Hồ Chí Minh, tay sai của Cộng sản quốc tế

Nguyễn Thuyên
 

(trích biên khảo "Bộ Mặt Thật của HCM" của Nguyễn Thuyên)

- PHONG TRÀO VIỆT-MINH.

Sau khi cuộc nổi loạn Xô-Viết-Nghệ-Tỉnh thất bại, đưa đến sự tan rã hoàn toàn của hệ thống "làng đỏ" đầu tiên thí nghiệm tại Đông Dương, HCM biến mất, trao quyền kiểm soát và chỉ đạo Cộng đảng Đông Dương lại cho Maurice Thorez. Bẵng đi gần 10 năm sau người ta mới thấy Hồ lại xuất hiện.

Phải công nhận rằng bộ tham mưu của Đệ Tam Quốc Tế ước tính tình hình cũng khá chính xác. Họ tiên liệu rằng sau khi chiếm Đông Dương, Nhật sẽ lật đổ chính quyền thực dân Pháp và có thể sau đó Nhật sẽ bại trận. Lúc đó, chính quyền tại Đông Dương, đặc biệt là tại Việt Nam sẽ bỏ ngỏ, một cơ hội ngàn năm một thuở để CS cướp lấy chính quyền. Quả y như tiên liệu và Mạc Tư Khoa cho là thời cơ rất thuận lợi cho một cuộc cách mạng cộng sản.

Thế là từ một nơi ẩn náu nào đó, HCM được triệu về Mạc Tư Khoa lãnh chỉ thị hành động mới : đi Hoa Nam cùng với Nguyễn Khánh Toàn để tìm cách qui tụ lại các đảng viên CS còn lẫn trốn đâu đó tại biên giới Trung Hoa, hoặc vừa trốn khỏi tù của thực dân Pháp hay phát-xít Nhật. Hồ cũng được lệnh phải liên kết với nhóm Quốc gia đang tích cực hoạt động ở Hoa Nam để chuẩn bị cướp chánh quyền từ tay Pháp.

Mùa Xuân 1941, Hồ và Toàn lên đường đi Hoa Nam, nhưng khi đến Diên An, Hồ bỏ Toàn lại đây vì e ngại Toàn không chịu nổi kham khổ. Một mình lặn lội xuống Hoa Nam, lúc này đã đổi tên là Hồ Chí Minh, tự xưng là chiến sĩ Quốc gia chủ trương đánh đuổi phát-xít Nhật giành lại độc lập cho đất nước. Nhờ vậy, Hồ liên kết được khá đông các phần tử Quốc gia cũng đang có chủ trương như Hồ, đồng thời Hồ cũng khôn khéo tập họp lại nhóm đồ đệ cũ, trong số có Hồ Tùng Mậu. Cùng với thành phần Quốc Cộng này, Hồ thành lập Mặt Trận Việt Minh và cử cán bộ về nước bắt liên lạc với những tiểu tổ CS còn xót lại trong bóng tối và các đảng viên CS vừa được Pháp thả ra khỏi lao tù, để chuẩn bị ngày cướp chính quyền.

