quản đốc Nha Tuần tải và Thương chính. Trong thời gian ngắn, ông xây dựng được lực lượng tuần dương hùng hậu gồm 200 chiến thuyền lớn và 2000 thủy quân được huấn luyện thiện chiến để tiễu trừ bọn giặc biển, bảo đảm an ninh cho thương thuyền, và thiết lập một hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển. Nhờ vậy việc thương mãi được phồn thịnh phát đạt.

Ông Ngô Đình Khả cũng là người tiếp nhận rất sớm nền học thuật Tây phương. Ông chánh quán Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Sinh trưởng trong một gia đình nho phong, ông được hấp thụ một cách thâm sâu nền nho học Khổng Mạnh, sau đó học thêm tiếng Pháp và cổ ngữ La tinh ở chủng viện. Ông lại được chọn đưa qua học ở Tổng chủng viện của Hội Thừa sai Paris tại đảo Pinang, Mã Lai. Nơi đây, ông đã tiếp xúc với chủng sinh các nước Tàu, Nhật, Thái… Vào thời đó, ông là một học giả hiếm có thông suốt hai nền văn hóa Đông Tây lại thêm những hiểu biết và kinh nghiệm về tình hình thế giới qua những năm du học. Năm Thành Thái thứ 8, tức là 1896, trường Quốc học được thành lập ở Huế. Ông Ngô Đình Khả được nhà vua giao phó điều khiển trường trong chức vụ Chưởng giáo (tức là Hiệu trưởng bây giờ). Ông giữ chức Chưởng giáo được 2 năm thì vua Thành Thái, nhà vua trẻ lúc đó 20 tuổi, vì mến phục tài đức và lòng cương trực của ông và cũng vì muốn dễ dàng tiếp xúc với ông, nên phong ông làm Thượng thư Phụ đạo Đại thần. Cho đến nay, Đất nước trải qua lắm cuộc bể dâu, nhưng với truyền thống tôn sư trọng đạo, Dân tộc sẽ mãi ghi nhớ Ngô Đình Khả là vị Hiệu trưởng đầu tiên của ngôi trường trung học cố cựu nhất nhì ở Cố đô Huế của nước Việt Nam theo tân học. Lẽ nào chúng ta lại không tôn vinh ông!?

Liên Xô, thiên đường giả dổm của HCM

Có rất nhiều người thiết tha với tiền đồ Dân tộc cứ mãi hối tiếc giá mà Trường Thuộc địa của Pháp ở Paris thu nhận Nguyễn Tất Thành làm học viên để ông trở thành viên chức Thuộc địa Đông Dương và nhất là Đảng Cộng sản Pháp không tặng cho Nguyễn Ái Quốc 1000 quan để ông làm lộ phí đi Mạc Tư Khoa dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (Krestintern) và dự Đại hội V của Đệ tam Quốc tế (Komintern), và còn biết bao điều hối tiếc khác nữa… Nhưng lịch sử khắc nghiệt lại không chìu lòng người Quốc gia yêu nước! HCM với tiếm danh Nguyễn Ái Quốc đã có phương tiện đến Liên Xô để chuyên tâm học nghề làm Cộng sản, học chủ nghĩa Mác Lê, học nghề tình báo cùng những phương pháp xách động chính trị, v.v… ở Đại học Phương Đông, trường Lenin và Học viện Stalin!

HCM đã đến Liên Xô cả thảy ba lần, lần đầu 1923-1924, lần hai 1927-1928, và lần thứ ba 1934-1938. Lần sau cùng, ông lưu lại đó hơn 4 năm. Khoảng thời gian 4 năm đó cũng nằm trong đối tượng nghiên cứu của tác giả Sheila Fitzpatrick trong quyển Everyday Stalinism (tạm dịch Cảnh thường ngày dưới chế độ Stalin). Bà Sheila là giáo sư giảng dạy môn sử hiện đại nước Nga ở Đại học Chicago. Là học giả uyên thâm có thẩm quyền về sử nước Nga trong giai đoạn đó, bà còn là tác giả quyển Cuộc Cách mạng của Nga, những nông dân của Stalin (The Russian Revolution, Stalin’s Peasants) và nhiều bài và sách khác nữa viết về nước Nga. Hãy xem xã hội Nga tệ hại như thế nào và HCM đã học hỏi được gì trong một xã hội thối nát như vậy! Trước hết xin đọc lại Lời giới thiệu của Lão tướng Đệ tứ Hoàng Khoa Khôi viết cho quyển Cuộc Cách mạng đã bị phản bội của Trotsky (Xem lại Chương 6: HCM, Con vẹt của Stalin). Ở đây, xin chép lại ít nhiều: “Để thiết lập nền độc tài một đảng, quyền lực một lãnh tụ, Stalin và đẳng cấp quan liêu đã thi hành luật lệ và các biện pháp thu hẹp quyền dân chủ. Thanh niên bị tước đoạt quyền dân chủ. Trí thức, văn nghệ sĩ bị bịt mồm, bịt miệng. Dân chúng bị kiểm soát từng lời nói, ‎‎ý nghĩ, việc làm. Xã hội đầy rẫy những kẻ nịnh hót, tham ô, đầu cơ, trục lợi. Bọn hãnh tiến ngoi lên. Người trung thực bị trù dập. Đảng và nhà nước lựa chọn những người đại diện cho mình không lựa chọn theo khả năng mọi người mà chỉ dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất: trung thành với Stalin và trung thành với Đảng. Kết cục: chỉ lựa chọn một lũ người cơ hội và giả dối”.

Về mặt chính trị, đó là một xã hội không có tự do dân chủ như trên đã diễn tả. Về mặt xã hội, trong quyển Cảnh thường ngày dưới chế độ Stalin dầy 288 tr., Sheila đã diễn tả một xã hội đốn mạt, đầy thói hư tật xấu như sau (tr. 40): “Thời Nga Xô Viết trong thập niên 1930, người dân cố gắng sống bình thường trong thời đại bất bình thường, một thời đại quái lạ đến phi thường. Đó là một xã hội mà những từ “mua, bán” đã biến mất trong ngôn ngữ hàng ngày. Thí dụ: Một người con nói với mẹ: “Mẹ ơi, hôm nay con chụp được một ổ bánh mì!”. Một người khoe với bạn: “May quá! Tao vừa vớ được một gói đường!” Hoặc là: “Sáng hôm qua tao xớt được một t‎í bơ!” Có khi phải sắp hàng suốt đêm trước cửa hàng mậu dịch, để sáng hôm sau tới giờ mở cửa, mới giật được một cái áo! Người dân đi ngoài đường luôn mang theo một giỏ lưới, khi gặp thiên hạ sắp hàng chờ mua thì vội đứng nối đuôi, hỏi thăm người đứng trước: “Họ liệng ra, họ quăng ra, họ tống ra cái thứ gì vậy?”.

Trong kho tàng thần thoại nước Nga ngày xưa có chuyện “Chiếc khăn trải bàn mầu nhiệm”. Chiếc khăn ấy có phép mầu nên mỗi khi trải khăn lên bàn, lập tức món ngon vật lạ cùng rượu qu‎ý hiện ra như yến tiệc linh đình đúng theo ‎ý muốn của chủ nhân. Đó là chuyện cổ tích đời xưa. Nhưng đến thời xã hội chủ nghĩa Liên Xô, chúa tể Stalin đã ban phát cho các Quan chức đỏ, những đàn em của ông, mỗi người được một “Khăn trải bàn mầu nhiệm” như vậy (Chương 4, tr.89 sđd). Ý sử gia Sheila ‎muốn nói đến những đặc quyền đặc lợi mà Stalin đã ban phát cho phe đảng, làm cho hố cách biệt giàu nghèo càng sâu thêm và phá nát tinh thần dân chủ và bình đẳng của Cách mạng Tháng Mười! Hãy xem dưới thời Stalin, những “kolkhozniks” (tiếng Nga là “nông dân”) đối phó ra sao với bánh mì là món ăn quan trọng hàng ngày. Xin trích dẫn (tr.43 sđd): “Từ thị trấn Penza, một người mẹ thư cho con gái: “Chuyện bánh mì ở đây thật hỗn loạn quá sức. Nông dân phải ngủ hàng trăm hàng ngàn ngoài cửa hàng suốt đêm, có người ở thật xa 200 cây số cũng mò tới, thật không thể diễn tả nổi. Trời lạnh dưới không độ, có bảy người ôm bánh mì về nhà mà chết cóng dọc đường”. Trong nhật k‎ý của một công nhân ở Urals: “Muốn có bánh mì bạn phải sắp hàng lúc 1 hay 2 giờ khuya, đôi khi còn sớm hơn thế nữa, và rồi phải đứng đó chờ 12 tiếng đồng hồ”. Năm 1940, ở thị trấn Alma-Ata, có bản tường trình của CA rằng: “Trước các cửa hàng bánh mì, người ta sắp hàng dài khủng khiếp trọn cả ngày và trọn cả đêm nữa. Bao giờ cũng nghe tiếng la hét, cãi cọ, than khóc. Ấu đả luôn luôn xảy ra!”

Đó là một xã hội không tạo được hạnh phúc cho từng gia đình nên “số vợ chồng ly dị xảy ra nhiều đến độ thành cơn dịch, Dịch ly dị (tr.139 sđd), và vì gặp cơn khan hiếm nhà cửa, nên có những cặp vợ chồng đã ly dị rồi mà phải ép lòng chia nhau sống chung trong căn phòng cũ. Do đó mà đấm đá luôn xảy ra!” Tác giả Sheila viết thêm (tr. 151 sđd): “Vì gia đình tan nát, nên số trẻ em bụi đời phạm pháp tăng quá nhanh đến mức báo động, gây tệ nạn xã hội trầm trọng. Klim Voroshilov, Ủy viên Chính trị Bộ kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, đã báo động như vậy và đặt câu hỏi: “Tôi không hiểu tại sao chúng ta không bắn bỏ những đứa du thủ du thực đó đi cho rồi! Chúng ta đâu có cần phải chờ cho chúng lớn lên thành những tướng cướp nguy hiểm!” Stalin đã nhất trí với Voroshilov và đã ban hành sắc luật ngày 7-4-1935 cho phép xử trẻ em 12 tuổi như người lớn! Như thế, chúng ta phải hiểu trẻ em vị thành niên mà phạm tội thì cũng có thể bị tử hình y như những người trưởng thành!”. Đấy, lòng ưu ái của Stalin đối với nhi đồng Liên Xô!

Bất cứ người Nga nào sống qua thập niên 1930 đều có những k‎ý ức hãi hùng về giày: nào đi mua sắm giày, nào mang giày đi sửa hay tự sửa tại nhà, hay bị mất giày! Tác giả Sheila tường thuật (tr. 45): “Do sự sát hại hàng loạt trâu bò trong thời gian tập thể hoá nông nghiệp cho nên da đóng giày khan hiếm. Năm 1931, nhà nước ra lịnh cấm tư nhân, tức là những thợ khéo, không cho họ chế tạo giày. Nhân dân phải mua giày của công ty nhà nước. Mua được giày đã là vất vả rồi, phẩm chất giày lại xấu, có khi giày mới mang lần đầu đã bị bung! Có tờ trình của Mật vụ NKVD: “Tại một cửa hàng mậu dịch ở khu trung tâm Leningrad, số người chờ mua giày quá đông đến 6000 người làm tắt nghẽn giao thông và kính cửa hàng bị đập vỡ!”

Giày người lớn đã thế, chuyện giày trẻ con còn tệ hại hơn nhiều! Trong sách của Sheila (tr. 138) có một bức hí họa nội dung rất “hàm súc”. Bức hí họa vẽ cảnh “một người cha đang đi đôi giày “há mồm lòi hàng đinh lởm chởm” dẫn đứa con đi chân đất. Dọc đường gặp bạn, người cha chỉ chiếc giày há mồm của mình và phân trần: “Đấy, đi mòn cả ba đôi rồi đấy, mà cũng không tìm đâu ra giày cho thằng bé!”

Bạn đọc thân mến ơi, chuyện “Thiên đường Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô” ra sao thì ra, thế nào thì thế, mặc kệ họ, đó là chuyện của người Nga, can chi đến người Việt mình, chúng ta đâu có cần đếm xỉa tới! Nhưng khốn thay! “Cha già Dân tộc HCM” đã sống trên đất Nga nhiều năm, “đã đi hết biển”, và khi trở về cố hương “làm việc”, đã dùng miệng lưỡi Trần Dân Tiên rao bán “Món hàng Thiên đường Xã hội chủ nghĩa của Liên Xô” cho Dân tộc. Đây, lời rao hàng của “Bác”, miệng lưỡi của “Cha già Dân tộc” (sách Trần Dân Tiên, tác giả Minh Võ trích lại trong HCM, Nhận định tổng hợp, tr. 167):

“Lúc mới đẻ, mỗi đứa trẻ (ở Liên Xô) được giúp tiền may quần áo, được uống sữa lọc trong chín tháng không mất tiền. Mỗi tuần thầy thuốc đến thăm nhiều lần… Những đứa trẻ ngoài chín tháng có thể gửi ở những vườn trẻ, có thầy thuốc chăm sóc… Có thể gửi trẻ vào vườn cho đến tám tuổi. Đến tám tuổi, trẻ em bắt đầu đi học. Học sinh mỗi buổi sáng được một bữa ăn uống không mất tiền. Ngoài trường học thì có đội thiếu nhi chăm sóc các em… Nói tóm lại, cái gì tốt nhất đều để dành cho trẻ em. Nếu nước Nga chưa phải là thiên đường cho tất cả mọi người thì nước Nga đã là thiên đường của trẻ con…”

Như thế, HCM đã rao bán món hàng “Thiên đường Xã hội chủ nghĩa Liên Xô” cho quá nhiều người! Nhưng đó chỉ là hàng giả! HCM đã dối gạt cả Dân tộc, dối gạt cả thế giới, dối gạt cả những văn nô thân cận nhất của mình! Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư lớp Sơ đẳng ngày xưa (tức là Lớp Ba trường Cấp một bây giờ) có truyện Anh Nói Khoác mà người viết thấy cần phải chép lại nguyên văn với hy vọng nối được nhịp cầu thông cảm giữa những người thuộc lớp tuổi của Vũ Thư Hiên, Bùi Diễm, hay Nguyễn Chí Thiện với những bạn đọc thế hệ trẻ sau nầy. Các bạn trẻ ơi, câu chuyện Anh Nói Khoác trong sách xưa như sau:

“Tí và Sửu đi qua một đám ruộng bí. Tí chợt trông thấy quả bí to, nói rằng: “Chà! Quả bí đâu mà to như thế kia!” Sửu có tính hay nói khoác, cười mà bảo rằng: “Thế đã lấy gì làm to. Tôi đã từng thấy những quả bí to hơn nhiều. Có một bận, thật mắt tôi trông thấy một quả bí to bằng cả một cái nhà ở trước mặt ta kia kìa”. Tí nói: “Thế đã lấy gì làm lạ. Tôi còn nhớ một bận tôi trông thấy cái xanh đồng (tức là nồi đồng) to vừa bằng cả cái đình làng ta ấy”. Sửu hỏi: “Cái xanh ấy dùng để làm gì mà to quá như thế?”—“À, bác không biết à! Cái xanh ấy dùng để luộc quả bí của bác vừa nói ấy mà”. “Sửu biết Tí chế nhạo mình, mới nói lảng ra chuyện khác”. “Nói điều gì phải cho đúng với sự thật, chớ nên bịa đặt ra mà người ta chê cười”.

Câu chuyện “trái bí của anh Sửu lớn bằng cái nhà” giống y như chuyện HCM nói về “Thiên đường Xã hội chủ nghĩa Liên Xô”: Bác Hồ cũng là người nói khoác như anh Sửu! Nhưng anh Sửu chỉ nói khoác với anh Tí mà thôi và anh Tí không bị gạt! Còn HCM đã dối gạt không biết bao nhiêu người thuộc lớp tuổi ông! Và không biết bao nhiêu người của thế hệ trẻ sau nầy! Điều tệ hại là những người đã bị HCM dối gạt, bị mê hoặc rồi chính họ lại đi dối gạt những người khác nữa. Rồi cứ thế, lời dối gạt của HCM, lời rao bán hàng giả dổm ấy cứ lan truyền từ làng này sang làng nọ, từ huyện này sang huyện khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, chẳng mấy chốc cả Đất nước toàn là những kẻ lừa gạt xảo trá vì đã thấm đậm Tư tưởng HCM. Điều vô cùng tệ hại là trong Dân tộc có biết bao người đã nghe theo lời HCM đi xây dựng Thiên đường Xã hội chủ nghĩa theo kiểu Liên Xô, xây dựng bằng mã tấu, dao găm, súng đạn. Than ôi, trong số đó cũng có rất nhiều người có lòng yêu nước trong sáng đáng kính trọng! May mắn thay, trong Đại khối Dân tộc cũng có vô số người sáng suốt biết Thiên đường Xã hội chủ nghĩa Liên Xô chỉ là hàng giả dổm, không xài được phải vất bỏ, nên cố sức chống lại. Đấy là những người quốc gia yêu nước chân chính, đi đúng định hướng trên con đường cứu quốc và kiến quốc, nên họ đã tạo thành Lực lượng ngăn chận Làn sóng đỏ từ phương Bắc, và họ đã mang cho người dân ở phương Nam những ngày tháng năm đẹp đáng sống của thế kỷ, khởi từ ngày chấp chánh của Cựu hoàng Bảo Đại với danh vị Quốc trưởng, qua Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô Đình Diệm, và Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đến ngày 30-4-1975 thì chấm dứt.

Người thuyền nhân đầu tiên của Dân tộc

Đó là chuyện Hoàng tử L‎ý Long Tường cùng 200 người thuộc Hoàng tộc nhà Lý đã vượt biên bằng 3 chiếc thuyền vào năm 1226 để tránh sự sát hại của Trần Thủ Độ. Lúc đó, Hoàng tử mới lên sáu. Chuyện kể khi đến biển Đông gặp bão, một chiếc thuyền bị bão thổi giạt đi, hai chiếc còn lại đến được miền đất cực nam của nước Cao Ly. Vào lúc đó, đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn rất hùng mạnh, đi xâm lăng khắp nơi, và xây dựng Đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử, trải dài từ Đông sang Tây chiếm đóng Trung Quốc, Nga, Hung Gia Lợi, Ba Tư, và miền Bắc nước Cao Ly. Những thuyền nhân nhà Lý đã may mắn đến được vùng đất phía Nam còn thuộc quyền vua Cao Tông vương triều Cao Ly. Nhà vua thương cảm và qu‎ý trọng Hoàng tử lưu vong nên cho phép các thuyền nhân Việt Nam được định cư tại đấy.

Sau 20 năm định cư trên đất Cao Ly, Hoàng tử Lý Long Tường lớn lên thành một thanh niên tuấn tú, văn võ song toàn, vừa có sở học uyên thâm, vừa là một vị tướng có tài thao lược. Năm Qu‎ý Sửu 1253, L‎ý Long Tường đã tạo được chiến công to lớn. Ông đã chỉ huy đoàn quân Cao Ly đánh đuổi quân xâm lược Nguyên Mông, thu phục bờ cõi cho vương quốc Cao Ly. Hoàng tử được vua phong tước hiệu Hoa Sơn Tướng quân, được cấp đất rộng 30 l‎ý để làm ấp Hoa Sơn, có bia đá viết Hoa Sơn Quán với ba chữ lớn “Thụ Hàng Môn” của vua ban. Con cháu của Hoàng tử cũng được phong tước hiệu và đã đóng góp công nghiệp xuất sắc. Ngày nay du khách Việt đến Nam Hàn bằng đường hàng không, trên xa lộ từ phi trường vào thủ đô Hán Thành, xin hãy chiêm ngưỡng tượng đài một vị tướng oai nghiêm trên mình ngựa. Đó là Bạch mã Tướng quân L‎ý Long Tường, người thuyền nhân sáu tuổi năm nào của nước Việt đã trở thành Anh hùng Dân tộc của nước Cao Ly. Các bạn thuyền nhân cùng anh Trần Đông thân mến, người sáng lập Văn khố Thuyền nhân ở Melbourne, Úc Châu, phải chăng Hoàng tử L‎ý Long Tường thật xứng đáng được tôn vinh là Người Thuyền nhân đầu tiên của Dân tộc?

Đi từ Đình Bảng, lại trở về Đình Bảng

Hoàng tử L‎ý Long Tường vượt biên năm 1226, đến năm 1994, tức là 768 năm sau, người cháu đời thứ 26 của Hoàng tử là L‎ý Xương Căn (Rhe Chang Cun) đã về thăm làng Đình Bảng, Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc để lễ bái tổ tiên gồm tám vị vua triều L‎ý. Ông L‎ý Xương Căn hiện là giám đốc công ty điện khí ở Nam Hàn. Ông đã thắp hương lễ bái tám vị vua triều L‎ý và ghi vào sổ vàng lưu niệm những dòng chữ thật xúc động:

“Kính thưa qu‎ý vị Tiên vương. Hôm nay, con là L‎ý Xương Căn, hậu thế của các vị về đây tưởng niệm công đức của qu‎ý Tiên vương. Với nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi cội nguồn, dòng giống, rồi đây cháu chắt của các vị sẽ lại tìm về nơi đây, được vui mừng khấn vái trước anh linh của qu‎ý Tiên vương. Nỗi lòng tưởng niệm đó cũng là đạo l‎ý đương nhiên đối với tổ tiên và hơn nữa xin cầu nguyện qu‎ý Tiên vương phù hộ cho để quan hệ hữu hảo giữa hai nước được sâu dày hơn nữa. Với tấm lòng cảm động, xúc động không sao ngăn nổi, hôm nay về thăm, cháu chắt cảm nhận niềm vinh quang, vinh dự cũng thấy ấm lòng đối với cuộc hành hương lẻ loi này. Cháu chắt xin thề không bao giờ làm những điều gì tổn thương đến vong linh cao qu‎ý của các Tiên vương bằng cả tinh thần và sứ mạng đặc biệt”.

Chuyện bác sĩ Ngãi về nước

Thật đẹp vô cùng, chuyến trở về cố hương của Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi! Người cựu Trung úy Quân y của Quân lực VNCH năm 1975, sau ba năm học tập cải tạo trong ngục tù CS, vượt biển tìm tự do, và tiếp tục theo đuổi y khoa ngành tim mạch ở Hoa Kỳ. Năm 1999, với vinh dự là một y sĩ chuyên khoa xuất sắc trong ngành tim mạch, với giấy mời của Bộ Y tế CSVN, và với số dụng cụ y khoa dùng trong nghề trị giá khoảng một triệu đôla do các công ty sản xuất ở Hoa Kỳ hiến tặng, BS Nguyễn Xuân Ngãi về nước để chỉ dẫn các cách trị liệu bịnh nghẹt tim như thông tim, nông tim, hay đặt “stent” cho 50 y sĩ trẻ VN. Vào thời gian đó, Việt Nam không thể chữa bịnh nghẽn tim như các nước Thái Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn hay Đài Loan, mà số bịnh nhân trong nước lại quá cao, số tử vong rất lớn. Những cán bộ cao cấp trong Đảng mỗi lần bị nghẽn tim là phải đi Singapore chữa trị tốn kém hai, ba chục ngàn đô la, còn dân nghèo thì đành chịu chết. Cần biết BS Ngãi là Phó Chủ tịch đảng Nhân dân Hành động, đảng danh là “Vạn Xuân”, và ông chấp nhận về nước theo lời mời của Bộ Y tế vì mục đích nhân đạo và vì lòng yêu nước muốn đào tạo chuyên viên trị bịnh nghẽn tim cho nước nhà. Chuyến về nước nầy, ngoài việc huấn luyện ra, ông quyết tâm không làm điều chi chạm đến chính trị. Thế mà ông cũng bị bắt!

Khoá huấn luyện dự trù kéo dài từ ngày 23-2 đến 6-3-1999. Theo học trình là như vậy, nhưng đến ngày 28-2, BS Ngãi bị công an đến khách sạn bắt lúc 11 giờ tối. Chúng thẩm vấn ông 3 ngày, mỗi ngày 2 buổi. Chúng luân phiên hỏi cung ông, ép ông phải chấp nhận chế độ 1 đảng, phải từ bỏ đảng Nhân dân Hành động, và phải chấm dứt chống Cộng khi về Mỹ. Ba, bốn công an luân phiên ép ông phải k‎ý nhận những điều khoản đó, nhưng ông quyết không k‎‎ý. Chúng bảo ông vi phạm điều 73 của bộ Hình luật, tức là điều “Âm mưu lật đổ chính quyền”. Phạm luật nầy, luật của Việt Cộng, có thể bị phạt tù 10 năm cho tới tử hình. Ông bảo ông không biết cái luật đó là cái gì và ông cần Luật sư biện hộ. Trong lúc thẩm cung, ông cũng có dịp tranh luận với chúng. Bàn về chế độ đa đảng và độc đảng, ông bảo rằng ông sống ở Hoa Kỳ, bên đó có nhiều đảng, và đảng Cộng sản cũng được quyền hoạt động. Ông bảo rằng ông thích đa đảng đa nguyên.

Sau ba ngày bị công an thẩm vấn, cán bộ Sở Di trú đến khách sạn, lịch sự trao trả passport cho ông và báo cho ông biết “Nhà nước cho phép ông trở lại Hoa Kỳ sớm hơn dự định”. Chúng khéo léo tránh chữ “Trục xuất” và cẩn thận quay phim cảnh trao trả passport và cảnh ông bước lên máy bay. Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, chuyên viên bịnh tim mạch, nhân tài của Đất nước, có “Bùa hộ mạng” là lá thư mời của Bộ Y tế. Nhưng sự can thiệp thô bạo của công an đã cướp mất đi thời gian huấn luyện qu‎ý báu của ông, thời gian học tập của các y sĩ trẻ, và cũng là thời gian xây dựng và phát triển của toàn Dân tộc và Đất nước. Trong 6 ngày ngắn ngủi, ông đã trao ban l‎ý‎ thuyết cho 50 y sĩ trẻ, nhưng về phần thực hành, ông chỉ cho thực tập 8 y sĩ mà thôi, vì phòng giải phẫu không thể chứa hơn số đó. Thật đáng tiếc!

Khoá huấn luyện chấm dứt ngang và BS Ngãi “được phép” về Hoa Kỳ sớm hơn dự định, tuy vậy ông cũng đã đào tạo được 8 y sĩ trẻ vừa l‎ý thuyết lẫn thực hành. Sau 6 ngày làm việc chung, ông có nhận xét rằng các anh em y sĩ trẻ VN rất nhiệt tình, hăng hái, và rất giỏi. Họ học rất nhanh, đến nỗi người Mỹ đi theo ông cũng thán phục và nói “Bên Mỹ không được như vậy đâu”. Người dân Việt tài giỏi như vậy, cớ sao Đất nước vẫn còn nghèo đói và lạc hậu!? Câu hỏi này, xin tất cả bạn đọc thế hệ trẻ hãy trả lời hộ. Người viết chỉ xin phép BS Ngãi được mượn ‎đảng danh VẠN XUÂN của ông để nói lên lời ước mong và nguyện cầu cho “Bầy quạ đen” sớm bay đi và “Đàn én xuân” rủ nhau về mang VẠN mùa XUÂN thanh bình thịnh vượng cho Dân tộc và Đất nước!

L‎ý Lê Trần và còn ai nữa…

Như lá rụng về cội, những chuyến về thăm cố hương luôn luôn là những câu chuyện thật cảm động, làm ấm lòng người. Như chuyện L‎ý Xương Căn, hậu duệ của L‎ý Công Uẩn và L‎ý Long Tường, từ Hàn Quốc trở về cúng bái tổ tiên ở làng Đình Bảng, tỉnh Hà Bắc, Việt Nam, sau hơn bảy trăm năm lưu lạc quê người. Để thêm phần cảm động, chuyện kể rằng L‎ý Xương Căn còn học lại tiếng Việt cho chuyến về thăm được ấm cúng!

Như chuyện Bác sĩ chuyên khoa tim mạch Nguyễn Xuân Ngãi về cố hương để hướng dẫn các y sĩ trẻ Việt Nam cách trị liệu bịnh nghẽn tim. Nhưng trái lại, chuyến trở về cố hương để “làm việc” của HCM thật vô cùng bỉ ổi, đáng nguyền rủa. HCM đã tự chuẩn bị cho mình và Định mệnh khắc nghiệt đã góp thêm phần đào luyện HCM thành tên Đại đồ tể lưu manh hiếu sát nhất trong lịch sử Việt Nam. Xin nhắc lại, ngay những ngày tháng đầu tiên vừa về đến Đất nước thân yêu, HCM, kẻ đã đi hết biển đó, chưa khởi binh đánh Pháp một trận nào, mà đã mở màn sát hại hơn 20.000 người trong Lễ tế cờ. Trong số nạn nhân đó, Hòa thượng Thích Đức Hải, bậc thầy tôn kính của Hòa thượng Thích Quảng Độ, hẳn là người Phật tử đầu tiên bị sát hại. Chủ tịch HCM giết người, Hòa thượng Thích Đức Hải bị giết! Nhưng vấn đề không phải đơn giản như vậy rồi cho thông qua. Phải nhìn vào cán cân quyền lực hay tương quan lực lượng giữa Hòa thượng Thích Đức Hải đối sánh với Chủ tịch HCM, ta mới thấy rõ bản chất vô cùng man rợ của bạo lực! Một bên ví như “con thỏ hiền không trốn chạy”, còn bên kia là “con hổ đói đang hung hăng đi tìm mồi”; một bên thì “lực nhẹ như tơ”, còn bên kia thì “một khối nghìn cân nặng”. Nói cho rõ hơn, quyền lực của Sư phụ Thích Đức Hải ngày 19-8-1945 lúc Ngài bị sát hại là bao? Than ôi! Chỉ là mảnh tâm Phật từ bi bác ái, với lời kinh tiếng kệ, và với người đệ tử Thích Quảng Độ, 18 tuổi, chỉ biết đứng khóc nhìn người ta giết thầy mình! Còn lực lượng của Chủ tịch họ Hồ là bao nhiêu? Xin trả lời: “Vô biên! Ở ngoài nước, là sức mạnh của toàn khối Cộng sản do Stalin lãnh đạo, đã chiếm Đông Âu, và đang trên đà chiếm Trung Hoa. Ở trong nước, là “bầy đàn” những kẻ đã bị HCM mê hoặc, xem tôn giáo là thuốc phiện cần phải diệt trừ, và nhắm mắt lao mình vào bạo lực, than ôi, chỉ để xây dựng Thiên đường Xã hội chủ nghĩa giả dổm theo kiểu Liên Xô! Ở ngoài nước và ở trong nước là như thế, còn trong con người HCM, là “mối thù cha bị cách chức cần phải trả” cộng với tâm địa hiếu sát, ty tiện, đầy mưu lược gian xảo, đểu cáng, nhìn vào Dân tộc thấy ai khác chính kiến đều cho là kẻ thù, gán cho họ tiếng “Việt gian, Phản động, Bán Nước” là giết họ một cách dễ dàng!”

Trong cơn mù loạn của chủ nghĩa, từ lúc Cơn bão Mùa thu 1945 dày xéo Dân tộc, lớp Bụi bặm HCM đã dậy lên, bay dầy đặc mù trời, và phủ màu ô uế tang tóc lên khắp trường học, chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, lăng miếu, báo đài… lên khắp cả Đất nước thân yêu. Trong Thiên đường mù bám đầy bụi HCM đó, đã có những vị Anh hùng với tấm lòng hy sinh vì Nước vô biên, “đã đi hết biển”, mà quyết tâm về cố hương làm công việc “tẩy trần”, quyết tâm quét sạch bụi HCM cho Đất nước. Đó là những tên tuổi Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, Mai Văn Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hoàng Cơ Minh, Lê Hồng, Trần Thiện Khải, Võ Hoàng, Võ Đại Tôn, Vũ Hoài, Hoàng Duy Hùng, Lý‎ Tống, đó là những “L‎ý Lê Trần và còn ai nữa…” (lời nhạc bản Tình ca của nhạc sĩ Phạm Duy). Nhưng Bụi bặm HCM đã phủ ngập hết mọi nơi rồi! Các vị anh hùng kể trên về chỉ để khai đường mở lối, bởi lẽ công việc quét sạch Bụi bặm HCM phải là công tác chung của cả Dân tộc. Tám mươi lăm triệu người, ai ai cũng phải tự mình quét bụi cho mình, cho nhà mình, cho làng nước mình, kể cả những vị tu hành mặc áo chùng thâm và cà sa, các vị cũng phải tự phủi Bụi HCM bám trên vạt áo tu của mình trước để làm gương! Dù thành hay bại, về nước để quét sạch Bụi HCM cho Dân tộc và Đất nước, tên tuổi của các vị Anh hùng kể trên thật xứng đáng được Tổ quốc vinh danh!

Sydney, 4-2-2009
Mùa Phá tòa Khâm sứ Hà Nội và chùa Phật Tích Bắc Ninh
Nhóm Tâm Việt Sydney

Chương 10
Hồ Chí Minh, Chính Trị Gia Tồi Tệ

Chuyện HCM là Danh nhân Văn hóa thế giới?

Vở bi hài kịch có ba vai. Vai thứ nhất là đảng Cộng sản Việt Nam. Vai thứ hai là Cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc. Vai thứ ba cũng là vai chính là Cộng đồng Người Việt tỵ nạn khắp nơi trên thế giới, chính yếu là ở Pháp, và đại diện cho cả Dân tộc trên 80 triệu người. Vở kịch có hậu vì đã đem thắng lợi về cho Dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam thất bại vì Chủ tịch HCM không được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là “Danh nhân Văn hóa thế giới”!

Màn thứ nhất: Do sự vận động của đảng CS ở Hà Nội, với sự tiếp tay của vài nước XHCN ở Đông Âu, vào tháng 11-1987 Cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc biểu quyết sẽ làm Lễ tưởng niệm và vinh danh HCM như một Nhà Văn hóa Thế giới nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của ông. Buổi lễ dự trù vào ngày 12-5-1990 tại trụ sở UNESCO của LHQ đặt tại số 7, Place de Fonteney, Paris, Pháp.

Màn thứ hai: Xuất hiện vai chính là Cộng đồng Người Việt tỵ nạn ở Paris. Ủy ban Tố cáo Tội ác HCM được thành lập ở Paris, là nơi đặt trụ sở của UNESCO. Tổng thơ k‎ý Ủy ban là Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần. Ủy ban tích cực vận động người Việt và các báo Việt ngữ hải ngoại viết thư cho UNESCO vạch trần tội ác của HCM. Ở Pháp, nhóm Đường Mới gồm 10 học giả có uy tín (7 Việt, 2 Hoa Kỳ, và 1 Pháp) đã xuất bản và phát hành quyển HCM, sự thật về thân thế và sự nghiệp bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Anh. Ở Úc Châu, nhà mô phạm và nhà báo Nguyễn Thuyên phát hành quyển Bộ mặt thật của HCM trước Tòa Đại sứ Việt Cộng tại Canberra đúng ngay ngày Quốc hận 30-4-1990 (Quyển sách là tổng kết loạt bài “Vạch mặt HCM” viết từ năm 1987 đăng trên tuần báo Chuông Sài Gòn). Những quyển sách đó đã góp phần rất lớn chứng minh HCM là tội đồ của Dân tộc. Giáo sư Lê Hữu Mục với tác phẩm HCM không phải là tác giả Ngục Trung Nhật K‎ý đã chứng minh HCM đạo văn của một người bạn tù.

Vào thời điểm đó, số thuyền nhân vượt biển tìm tự do đã lên đến con số chín trăm ngàn, không kể hàng trăm ngàn người tử nạn trên biển cả. Rồi Bức tường ô nhục Bá Linh sụp đổ: Tường nhân Đông Đức theo gương Thuyền nhân Việt Nam đổ xô tìm tự do ở phương Tây.

Cơ quan UNESCO, với tân Giám đốc là Frederico Mayor người Tây Ban Nha, cứu xét những sự việc kể trên và quyết định hủy bỏ việc đề cử HCM vào “Danh sách Danh nhân Văn hóa Thế giới”. UNESCO chỉ thuận cho đảng Cộng sản thuê một phòng tại trụ sở để trình diễn văn nghệ với điều kiện buổi trình diễn KHÔNG ĐƯỢC TREO HÌNH HỒ CHÍ MINH và không được tuyên truyền rằng HCM đã được UNESCO nhìn nhận là Danh nhân Văn hóa Thế giới.

Màn thứ ba: Đến đây xuất hiện kỹ sư Phương Nam Đỗ Nam Hải, một khuôn mặt trẻ kiệt xuất tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Trong bài Viết về Chủ tịch HCM (Quyển Hãy trưng cầu dân ý, bài viết năm 2001, sách xuất bản năm 2005, tr. 177), tác giả Phương Nam đã lật tẩy bộ mặt dối trá của đảng Cộng sản. HCM không được Liên Hiệp Quốc vinh danh gì cả, cả thế giới đều biết như vậy. Thế nhưng Đảng vẫn viết tài liệu giáo khoa dối trá, dạy cho học sinh lớp 7 rằng vào năm 1990, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chủ tịch, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc, tức UNESCO, đã ra một nghị quyết công nhận ông là Danh nhân Văn hóa Thế giới! Phương Nam dẫn chứng rằng trong tài liệu Giáo dục công dân dạy học sinh lớp 7 (Nhà Xuất bản Giáo Dục năm 1997, tr. 53) có một bài đọc thêm nhan đề Tinh hoa của Dân tộc Việt Nam góp phần vào Tinh hoa Thế giới, trong có đoạn: “Chủ tịch HCM là một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một Dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các Dân tộc vì hòa bình, dân chủ, và tiến bộ”. “Trích Nghị quyết UNESCO, sách đã dẫn”

Sách giáo khoa dạy học sinh lớp 7 mà đã láo lếu như vậy, cho đến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cũng lếu láo nói không thành có! Ông nguyên là Chủ tịch Ủy ban UNESCO Việt Nam, vào tháng 5 năm 2000, cũng viết bài ca ngợi Chủ tịch HCM là Danh nhân Văn hóa của Nhân loại! Đảng Cộng sản không muốn cho Dân tộc biết sự thật HCM không hề được UNESCO của Liên Hiệp Quốc công nhận là Danh nhân Văn hóa Thế giới. Sự thật đó là điều cấm kỵ! Tại sao? Phải chăng Đảng đã xô Dân tộc xuống giếng sâu, và Đảng chỉ muốn Dân tộc cứ ở mãi dưới đáy giếng, để khi nhìn lên chỉ thấy mảnh trời huyền thoại đẹp về HCM mà thôi!

Đảng tìm cách bảo vệ thần tượng của mình

Ướp xác xây lăng cho HCM chưa đủ, Đảng còn tìm cách bảo vệ thần tượng của mình. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, khi đám “Mây mù thế kỷ” bị trận bão Chân l‎ý Lịch sử thổi bay đi, lá bài HCM đã bị lật tẩy. Từ địa vị Cha già Dân tộc, ông bỗng rớt xuống thành nhân vật phản quốc, gian xảo, độc ác, đểu cáng, và khát máu nhất từ cổ chí kim, đã đánh phá giết hại Dân tộc tan tành và làm cho Đất nước “nghèo, nghèo, nghèo”! “Nghèo, nghèo, nghèo” xin lặp lại, đó là lối viết như nói chuyện của Nguyễn Văn Trấn, người đã từng tập kết ra Bắc theo HCM, đến khi về Nam đã mở mắt và đã than “nghèo” như vậy (Trong quyển Viết cho mẹ & Quốc hội). HCM là tội đồ của Dân tộc Việt Nam, phạm đủ thứ tội, nhưng làm đất nước nghèo chỉ là quản l‎ý yếu kém về kinh tế và không bài trừ được tham nhũng vì để cho đảng viên lộng hành, Tội lớn nhất của ông là TỘI PHẢN QUỐC BÁN NƯỚC CHO NGOẠI BANG!

Khi chế độ Liên Xô sụp đổ, các kho lưu trữ tài liệu tuyệt mật về Quốc tế Cộng sản ở nước Nga được mở cửa cho công chúng vào tham khảo. Trong tác phẩm Mây mù thế kỷ, tác giả Bùi Tín đã viết về sự nghiên cứu và phát giác của bà Quinn-Judge, người mà ông thân mật gọi là “Chị Ba Sophia” (tr. 135): “Bạn tôi ở Mát-xcơ-va cho biết, sau khi bà Quin-Giớt (Quinn-Judge) tiết lộ tài liệu lưu trữ về quan hệ vợ chồng giữa ông HCM và bà Nguyễn Thị Minh Khai, đã có một số nhà nghiên cứu (hoặc an ninh mật đội lốt nhà nghiên cứu?) từ Việt Nam sang đến kho lưu trữ để tìm cách lấy đi (lén bỏ vào túi?) hoặc mua (với giá cao bằng đô la) một số tài liệu “nhạy cảm nhất”.

Trong lá thư viết từ Paris gởi cho Bán Tuần báo Việt Luận (số ra ngày 23-5-2008), thông tín viên Nguyễn Thị Cỏ May, trong mục Paris có gì lạ không em, cũng như Bùi Tín, đã viết về quái chiêu “thủ tiêu tài liệu” của đảng Cộng sản như sau: “Trong một chương trình phát thanh thường lệ, đài phát thanh quốc tế Pháp RFI có loan tin Trung tâm Văn khố Mạc Tư Khoa hỏi xin bà Quinn-Judge một phóng ảnh bản tài liệu về HCM mà bà đã tìm được trong văn khố vì khi nhân viên sắp xếp lại thấy mất bản văn ấy. Trung tâm nhớ lại, sau khi bà Quinn-Judge rời khỏi trung tâm, chỉ có một phái đoàn Hà Nội, gồm nhiều công an, đến trung tâm xin vào tham khảo tài liệu”.