Để tạo thế thuận lợi và để mua chuộc cảm tình của Đồng Minh, Hồ tự nguyện đem tổ chức bí mật của mình làm tình báo cho quân đồng minh Anh-Mỹ, lãnh nhiệm vụ trinh sát các cuộc di chuyển quân sự của Nhật để báo cáo cho Đồng Minh và giúp đưa các phi công Mỹ bị cao xạ Nhật bắn rơi sang Trung Hoa. Bù lại, Hồ được sự giúp đở của Anh-Mỹ trong việc xây dựng, củng cố và phát triển du kích Việt-Minh. Chẳng hạn như sau khi Anh chiếm Madagascar, họ phóng thích tất cả các đảng viên CS bị Pháp đày cấm cố ở đây và thả dù họ xuống vùng căn cứ Việt Minh. Điều đáng ghi nhận là trong số các tù chính trị bị Pháp lưu đày tại Madagascar có cả những phần tử thuần túy Quốc gia như cụ Nguyễn Thế Truyền. Hồ đã ton hót với Anh không thả các phần tử Quốc gia này, phô bày rõ thủ đoạn tiêu diệt mầm móng Quốc gia để dọn đường cho một chính quyền CS.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, duy trì Bảo Đại ở ngôi Hoàng Đế và giao chính phủ cho cụ Trần Trọng Kim. Vốn là những người yêu nước thật thà nên cụ Kim và các nhân vật trong chính phủ của cụ đã phóng thích ngay tất cả các chính trị phạm kể cả CS. Nhưng sau khi ra khỏi tù, đám CS "sớm đầu tối đánh" này liền gia nhập Mặt Trận Việt-Minh để lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rút quân về nước, ngày 19 tháng 8 năm 1945, Việt-Minh cướp chính quyền ở Hànội nhưng lại như người ngồi trên đống lửa, vì theo Hiệp ước Postdam thì quân đội Anh đổ bộ lên Sàigòn, Quốc quân Trung Hoa tiến vào Hànội để tước vũ khí bại quân Nhật Bản và ngăn chặn Việt Minh, tức là tay sai của Cộng Sản quốc tế. Các tổ chức Quốc Gia yêu nước tỏ thái độ chống đối Việt Minh, nên HCM đã phải nhượng bộ phe Quốc Gia, giành cho Quốc Gia 80 ghế trong Quốc hội và lập một chính phủ Liên Hiệp "Tam Đầu Chế" gồm có Quốc Gia, Cộng sản và Trung lập, giả vờ nhiệt tâm với chính nghĩa Quốc Gia, tuyên bố tự giải tán đảng Cộng sản, thành lập đảng Lao động.

Nhưng, đó chỉ là mưu kế, sự thực thì Cộng sản vẫn ra sức xâm nhập sâu trong quần chúng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lê, bành trướng cơ sở CS từ trên xuống tới xã ấp. Mặt khác, HCM ký Hiệp ước sơ bộ với Pháp, thừa nhận VN trong khối Liên Hiệp Pháp và Pháp thừa nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do thuộc khối Liên Hiệp Đông Dương.

Theo Hiệp Định Sơ Bộ thì Pháp có quyền chiếm đóng VN nên Pháp lần lượt đổ bộ vào VN chiếm hết vị trí này đến vị trí khác. Quân Pháp càng đánh chiếm thì vai trò của Việt Minh Cộng sản càng được đề cao, vì chính việc này đã làm cho họ trở thành những chiến sĩ thực sự giải phóng quốc gia, bảo vệ đất nước. Từ đó, Cộng sản có cớ để loại trừ, hoặc tiêu diệt các thành phần Quốc gia yêu nước, thực sự chiếm lấy trọn quyền độc đảng, không phải "ngáp phải ruồi" như lúc mới cướp chính quyền.

HCM trở thành người tiêu biểu cho sự đoàn kết quốc gia chống ngoại xâm, nên được nhiều người ủng hộ và đóng góp công sức, của cải để hưởng ứng công cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến năm 1954.

- CÔNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP :

Vai trò Việt-Minh Cộng sản đã được củng cố, uy tín HCM được đề cao, công cuộc kháng chiến chống Pháp có rất nhiều thuận lợi. Trong hoàn cảnh ấy, người lãnh đạo CSVN không nhất thiết là một con người có kiến thức uyên bác, tài ba xuất chúng mà chỉ là một kẻ đã thành công nhờ các yếu tố như sau :

- Sau thế chiến thứ II, tình hình quốc tế đã thay đổi hẳn, khiến cho cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa hoàn toàn không thể nào thực hiện được. Thực dân Pháp đã rơi vào lạc hậu, lỗi thời, vô tình làm cho Cộng sản thuộc địa tay sai của Đệ Tam Quốc tế có cơ hội núp dưới chiêu bài tranh thủ độc lập, tiêu diệt Quốc gia, bành trướng chủ nghĩa đế quốc CS, bao vây các nước thế giới tự do.

- Chủ nghĩa Mác-xít vừa mới lạ, vừa có tính chất cấp tiến để thu hút những phần tử trí thức có lý tưởng quốc gia nông nổi, đồng thời huy động được đa số quần chúng bị trị, bằng những hứa hẹn con đường tắt đưa đến bình đẳng, tự do, có một mức sống cao hơn, không còn cảnh người bóc lột người, v.v...