Chúng ta cũng như Bùi Tín và Cỏ May có thể tin được phái đoàn Hà Nội (gồm nhiều công an!) là thủ phạm ăn cắp tài liệu ở Văn khố Nga như bản tin RFI loan tải. Việc nầy không mới mẻ gì, vo tròn bóp méo lịch sử còn được, huống gì ăn cắp tài liệu để phi tang! Chủ tịch HCM gian xảo thì làm sao thành lập đảng Cộng sản lương thiện cho được! Chủ (tịch) nào, Đảng nấy mà! Theo tác giả Bùi Tín thì sau đó “một cán bộ quản thủ Văn khố lâu năm là Vladimir Chernous bị sa thải vì tham nhũng” và Văn khố được củng cố và tạm thời đình chỉ việc cho người nước ngoài vào khai thác tài liệu.

Để ôn cố tri tân: chuyện Ông Tô Hiến Thành

Như một thí sinh bị đánh rớt vì học lực kém cỏi, HCM không được vinh danh là Danh nhân Văn hóa Thế giới vì ông nào có sự nghiệp gì trong phạm vi văn hóa đâu để được bình bầu. Dù đảng Cộng sản cố gắng tô hồng chuốc lục cho ông, ông vẫn bị loại, ông bị đánh rớt về mặt văn hóa. Bây giờ, ta thử tìm hiểu xem trong địa hạt chính trị, HCM được đánh giá cao hay thấp. Ông có phải là chính trị gia tài ba hay không? Muốn vậy, ta phải xem xét cách dùng người của ông. Có một chuyện cổ rất lý thú về phép dùng người truyền tụng từ đời nhà Lý và được ghi chép lại trong quyển Quốc văn Giáo khoa thư lớp Sơ đẳng trường Tiểu học ngày xưa, tức là Lớp Ba trường Cấp một bây giờ. Đó là chuyện Ông Tô Hiến Thành. Câu chuyện xưa để ôn cố tri tân như sau (tr. 75 sđd):

“Ông làm quan về cuối đời nhà Lý. Tính người trầm trọng, cẩn thận, tài kiêm văn võ. Làm tướng đi đánh giặc, thì thương yêu sĩ tốt, bênh vực dân sự, đánh đâu được đấy, quân giặc nghe tiếng đều phải kinh sợ. Làm quan, thì lo sửa sang việc chính trị, mở mang sự học hành, trừ bỏ những kẻ gian nịnh. Bao giờ ông cũng quên mình mà lo việc nước”.

“Khi vua mất, ông làm phụ chính giúp tự quân hãy còn thơ ấu. Bấy giờ có một bà Thái hậu muốn bỏ tự quân mà lập con mình, cho người đem vàng bạc đút lót cho ông. Ông nhất định không nghe, cứ một niềm giữ lòng trung thành, hết sức giúp ấu chúa, theo lời dặn của tiên quân”.

“Đến khi ông bệnh nặng, có người Võ Tán Đường đêm ngày chầu chực hầu hạ, có ý muốn ông cử mình lên thay. Nhưng đến khi bà Hoàng Thái hậu đến thăm, hỏi ai có thể thay được ông. Ông cử quan đại phu Trần Trung Tá. Bà Thái hậu ngạc nhiên hỏi sao ông không cử Võ Tán Đường? Ông tâu rằng: “Nếu ngài hỏi người hầu hạ, thì tôi xin cử Võ Tán Đường, nhưng hỏi người giúp nước, thì xin cử Trần Trung Tá”.

“Ông trung thành như thế, và lại tài giỏi hơn người, cho nên đời sau ai cũng kính phục và thường ví ông với ông Gia Cát Lượng bên Tàu”.

Chuyện Trần Quốc Hoàn và Nguyễn Mạnh Tường

Câu chuyện xưa trên đây xảy ra dưới triều vua L‎ý Cao Tông (1176–1210), mãi cho đến năm 1945 khi HCM và phe đảng của ông cướp chính quyền ở Hà Nội, thì trên 700 năm dài đã trôi qua. Đọc chuyện xưa để biết phép dùng người thật vô cùng quan trọng, nhất là khi liên quan đến quốc sự và việc trị nước. Nếu ông Tô Hiến Thành được người đời truyền tụng và ví ông như vị quân sư tài ba đời Tam Quốc là Khổng Minh Gia Cát Lượng, thì đời nay, qua cách dùng người của HCM, chúng ta chỉ có thể gọi ông là Con vẹt của Stalin mà thôi. HCM đã xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo khuôn mẫu Liên Xô và điều hành Đảng để đánh Dân tộc vô cùng khắc nghiệt. Trong cuộc chiến tranh bẩn thỉu đó, Dân tộc đã đại bại dưới tay HCM, trên khắp các mặt trận, nhất là trên mặt trận văn hoá.

HCM đã từng đến Liên Xô và Trung Quốc nhiều lần. Đi ngang qua đất Tàu, Bác Hồ nhà ta gặp Mao Trạch Đông và nghe Bác Mao nói “Trí thức không bằng cục phân” thì Bác Hồ mừng rỡ như bắt được vàng, bèn lấy bỏ vào “Cẩm nang Kách mệnh” mang về nước. Đến khi thực thi Đấu tranh Giai cấp trong biến cố Xô viết Nghệ Tĩnh và trong chiến dịch CCRĐ, tư tưởng “Trí thức không bằng cục phân” thật vô cùng tiện dụng vì Trí thức là giai cấp hàng đầu HCM phải triệt hạ như trong khẩu hiệu “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Trong việc tổ chức Đảng và Nhà Nước, Bác Hồ lại càng áp dụng thật nhuần nhuyễn tư tưởng của Bác Mao xem Trí thức không bằng cục phân. Chuyện Trần Quốc Hoàn và Nguyễn Mạnh Tường là một dẫn chứng hùng hồn.

Trần Quốc Hoàn tên thật là Nguyễn Trọng Cảnh, thường được gọi là “Cảnh Con”, chỉ học đến lớp “Préparatoire” (“Lớp Dự bị” tức là Lớp hai trường Cấp một bây giờ) thì bị đuổi học vì hạnh kiểm xấu. Trong quyển Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên viết (tr. 598): “Từ đó, Cảnh Con lêu lỏng như một con mèo hoang, nhà nào sơ hở là nó lẻn vào, cuỗm của họ từ cái quần lót cho tới cái nồi đồng. Bị bắt, bị đánh, năm ngày ba trận, nhưng nó vẫn chứng nào tật nấy, càng ngày càng lì, càng trở nên bất trị”. Cho nên Cảnh Con trở thành gánh nặng cho gia đình và thôn xóm, không còn ai có thể chịu nổi nữa. Đến khi có người mộ phu sang Lào, viên thôn trưởng “liền hớn hở giao ngay thằng ăn cắp oắt con cho họ”.

Rồi Cảnh Con trở thành phu đãi vàng ở Lào. Sau một thời gian, Cảnh Con trốn khỏi đất Lào về Hải Dương đi theo một đám cướp. Vì nhát gan nên bị chúng đuổi, Cảnh Con mới bò về Hà Nội, nhập vào đám móc túi, giật dọc, rồi lại xin nhập vào đám tiểu yêu cầm cờ đám ma, dưới trướng một tên anh chị ở phố Hàng Chợ Gạo. Cầm cờ đám ma cũng bữa đói bữa no, vì không phải ngày nào cũng có đám ma nhà giàu đủ tiền trả công, mà lại còn phải tranh giành với băng chợ Đồng Xuân và những băng khác. Sau cùng, Cảnh Con xin được chân sắp chữ ở nhà in Tân Dân. Nhưng chứng nào tật nấy, gặp lúc hợp kim antimoine dùng để đúc chữ chì lên giá, Cảnh Con liền ăn cắp chữ in đem bán. Ăn cắp một k‎‎ý lô chữ in bán được 6 đồng còn cầm cờ đám ma thì phải 20 đến 30 đám mới được. Rồi Cảnh Con bị bắt quả tang trong lúc trên vai còn mang cả bị chữ in.

Phần tiểu sử thời thơ ấu của Trần Quốc Hoàn là do Nguyễn Tạo thuật lại, ông từng là Phó Tổng giám đốc Nha Công an, thời ông Lê Giản là Tổng giám đốc. Tác giả Vũ Thư Hiên chép lại cùng với lời thuật của cha ông thành Chương 34 trong đại tác phẩm Đêm giữa ban ngày (từ tr. 591 đến 609). Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Không biết được ai mách giúp bảo dùm mà thằng ăn cắp chữ in liền khai với Sở Liêm phóng rằng hắn là nhà ái quốc, chữ in hắn lấy là để cho các tổ chức cách mạng in báo, in truyền đơn… Thế mà hắn được đưa sang bên chánh trị, mới lạ”.

Trong nhà tù Sơn La, Trần Quốc Hoàn được Lê Đức Thọ móc nối và gia nhập Đảng năm 1934, Trường Chinh tán thành. Người mà nhân cách như vậy lại được HCM cất nhấc lên làm Bộ trưởng Công an, và đã nắm Bộ Công an trong 27 năm dài, từ 1953 đến 1980. Vũ Thư Hiên thuật rằng đến khoảng đầu những năm 60, Trần Quốc Hoàn bỗng nổi bật lên như một tên Mao-ít cuồng nhiệt, một hung thần xã hội chủ nghĩa. Hoàn được gán cho biệt hiệu “Béria của Việt Nam” (Ghi chú: Béria là trùm mật vụ KGB của Stalin).

Cha của Vũ Thư Hiên là ông Vũ Đình Huỳnh, đã ngồi tù chung với Trần Quốc Hoàn ở Sơn La, đã có nhận xét (tr. 593 sđd): “Béria dù sao cũng còn là một hạ sĩ quan trong quân đội Nga Hoàng, còn có học đôi chút, chứ Trần Quốc Hoàn thì hoàn toàn vô học. Hồi Sơn La anh em tù nhận xét hắn tham ăn tục uống, đã thế lại có tính tắt mắt… Hắn tiểu nhân, mà đó là một tư chất đáng sợ. Hắn chấp nhặt lắm đấy. Và không từ việc gì không dám làm.”

Nhân sự Bộ Công an của HCM khởi đầu như thế đấy, cho nên từ ngày Trần Quốc Hoàn lên làm Bộ trưởng thì trên miền Bắc không có mấy gia đình không có người thân trong gia tộc ở tù. Viên phụ tá đắc lực của Trần Quốc Hoàn, dưới nét phác họa của Vũ Thư Hiên (tr. 596 sđd): “Thứ trưởng Lê Quốc Thân được người ta biết đến như một tên bất nhân. Trần Quốc Hoàn còn học được vài đường đạo đức giả ở đàn anh Lê Đức Thọ, chứ Lê Quốc Thân ngu độn chỉ biết kêu gọi dùng bàn tay sắt. Được Đảng tâng bốc là thanh kiếm và lá chắn chiến đấu vì sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, ngành công an Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân nhanh chóng trở thành một đạo kiêu binh. Đến nỗi những cán bộ công an có công tâm phải thốt lên “Cái sự coi mỗi công dân là một tù nhân dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá cho sự thất nhân tâm này.” (Vũ Thư Hiên chú thích: “Kiếm và Mộc” là biểu tượng của ngành công an Liên Xô).

Trong khi đó, một người thật yêu nước và thật trí thức là Nguyễn Mạnh Tường thì lại bị chế độ trù dập. Xin nhắc lại, Nguyễn Mạnh Tường đậu tú tài năm 16 tuổi ở Hà Nội và sang Pháp du học ở đại học Montpellier. Năm 1932, lúc 22 tuổi, ông đậu một lượt hai bằng Tiến sĩ Luật và Tiến sĩ Văn chương. Luận án Luật của ông được Chánh chủ khảo phê thật đẹp như sau (Trích bài Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã qua đời của Võ Văn Ái viết ở Paris năm 1997): “Luận án của NMT là một kiệt tác luật, hơn thế nữa nó là một kiệt tác luật và văn chương. Ông thành công trong hai phân khoa của Viện Đại học Montpellier. Tiến sĩ Luật năm 22 tuổi, ông cũng sắp trở thành Tiến sĩ Văn chương, đó thật là một kỷ lục, vì ở Pháp chưa ai đậu Tiến sĩ Văn chương năm 22 tuổi. Ông làm cho toàn thể trường Luật hãnh diện. Chúng tôi cấp cho ông hạng cao nhất của chúng tôi: Ưu hạng với lời khen ngợi của Giám khảo”

Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường tham gia cuộc Kháng chiến Chống Pháp. Thời gian sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chính phủ HCM về tiếp quản Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường đạt tới đỉnh cao danh vọng, ông được giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Khoa trưởng Đại học Luật khoa, Thủ lãnh Luật sư đoàn, Phó Khoa trưởng Đại học Sư phạm, v.v… Đến Đợt Sửa sai sau cuộc CCRĐ, với tinh thần thượng tôn pháp luật và tánh trung ngôn bản thiện, ông đã viết một bài phê bình thật dài “Qua những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, tác giả Mạc Định Hoàng Văn Chí, tr. 404-432). Bài phê bình của ông đọc trong cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc tại Hà Nội ngày 10-10-1956 nhắm vào “xây dựng quan điểm lãnh đạo” đã gây tác dụng “đàn khẩy tai trâu, sóng chao đầu vịt” như dân gian thường nói. Bởi lẽ “lãnh đạo” thuộc phạm vi độc tài độc tôn của HCM và của Đảng, nên bài viết đầy tâm huyết đó không xây dựng được gì cả mà chỉ làm cho tác giả bị đấu tố tất cả ba lần, bị truất hết các chức vụ, và bị trù dập suốt quãng đời còn lại.

Không còn được dạy ở Đại học, trong chế độ hộ khẩu tem phiếu khắc nghiệt của HCM, những ngày còn lại của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường là nghèo, nghèo, nghèo và đói, đói, và đói. Ông phải đem bán những khăn trải bàn, bán những dĩa nhạc Tây Phương ông đã sưu tầm, và nhất là cân k‎ý lô bộ sách luật qu‎ý giá bán làm giấy gói hàng. Con người tài hoa có bằng Tiến sĩ Văn chương Pháp ấy muốn mở lớp riêng dạy tiếng Pháp tại nhà, tất cả phụ huynh với tâm ‎ý‎ “chọn mặt gởi vàng” đều ao ước gởi con em mình đến học. Nhưng khốn thay, công an của Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đến từng nhà của các phụ huynh đó hăm doạ và ngăn cấm, nên lớp học không có học trò! (Trích Việt Nam cần đổi mới thật sự, tác giả Tiến sĩ Kinh tế Võ Nhơn Trí, tr. 138). Câu chuyện thêm phần bi thảm: Tiến sĩ Tường có nuôi một con chó, nó rất mến chủ, nhưng vì nhà không có thức ăn, nên chó đành phải bỏ đi, mắt rướm lệ quay nhìn chủ nhân cũng bị đói như mình!

Trong quyển Bên gòng sông Hát, quyển lịch sử 10 đời của dòng họ Nguyễn làng Kim Bài, tác giả Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan đã viết vài hàng thật đẹp về “Nghề Làm Thầy” ở nước ta ngày xưa (tr. 268 sđd): “Vùng quê tôi nhiều làng có trường học, ít thì một cái, nhiều như Kim Bài thì ba bốn cái. Thầy giáo có thể là quan chức hồi hưu, nhà nho khoa bảng hay người không có bằng cũng được. (Xin chú thích: vì “học tài thi phận” cho nên có người thi mãi không đậu tuy học rất giỏi, xứng đáng được làm thầy). Thể lệ rộng rãi cho phép cả người thi đỗ song vì phản đối chính sách của triều đình, nên không chịu ra làm quan, hoặc người làm quan phạm lỗi bị cách chức, cũng có thể ngồi dạy học.”

Tiến sĩ Nguyễn Triệu Đan viết tiếp về Nghề Làm Thầy: “Hồi đó, chẳng mấy khi trò phải trả tiền học. Thường chỉ biếu thầy con gà, thúng gạo, nải chuối vào những dịp tết nhất là đủ. Tổ nhà tôi được cái may là có của cải ruộng nương nên không phải sống bằng nghề dạy học. Mở trường để có việc làm cho vui và vì theo truyền thống Khổng giáo thì giáo hóa bọn hậu sinh là bổn phận của nhà nho.”

Đọc chuyện xưa để suy chuyện thời Dân chủ Cộng hòa của HCM. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, sau khi bị truất hết các chức Khoa trưởng, Phó khoa trưởng v.v…, ông muốn lui về “Nghề Làm Thầy” theo truyền thống ở nước ta ngày xưa cũng không được với HCM và Trần Quốc Hoàn! Trong cảnh nghèo đói cùng cực của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vang vọng “danh ngôn” của các Lãnh tụ từ Nga Hoa dội về qua vai trò “Con vẹt HCM” (thật sự đó chỉ là những “ranh ngôn”!). Lenin nói: “Ai không làm thì không ăn”. Lời Lenin chưa được hay, Stalin chỉnh lại và nói: “Ai không đầu hàng thì không ăn”. Xin nhắc lại Bác Hồ đã từng nói: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được”. Bởi thế cho nên câu nói của Bác Xít “Ai không đầu hàng thì không ăn” và câu của Bác Mao “Trí thức không bằng cục phân”, cả hai “ranh ngôn” đó được Bác Hồ áp dụng thật nhuần nhuyễn để “đào trốc” nhà đại trí thức yêu nước mà bất hạnh Nguyễn Mạnh Tường.

Bác là người ưa thích bí danh, ẩn danh, nặc danh, mạo danh… và chính Bác cũng thú nhận như vậy, thiết nghĩ, nếu tặng cho Bác thêm hỗn danh “Hồ Xít Mao” thì thật không quá đáng! Và cũng rất thích đáng! Tác giả Ngô Nhân Dụng trong bài Chính là Bác Mao có trích hai câu thơ của Chế Lan Viên ca ngợi Mao Chủ tịch, nhân đây người viết cũng xin phép được ghi lại hai câu thơ đó với lời tri ân tác giả Ngô Nhân Dụng đã có công sưu tầm: “Bác Mao không ở đâu xa. Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao”.

Chuyện Trí thức của Dân tộc dưới chế độ “Hồ Xít Mao” buồn thảm như vậy, chẳng qua là vì Bác quá vong bản, chỉ theo các bác Mác - Lê - Xít - Mao mà thôi, chớ không học bài học Lịch sử nước nhà. Với học vị Lưỡng khoa Tiến sĩ như Nguyễn Mạnh Tường, và với tánh trung ngôn bản thiện, giá gặp thời minh quân thịnh trị thuở xưa, ông hẳn là một vị quan thanh liêm giúp vua cầm việc nước. Với bài phê bình về CCRĐ, ông làm đúng chức năng của một quan Ngự sử thời xưa can gián nhà vua mỗi khi vua làm điều trái đạo. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường không phạm tội gì cả! Tội là tội của HCM đã sát hại mấy trăm ngàn người trong cuộc CCRĐ long trời lở đất (không sử gia nào có thể ghi lại con số nạn nhân cho chính xác!). Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, trái lại, có công rất lớn trong cố gắng xây dựng một chế độ dân chủ pháp trị. Nhưng ông chỉ hoài công! HCM nào có đếm xỉa gì đến dân chủ pháp trị đâu. Chế độ DCCH do HCM xây dựng bằng bạo lực của mã tấu, lưỡi lê, và súng đạn và bằng vô vàn xảo trá, lừa lọc, mỵ dân. Vì dối trá mỵ dân nên HCM chỉ dùng những văn nô như Tố Hữu hay Xuân Diệu để ca ngợi chế độ và ca tụng mình. Vì xử dụng bạo lực để cai trị nên HCM chỉ dùng những kẻ vô lại độc ác, giỏi nghề chém giết cướp bóc như Trần Quốc Hoàn và Lê Quốc Thân trong Bộ Công an.

Gương cầu hiền của vua Quang Trung

Đến đây xin nhắc lại tấm gương cầu hiền tuyệt đẹp của vua Quang Trung. Trong đoạn nói về Đức độ vua Quang Trung, sử gia Trần Trọng Kim đã viết (Trích Việt Nam sử lược, tr. 407):

“Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng Ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài Văn học… Vua Quang Trung từ khi đem quân ra Bắc Hà, biết tiếng La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp là người hiền tài, đã mấy lần sai người mang lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ vật và cũng từ chối không ra. Đến khi Ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đến mời ông, ông có đến bái yết, và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua QT tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông đã trình bày”.

Trong kho tàng truyện Tàu ngày xưa có câu chuyện l‎ý thú về “Kính Chiếu Yêu”, công dụng của kính như sau: “Vì lũ yêu tinh có phép biến hóa thành người, thành thiếu nữ thật xinh đẹp để mê hoặc, hoặc thành Tiên thành Phật để dối gạt dân gian mà không ai biết, nhưng nếu ta có Kính Chiếu Yêu rọi vào, chúng sẽ hoàn lại thành hình yêu tinh ngay. Có Kính Chiếu Yêu trong tay, yêu quái vô phương lừa gạt đặng ta!”

Hai nét Văn hóa đẹp trong lịch sử Việt Nam là chuyện ông Tô Hiến Thành đời nhà L‎ý biết chọn người xứng đáng trong việc trị nước cùng với tấm gương cầu hiền thật trong sáng của vua Quang Trung, hai điểm son trong lịch sử đó đã cung cấp cho chúng ta chất liệu cụ thể để chế tạo “Kính Chiếu Yêu” mầu nhiệm. Lấy kính chiếu rọi vào HCM, chúng ta sẽ thấy “Bác Hồ nhà ta” hiện ra là “Con Yêu” (Như “Con yêu râu xanh” của tác giả Việt Thường) không dùng đúng người giúp nước như ông Tô Hiến Thành. “Con Yêu họ Hồ tên Lin” (tên Nga) lại không có đủ đức độ dẹp bỏ lòng ganh tỵ hèn hạ để trọng dụng người hiền tài ra giúp nước như tấm gương cầu hiền của vua Quang Trung! HCM, kẻ làm chánh trị cắt xé Dân tộc để khơi nguồn cho cả một thế hệ đảng viên “sáng Đảng mà mù tình Dân tộc”, tuyệt nhiên không phải là người yêu nước thương dân, ông lại càng không phải là chính trị gia có tài kinh bang tế thế hầu làm cho nước giàu dân mạnh. HCM chỉ là chính trị gia tồi tệ. Hảy xem mối bận tâm của Chủ tịch HCM vào những ngày đầu tiên:

- 19-08-1945: cướp chánh quyền

- 02-09-1945: đọc Tuyên ngôn Độc lập bịp bợm

- 03-10-1945: ra lịnh cho Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp k‎ý nghị định thành lập chế độ Ủy ban Nhân dân ở tất cả các cấp xã, huyện, tỉnh, rập khuôn theo chế độ Xô viết ở Liên Xô, đúng theo nguyên tắc tổ chức của Cộng sản. Cuộc “Kách mệnh khát máu”, cuộc “Kách miệng” (có tác giả gọi như vậy), cuộc “Đảo lộn Sơn hà” long trời lở đất của HCM bắt đầu từ đấy.

Cuộc đảo lộn Sơn hà của HCM

Trong thơ văn, những cảnh tang thương biến đổi luôn gây vấn vương tâm hồn người hoài cổ: “Sông kia rày đã nên đồng. Nửa làm nhà cửa nửa trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”. Thi sĩ Tú Xương đã tiếc thương cảnh núi lở sông bồi ở Nam Định như vậy! Chỉ là thương nhớ lãng mạn nên thơ! Nhưng chuyện đảo lộn Sơn hà do cuộc Kách mệnh khát máu của HCM đã gây cảnh núi xương sông máu, nhà tan cửa nát, luân thường đảo lộn, văn hóa suy đồi, nhân tâm ly tán khắp cả ba miền Đất nước. Cuộc mở màn chém giết để thống trị Dân tộc được tác giả Vũ Trọng Kỳ chép lại đôi dòng như sau (Trích tác phẩm Bốn đời chạy giặc, tr.165):

“Liền sau khi HCM an vị rồi, họ Hồ thay đổi hoàn toàn cơ cấu cai trị Việt Nam, đâu đâu cũng danh hiệu Ủy ban Nhân dân, đứng đầu là chủ tịch, nào chủ tịch xã, chủ tịch huyện, chủ tịch tỉnh, những tên đầu trộm đuôi cướp, anh chị đứng bến láu lỉnh, liều lĩnh, tay sai trong giờ phút Việt Minh Cộng sản vừa cướp được chánh quyền, kể cả những tên xưa nay buôn gian bán lậu, trốn thuế bị hình phạt dưới thời Pháp thuộc, nhẩy vào ghế chánh quyền Cộng sản để ăn có vài ba nơi. Chúng đưa ra một số thành phần lành mạnh, thân hào, nhân sĩ làm chủ tịch, chỉ là để che mắt. Chúng đóng vai kín đáo trong ủy ban để giật dây, vì chúng là nòng cốt Cộng sản, được nắm trọn quyền trong tay. Có quyền hành như những vua con địa phương, hơn cả cường hào ác bá thuở trước, nắm quyền sinh quyền sát dưới nhãn hiệu Ủy ban Nhân dân do HCM ủy quyền cho chúng, chúng bắt đầu trả thù những quan lại trước hết vì chúng cho rằng quan lại rất trung thành với Pháp, đặc biệt trong công tác truy lùng các nhà cách mệnh Việt Nam.”

Kể làm thí dụ, tác giả Vũ Trọng Kỳ thuật chuyện Bảy Tỉnh là tên buôn gỗ lậu nổi tiếng được phong chức Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến miền duyên hải Cẩm Phả, nơi tác giả đang làm. Chính Vũ Trọng Kỳ cũng bị Bảy Tỉnh bắt. Nhưng may cho ông, trong lúc làm việc ở Sở Kiểm lâm, ông có chuyện bất hòa với cấp trên là người Pháp, bị giáng trật, nhưng được tiếng là chống Tây, nên ông thoát nạn.

Tác giả Nguyễn Thị Thế, người chị em gái duy nhất trong gia đình Nguyễn Tường ở Cẩm Giàng, em của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, chị của Thạch Lam Nguyễn Tường Vinh và Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, trong quyển Hồi k‎ý về gia đình Nguyễn Tường, ở đoạn “Việt Minh nổi dậy” đã viết (tr. 175): “Vụ lúa năm đó thì ở thôn quê Việt Minh còn trong bóng tối nổi dậy không biết bao nhiêu, những người thành tích bất hảo hoặc những giới lao động, phu kéo xe, phu vác gạo nổi lên, có một nhóm cầm đầu có súng đạn vào bắt quan Huyện trói lại. Chúng ngồi ăn rồi ném xương xuống đất bắt ăn như là chó vậy”. Tác giả thú nhận rằng sự việc này cũng nghe người ta chứng kiến kể lại thôi, chứ chính mắt thì không thấy, mà làm sao thấy được. Tác giả thuật tiếp: “Còn chức Tri huyện (‎ý tác giả muốn nói Chủ tịch huyện) thì do họ bầu lên là thằng con ông Thu xưa làm phu vác gạo, tôi biết rõ ông ta từ khi mẹ tôi còn cân gạo”.

Ở một đoạn khác, tác giả Nguyễn Thị Thế viết (tr. 140): “Đến năm Việt Minh nổi dậy (1945), mẹ tôi không dám ở nhà, lánh sang chùa Đào Xuyên. Ít tháng sau, Việt Minh bắt cả các sư ông tham gia chiến trận. Sư ông chùa Đào Xuyên bị làm chủ tịch kháng chiến nên đưa mẹ tôi qua chùa sư nữ tận bên Bối Khê”.

Một đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ là Nghiêm Kế Tổ, tác giả quyển VN máu lửa, đã tường thuật thật đầy đủ thời khởi đầu của cơn binh lửa như sau (tr.57): “Những cán bộ hạ tầng lãnh đạo hành chính địa phương, đại đa số, hoặc là các thanh niên mới lớn, hung hăng, không kinh nghiệm, không kể gì đến lễ độ, hoặc những người thô lỗ, ít học, không chuyên môn, đầy tư tưởng báo thù, vị kỷ… Các cán bộ địa phương là tay sai trung kiên nhất, dữ dội nhất… Dân chúng được mục kích luôn luôn cái cảnh bắt bớ, giam hãm đem đi khu”.

Nghiêm Kế Tổ viết tiếp (tr. 58 sđd): “Thành thực mà xét, Ủy ban Nhân dân cấp huyện hoặc xã có tính cách “đồ tể” hơn là một tổ chức chuyên nghiệp về chính trị hoặc hành chánh”. Tính chất “đồ tể” đó, Nghiêm Kế Tổ nhận xét như sau: “Hễ ai trốn trách nhiệm hội họp, ủng hộ… sẽ được gán ngay tiếng Việt gian, phản động. Hai danh từ ấy là lưỡi hái của Thần Chết chẳng nể nang ai, dù cha mẹ họ hàng thân thích, dù những người chuyên làm điều thiện, có đạo đức”.

Hoàng Văn Đào, cũng là một đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ, đã ghi trong quyển sử Việt Nam Quốc dân đảng ở mục “Khủng bố, giam cầm và thủ tiêu” như sau (tr. 240): “Chính quyền địa phương VM tự động vu cho người này là Việt gian, kẻ kia là phản động, ác bá, cường hào, bắt giam và thủ tiêu không biết bao nhiêu mà kể! Mà Ủy ban Hành chánh địa phương lúc bấy giờ hầu hết là những phần tử bất hảo nổi lên, vì tư thù cũng gán ngay cho tội là phản động, là cường hào ác bá! Tịch thu tài sản v.v…”

Tác giả Nguyễn Mạnh Côn với bút danh Nguyễn Kiên Trung, một nhân chứng trung thực, trong quyển Đem tâm tình viết lịch sử, nhận xét về cách dùng người của HCM như sau (tr. 63): “Một số người khác chống Việt Minh, vì không chịu nổi cho Việt Minh đưa lên hàng “trị dân, trị nước” một bọn côn đồ mới bữa trước còn ăn trộm, ăn cắp, du thủ du thực. Đây phần lớn là những nhà trí thức sâu sắc, đã yên trí từ lâu rằng công việc cai trị phải được đảm nhiệm bởi những người có bảo đảm về trí tuệ cũng như về đạo đức. Thấy Việt Minh giao phó từng địa phương rộng lớn cho những người không những đã vô học lại còn mang tiếng là lưu manh, nhà trí thức lấy làm lo sợ mà so sánh tình trạng ấy với tình trạng ổn định ở các nước tân tiến. Họ thấy Việt Minh làm việc trái với lẽ phải thông thường, thì Việt Minh tự nhiên nó cũng có ngày tan rã”.

Trong chương Việt Minh cướp thời cơ của quyển Lịch sử Việt Nam 1940-1975 thật đồ sộ trên 1000 trang, tác giả Trần Nhã Nguyên viết (tr. 39): “Chính phủ lâm thời của HCM tung lưới bủa vây, lùng bắt cán bộ của các đảng phái Quốc gia như Việt Cách, Việt Quốc, Duy Dân, Đại Việt, Dân Chính… Các hội hè do cán bộ Cộng sản lãnh đạo mọc lên như nấm: Thanh niên, Phụ nữ, Phụ lão Cứu quốc, Nhi đồng Cứu quốc, Tự vệ phố, Tự vệ thành, Tự vệ chiến đấu… đặt dưới sự điều động của các Ủy ban Hành chánh thành phố, tỉnh, phủ, huyện, làng… đều là những cánh tay nối dài của đảng Cộng sản. Cảnh đánh đập, tra khảo, thủ tiêu diễn ra khắp nơi đối với những ai bị chụp lên đầu Việt gian, Phản quốc, có nợ máu với nhân dân…”

Ở miền Nam, một nhân chứng là cựu Thẩm phán Phạm Đình Hưng, trong quyển Cuộc chiến cô đơn, thuật chuyện xảy ra ở làng ông lúc ông 10 tuổi (Sách xuất bản năm 2007, tr. 20): “Cuộc sống êm đềm của An Phú Xã, quê tôi, đã bị cuồng phong Cách mạng Tháng tám đảo lộn và cuốn mất đi. Riêng tại An Phú Xã, ngay sau khi cướp được chánh quyền tại tỉnh Bình Dương, Việt Minh đã chặt đầu một cách dã man ông Hương Cả Phạm Văn Tuân và người em là ông Hương Hào Phạm Văn Trạc, hai nạn nhân đầu tiên của Cộng sản tại quê tôi, mặc dầu cả hai là người hiền lành, trung hậu, và giàu lòng giúp đỡ người nghèo khổ. Ông Cả Tuân lại là cha của ông Đốc học Phạm Văn Trình, người trí thức đứng đầu của An Phú Xã đã tham gia Mặt trận Việt Minh cùng một lượt với hai người chú của tôi”.

Ở đoạn “Bạo lực Cách mạng”, tác giả Phạm Đình Hưng thuật tiếp (tr. 21 sđd): “Chính mắt tôi đã mục kích lần đầu tiên trong đời sự biểu diễn bạo lực của một cán bộ cao cấp Việt Minh của Tỉnh ủy Thủ Biên đến chủ tọa một buổi họp của Tân Ủy ban Nhân dân An Phú Xã (thay thế Ban Hội tề cũ) có sự tham dự của đông đảo dân làng. Giữa buổi họp trang nghiêm, Kiều Đắc Thắng đứng lên hét to và rút súng lục đang mang trong người bắn lên trời vài phát để thị uy cùng đồng bào. Chính tai tôi đã nghe Kiều Đắc Thắng ra lịnh thiêu hủy tất cả đình, chùa, trường học, chợ búa, cơ sở công cộng, và nhà tô của những người giàu có trong làng để áp dụng chiến thuật “Vườn không nhà trống” của Liên Xô trong Thế chiến Thứ hai”.

Ngần ấy trích đoạn của các nhân chứng đã cho ta biết cách dùng người của HCM ở các Ủy ban xã, huyện và tỉnh. Đó là những kẻ đầu trộm đuôi cướp, một bè một lứa y như Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn. Tham khảo quyển Chuyện thâm cung dưới triều đại HCM của tác giả Việt Thường, ta có thể thêm nhiều râu ria cho Bộ mặt Lãnh đạo của chánh quyền HCM. Ở bộ giao thông, Kỹ sư Trần Đăng Khoa là bộ trưởng mà phải “xin chỉ thị” của thứ trưởng Hồng Xích Tâm, ủy viên đảng đoàn xuất thân là phu xe kéo (tr. 193 sđd). Ở Ủy ban Văn hóa Đối ngoại có học giả Phạm Ngọc Thuần và bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, nhưng cả hai trí thức này đều phải “bẩm báo” với bí thư đảng đoàn Phạm Hồng, mới học xong lớp 4 bổ túc văn hóa (tr. 196 sđd). Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, đảng viên kỳ cựu, tuy là bộ trưởng Bộ Y tế nhưng bị thứ trưởng Đinh Thị Cẩn “kềm kẹp”. Bà nầy là Ủy viên Dự khuyết Trung ương, kiêm bí thư đảng đoàn, trình độ văn hoá lớp 4. Bà từng là Cấp dưỡng (tức là đầu bếp riêng) của HCM (tr. 198 sđd).

Dân tộc không phải chỉ gồm bởi những cốt cán trong CCRĐ, những bần nông, hay bần cố nông, hay những công an như “thiên lôi, chỉ đâu đánh đó”. Thành phần ưu tú của Dân tộc luôn luôn là những trí thức. Nhưng với học lực lớp 7, HCM đã xây dựng một chế độ khinh thường trí thức, nếu không nói là bạc đãi. Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, đại diện cho giới Trí thức ở Hà Nội, viết trong bài phê bình về CCRĐ ngày 30-10-1956 như sau: “Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng đảng Lao Động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hy sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, Đảng vẫn chưa tin được họ. Nào họ có yêu sách gì quá đáng đâu? Họ có đòi làm Bộ trưởng hay Đại sứ đâu? Không. Đại đa số các anh em trí thức nói chung không mơ ước các cương vị, công tác lộng lẫy đâu, họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha, đòi hỏi được đem khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức mà thôi”.

Tiến sĩ Tường nhắc lại lời Đảng tuyên bố rằng “Người trí thức là vốn quí của Dân tộc”, nhưng ông mỉa mai rằng vì vốn ấy quá quí nên phải cất kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu! Với văn phong của Tiến sĩ văn chương, Nguyễn Mạnh Tường viết “giữ gìn trong một bán ảnh”, nhưng dân gian thì “nôm na huỵch toẹc” hơn, họ dùng chữ “lộng kiếng”, nên ai cũng hiểu là “trí thức bị liệng cống”.

Cuộc Chiến tranh của HCM đánh Dân tộc dài 30 năm khởi đầu bằng sự đảo lộn sơn hà như thế. Sau khi Làn sóng đỏ của VC tràn ngập miền Nam, Đại tá VC Phạm Xuân Ẩn, tay điệp viên đã nằm vùng ở miền Nam hoạt động tình báo để giúp cho VC thành công, đã vỡ mộng và phàn nàn: “Tất cả các l‎‎ý luận về “giải phóng” trong hai mươi, ba mươi, hay bốn mươi năm qua đã gây ra một xứ sở nghèo nàn và rách nát, lãnh đạo bởi một lũ ác độc, một bọn l‎‎ý thuyết gia ít học và chuyên chế”.

Nguồn lực sinh tồn của Dân tộc

Cuộc đảo lộn sơn hà thô bạo của Chính trị gia tồi tệ HCM đã phá nát Tổ chức xã thôn Việt Nam lưu truyền tự nghìn xưa. Đó thật là những khuôn vàng thước ngọc mà người viết xin được gọi là “Nguồn lực sinh tồn của Dân tộc”. Thành Thăng Long phải mất 10 thế kỷ mới làm nên lịch sử. Nhưng từ thật lâu gần năm ngàn năm trong thời tiền sử xa xưa, Tổ tiên của Việt tộc đã biết tổ chức xã thôn làng mạc (năm nay 2010 Tây lịch là 4889 năm trong Việt lịch). “Đất có lề, quê có thói”, và những thói tục được dân làng tuân theo để biến thành thuần phong mỹ tục của từng miền. Đến thời lập quốc, khi Đất nước có vua ở kinh đô thì xã thôn đã được tổ chức vững chắc cho nên những phong tục, tập quán, cơ cấu chính quyền xã, tín ngưỡng đã ăn sâu vào đầu óc người dân và đã trở thành như những nguyên tắc bất di bất dịch, vua cũng phải tôn trọng như câu “Phép vua thua lệ làng” dẫn giải.

Đó là sự tương nhượng rất dân chủ. Nhà vua với triều đình gồm Lục Bộ và Cơ Mật viện thì chăm lo việc quốc gia đại sự còn việc tổ chức cai trị ở xã thôn làng mạc thì do dân quê điều hành, không ai dẫm chân lên ai. Trong bài Tổ chức xã thôn Việt Nam (Nam Úc Tuần báo chuyển tải trong số 730 ngày 5-2-2010), tác giả Phạm Hy Sơn nghiên cứu cách phân quyền rất dân chủ đó và viết: “Đời Trần (Trần Thái Tông) đời Lê (Lê Thánh Tông), nhà vua muốn bổ viên chức Xã quan (hay L‎‎ý trưởng) là người của chánh quyền về cai trị thay cho viên chức từ trước vẫn do dân chúng bầu ra đều thất bại phải bãi bỏ. Thời Pháp thuộc, chính quyền Thực dân biết làng xã là nguyên nhân chính gây trở ngại cho chính sách đồng hóa của họ nên ra Nghị định dưới danh nghĩa “Cải lương Hương chính” ở miền Bắc năm 1904 và ở miền Nam năm 1921 cũng đưa đến thất bại vì không được dân chúng tiếp nhận.”

Sự phân quyền giữa vua ở triều đình và dân quê ở xã thôn làng mạc rất dân chủ và bền chắc như vậy nên không chính quyền nào có thể phá vỡ được. Còn trong phạm vi mỗi một làng xã là đơn vị nhỏ nhất của Đất nước cũng có sự phân quyền tương tự. Tác giả Phạm Hy Sơn viết tiếp: “Làng xã của ta từ xưa đã có cơ cấu tổ chức gần giống với cơ cấu tổ chức của các quốc gia dân chủ tân tiến ngày nay, đó là chia chính quyền thành cơ quan Lập pháp (tương đương Quốc hội) do Hội đồng Kỳ mục phụ trách (Ghi chú thêm: ở miền Nam là Ban Hội tề) và cơ quan Hành pháp (tương đương Tổng thống) do Xã trưởng đứng đầu. Thời ấy chỉ không có cơ quan Tư pháp tức Tòa án coi việc xét xử mà do vị Tiên chỉ đứng đầu Hội đồng Kỳ mục hay L‎ý‎ trưởng phụ trách.”

Để tô điểm cho đủ hoa lá cành, cây Văn hóa do tổ tiên Việt tộc ta vun trồng trong tổ chức xã thôn lại trổ thêm quả đẹp là bản Hương ước do Hội đồng Kỳ mục thành lập (tương đương với Hiến pháp của quốc gia). Tuy bất thành văn, nhưng bản Hương ước là định chế được truyền khẩu muôn đời về quyền lợi và nghĩa vụ của người dân trong xã. Hội đồng Kỳ mục ở miền Bắc hay Ban Hội tề ở miền Nam gồm những người có tuổi, có tư cách được kính trọng, hoặc những người có học thức đã từng có địa vị trong xã hội (cựu quan lại) do dân chúng tín nhiệm bầu ra.