- Cách mạng vô sản Nga thành công, Đệ Tam Quốc tế đã rút được những kinh nghiệm về chiến lược, chiến thuật biến ảo. Lúc thì tự nhận là Quốc gia, khi thì hiện hình là Cộng sản tùy theo tình thế, nhưng luôn luôn giữ kín mục tiêu "đế quốc đỏ, thực dân mới" của mình. Chính vì vậy mà khi HCM thành lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, hắn đã tuyển mộ các đảng viên đầu tiên trong các nhóm Quốc gia yêu nước sang Trung Hoa. Mãi đến ngày cướp được chính quyền tại Hànội năm 1945, dưới ngọn cờ Việt-Minh, HCM vẫn còn đội lốt một nhà lãnh tụ Quốc gia chân chính. HCM thành công là nhờ có tính kín đáo cần thiết, vừa đóng vai trò lãnh tụ nửa Quốc gia nửa Cộng sản.

Suốt 80 năm lịch sử dân tộc VN chống Pháp, không một ai nghe biết tên Hồ Chí Minh. Đột nhiên từ ngày Việt Minh cướp chính quyền năm 1945, báo chí loan tin và công bố thành phần chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do HCM làm chủ tịch, mọi người đều thắc mắc về cái tên kỳ la.đó. Nhiều người cho rằng cái tên văn hoa quá nhất định không phải tên thật mà chỉ là tên hiệu.

Về lý lịch HCM, ngay cả những nhân viên trong thành phần chính phủ lâm thời cũng băn khoăn, không rõ được. Tất cả từ trong đến ngoài, từ trên xuống dưới, mọi người đều nóng lòng muốn biết rõ HCM là ai và tên thật là gì. Sau một thời gian, có tin đồn HCM là tên mới của Nguyễn Aí Quốc (NAQ), con người bí mật đã từng khai sinh "đảng CSVN". Nhiều người dân còn thắc mắc NAQ là ai, và bàn tán đồn đãi mãi. Sau khi có tin đồn HCM là NAQ, Sở Mật thám ở miền Nam đã lục lọi hồ sơ để tìm ảnh NAQ so với những tấm ảnh của HCM bày bán đầy đường Hànội thì hoàn toàn chỉ là "cuội". Riêng HCM lúc nào cũng một mực không nhận mình là NAQ. Nhưng báo chí Thông tấn xã Cộng đảng lại thường công khai thú nhận HCM chính là NAQ.

Dù là HCM hay NAQ đi chăng nữa, thì cuộc kháng chiến chống Pháp nghiễm nhiên mang một ý nghĩa giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, nên được toàn dân ủng hộ. Nhưng, HCM chỉ là tay sai, một công cụ của đế quốc CS và Cộng đảng thuộc địa chỉ làm theo mệnh lệnh của Đệ Tam Quốc tế. Cho nên, kế hoạch, tài nguyên và nhân lực của cuộc kháng chiến chống Pháp tại VN không hẳn là riêng của VN, mà là của một tập đoàn CS quốc tế do Nga cầm đầu và yểm trợ toàn diện.

Về quân sự, Cộng đảng VN sử dụng chiến thuật chiến tranh nhân dân lấy nông thôn bao vây thành thị, vừa khai thác nhân tài, vật lực trong nhân dân, vừa cô lập các đồn bót của địch. Ngoài các vũ khí đạn dược đánh lấy được của quân Pháp, còn các loại quân trang quân dụng của Pháp nhập cảng vào, vô tình giúp cho Việt-Minh Cộng sản chiến thắng gồm :

- Thuốc sốt rét để dùng trong các vùng rừng thiêng, nước độc. - Nylon nhẹ dùng để che mưa, bọc quần áo, thức ăn, làm phao bơi qua sông rạch.- Vỏ xe hơi cũ dùng làm dép, để trèo đèo lội suối.- Xe đạp để thồ lương thực và đạn dược.- Dầu hỏa để thắp đèn.