Trong bài biên khảo Một nền văn minh “Ông Đồ” (Giai phẩm Xuân Chiêu Dương năm Bính T‎ý 1996), k‎ý giả Huy Quân Phan Lạc Phúc đã viết về một nét văn hóa đẹp ở xã thôn do sự góp mặt của ông đồ. Đó là một kẻ sĩ bình dân, một người lãnh đạo bình dân gần gũi của nông dân Việt Nam: “Ông đồ là người đại diện của nho lâm, là một tấm gương làm sáng cái Đức của Thánh hiền. Tại minh minh đức. Tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện. Ông cố gắng trở thành một người quân tử ở quê nhà, ông còn là một kho trí thức nhỏ ở thôn quê vì ông đồ thường kiêm luôn nghề thầy thuốc, nghề phong thủy. Có khi dân làng có gì tranh chấp, trước khi lên chốn công đường, họ đến nhờ ông đồ phân xử đã”.

Đến khi Dân tộc tiếp nhận làn sóng Tân học từ phương Tây thì “ông Đồ muôn năm cũ” đó được thay thế bằng ông thầy giáo trường làng. K‎ý giả Huy Quân viết tiếp: “Đây là một ông đồ hiện đại, được trang bị những kiến thức mới. Đây chưa phải là những nhà thông thái, nhưng đó là hàng loạt những nhà trí thức “vườn” có mặt ở thôn quê làng xã giống như ông đồ ngày xưa bên cạnh nông dân. Những ông đồ kiểu mới phổ biến khắp nơi một quan niệm mới, một đời sống mới. Ông đồ này đâu phải ai xa lạ chính là các ông thầy giáo trường làng. Làng nào muốn khá mà không có trường học. Tất cả các ông thầy giáo đều đứng trong một hàng ngũ, một đảng phái (nếu có thể gọi như vậy), chung lưng đấu cật trong nhiệm vụ vừa giảng dạy vừa nêu gương. Nước mình xưa nay vẫn có khuynh hướng trọng văn, yêu người có học, kính kẻ sĩ.”

K‎ý giả Huy Quân nhắc lại câu thành ngữ nói lên tấm lòng của bậc làm cha mẹ : “Muốn sang thì bắt cầu kiều. Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Và đặt câu hỏi: “Có người cán bộ nào được nhân dân yêu mến sẵn trong lòng như thế hay không? Điểm đáng nói trong tổ chức mới này là người thầy giáo ngoài chuyện dạy học còn phải đứng trong hội đồng làng xã. Bất cứ quyết định nào của làng xã đều phải có ‎ý kiến của Ủy viên giáo dục này”.

Tiêu thổ Kháng chiến

HCM, kẻ chủ mưu đánh Dân tộc, đã phối hợp “Tiêu thổ Kháng chiến” cùng với “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” thành sách lược Đào trốc Dân tộc và Tàn phá Đất nước thật tỉ mỉ ngay từ lúc ban đầu và phá hư cuộc Cách mạng Mùa thu của Dân tộc! Giống như chuyện “Chém tướng phá thành” trong chiến tranh cổ điển, HCM thành lập Ủy ban Nhân dân xã để triệt hạ Hội đồng Kỳ mục và “kho trí thức nhỏ” tức ông giáo trường làng. Thượng tầng tổ chức nhân sự của làng đã triệt hạ, kể như xong việc “Chém tướng”, ông quay sang việc “Phá thành”. Bằng chiêu bài “Tiêu thổ Kháng chiến”, ông cho đập phá hạ tầng kiến trúc tức Đình, Chùa, Nhà thờ, Miếu mạo, Chợ và Trường làng, cả đến những ngôi nhà tường tô mái ngói của dân cũng không chừa.

Về quốc nạn “Tiêu thổ Kháng chiến”, làng An Phú Xã tỉnh Thủ Biên của cựu Thẩm phán Phạm Đình Hưng tác giả quyển Cuộc chiến cô đơn là một trường hợp điển hình về việc “Chém tướng phá thành”. Theo lời thuật của tác giả thì 2 vị trong Ban Hội tề trong làng là Hương Cả Phạm Văn Tuân và em ông là Hương Hào Phạm Văn Trạc đã bị chặt đầu một cách dã man và sau đó Tỉnh ủy Kiều Đắc Thắng đã ra lịnh thiêu hủy tất cả đình, chùa, trường học, chợ búa, cơ sở công cộng, và nhà tô của những người giàu có trong làng.

Cũng ở một tỉnh miền Đông, vào thời Đệ nhất Cộng hòa, tức khoảng hơn 10 năm sau, người viết về làng cũ và gặp lại Chú Hai Tài. Đó là vị cao niên còn sót lại và trở thành niên trưởng trong làng vì vào lúc đó những vị già hơn ở bậc “Bác” như Bác Ba Quởn, Bác Mười Cao và các bác khác đã qua đời. Trong câu chuyện, người viết thắc mắc muốn biết vì sao các “Ông Làng” (tức là Ban Hội tề) hồi đó lại đốt phá đình chùa miếu chợ trường trong làng của mình như vậy, thì Chú Hai Tài “cắt nghĩa”: “Không phải đâu cháu, không ai muốn đốt phá hết! Chỉ có 4 thằng mang 4 khẩu súng ở trên quận xuống. Bốn thằng đó kêu mấy thanh niên 15, 16 tuổi trong làng đi theo tụi nó đốt phá mà thôi. Chú và mấy bác ở đây khi thấy khói bay lên, ai cũng ứa nước mắt. Còn ngôi đình, đốt không được, chúng mới lấy hai cây tầm vông nối buộc lại cho dài, rồi đứng dưới thọt lên cho ngói rớt xuống!”.

Một bạn thân là anh L.T.Q., năm nay cũng gần bát tuần, thuật chuyện “Tiêu thổ Kháng chiến” ở tỉnh Gò Công ngày xưa của anh như sau: “Anh biết không, hồi đó khi nghe lịnh “Tiêu thổ Kháng chiến”, không ai dám cãi, nhưng không ai muốn đốt phá làng mình. Tụi nó mới sai thanh niên làng khác đến đập phá làng tôi. Thanh niên làng tôi tức giận, mới rủ nhau đi đập phá các làng khác lại”. Một bạn ở tỉnh Long An thuật chuyện phá ngôi trường của làng anh như sau: “Trường làng tôi là một dãy nhà dài gồm 5 lớp. Tụi nó lấy nhiều dây dừa cột vào một bức tường rồi mấy chục đứa xúm vào kéo sập từng bức tường một. Thế là xong”. Một bạn khác ở Quảng Nam bảo rằng làng anh rất nghèo: “Trường làng chỉ là ngôi nhà ọp ẹp không đáng phá, xét rằng dù quân Pháp có đến, chúng cũng không đóng bót ở đó được. Trong làng cũng không có ngôi nhà nào đáng giá. Ngôi kiến trúc đồ sộ nhất trong làng chỉ là đình làng. Rất đồ sộ! Phải là công trình đóng góp của tất cả dân làng trong nhiều đời mới thành! Chúng phá tan hoang, xong tụi con nít lượm mấy mảnh đồ sứ trang hoàng ở mái đình rớt xuống đem về nhà chơi!”

Với “Tiêu thổ Kháng chiến” hay nôm na là chiến thuật “Vườn không Nhà trống”, các cán bộ Việt Minh bảo rằng “đó là chiến pháp tuyệt vời Liên Xô đã áp dụng để chống ngoại xâm. Bây giờ, ta kháng chiến chống Pháp, ta cũng phải áp dụng chiến pháp đó”. Thật đúng vậy, hai lần trong lịch sử nước Nga, chiến thuật “Tiêu thổ Kháng chiến” đã giúp quân Nga chiến thắng. Lần đầu là đoàn quân nước Pháp hùng mạnh nhất Âu Châu của Hoàng đế Napoléon bị đại bại vào mùa đông 1812. Đại quân của Napoléon chiếm thành Mạc Tư Khoa dễ dàng vì thành bị bỏ ngõ và bị đốt thành bình địa do chiến thuật Tiêu thổ của quân Nga (có giả thuyết cho rằng quân Pháp đốt phá). Không có chiến y đủ ấm, lại bị quân Nga phản công mạnh, quân Pháp rút lui thảm bại và bị đánh tập hậu, gần nửa triệu hùng binh không còn đến một trăm ngàn! Lần thứ hai trong lịch sử là Đệ nhị Thế chiến, khi đoàn quân Đức Quốc Xã kéo vào Mạc Tư Khoa, thì không tìm được nơi trú ngụ, quân phục không đủ ấm, xe chuyển quân và chiến xa chế tạo không thích hợp cho mùa đông quá lạnh, cho nên đến lúc quân Nga phản công cũng đã bị thảm bại như quân Pháp ngày xưa!”

Trong hai chiến thắng của quân Nga kể trên có sự giúp sức của một “Đồng minh” rất đặc biệt là thời tiết giá lạnh, mà các sử gia xưng tụng là “Đại tướng Mùa đông”. Bây giờ xét lại lịch sử, ta biết nhiệt độ trung bình những tháng lạnh nhất ở Mạc Tư Khoa là 10.3 độ dưới số không, còn ở Việt Nam, chẳng hạn như ở Hà Nội, thì chẳng bao giờ trời lạnh đến có tuyết cả. Chúng ta làm gì có được Đồng minh Trời giúp cho là “Đại tướng Mùa đông” như Liên Xô, cho nên bắt chước theo Liên Xô, đốt phá nhà cửa để áp dụng “Tiêu thổ” trong công cuộc kháng chiến chống Pháp thật là điều thất sách! Chỉ có HCM, con vẹt Của Stalin, là Chính trị gia tồi tệ, mới nhắm mắt đi theo mà thôi!

Nhưng sự thật không phải vậy. Làm gì HCM không biết thời tiết ở Việt Nam không giá lạnh như ở Liên Xô, chúng ta nào đâu có “Đại tướng Mùa đông”, HCM biết hẳn đi chứ! Đã biết vậy, nhưng ông vẫn cứ cho áp dụng “Tiêu thổ Kháng chiến” triệt hạ các ngôi nhà lớn tường tô mái ngói với thâm ‎‎ý “đào trốc” trí phú địa hào, để san bằng giai cấp, làm cho họ “nghèo, nghèo, nghèo” ngang tầm với giai cấp công nông của ông. Sách lược “Tiêu thổ” còn là ngón nghề ma giáo được HCM xử dụng để triệt hạ các lực lượng đối kháng với ông. Khoảng cuối năm 1946, trong buổi họp để hòa giải sự xung đột giữa Việt Minh và dân quân Dân Xã đảng thuộc Hòa Hảo, ông Mai Văn Dậu, bí thư của Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, đứng lên tố cáo (Trích tiểu luận Đức Thầy còn hay mất, tác giả P.T.A.Đ., mạng quanvan.net): “Cơ quan VM điều khiển các UB Hành chánh Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ đã ngấm ngầm ra lệnh tiêu diệt tất cả nhà cửa ở các xóm theo Phật giáo Hòa Hảo, còn nhà của cán bộ CS thì tìm cách để lại”. Kể làm thí dụ, ông Mai Văn Dậu nói: “Cán bộ VM áp dụng lịnh trên một cách quá dại dột nên làm cho lòng người đều uất hận vì trong một xã có trên 400 nhà mà chỉ có nhà của bọn VM là không bị phá. Anh em bên Dân Xã cương quyết chống đối! Do đó, các chi đội võ trang chống Pháp của Dân Xã phải đến giúp đỡ các đảng viên đồng đạo chống lại việc đốt phá nhà cửa của VM”.

Ở giáo khu Phát Diệm, vào năm 1947, cũng xảy ra nhiều vụ xung đột giữa VMCS và quân Tự vệ của giáo khu. Trong quyển Giám Mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm 1945–1954, hai tác giả Đoàn Độc Thư và Xuân Huy kể rằng Việt Minh đã dùng đủ mánh khoé gian dối để phá Khu An toàn Phát Diệm song vẫn thất bại. Hai vị đồng tác giả viết (tr. 188 sđd): “Sau cùng chúng đưa bộ đội khá đông về đóng ở Kim Sơn để dùng áp lực mà thi hành cho bằng được lệnh Tiêu thổ tản cư”. Chúng chia nhau đóng các nhà dọc phố Thượng Kiệm, Phú Vinh, Phát Diệm, Lưu Phương bờ sông bên kia, viện cớ án ngữ phòng khi quân Pháp tấn công. Tương kế tựu kế, Đức Cha Cố vấn cũng viện cớ hợp tác chống Tây, phái lực lượng Tự vệ đóng dọc các phố bên này sông. Có sự hiện diện của đoàn quân Tự vệ, mọi người thêm can đảm và cứ ở lại không bỏ nhà. Không phá được nhà dân, VM bày ra cách phá các nhà lầu và nhà xây viện cớ rằng quân Pháp sẽ dùng làm chỗ đóng quân. Nhưng dân cương quyết giữ không cho phá và hăm dọa sẽ cho đi tàu suốt những tên nào dám đụng tới nhà của mình.

Như sự việc vừa được trình bày, chỉ có dân quân Dân Xã Đảng của Phật giáo Hòa Hảo ở vài tỉnh miền Hậu Giang và quân Tự vệ ở giáo phận Phát Diệm là lực lượng võ trang bảo vệ người dân chống trả việc VM đốt phá nhà cửa, nhưng ở các vùng khác trên toàn quốc, HCM như kẻ múa gậy vườn hoang, cứ tha hồ đập đổ đốt phá để bần cùng hóa người dân. Còn việc phá đình, phá chùa, phá nhà thờ, để dân không thờ Thần thờ Phật thờ Chúa nữa, chính là kế sách nằm trong chủ thuyết duy vật vô thần mà ông đã học được do Sư phụ Stalin truyền dạy! Bên trời Tây, Sư phụ Stalin nhìn về phương Đông thấy đất Việt khói lửa bốc lên ngất trời ắt cũng vui mừng mãn nguyện thấy người học trò HỌ HỒ TÊN LIN của ông đã thuộc bài bản!

Chuyện Đại tướng phụ trách việc đặt vòng

Đó là chuyện Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “Người hùng Điện Biên Phủ”, người đã chiến thắng quân Pháp đưa đến việc k‎ý Hiệp ước Genève, và đưa HCM về Bắc Bộ phủ để làm chủ miền Bắc của Đất nước từ sông Bến Hải trở ra. Về mặt quân sự, chiến thắng của Võ Nguyên Giáp bị mờ nhạt đi phần nào vì có sự trợ lực của tướng Vi Quốc Thanh và tướng Lã Quý Ba của quân đội Trung Cộng mà Đảng cố sức giấu nhẹm. Về mặt chính trị, chủ quyền Đất nước từ Nam chí Bắc lúc đó đã nằm gọn trong tay Chính phủ Quốc gia Việt Nam ở Sài Gòn (ngoại trừ những ATK tức An Toàn khu ở Việt Bắc do Việt Minh Cộng sản chiếm giữ). Nền độc lập và thống nhất của Đất nước đã do Quốc trưởng Bảo Đại thu hồi trọn vẹn qua đường lối ngoại giao khôn khéo và chính trị ôn hòa bằng Hiệp ước Élysée ký với Tổng thống Pháp Vincent Auriol. Theo Cao trào Giải thực cùng với Quyền Dân tộc Tự quyết đang được đề cao do Hoa Kỳ chủ xướng, Anh Quốc và Hoà Lan hưởng ứng trước nhất, nên sau Đệ nhị Thế chiến, các thuộc địa sau đây lần lượt được Độc lập: - Phi Luật Tân độc lập ngày 4-7-1946; - Ấn Độ độc lập ngày 15-8-1947; - Miến Điện độc lập ngày 4-1-1948; - Nam Dương độc lập ngày 27-12-1947; - Mã Lai độc lập ngày 27-12-1947; - Tân Gia Ba (tách ra khỏi Mã Lai) độc lập ngày 9-8-1949

Nước Pháp, tuy chậm chạp, nhưng rồi cũng hưởng ứng Cao trào Giải thực toàn thế giới. Cho nên Tổng thống Vincent Auriol đã k‎ý Hiệp ước với ba vị nguyên thủ Việt Miên Lào là Quốc trưởng Bảo Đại, Quốc vương Sihanouk và Hoàng thân Sisavangvong để trao trả độc lập cho ba nước Đông Dương: - Việt Nam độc lập ngày 8-3-1949; - Ai Lao độc lập ngày 20-7-1949; Cao Miên độc lập ngày 8-11-1949

Theo những điều luận giải trên, sau ngày 8-3-1949, sự hiện diện của Quân đội Pháp ở Đông Dương chỉ còn là những ngày tháng phù du, cho nên dù không có chiến thắng Điện Biên Phủ, bằng đường lối ngoại giao khôn khéo, quân Pháp rồi cũng sẽ có ngày hồi hương. Thật đúng vậy, vào thời điểm đó, các nước Anh và Hòa Lan đã trả độc lập cho thuộc địa của họ và quân đội của họ đã hồi hương từ lâu rồi! Quân đội Pháp cũng phải làm như thế mà thôi! Ví thử chúng ta tránh được chiến tranh Việt Pháp, chúng ta cũng không cần có chiến thắng Điện Biên Phủ, do đó chúng ta đâu có cần phải nhờ quân viện và quân đội Trung Cộng sang trợ lực, và nếu được như vậy, đó chính là thượng sách mang đại phúc hạnh cho Dân tộc! Giải pháp HCM đánh Pháp bằng viện trợ của Trung Quốc và bằng máu xương của Dân tộc nhất định không phải là thượng sách, trung sách, hay hạ sách gì cả. Đó không phải là Kế sách của Dân tộc. Than ôi, đó chỉ là Thất sách của HCM mà thôi!

Tuy nhiên, có trận Điện Biên Phủ thì chúng ta phải nhắc tới tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là biểu tượng huy hoàng của chiến thắng Điện Biên Phủ. “Nhất tướng công thành vạn cốt khô!” người xưa đã nói như vậy, cho nên trong chiến thắng Điện Biên Phủ có phần đóng góp và hy sinh vô cùng to lớn của Bộ đội Việt Nam. Biết bao nhiêu bộ đội đã bị thương tật và hy sinh tánh mạng trong chiến trận đó. Ở hậu phương còn có biết bao nhiêu dân công đã lao lực suốt ngày đêm để cung cấp cho tiền tuyến. Sự huy hoàng của chiến thắng đó được HCM lợi dụng. Trong Đợt Sửa sai sau cuộc CCRĐ, HCM đã mượn uy danh của Đại tướng họ Võ thay ông để thú nhận những sai lầm và xin lỗi đồng bào trong buổi mít tinh lớn tại Nhà hát Nhân dân Hà Nội ngày 29-10-1956. Vào thời điểm đó, trước sự căm hờn sôi sục của cả trăm ngàn người bị giết oan, HCM là chính phạm mà đã hèn nhát không dám ra mặt, phải nhờ Đại tướng Giáp thay mình.

Nhưng than ôi, đến cuối đời Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị loại ra khỏi Bộ Chính trị (năm 1982) và còn bị hạ nhục (Trích Việt sử đương đại của Giáo sư Nguyễn Ngọc Phách, tr. 209): “Ngay trước Lễ Kỷ niệm lần thứ 30 Chiến thắng Điện Biên Phủ (tức là năm 1984), Lê Đức Thọ đề nghị Chính phủ giao cho Tướng Giáp giữ Bộ Kế hoạch hóa Gia đình, tức là gánh việc cấm đẻ mà nếu cấm không xong thì phá thai – một chuyện truyền thống ta xem cực kỳ thất đức!” Than ôi! Đề cử một vị tướng lẫy lừng ngoài chiến trận vào chức vụ kiểm soát sự thao tác của vợ chồng trong phòng the tức là việc phòng ngừa sinh đẻ! Sự đề cử ấy quá ư vụng về, nếu không nói là ác ‎ý và hạ nhục! Và đấy cũng là một cuộc đảo lộn Sơn hà nho nhỏ! Vị “Anh hùng Điện Biên Phủ” chấp nhận công tác. Nhưng dân gian thì bất bình, ghi vào bia miệng những câu vè bất nhã: “Ngày xưa Đại tướng cầm quân. Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em!”. Câu sau đây tả chân trắng trợn và bất nhã hơn: “Ngày xưa đả viện công đồn. Ngày nay Đại tướng bịt l. cản cu!”

Những câu vè không đẹp nầy có bôi tro trát trấu lên mặt vị Đại tướng hay không, xin hãy để dân gian trả lời! Nhưng khi Đảng hạ nhục Đại tướng, Đảng đã tự bôi tro trát trấu lên mặt mình, cho nên Đảng cũng không vinh quang hơn t‎‎ý nào! Bây giờ, chúng ta không khỏi không thương cảm vị Đại tướng về già mà phải cảnh vắt chanh bỏ vỏ. Tuy ông không bị trù dập tệ hại như Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, nhưng ông đã đánh mất phong độ uy dũng của vì tướng và Đảng đã không dành tí ti vinh quang nào cho buổi về chiều của đời ông! Đảng đã vong ân bội nghĩa, Đảng đã cạn tàu ráo máng giống y khuôn vị Chủ tịch sáng lập ra Đảng! Thiết nghĩ, giả thử Đại tướng Võ Nguyên Giáp không may bị quân Pháp vây bắt được trong một chiến trận nào đó, hẳn nhiên trong ngục tù của Pháp, Đại tướng vẫn giữ tròn danh dự và không bị hạ nhục như các “đồng chí của ông” đã đối xử với ông! Chủ tịch HCM và Đảng đã vong ân bất kính đối với những người có công như Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đối với những bộ đội đã bị thương tật, và nhất là đối với vong linh những người đã hy sinh trong chiến trận. Còn nói chi đến việc yêu nước thương dân! Còn nói chi đến việc kinh bang tế thế làm cho nước giàu dân mạnh! Nhưng Đảng là sản phẩm của HCM và HCM suốt đời chỉ lo xây dựng Đảng và xử dụng Đảng để sát hại Dân tộc và tàn phá Đất nước. Nhìn sản phẩm, ta biết người. HCM chỉ là chính trị gia tồi tệ.