Các thứ này do Pháp nhập cảng vào VN, các con buôn mang ra hậu phương bán cho bộ đội Việt cộng dùng, nhờ đó nên cuộc chiến mới có thể kéo dài, cũng nhờ vậy mà HCM mới dám tuyên bố :

- Trường kỳ kháng chiến ! Cuộc chiến đã kết thúc bằng trận Điện-Biên-Phủ (ĐBP). Vì dựa vào quan điểm quân sự cổ điển của Tây phương nên quân Pháp đã lâm vào thế bị động và không sao giữ nổi ĐBP. ĐBP là một căn cứ, một tiền đồn quan trọng giữa Lào, VN và Trung Hoa, nên VC đã được Trung cộng tận tình giúp đở, kể cả quân đội, lương thực và vũ khí.

Quân Pháp thất bại, phải ký một Hiệp định ngưng chiến với VC tại Hội nghị Genève ngày 21-7-1954, thừa nhận chủ quyền của chính phủ HCM trên toàn miền Bắc VN. Miền Nam VN tạm thời để cho Pháp lần lượt rút quân và sau hai năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Về chính trị và văn hóa, Việt-Minh cũng đạt được những tiến bộ tương tự như quân sự. Bắt đầu từ năm 1945, VC áp dụng chính sách cưỡng bách giáo dục, bắt mọi người phải biết đọc, biết viết Việt ngữ, để lồng vào việc học chính trị. Từ một số khá đông viên chức, chuyên viên, cán bộ mù chữ thiếu kinh nghiệm, đảng Lao động (CS) đã đào tạo được hàng ngàn viên chức, cán bộ chuyên môn và một đội ngũ khổng lồ của đảng phụ trách việc kiểm soát đời sống hàng ngày của mọi tầng lớp dân chúng. Công việc kiểm soát dân chúng là một công tác vĩ đại nhất của đảng CSVN. Công tác quan trọng nhất này của VC có thể chia làm hai giai đoạn như sau :

- GIAI ĐOẠN PHẢN ĐẾ (1946-1949).

HCM vừa chiếm được cái quyền tối cao (Chủ tịch) trên đe dưới búa. Hồ hết sức ve vản mọi thành phần, đề ra những khẩu hiệu "Toàn dân đoàn kết, Tổ quốc trên hết", v.v... Để lôi kéo giới trí thức, tiểu tư sản, tiểu nông, tiểu thương, địa chủ... có thành kiến với CS, Hồ tuyên bố "Giải tán đảng Cộng sản Đông Dương", và kêu gọi "Toàn dân đoàn kết, toàn dân ủng hộ chính phủ kháng chiến chống Pháp". Ngoài ra, HCM còn trịnh trọng trao quyền lãnh đạo chính trị cho Mặt Trận Liên Việt gồm các đảng phái liên kết lại (nhưng thực quyền thực lực thì chỉ có Việt-Minh, cũng giống kiểu như các đồ đệ của Hồ ngày nay bày ra Mặt Trận Tổ Quốc).

Quyền tư hữu tài sản được triệt để tôn trọng (kiểu nhân dân làm chủ hiện nay). Trí thức được trìu mến (như Hội Trí Thức để ca tụng và phục vụ Nhà nước). HCM còn bày ra nhiều đảng như đảng Dân Chủ để nắm đầu địa chủ, phú thương, đảng Xã Hội để kiểm soát giới trí thức và các đảng phái, tôn giáo. Thực ra, những tổ chức này chỉ là "hữu danh vô thực", là bình phong cho CS ẩn núp để giật giây và lộng hành, mà không phải chịu trách nhiệm. Vì là bù nhìn nên các đảng phái này hoàn toàn không có uy tín đối với dân chúng. Riêng cái tên gọi là "Mặt Trận" đã đổi đến 3 lần. Từ Mặt Trận Việt-Minh đến Mặt Trận Liên Việt, đến Mặt Trận Tổ Quốc. Mỗi lần đổi tên thì Bản Cương Lĩnh thay đổi đôi chút, tráo qua trở lại cho hợp với mưu đồ của CSVN theo từng giai đoạn, và gỡ gạc uy tín với dân chúng lúc bấy giờ vì bị đồng bào thường xuyên chế diễu. Như Mặt Trận Việt-Minh, viết tắt là VM, đọc nhanh thành VEM. Thành ngữ "Nói như vẹt" được đổi lại "Nói như Vẹm" để chỉ cán bộ VM học thuộc lòng, nói thao thao toàn những chuyện giả dối và thủ đoạn gian manh lừa bịp.