Chuyện giặc Tàu, giặc Pháp, giặc Hồ

Trong Lịch sử Việt Nam, ngoài những đám giặc cỏ như giặc Châu Chấu, giặc Cờ Đen, giặc Cờ Vàng, v.v… có ba loại giặc lớn là Giặc Tàu, Giặc Pháp, và Giặc Hồ. Những bài văn sau đây nói về ba loại giặc đó, xin mời quý bạn đọc. Bài văn thứ nhất:

“Vì họ Hồ (tức Hồ Qu‎‎ý Ly) chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước đối đủ muôn nghìn khoé, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên.

Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được”.

Đó là bài văn thứ nhất, và sau đây là bài văn thứ hai, mời quý bạn đọc tiếp: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân... Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân một cách vô cùng tàn nhẫn...”

Kính thưa quý độc giả, hai bài văn đó được viết cách nhau một khoảng thời gian dài trên 500 năm. Đoạn văn đầu được trích từ áng văn đẹp tuyệt vời trong lịch sử Việt Nam, bài Bình Ngô Đại Cáo, do Nguyễn Trãi soạn thảo năm 1427 sau khi Bình Định Vương Lê Lợi quét sạch tan giặc nhà Minh sang xâm chiếm nước ta. Bản văn diễn tả cảnh lầm than khốn khổ của dân ta trong 20 năm bị nhà Minh bên Tàu cai trị (từ năm 1407 đến 1427). Đoạn văn thứ hai trích từ bản Tuyên ngôn Độc lập của HCM đọc ngày 2-9-1945 diễn tả cảnh tàn ác, tham lam, giết hại dân lành của Thực dân Pháp trong 80 năm Pháp thuộc!

Bây giờ, mời qu‎ý bạn đọc bản văn thứ ba, được trích dẫn từ bài “VN 32 năm dưới chế độ Cộng sản”. Tác giả là một Kỹ sư Công chánh, nhân chuyến về thăm Việt Nam, đã ghi lại những điều vụn vặt mắt thấy tai nghe dưới bút hiệu Phó Thường Dân và gởi bài đăng trong Nguyệt san Hồn Việt (Số 296, tháng 5-2008).

“Tôi thấy ở Sài Gòn với hiện tượng “tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê… Chưa thoả mãn, ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự này chắc chắn không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy… Còn nhiều… rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhản ở khắp Sài Gòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự ở vườn Tao Đàn, nhà cấp cho viên giám đốc, mặt tiền ngó vào trong, mặt hậu nhìn ra phía đường, bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi… Ngang ngược và lộng hành nhất là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương Minh K‎ý, đường Trần Hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay góc phải sân trường, ăn cướp một phần sân chơi của học sinh… Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công an. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà, không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an?”

Tác giả Phó Thường Dân viết “Không lẽ công an xử công an” và nhắc lại lời cố Trung tướng Trần Độ viết trong Nhật k‎ý Rồng rắn, cũng tương tự như vậy: “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống Đảng sao?”.

Lịch sử là chuyện lặp đi lặp lại những sự việc trong quá khứ. Thời buổi nào cũng có chuyện cá lớn nuốt cá bé, chuyện mạnh ăn hiếp yếu, chuyện cường hào ác bá hiếp đáp dân lành! Bài văn thứ nhất tả cảnh giặc nhà Minh bên Tàu sang hiếp đáp dân ta. Bài văn thứ hai, HCM nói về sự ác độc của Thực dân Pháp. Bài văn thứ ba nói về sự lộng hành chiếm đoạt đất công của công an và quan chức đỏ ngay tại Sài Gòn. Cần nhắc lại là sau khi cưỡng chiếm miền Nam, những chính sách “Học tập Cải tạo”, “Xây dựng vùng Kinh tế mới” v.v… chỉ là những thủ đoạn ăn cướp nhà cửa của cải của người dân. Sau đợt chiếm đoạt tài sản của tư nhân xong, công an và quan chức đỏ, tức là Đảng, quay sang chiếm đoạt đất công cộng, lề đường, công viên, đến sân chơi của học sinh cũng không chừa! Tựu trung, ba bài văn nói đến ba loại giặc, Giặc Tàu, Giặc Pháp, Giặc Hồ, tất cả chỉ là chuyện kẻ có quyền thế cướp đoạt của người dân thấp cổ bé miệng, nhưng xét cho thấu đáo, hiển nhiên trong trận Giặc Hồ, đảng viên Đảng CS do HCM thành lập, toàn là người Việt, mà sao lại tham tàn hơn quân của Tô Định, ác độc hơn quân nhà Minh, và phá hoại hơn Thực dân Pháp ngày xưa!

Đảng đã phá hoại Đất nước triền miên. Xin được thêm vào thành tích phá hoại mới nhất của Đảng, việc phá Tòa Khâm sứ Hà Nội. Sau Mùa Bịt miệng 2007 ô nhục, tiếng xấu vang xa khắp thế giới, thì đến năm 2008, là Mùa phá Tòa Khâm sứ Hà Nội, ô nhục chất chồng ô nhục! Vụ Tòa Khâm sứ Hà Nội (số 40-42 đường Nhà Chung) và Giáo xứ Thái Hà (số 178 đường Nguyễn Lương Bằng) ẩn tàng nhiều uẩn khúc. Đem tất cả ra ánh sáng chân l‎ý, đầu dây mối nhợ dẫn đến thủ phạm của sự việc, hóa ra chỉ là lòng tham của các Quan chức đỏ, những người mà nữ sĩ Dương Thu Hương gọi là những “Bự giòi”. Tòa Khâm sứ Hà Nội là một tòa nhà trên mảnh đất 2 mẫu rưỡi ở đường Nhà Chung đó. Trên con đường mang tên Nhà Chung (danh từ riêng, viết hoa) có ngôi nhà trước đây được dùng làm dinh thự của Đức Khâm sứ, vị Đại diện Tòa thánh Vatican. Ngôi nhà này được thiết lập trên 100 năm, thật lâu trước khi đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Đến năm 1954, đảng CS chiếm đoạt khu đất nầy. Từ năm 1994, Tòa Khâm sứ bị biến thành ổ giải trí Karaoke của một số lãnh đạo quận Hoàn Kiếm.

Tổng Giám mục và Giáo dân Hà Nội đã lên án sự chiếm hữu đất tôn giáo làm của riêng và yêu cầu Đảng trả lại đất. Giáo dân ngày đêm đến cầu nguyện trước Thánh giá và tượng Đức Mẹ dưới gốc cây cổ thụ trong khuôn viên Tòa Khâm sứ. Thành ủy Hà Nội ra lịnh cơ quan công quyền giải tán đám giáo dân cầu nguyện đòi đất, đòi Tòa Tổng Giám mục dời Thánh giá và tượng Đức Mẹ. Giáo dân cũng không vừa, càng tới cầu nguyện đông hơn và nhất định không di dời tượng. Không chịu thua, Đảng thẳng tay đàn áp, dùng dùi cui, hơi cay, dùng cả roi điện đánh đập giáo dân một cách dã man, có lúc Đảng lại còn cho du đãng giả dạng thường dân và xử dụng “chó nghiệp vụ” lâm trận. Xem đấy, “Cuộc Chiến tranh của HCM đánh Dân tộc” nào có ngưng vào ngày 30-4-1975 đâu! Vẫn còn đánh mãi!

Để rút ngắn câu chuyện, bên giáo dân thấp cổ bé miệng của Giáo phận Hà Nội có đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt trợ lực, cùng sự ủng hộ của đồng bào thân thương khắp nơi trên thế giới, và nhất là có Chính nghĩa quyết tâm đòi lại ngôi nhà cũ ôm ấp đầy kỷ niệm cả trăm năm dài. Trái lại, bên UBND quận Hoàn Kiếm, có quyền có thế, có lòng tham thúc đẩy, và có giá đất mắc hơn vàng làm chất xúc tác, nhưng lại đuối l‎ý. Không phân lô bán đất được, Đảng bèn chơi trò “không ăn thì phá cho hôi”. Chiều ngày 18-9-2008, Đảng công bố dự án xây dựng công viên trên miếng đất đó. Ngay trong đêm, ví như đám cưới chạy tang, Đảng mang hàng rào ngựa sắt và kẽm gai cô lập khu vực Tòa Khâm sứ và cho xe cơ giới tới ủi sạch các công trình phụ (xây về sau) và biến Tòa Khâm sứ thành công viên. Vài tuần sau, ngày 25-9-2008, Linh địa Giáo xứ Thái Hà cũng bị nhà cầm quyền thành phố Hà Nội đưa phương tiện cơ giới đến san bằng và biến thành công viên thứ hai.

Trong lịch sử loài người, duy nhất chỉ có nhà nước CHXHCN Việt Nam là sắp xếp việc xây dựng công viên cách trộm lén vào ban đêm mà thôi, một thành tích đáng hổ thẹn, gây tủi nhục cho cả Dân tộc 4000 năm văn hiến! Nhớ lại khi đức Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt phát biểu một câu nói để đời: “Chúng tôi rất nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam”, Ngài đã nói lên sự thật. Ngài không nói riêng cho Ngài, Ngài không nói riêng cho giáo dân Hà Nội, mà Ngài đã dũng cảm đứng lên nói thay cho “tám mươi lăm triệu người dân Việt”. (Chú thích*: Các đoạn trên đây, chúng tôi xin phép sửa lại chút ít. NBT)

Nhân sự cố nầy, ta có thêm một bằng chứng “Đảng gian mà không ngoan!”. Việc xây dựng thêm một công viên trên khu đất Tòa Khâm sứ là hoàn toàn vô l‎ý, vì ngay gần đó, chỉ cách vài trăm mét, hiện đang có một khu công viên rộng lớn đang bị bỏ hoang phế. Đó là Công viên Văn hóa Đống Đa, nằm ngay trên khu di tích lịch sử gò Đống Đa. Công viên được thành hình vào năm 1989, nhân dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng oanh liệt của vị anh hùng Nguyễn Huệ. Khu công viên Đống Đa có tổng diện tích trên 21 ngàn mét vuông, có tượng vua Quang Trung và có nhà trưng bày di vật lịch sử. Hiện toàn bộ công viên đang bị bỏ hoang, cỏ dại tràn ngập, những cây cổ thụ qu‎ý giá thì bị cán bộ đảng viên vào cưa trộm giống như lâm tặc. Than ôi! Cây phải trăm năm, nghìn năm mới nên cổ thụ, đốn cây lâm tặc chỉ cần một giờ! Đảng viên của Đảng phá hoại Đất nước ngay trong lòng Hà Nội nghìn năm văn vật, cái nôi của nền Văn hóa Việt! Thật vô cùng nhục nhã!

Để có đủ dữ kiện viết Chuyện phá Tòa Khâm sứ trên đây, người viết xin cảm tạ các tác giả và các báo mà người viết đã tham khảo: Trần Hùng, Trung Điền, Nguyễn Bình, Ngô Đức Diễm, Trần Khải Thanh Thủy (bài đăng trong Nam Úc Tuần báo, Adelaide) và Nguyễn Thái Hà, Đỗ Mạnh Tri, Hoàng Cúc, Hiếu Minh (bài đăng trong Bán nguyệt san Tự do Ngôn Luận, báo biếu tặng, phát hành ở Sydney).

Hai tháng sau khi phá Tòa Khâm sứ Hà Nội, Việt Cộng ra tay tàn phá chùa Phật Tích ở Bắc Ninh, ngôi chùa cổ đã có một ngàn năm lịch sử! Ngày tang tóc là 23-11-2008! Ngày tang tóc cũng là ngày ô nhục! Vô cùng ô nhục! Vì chính ngay ngày đó, khi Phái đoàn Khảo cổ Quốc tế gồm các nhà nghiên cứu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan, Pháp, Bỉ từ Hà Nội đến Bắc Ninh để tham quan chùa, thì than ôi! ngôi chùa đã biến mất, chỉ còn trơ lại đống gạch vụn điêu tàn! Tượng Phật cùng cổ vật xưa ngàn năm trong chùa bị vất ngổn ngang!

Chùa Phật Tích được xây dựng vào năm 1057 với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa tọa lạc dưới chân núi Phật Tích, còn gọi là núi Lạn Kha hay non Tiên, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1066, vua L‎ý Thánh Tông cho xây một cái tháp cao. Khi tháp đổ, bên trong lộ ra bức tượng A Di Đà bằng đá xanh dát vàng. Pho tượng xuất hiện quá kỳ diệu khiến làng đổi tên là Phật Tích và dời cả lên sườn núi. Chùa là một đại danh lam có quang cảnh tươi đẹp nên các vua L‎ý và vua Trần thường tới lui thăm viếng. Vua Trần Nhân Tông cho xây một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Đời vua Trần Nghệ Tông, khoa thi Thái Học sinh (Tiến sĩ) được tổ chức tại chùa. Đời vua Lê Hiển Tông, một đại yến hội được mở tại đây.

Ngàn năm dài trôi qua, chùa bị hư hại đổ nát nhưng luôn luôn được trùng tu. Dưới triều Lê, chùa được tu bổ và xây dựng lại với quy mô rộng lớn và đổi tên là Vạn Phúc Tự. Cho tới nay, chùa gồm 7 gian tiền đường để đón tiếp khách, 5 gian bảo điện thờ Phật Thích Ca, A Di Đà, cùng các vị Tam Thế, 8 gian nhà Tổ, và 7 gian thờ Thánh Mẫu. Năm 1962, chùa Phật Tích được công nhận là “Di tích Lịch sử Văn hóa”. Phái đoàn Khảo cổ Quốc tế nói trên đến Việt Nam để nghiên cứu về Hoàng thành Thăng Long. Theo Vietnamnet thì ngày 23-11-2008, Viện Khoa học Xã hội VN tổ chức mời và đưa phái đoàn đến tham quan và nghiên cứu chùa. Nào ngờ, khi phái đoàn đến nơi thì chùa Phật Tích không còn nữa, chùa đã bị phá tan thành bình địa! Phá sập chùa Phật Tích thật là hành vi xúc phạm thô bạo Luật Di sản Văn hóa.

Lại thêm một tin buồn muốn khóc! Dân tộc còn đang đau khổ với vết thương “Phá Chùa Phật Tích”, ngôi cổ tự một ngàn năm lịch sử, thì Đảng của HCM lại chém Dân tộc thêm một nhát đau thương nữa. Năm tháng sau đó, khoảng tháng 4-2009, đến phiên Đền Rồng thờ L‎ý Chiêu Hoàng (vị Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử VN) ở làng Đình Bảng, tỉnh Bắc Ninh bị đập phá tan tành, chỉ còn lại cái cổng chào! Đền Rồng được xây cất vào cuối thế kỷ 13, đời vua Trần Nhân Tông (1281) và cũng được công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa! Nhớ lại năm xưa, khi cơ quan UNESCO của Liên Hiệp Quốc quyết định KHÔNG đề cử HCM vào Danh sách Danh nhân Văn hóa Thế giới, thật là một quyết định sáng suốt. Giả sử “Bác Hồ nhà ta” được bình bầu là Danh nhân Văn hóa Quốc tế và được Quốc tế trọng vọng, thật không biết Dân tộc Việt Nam làm sao gánh nổi cái khối Ô nhục vĩ đại này!

Đức Phật có nói: “Nhân nào quả nấy”. Suy ra người hiền gieo nhân lành thì được quả đẹp! Nhưng con người ác tâm như HCM thì khác. Hơn 50 năm trước, HCM đã gieo hạt giống “trộm cướp” vào ngành công an với kẻ “đầu trộm đuôi cướp” Trần Quốc Hoàn trong chức vụ Bộ trưởng trong 27 năm dài! Ý niệm “Thượng tôn pháp luật” là hạt giống lành vô cùng cần thiết và qu‎ý trọng để xây dựng Đất nước thì Chủ tịch HCM lại chẳng màng. Hãy xem Tiến sĩ Luật Khoa Nguyễn Mạnh Tường, ở ngay Thủ đô Hà Nội, mà bị trù dập phải sống trong cảnh bần hàn cùng cực. HCM đã xây dựng Chế độ Công an trị và ông đã thành công, thành công, đại thành công. Đi vào lịch sử, HCM thật xứng danh là TÊN GIẶC CƯỚP NƯỚC và BÁN NƯỚC, còn bàn chi đến chuyện “Chính trị gia tồi tệ hay không tồi tệ”!

Ở Úc Châu vào năm 2007, Luật sư Đào Tăng Dực, thuộc hai thế hệ sau Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, trong bài viết “Đánh giá di sản ông HCM qua hiện tình Đất nước” (Bán tuần báo Việt Luận, số 2158, ngày 20-4-2007) đã có nhận xét đáng buồn cho Đất nước và Dân tộc như sau: “Chỉ riêng tại Việt Nam, quân đội và công an mang tiếng là của nhân dân, nhưng kỳ thực chỉ là những tên đầy tớ trung thành của một đảng cướp có võ trang mà thôi. Một trong những tội lớn nhất của hậu duệ của ông HCM là biến bản chất anh hùng và bất khuất của quân đội thành những tên nô bộc của một chế độ độc đảng.”

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường chất vấn Đảng năm 1991, tức là 22 năm sau khi HCM qua đời. Đến năm 2007, khi Luật sư Đào Tăng Dực viết bài về Di sản HCM thì ông Hồ đã mất 38 năm trước. Định hướng sai lầm về chính trị của HCM được Luật sư Đào Tăng Dực viết trong đoạn kết như sau: “Hiện tình đất nước như thế phát xuất từ quyết định của ông HCM, vào năm 1925, gia nhập phong trào quốc tế, thay vì noi gương các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và các lãnh tụ quốc gia kháng Pháp. Không có ông Hồ thì đất nước chúng ta ngày hôm nay đã qua mặt Thái Lan, Mã Lai và ít nhất cũng đã sánh vai cùng Nam Hàn, Đài Loan, Hồng Kông, và Nhật Bản. Bước đi sai lầm của ông Hồ đã di họa cho nhiều thế hệ Dân tộc Việt Nam là như thế”.

Chỉ vì một ngàn quan!

“Ôi! Chỉ vì một ngàn quan!”, tiếng than thống thiết của Dân tộc tám mươi triệu người! (trừ số đảng viên Cộng sản, dĩ nhiên). “Một ngàn quan”, đó là số tiền Đảng Cộng sản Pháp cấp cho đảng viên Nguyễn Ái Quốc làm lộ phí để đi Liên Xô dự Đại hội V của Komintern. Vào thập niên 1920, một ngàn quan là số tiền khá lớn. Bằng ấy tiền, một du học sinh ở Pháp có thể sống trong 5 tháng. Hãy xem thân phận của HCM lúc còn mang tên Nguyễn Tất Thành. Vào lúc đó, ở Paris có một nhóm người viết bài và truyền đơn tranh đấu bằng tiếng Pháp và k‎ý tên chung “Pour le groupe des Patriotes Annamites: Nguyen le Patriote” (tạm dịch “Thay mặt Nhóm Người An Nam yêu Nước: Nguyễn Ái Quốc”). Nhóm viết bài đó thường được gọi là Ngũ Long gồm có Phó bảng Phan Châu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Kỹ sư Nguyễn Thế Truyền, Cử nhân Luật Nguyễn An Ninh, và người thứ năm là HCM lúc đó còn mang tên Nguyễn Tất Thành, mới học xong bậc Tiểu học, đang học Đệ nhất niên Trung học thì bỏ học. Xin viết thêm, Phan Văn Trường là người Việt Nam đầu tiên đậu Tiến sĩ Luật ở Pháp năm 1918, còn Nguyễn An Ninh đã học luật ở Đại học Hà Nội, vừa sang Pháp được 4 tháng, gặp đúng kỳ thi Cử nhân Luật, ông nạp đơn thi và được chấm đậu. HCM, với học lực bậc Tiểu học thấp kém như vậy, cho nên từ lúc đặt chân lên đất Pháp năm 1911, lưu lạc ở Anh và Hoa Kỳ, rồi sau trở về Pháp, ông không làm được công việc gì vẻ vang. Dù ở nơi nào, ông cũng chỉ làm lao động tay chân như bồi tàu, giúp việc nhà (tức là làm “osin”), phụ bếp, rửa chén bát kiêm đổ rác, thợ làm bánh, cào tuyết mùa đông (chỉ làm được 1 ngày rồi bỏ việc), thợ đốt lò, rửa hình và tô ảnh phóng đại, ông lại thú nhận có nghề làm đồ cổ giả để gạ bán cho các bà đầm Pháp, một thời gian dài được ở nhờ nhà Luật sư Phan Văn Trường, số 6 Villa des Gobelins, khỏi trả tiền thuê. Với lối sinh nhai bấp bênh như vậy, số tiền “một ngàn quan” hẳn là một món quà tặng quá lớn làm chuyển hướng đời ông.

Vào thuở đó, trong số mấy ngàn Việt kiều sinh sống ở Paris, Bác Hồ chỉ là “chú Nguyễn Tất Thành” lục lục thường tài, vô danh tiểu tốt. “Chú” không làm Chủ tịch đảng chính trị nào, “Chú” cũng không làm Hội trưởng hội Ái hữu nào để được nổi bật hơn ai, như trên đã diễn tả. Nhưng trong quyển Vừa đi đường vừa kể chuyện viết dưới ẩn danh T. Lan, “Bác HCM” đã nâng cấp cho “chú Nguyễn Tất Thành” lên thành một chính khách lỗi lạc, đáng mặt thượng khách của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp. Xin trích dẫn T. Lan và mời qu‎ý bạn đọc:

“Hồi đó Bác trọ nhà Luật sư Phan Văn Trường ở Pa-ri. Buổi sáng thì đi làm nghề tô ảnh phóng đại để lấy tiền ăn. Buổi chiều thì hoạt động cách mạng. Chánh phủ Pháp cho hai tên mật thám đêm ngày theo dõi Bác… Một buổi trưa đi làm về, bà giữ nhà đưa cho Bác một bức thư. Mở thư xem thì ra của quan Thượng thư thuộc địa mời Bác đến gặp. Cách vài hôm sau, Bác đi gặp y”.

“Trong phòng khách của Bộ Thuộc địa, một bầy người Pháp “tai to mặt lớn” đang nhô nhố chờ đến phiên mình được “quan thượng” gọi vào. Nhưng Bác không phải chờ, vừa đến thì liền có ông già mang xiềng bằng bạc (người truyền đạt ở các cơ quan cao cấp) mời vào ngay”.

Nhớ lại chuyện xưa, lúc vừa đặt chân lên đất Pháp năm 1911, Bác liền viết đơn cầu xin “quan thượng” thương tình cho vào học Trường Thuộc địa của “quan thượng”. Lá đơn sai lỗi chính tả đó chưa chắc được lọt vào mắt của “quan thượng” (Xin xem lại Chương 3 HCM, kẻ mang tên giả). Ấy thế mà 9 năm sau, Bác bỗng trở thành thượng khách của “quan thượng”, được “quan thượng” viết thư mời, và khi Bác đến thì được mời vào ngay. Bác không phải chờ, chỉ có “một bầy người Pháp tai to mặt lớn” đến trước Bác phải chờ mà thôi! Ôi, Bác thật có tài phịa chuyện nói phét! Nhưng bạn đọc thân mến ơi, điều tệ hại là Bác đã đi xa về khoác lác với những dân quê suốt đời không ra khỏi lũy tre làng!

Lúc đó, Bác là đảng viên đảng Xã hội Pháp do Nguyễn Thế Truyền giới thiệu gia nhập. Trong Đại hội Tours (từ 25 đến 30-12-1920), Bác bỏ phiếu gia nhập Đệ tam Quốc tế của Lenin vừa mới thành lập, do đó đảng Cộng sản Pháp được thành hình, và Bác bỗng trở thành Hội viên Sáng lập đảng CS Pháp, điều làm cho các văn nô ở Bắc Bộ Phủ rất hãnh diện. Xét cho cùng, hành động “bỏ phiếu” để xin gia nhập Đệ tam Quốc tế cũng không nặng nhọc gì! Bác cũng không tốn mồ hôi, đổ xương máu chút nào để xây dựng đảng Cộng sản Pháp. Ngược lại, Bác còn được Đảng tặng một ngàn quan! Như chiếc đũa thần của Bà tiên đã biến cô bé Lọ Lem thành nàng công chúa diễm lệ, số tiền một ngàn quan ấy cũng được ví von như vậy. Một ngàn quan đó đã đưa HCM lên đài danh vọng. Hãy đọc quyển Bác Hồ trên đất nước Lê-Nin của tác giả Hồng Hà để xem Bác thoát xác ra sao. Đang là một người lao động tay chân, Bác Hồ bỗng trở thành nhân vật quan trọng:

“Chuyến xe lửa Pa-ri đi Béc-lin rời ga Đuy No vào lúc tối. Trên toa hạng nhất có một thanh niên châu Á ngồi cạnh chiếc va-li con rất mới, đang hút xì gà. Đầu anh chải mượt, sơ-mi trắng, cổ cứng may cao, ca-vát thắt để lộ rõ cả vòng cổ, đúng thời trang châu Âu sau chiến tranh thế giới. Trông anh có vẻ là một nhà buôn Trung Quốc giàu có hoặc là một khách du lịch Nhật Bản sang trọng… Anh chính là Nguyễn Ái Quốc…”

Với “một ngàn quan” trong túi, khi đến đất Đức, Bác bỗng trở thành triệu phú. Trong quyển Vừa đi đường vừa kể chuyện, Bác đóng vai T. Lan và kể như sau: “Tuy sau chiến tranh đã sáu năm, ở Bá Linh vẫn đói kém dữ (có lẽ ở các nơi khác cũng vậy). Người nào cũng có vẻ xanh xao, vàng vọt! Nạn lạm phát giấy bạc thật là kinh khủng, sớm một giá, chiều một giá khác. Đưa giấy bạc mua một tờ báo thì số giấy bạc chắp nhau lại, rộng hơn tờ báo. Cả gia tài Bác chỉ vẻn vẹn hơn 1.000 quan Phơ-răng, vậy mà tính ra tiền Đức, Bác đã trở thành người giàu bạc triệu!”

Cộng sản Đệ tam Quốc tế đã mở bàn tay nhung ôm ấp HCM. Số tiền “một ngàn quan” chỉ là bước khởi đầu, sau đó còn biết bao nhiêu ân sủng nữa. Thí dụ như thuyền trưởng chiếc tàu chở ông đến đất Nga thấy ông bị lạnh nên mới cho ông mượn cái áo choàng bằng lông thú và bảo với ông là “cứ giữ lấy mà mặc đến khi nào không dùng nữa thì thôi”. Áo lông thú không phải là vật rẻ tiền, Trần Dân Tiên đã khoe như vậy để chứng tỏ ông là người được trọng vọng.

Nữ Tiến sĩ Quinn-Judge khi trả lời đài BBC về câu hỏi vị trí của HCM lúc ông còn là đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp, câu trả lời của bà có thể tóm gọn “…Ông Hồ dường như bắt đầu học cách hợp tác với bất kỳ ai đang nắm quyền lực và học cách theo đuổi những quan tâm của riêng mình”. Đến đây, xin đọc bức thư của Phan Châu Trinh viết ở Marseille ngày 18-2-1922 gởi cho ông ở Paris lúc ông còn mang tên Nguyễn Tất Thành (Trích Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, tác giả Tiến sĩ Thu Trang, tr.176):

“Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (tức Phan Văn Trường) đàm đạo nhiều việc, mãi đến bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi… Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư (Karl Marx), ông L‎ý Ninh (Lénine)… Cứ xem hai ông Mã, L‎‎ý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự cho mình, như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ l‎‎ý thuyết hai ông ấy thì anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải là cái phương pháp hay biết chừng nào”.

9 chữ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” trong thư cụ Phan là kế hoạch 3 mặt phát triển, bồi dưỡng và chấn hưng Dân tộc trong Quốc sách Duy tân mà Đất nước cần theo đuổi để cho kịp các nước Tây Phương, nhưng HCM lại chẳng màng. Còn chủ nghĩa Mác Lê ông tôn thờ, thì ông giữ kín trong tâm không lộ cho ai biết, bề ngoài chỉ đóng vai yêu nước theo chủ nghĩa Dân tộc để lừa gạt mọi người.

Nhờ công trình nghiên cứu thấu đáo nên nữ sử gia Quinn-Judge mới biết rõ bản chất HCM, còn nhà chí sĩ Phan Châu Trinh biết là nhờ sống chung nhiều năm dưới một mái nhà ở Paris. Tóm gọn lại, hai vị đó đã cho chúng ta một nhận xét chính xác về chân tướng HCM với hai nét chính yếu: (1) ông không ưa thích cái phương pháp Duy tân của cụ Phan và (2) ông đang học cách hợp tác với những người nắm quyền lực, vào lúc đó, Lenin và Stalin là những người có uy quyền nhất. Cuộn phim lịch sử Đi tìm quyền lực ở Liên Xô của HCM được trình chiếu lại rõ ràng như sau: “Với “một ngàn quan” của Đảng Cộng sản Pháp tặng làm lộ phí, Nguyễn Tất Thành lên đường qua Nga, bỏ lại cho cụ Phan cái phương pháp “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà ông chẳng chút bận tâm mà còn chê là cổ hủ. Rồi vì “tham vọng chạy theo quyền lực”, và tinh ranh ôm trọn “hào quang cách mạng của nhóm Ngũ Long” vào tô điểm cho căn cước của mình, và như thế, Nguyễn Tất Thành biến thành Nguyễn Ái Quốc đi Nga để gặp Lenin!”

Bà Quinn-Judge còn nhận xét rằng HCM cũng học cách theo đuổi những quan tâm của riêng mình. Lời nhận xét nghiệm đúng vì trọn đời HCM sống bằng nghề gián điệp. Danh sách dài về nhiệm sở gián điệp HCM đã cộng tác và phục vụ như sau:

1- Là nhân viên KGB của Liên Xô theo dõi đảng Cộng sản Tàu do Mao Trạch Đông lãnh đạo*; 2- Hợp tác với Phản gián Trung Cộng để theo dõi quân Tưởng Giới Thạch*; 3- Là gián điệp của Trương Phát Khuê để giám sát các hoạt động của người Việt yêu nước trên đất Tàu*; 4- Cộng tác với cơ quan OSS (tiền thân CIA) của Mỹ để chống Nhật*; 5- Nhưng độc hại và phản phúc nhất là cam tâm cộng tác với Phòng Nhì Pháp để hãm hại những người quốc gia yêu nước như cụ Phan Bội Châu và cả những người Cộng sản vì sợ tranh quyền với mình*; 6- Còn có lời đồn ông có cộng tác với Tình báo của Anh ở Hương Cảng.

Đại họa HCM

Dân tộc Việt Nam thật vô cùng bất hạnh. Khi Thế chiến II chấm dứt, chiến tranh Triều Tiên chỉ kéo dài có 3 năm. Nhưng cuộc chiến trên đất Việt, “cuộc chiến tranh của HCM gây ra để đánh Dân tộc” kéo dài đến 30 năm, đó là “Tam thập niên chiến, 1945-1975”, sử gia Vũ Ngự Chiêu đã viết như vậy. Cuộc chiến đó tưởng đâu đã chấm dứt vào ngày 30-4-1975, nhưng không, chỉ là hết giai đoạn nóng! Vào lúc đó HCM đã chết rồi, nhưng Đảng của ông vẫn tiếp diễn cuộc chiến tiến qua giai đoạn lạnh, vẫn đánh triền miên không dứt, mà lại đánh tàn nhẫn hơn xưa. Bởi lẽ khi người lính Quân lực VNCH buông súng, không bảo vệ được ai, thì Đảng đánh tràn lan lên cả gia đình họ, đánh lên khắp cả miền Nam, không bỏ sót một kẻ buôn gánh bán bưng nào hết! Nhà mô phạm và nhà báo Nguyễn Thuyên ở Melbourne viết quyển Việt Nam điêu tàn bất hạnh, dài gần ngàn trang, chắc cũng không nói lên hết tất cả niềm đau nỗi khổ của Dân tộc!

Trong suốt cuộc chiến tranh dài, Đất nước và Dân tộc bị thiệt hại và mất mát quá nhiều! Về lãnh thổ, Đất nước đã mất quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, mất một vùng lãnh hải giàu ngư sản và dầu hỏa, mất những dải đất chiến lược ở biên giới mà Tiền nhân đã bảo toàn từ ngàn đời. Về xây dựng và phát triển kinh tế VN năm 2009, Ngân hàng Thế giới đã công bố kết quả thật đáng buồn. VN thật vô cùng tụt hậu so với các nước bạn chung quanh. Muốn theo kịp Singapore, ta phải mất 158 năm, muốn theo kịp Nam Dương, ta phải mất 51 năm, và phải 95 năm mới bắt kịp Thái Lan! Về mặt luân thường đạo đức, HCM và Đảng đã tàn phá hết cả Quốc hồn Quốc tu‎‎ý mà Tổ Tiên đã bồi đắp trong 4000 năm dài! Cả những Di tích lịch sử cũng không chừa! Ví thử Dân tộc lấy lại Đất nước khỏi tay Đảng (như cuộc thống nhất tuyệt đẹp của nước Đức)! Ví thử chúng ta có một Nhà nước thật sự “của dân, vì dân, và do dân”! Ví thử chúng ta có những chính trị gia thiết tha yêu nước để hết tâm trí để “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” theo gương Cụ Phan Bội Châu, Cụ Phan Châu Trinh, Cụ Trần Trọng Kim, vân vân… (chớ không phải những Quan chức đỏ bận tâm mua quan bán nước để thành tỷ phú Mỹ kim như hiện nay). Có biết bao nhiêu điều ví thử như thế, không kể xiết! Người viết tin tưởng mãnh liệt vào Hồn thiêng Sông núi sẽ là hào quang dẫn dắt Dân tộc xây dựng lại cơ đồ Việt Nam xán lạn để tám mươi lăm triệu người con dân Việt tìm lại nhau trong nỗi vui mừng lớn của Đất nước: CUỘC ĐẠI ĐOÀN VIÊN CỦA DÂN TỘC.

Cuộc Đại đoàn viên của Dân tộc

Đối với Việt tộc, cuộc Đại đoàn viên của toàn khối Dân tộc khắp Bắc Nam Trung cùng Kinh Thượng một nhà sẽ là giấc mơ lớn nhất và đẹp nhất, như truyện 50 con xưa theo CHA ra biển nay lại tìm về đoàn tụ với 50 người anh em ở lại vùng rừng núi với MẸ. Và trăm đứa con cùng MẸ cùng CHA đó, trong cảnh Đại đoàn viên thật cảm động, sẽ góp bàn tay và trí tuệ xây dựng lại Ngôi nhà Việt Nam. Họ sẽ hàn huyên tâm sự kể cho nhau nghe và dạy cho con em mình những chuyện thật đẹp như chuyện Bà Trưng Bà Triệu, chuyện Đinh Lê L‎ý Trần, chuyện Hội nghị Diên Hồng, chuyện Bình Ngô Đại Cáo, chuyện Đại phá Quân Thanh, v.v…, chứ họ không hề nhắc đến cơn ác mộng Mác Lê Xít Mao Hồ! Họ trở về với Dân tộc, họ ru em, họ ngâm thơ, họ hát quan họ, hát bài chòi, hát bội, hát cải lương, họ hò mái đẩy, họ ca trù, ca vọng cổ, họ múa võ Bình Định (tức Võ nhạc Tây Sơn), họ tập Vovinam, họ kiến tạo Văn Miếu, họ trùng tu Võ Miếu theo lời dạy của chúa Trịnh ngày xưa (chúa Trịnh Doanh), v.v… Trong cảnh Đại đoàn viên vô cùng ấm cúng, họ sẽ ngâm cho nhau nghe những vần thơ Say Tình Dân tộc: “Say trà, say thuốc, say thơ. Say Tình Dân tộc lòng mơ về nguồn. À… ơi… một Mẹ trăm Con. Bốn ngàn năm đẹp vuông tròn Nghĩa Nhân”

Và những vần thơ đầy Tình người: “Dòng thơ theo sữa Mẹ vào Con. Theo điệu ru hiền dỗ giấc ngon. Thơ mang Đạo Nghĩa vào tâm trẻ. Tô đẹp Tình Người cho Nước Non”

Lời thơ theo gió bay bốn phương, họ ngâm chứ không phải hát, mà cũng du dương nào kém nhạc, nhưng chỉ là thơ thôi. Bốn phương quay lại nhìn, lắng nghe thơ Việt ngâm réo rắt, lối ngâm nga có một không hai trong Trời đất. Thiên hạ khắp bốn phương đều làm thơ, nhưng Việt tộc đã đưa Thơ vào Nhạc, Hồn thơ Việt được hòa nhập vào Nhạc, khiến cho mỗi một Bài thơ khi ngâm lên hóa thành một Bản nhạc “vô k‎ý âm” như Lời kinh “vô ngôn” của Đức Phật! Nâng niu Thơ như bức họa trong nét Thư pháp bay bướm trên mảnh giấy lụa Hoa tiên, người Nghệ sĩ Diễn ngâm chờ cho Sáo trúc, Đàn tranh, và Độc huyền cầm trổi lên mới cất giọng ngâm, hòa lời Thơ du dương của mình vào Nhạc. Vâng, Việt tộc ngâm thơ theo phong cách ấy và đã xây đắp một nền Thi ca Ngâm vịnh tuyệt vời! Thiên nhiên đã ưu đãi mảnh đất của Con Rồng Cháu Tiên. Chính tại dải giang sơn gấm vóc này, Thi ca Ngâm vịnh được nâng lên đỉnh cao nghệ thuật của loài người!

Nhưng Thiên nhiên lại chơi luật bù trừ, Thiên nhiên cho tay nầy lấy tay kia. Về Thi ca Ngâm vịnh, Thiên nhiên đã cho Việt tộc chúng ta phần thật đẹp của Túi thơ trong Trời đất. Nhưng ngược lại trên địa bàn chính trị, than ôi, chúng ta bị lãnh phần tệ hại nhất, chúng ta bị mắc Đại họa HCM! Chính trong Đại họa HCM, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường phải sống “nghèo, nghèo, nghèo” vì bị Đảng trù dập. Trong cô đơn và lén lút, ông hoàn tất cuốn hồi k‎ý bằng tiếng Pháp tựa đề Un Excommunié - Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel (Kẻ bị khai trừ - Hà Nội 1954-1991: Bản án một người trí thức). Cuối cuốn hồi k‎ý, trong chương “Hành trình qua sa mạc”, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã chất vấn đảng Cộng sản những lời đanh thép, người viết xin lặp lại, chỉ xin thay từ “nhân dân” trong nguyên tác để thế bằng từ “Dân tộc”:

“Dân tộc có thể đặt một số câu hỏi với Đảng: Trong khi phong trào dân chủ và tự do dâng lên như sóng cồn, tại sao các ông ngoan cố không chịu nhìn nhận sự thực, và bám víu một cách tuyệt vọng vào một tín điều đã lỗi thời không thể sửa chữa được? Giữa chủ nghĩa của các ông và quyền lợi của Dân tộc, các ông thiên về bên nào? Những bông hoa các ông nhập cảng và cắm vào trong bình, đã héo tàn. Các ông ngoan cố sùng bái cái xác ướp không thể sống lại ấy cho đến bao giờ? Và nhất là các ông hãy cho Dân tộc biết những l‎ý do thật sự các ông thù ghét chế độ đa đảng?... Dư luận nhận xét rằng các ông đã đi bước đầu trên con đường đổi mới. Như vậy các ông bắt đầu thú nhận các sai lầm. Nhưng các ông, và cả Dân tộc nữa, có thể nào bằng lòng với những biện pháp nửa chừng không, khi mà các biện pháp ấy chỉ có thể chữa trị một vài lãnh vực đã được nêu rõ, nhưng bệnh tật đã lan ra khắp toàn thân thể của quốc gia và các cấu trúc của quốc gia? Các ông thích tự hào về những hy sinh to lớn, kể cả mạng sống, để cống hiến cho Đảng. Các ông không đủ anh hùng tính để hy sinh Đảng của các ông cho Tổ quốc và Dân tộc hay sao? Nước Việt Nam và lịch sử Việt Nam đang chờ đợi câu trả lời của các ông”.

Trong Đại họa HCM, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đặt câu hỏi: “Các ông không đủ anh hùng tính để hy sinh Đảng của các ông cho Tổ quốc và Dân tộc hay sao?” Câu hỏi đặt ra vào năm 1991, đến nay là năm 2009, những18 năm dài đã trôi qua. “Các ông” trong câu hỏi trên, tức là 15 Đảng viên quyền lực nhất, tức 15 Ủy viên Bộ Chính trị, thực sự đã không đủ hào hùng để hy sinh Đảng, cho nên vẫn im lặng. Họ không trả lời, nhưng mặc nhiên đã trả lời rồi. Họ vẫn đi theo con đường Mác Lê Xít Mao Hồ. Như thế cũng tốt bởi vì họ có TỰ DO. Nhưng họ phải buông thả TỰ DO cho Dân tộc đi con đường Dân tộc, đi theo tiếng gọi của Hồn thiêng Sông núi!

Hướng về cảnh Đại đoàn viên của Dân tộc và khi còn mắc Đại họa HCM, xin lắng nghe lời nhắn nhủ của một lão tướng trong phong trào Nhân văn Giai phẩm ngày xưa. Đó là thi sĩ Hoàng Cầm, tác giả bài thơ “Lá Diêu bông”, hiện ở phố L‎ý Quốc Sư, Hà Nội. Ông bị gãy hai chân và bị bể xương chậu, không tiền chữa trị nên phải nằm một chỗ, nhưng rất lạc quan yêu đời. Khi MC Trịnh Hội hỏi ông với 86 năm tuổi đời chồng chất, ông có lời gì chia sẻ với thế hệ tương lai, thì ông trả lời (Xem DVD Asia 51 Tình khúc sau cuộc chiến): “Bất kể dù cái gì chăng nữa, các cháu thấy cái gì là tốt cho Dân tộc thì các cháu cứ làm, cứ mạnh dạn mà làm. Dù có thể người ta không công nhận, hoặc là chưa có dịp gì đó, nhưng mà các cháu thấy cái gì có lợi cho Dân tộc, thì các cháu cứ làm”.

Vào năm 1959, khi Dân tộc còn mắc vướng nặng nề trong mê lộ của ‎‎ý thức hệ, đi theo con đường Mác Lê Xít Mao Hồ, Dân tộc không tìm được hạnh phúc. Ý thức như vậy, nên thi sĩ Hoàng Cầm làm bài thơ “Lá Diêu bông” để nói lên sự tìm kiếm vô vọng. Đến năm 2007, trong lời nhắn nhủ ngắn gởi cho thế hệ tương lai, thi sĩ Hoàng Cầm đã hai lần dùng chữ “Dân tộc”. Người viết xin lặp lại ‎ý chính trong lời khuyên của Lão Thi sĩ Hoàng Cầm, “Con ngựa chiến” của phong trào Nhân văn - Giai phẩm: “Các cháu thấy cái gì có lợi cho Dân tộc, thì các cháu cứ làm”.

Lễ Chúc thọ Tứ tượng ở Paris

Sau đó không lâu, trên đất Pháp, ở vùng Ile-de-France bên dòng sông Seine, vào Tất niên 2007, có Lễ mừng Bát tuần thật cảm động tổ chức cho bốn vị Trưởng lão Việt Nam. Trong mục Paris có gì lạ không em (Bán Tuần báo Việt Luận, ngày 25-1-2008), tác giả Đinh Tiểu Nguyên, trong bài “Lễ Chúc thọ Tứ tượng hay Bốn vị Trưởng lão”, kể rằng họ có đến viếng một Cụ Đồ uyên bác ở Paris để vấn ‎ý về các loại tuổi thọ. Theo Cụ Đồ này thì người 60 tuổi là “Kỳ lão”, được dân chúng gọi bằng “Cụ”. Lễ Lục tuần, hay Đáo tuế, còn gọi là Hoa giáp Chi niên.

Người được 70 tuổi gọi là “Cổ Hi thọ”. Do đó có câu “Nhân sinh thất thập cổ lai hi”, người sống 70 tuổi thì hiếm. Tuy nhiên thọ 70 chỉ thuộc loại thọ thấp, tức là “Tiểu thọ”. Người sống đến 80 hay “Bát thập Kế chi”, lại chỉ được xếp vào hạng “Trung thọ”. Người tuổi 80 gọi là “Tản thọ”, còn gọi là “Trượng triều”. Cụ Đồ Paris kể rằng ngày xưa vua ban cho người 80 tuổi được quyền cầm trượng (cây gậy) vào triều đình để dâng thẳng lên vua những điều trần về việc nước mà không bị ngăn cản, bởi lẽ ở tuổi đó mà còn sáng suốt, còn quan tâm đến việc nước không vì tư lợi, thì Nhà vua và Triều đình phải lắng nghe. Đây là một truyền thống thật đẹp thời quân chủ. Đến 90 tuổi trở lên gọi là “Thượng thọ”. Trăm tuổi gọi là “Cao thọ”. Trăm lẻ tám tuổi gọi là “Trà thọ”. Cụ Đồ Paris chỉ biết chữ “Trà thọ” nhưng không hiểu tại sao lại gọi như thế.

Trong cảnh Đại đoàn viên của Dân tộc, Tứ tượng tức là bốn vị Voi già được các cụ Việt kiều ưu ái chúc thọ gồm có 3 vị từng phục vụ Đảng nhiều năm, và một vị thì phục vụ VNCH (Voi già “Éléphant” là cách nói của đảng Xã hội Pháp gọi các đảng viên thâm niên). Khoảng mười mươi cụ Việt Kiều đó, theo phong tục gọi là “Cụ” vì họ đã qua tuổi “Lục tuần”, trong nhóm có lẽ hai cụ trẻ nhất là cụ Vũ Thư Hiên người Hà Nội và cụ Phan Văn Song người Sài Gòn. Từ sau năm 1975, Hồn thiêng Sông núi mang họ đến Paris, xui cho họ gặp nhau, gieo tình bằng hữu và nghĩa đồng bào đậm đà trong tâm họ. Ngày hôm ấy, họ chia nhau đi chợ, làm bếp, rửa rau, rửa trái cây, nướng món cá hồi đút lò ăn với bún và bánh tráng VN, họ thưởng thức rượu chát trắng Bourgogne đặc sản của miền Alsace, sau cùng họ thưởng thức Champagne với bánh ngọt. Đến phần rượu vào lời ra, họ mời các vị Bát tuần có vài lời về buổi lễ. Các cụ tâm tình thật nhiều. Nhưng trong khuôn khổ chương sách này, người viết chỉ xin trích dẫn những lời họ nhắn nhủ để gởi đến thế hệ tương lai.

Cụ Bùi Tín, Đệ nhất Trưởng lão, với nét mặt đầy xúc động kể rằng trong 17 năm qua, cụ đã xa gia đình, xa vợ con và các cháu. Đó là một bất hạnh rất lớn, nhưng bù lại, cụ có được đông đủ bạn bè ở khắp nơi và nhận được lòng qu‎ý mến của rất nhiều người ngoại quốc. Cụ tỏ lòng hối tiếc như sau: “Nay tôi chỉ tiếc một điều là tôi đã mất hết 44 năm cho đảng Cộng sản. Tôi ra khỏi đảng trễ, nhưng hãy còn sớm hơn 2 triệu người kia, nay còn theo cái đảng ấy”. Cụ nói thật lòng mình, và không đè nén được xúc cảm, nước mắt nhiều lần lưng tròng. Anh em ngồi lắng nghe, xúc động theo từng xúc động của cụ, tất cả đều chậm nước mắt khi cụ dứt lời. Cụ Trần Thanh Hiệp, Đệ nhị Trưởng lão, tâm sự với anh em: “Từ 1945, cụ bị Cộng sản gạt. Cụ dẫn chứng từng trường hợp lịch sử. Nay, già rồi, cụ nhất định sẽ không để bị gạt. Cụ có thể bị thua cuộc, nhưng không để bị Cộng sản có thể lường gạt như những lần trước đây nữa. Cụ nhấn mạnh Cộng sản là cái thứ lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để lường gạt mọi người”. Đệ tam Trưởng lão là Cụ Hồ Minh Châu, trước 1975 phụ trách Tiểu khu Sa Đéc. Cụ Châu mới lên 80, biết sức mình còn khoẻ lắm nên đủ sức theo chân anh em. Cụ nói với vẻ thật “chịu chơi” rằng hiện tại anh em cần gì, cụ sẵn sàng theo sát và ủng hộ. Đệ tứ Trưởng lão Võ Nhơn Trí, nguyên Chuyên viên Nghiên cứu ở Viện Kinh tế ở Hà Nội và Viện Khoa học Xã hội ở Sài Gòn. Cụ tâm tình với giọng chậm rãi, thỉnh thoảng ngưng lại vì xúc động, rồi cố gắng nói tiếp: “Tôi sống với Cộng sản ở Hà Nội 23 năm nên tôi hiểu chúng nó quá. Chúng nó không bao giờ có tình cảm, mà cũng không có l‎ý trí. Chúng nó lúc nào cũng chỉ biết lường gạt, để bảo vệ quyền lợi của đảng, mà thực chất, chính là quyền lợi riêng của nhóm chóp bu là trên hết”.

Sau cùng tác giả Đinh Tiểu Nguyên “ghi” thêm lời kết như sau: “Cụ Vũ Thư Hiên chuyển lời chúc mừng Thượng thọ từ Mạc Tư Khoa của cụ Nguyễn Minh Cần trong đó có lời cụ chúc mừng riêng cụ Bùi Tín”. Vị Trưởng lão Nguyễn Minh Cần cũng thuộc lớp tuổi Bát tuần (Cụ sinh năm 1928), tuy ở Mạc Tư Khoa trên đất Nga, không tham dự “Buổi lễ mừng Bát tuần” này, người viết cũng xin nhắc đến cụ là tác giả của ba tác phẩm kiệt xuất là quyển Công l‎‎ý đòi hỏi (xuất bản năm 1977), quyển Chuyện Nước non (xuất bản năm 1999), và quyển Đảng CSVN qua những biến động trong Phong trào Cộng sản Quốc tế (xuất bản năm 2001), và xin tìm thêm những lời nhắn nhủ thân thương ấp ủ qua ba quyển đó. Nhờ ở trên đất Nga nhiều năm, được vào tham khảo tài liệu ở Kho Lưu trữ của CS Quốc tế sau ngày Liên Xô sụp đổ, nên nhà Nghiên cứu Nguyễn Minh Cần đã cho chúng ta biết bộ mặt thật “đảng Cộng sản Bolshevik của Lênin là một hội kín của những kẻ âm mưu, chủ trương đàn áp không thương tiếc để cướp đoạt quyền cai trị”. Sử gia Trần Gia Phụng, trong bài Lá cờ chính nghĩa (Nguồn quanvan.net), đã viết về chủ trương “giết tiềm lực” để loại trừ đối lập: “Trong các năm 1945, 1946, 1947 trên toàn quốc, Việt Minh giết khoảng 100.000 người ở tất cả các cấp từ trung ương xuống tới địa phương làng xã”.

Trong quyển Công l‎‎ý đòi hỏi, như tựa đề đã nói, cụ Nguyễn Minh Cần đã viết về những bất công, những oan trái, những đàn áp, những cướp bốc, những tội sát nhân do HCM và Đảng đã gây ra cho Dân tộc, và thiết tha “CÔNG LÝ ĐÒI HỎI MỘT CUỘC CÁCH MẠNG MỚI vì cuộc Cách mạng Mùa thu 1945 đã bị phá hư rồi”

Quyển Chuyện Nước non gói trọn ước nguyện của cụ trao cho bạn đọc để “xem kỹ, suy nghĩ, phán xét ngõ hầu cùng nhau tìm được phương hướng đúng cho Đất nước và Dân tộc thoát ra khỏi xiềng xích trói buộc của Chế độ Cực quyền Đảng trị quá lỗi thời”. Trong lúc Con tàu lịch sử của thời đại đang vút lao về phía trước, cụ Ng. Minh Cần mong rằng Đất nước và Dân tộc bước lên kịp con tàu nhờ “Mỗi người con của Tổ quốc sẵn sàng đưa vai gánh vác chuyện nước non”

Tháo gỡ Đại họa HCM

Bài ghi của tác giả Đinh Tiểu Nguyên về Lễ Chúc thọ Tứ tượng chỉ dài một trang báo (Bán Tuần báo Việt Luận xuất bản ở Sydney, ngày 25-1-2008, tr. 50) nhưng đã mang tải những lời khuyên nhủ qu‎ý báu của bốn vị Trưởng lão Bát tuần ở Paris, những lời qu‎ý giá như một trang sử đẹp, gởi đến cho Dân tộc và cho Thế hệ tương lai. Xin hãy xem buổi Lễ mừng Bát tuần này như một Tiểu Hội nghị Diên Hồng góp phần vào công cuộc THÁO GỠ ĐẠI HỌA HCM (“THÁO GỠ” chữ của Cựu hoàng Bảo Đại, xin xem lại Chương 6: Tư tưởng HCM).

Bây giờ xin qu‎ý bạn đọc dành chút giây phút gởi tâm vào câu thành ngữ “Bảy mươi học bảy mươi mốt” trong Túi khôn của Dân tộc. Qu‎‎ý bạn ơi, các cụ “Bảy mươi” có nhỏ hơn các cụ “Bảy mươi mốt” bao nhiêu đâu! Chẳng bao nhiêu cả! Chỉ một tuổi hay mươi mười mấy tháng là cùng! Nhưng sao ông bà tổ tiên ta bảo “Bảy mươi phải học bảy mươi mốt”? Phải chăng người xưa muốn dùng lời nói bình dân dễ hiểu đó để khuyên nhũ thế hệ trẻ hiếu học và cầu tiến lại vừa truyền dạy tính khiêm cung và tấm lòng kính trọng tuổi thọ của dân ta. Xét thấu đáo như vậy, câu “Bảy mươi học bảy mươi mốt” vừa ngắn gọn, dễ hiểu, lại thâm sâu vô cùng! Các “Cụ bảy mươi mốt” đã thế, các “Cụ tám mươi” lên bậc “Lão trượng” còn được trọng vọng biết bao! Ngày xưa vua ban quyền cho các Bậc Lão trượng được “cầm trượng” tức là chống gậy vào triều để điều trần việc nước với vua và triều đình! Nét Dân chủ độc đáo này của Dân tộc khiến cho mỗi người chúng ta ngày nay nên tự chất vấn “Chúng ta có cần phải học Bài học của Tiền nhân ngày xưa hay của những bậc Tiền bối Bát tuần ngày nay hay không ?” Chúng ta tự hỏi, tức là tự trả lời rồi!

Bây giờ, người viết xin nhắc lại lời một Lão trượng Bát tuần trong chương chuyện này, đó là Luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Vào năm 1991, lúc cụ chất vấn Chính trị Bộ ĐCS: “Các ông không đủ anh hùng tính để hy sinh Đảng của các ông cho Dân tộc và Đất nước hay sao?” thì cụ đã lên bậc Lão trượng 81 tuổi rồi (Cụ sinh năm 1910 và qua đời năm 1997)! Xin nhắc thêm lời của “Con ngựa shiến” trong phong trào Nhân văn - Giai phẩm là Lão thi sĩ Hoàng Cầm. Lúc cụ 86 tuổi, khi MC Trịnh Hội hỏi cụ có lời gì chia sẻ với thế hệ tương lai, thì cụ Bát tuần Hoàng Cầm nói: “Bất kể dù cái gì chăng nữa, các cháu thấy cái gì tốt cho Dân tộc thì các cháu cứ làm, cứ mạnh dạn mà làm…”. Bây giờ chúng ta xin góp nhặt hết, từ Lời chất vấn của cụ Nguyễn Mạnh Tường, Lời chia sẻ với thế hệ tương lai của cụ Hoàng Cầm, cùng với những Lời tâm tình của bốn vị Bát tuần ở Paris, cụ Bùi Tín, cụ Trần Thanh Hiệp, cụ Hồ Minh Châu, cụ Võ Minh Trí, sau cùng đến những Lời khuyên nhủ của cụ Nguyễn Minh Cần ở Mạc Tư Khoa qua 3 quyển sách của cụ, tất cả những lời vàng ngọc đó, chúng ta là kẻ hậu sinh xin chân thành và kính cẩn tiếp nhận vì đó là Hào quang hướng dẫn Dân tộc trong giai đoạn chính trị vô cùng chông gai để “THÁO GỠ ĐẠI HỌA HCM”.

Nói đến Đại họa HCM và nền Thi ca tuyệt đẹp của Dân tộc, chúng ta không thể không nhắc đến Thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Nhà văn Mai Thảo, trong quyển Chân dung 15 nhà văn nhà thơ Việt Nam, đã xưng tụng ông: “Mọi người là thi sỹ. Riêng ông là thi bá”. Sau Hiệp định Genève, Thi sĩ Vũ Hoàng Chương không ở lại miền Bắc mà lại vào Nam tìm tự do, thế là một tội! Đã nổi danh là “thi bá” mà không theo con đường phục vụ Bác Đảng như Tố Hữu hay Xuân Diệu, tội này lại nặng hơn, đáng chết! Và Đảng đã giết ông thật!

Tác giả Trần Dạ Từ viết (Trích quyển Quê hương bạn hữu tù đày, tr. 75): “Chỉ bằng một cái búng tay của Bạo lực, ngày 3-4-1976, công an VC vây bắt cả trăm văn nghệ sĩ miền Nam bỏ vào tù, mãi đến 10 ngày sau, họ mới nhớ đến thi sĩ Vũ Hoàng Chương”. Có nhiều nhà phê bình thường chê trách giới trí thức VN hèn. Có lẽ chúng ta nên xét lại, không nên viết như thế nữa! Bạn hiền ơi, đứng trước bầy thú dữ như cọp, beo, sư tử chực ăn thịt bạn mà bạn không có súng đạn, bạn không thể đứng lại l‎ý luận, bạn chỉ có nước chạy mà thôi, mà phải chạy vắt giò lên cổ! Các bạn hãy xem Đảng biểu dương bạo lực để vây bắt Vũ Hoàng Chương, một thi sĩ già, sức trói gà không chặc, mà lại đang bị bịnh ngồi dậy không nổi! Theo lời thuật của bà vợ thi sĩ, tác giả Trần Dạ Từ viết (tr.18 sđd): “Chúng đến, từ phía Sài Gòn. Bốn chiếc jeep đầy nhóc an ninh áo vàng mang súng ống như cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt qua cầu Calmette, khu chợ Khánh Hội, phóng thẳng tới phường Cây Bàng và dừng lại trước con ngõ dẫn vào Gác Bút. Bọn an ninh Cộng sản, trên 20 đứa, tới tấp nhẩy xuống xe. Khoảnh khắc, cả phường Cây Bàng bị vây kín… Dân chúng chung quanh Gác Bút thất kinh. Có người hỏi, chúng trả lời: “Phải huy động một lực lượng lớn lao thế này để tóm trọn ổ một bọn cướp (!) lợi hại”.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương bị bắt ngày 13-4-1976, chỉ vài ngày trước sinh nhật Lục tuần của ông (ông sinh ngày 5-5-1916), ông mất ngày 19-8 cùng năm. “Chúng bắt ông sau cùng. Và giết ông trước nhất”, Trần Dạ Từ đã viết như vậy. Những vần thơ khí tiết sau đây của thi sĩ VHC để lại cho Dân tộc, xin được xem như Lễ vật kính dâng lên Hồn thiêng Sông núi: “Trải bốn ngàn năm dựng nước nhà. Sông khoe hùng dũng núi nguy nga. Trả ta sông núi bao người trước. Gào thét đòi cho bọn chúng ta. Trả ta sông núi từng trang sử. Dân tộc còn nghe vọng thiết tha. Ngược vết thời gian cùng nhắn nhủ: Không đòi, ai trả núi sông ta”.

Ngày Đại đoàn viên của Dân tộc, theo ánh hào quang của Hồn thiêng Sông núi, sớm hay muộn, rồi cũng sẽ đến với Dân tộc. Chúng ta chỉ cần chờ đợi. Khoảnh khắc linh thiêng đó rồi cũng sẽ đến. Nữ sĩ Dương Thu Hương, bằng văn phong hào hùng và tuyệt tác, đã diễn tả giây phút đó ở trang 290 của quyển Au Zénith (Đỉnh cao chói lọi), quyển sách vừa xuất bản ở Paris ngày 19-1-2007. Ở trang 290 là tr. đẹp nhất của quyển sách, Dân tộc đọc được những dòng chữ thật đẹp:

“Kể từ ngày mồng 2 tháng 9 năm Kỷ Dậu, trên đỉnh trời Hà Nội, luôn luôn treo lơ lửng một lưỡi gươm. Một lưỡi gươm khổng lồ, trong suốt. Người ta có thể nhìn rõ lưỡi gươm ấy vào những ngày thu, trời vắng mây, đặc biệt những ngày trời biếc xanh, xanh tinh lọc sau mưa bão hoặc sau khi cầu vòng hiển hiện. Lưỡi gươm ấy nhằm thẳng xuống cột cờ thành Hà Nội, chờ đợi khoảnh khắc định mệnh để rơi xuống, chặt đứt lá cờ đỏ sao vàng, kết thúc cái chế độ phản trắc và tàn bạo, tiêu diệt loài ngạ quỷ đã cắn cổ hút máu chính Dân tộc nuôi dưỡng nó”.

Những dòng chữ của Dương Thu Hương ở tr. 290 đẹp như thế đó! Cũng sẽ thật đẹp ngày Đại đoàn viên của Dân tộc! Người viết vô cùng cảm tạ Nữ sĩ Dương Thu Hương và xin dùng những dòng chữ thật đẹp trên để kết luận cho chương “HCM, Chính trị gia tồi tệ”, cũng như cho quyển “Cuộc Chiến tranh của HCM đánh Dân tộc” này.

Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Bán biển Bán rừng 2010
Nhóm Tâm Việt Sydney

Nguồn: www.tvvn.org
 

www.geocities.ws/xoathantuong