Từ đó, HCM đổi Việt-Minh thành Liên Việt, giả vờ liên kết tất cả lại, viết tắt là LV. Dân chúng thấy tổ chức này còn bù nhìn hơn tổ chức trước nên đã đọc là "Lờ Vờ" để mỉa mai những kẻ a tòng theo CS, vào cái tổ chức này chỉ biết ù ù cạc cạc, hoặc làm tay sai cho CS, chẳng có ích lợi gì cho dân chúng.

Trong giai đoạn này, mặc dù HCM đã đùng nhiều thủ đoạn để lừa tất cả các đảng phái Quốc Gia, các giới trí thức, tiểu thương, địa chủ, v.v... vào cái chuồng do CS quản lý, Hồ vẫn chưa dám làm mạnh vì quyền hành chưa được củng cố, dân chúng còn nghi ngờ, không ưa thích gì chế độ Cộng sản.

- GIAI ĐOẠN PHẢN PHONG (1950-1955) :

Sau thời gian vừa dụ dỗ, vừa thanh toán các thành phần Quốc Gia yêu nước, quyền hành đã vững chắc, HCM bắt đầu thay đổi chính sách mới, phản trắc hơn, quyết liệt hơn, độc tài hơn, vội vã gỡ mặt nạ đảng Cộng sản, thay cái tên mới là đảng Lao động và đề ra khẩu hiệu mới "Tích cực Phản Phong, song song Phản Đế".

Lúc bấy giờ, HCM đưa Phản Phong ngang với Phản Đế, vì những năm trước cần sự ủng hộ của mọi giới, mọi thành phần trong nước để ưu tiên kháng chiến chống Pháp. Sau những chiến thắng quân Pháp tại Lạng Sơn 1950 và nhiều chiến thắng nhỏ liên tiếp khắp các chiến trường, nhất là mở rộng vòng đai kiểm soát sát biên giới Hoa-Việt, dễ dàng liên lạc và nhận sự giúp đỡ của CS đàn anh Mao Trạch Đông, HCM đề ra công tác Phản Phong cũng ưu tiên như Phản Đế.

Lúc đầu, dân chúng không hiểu Phản Phong là gì. Cán bộ VC phải tổ chức nhiều cuộc học tập để định nghĩa, giải thích mà chủ đích là gây căm thù giữa người này với người khác, giữa giai cấp này với giai cấp khác, v.v... và mục tiêu chính là "TIÊU DIỆT TRÍ THỨC, ĐỊA CHỦ", và bất cứ ai không ưa thích CS đều bị ghép tội "kẻ thù, phản động". HCM cho thi hành chiến dịch "Cải Cách Ruộng Đất". Chiến dịch này chia làm hai giai đoạn :

1a/ THUẾ NÔNG NGHIỆP.

Thứ nhất là hai sắc Thuế Nông Nghiệp và Thuế Công Thương Nghiệp, nhằm bần cùng hóa nhân dân, biến nước Việt Nam thành một xã hội bần cố, mọi người phải cúi đầu tùng phục đảng CS, để thiết lập chế độ độc tài vô sản chuyên chính. Thuế Nông Nghiệp và Công Thương Nghiệp dựa vào SỰ ƯỚC ĐỊNH của cán bộ đảng về mức thu hoạch/lợi tức, rồi GIẢ VỜ ĐƯA RA NHÂN DÂN BÌNH NGHỊ cho có hình thức dân chủ nên chẳng ai dám lên tiếng sửa sai. Ngoài ra, trong xóm làng, có những người vốn đã ganh ghét nhau trước, hoặc muốn lập công với VC, tỏ ra giác ngộ, v.v.... bèn phát biểu phải nâng lên mức thuế, bắt người chịu thuế phải è cổ ra mà đóng thuế.

Không đủ tiền đóng, không đủ thóc luá đóng, thì phải bán tư trang hay vật dụng cho đủ tiền đóng trước thời hạn đã định. Nhiều nông dân phải bán trâu bò để đóng thuế, đến vụ mùa sau phải kéo cày thay trâu bò. Người làm công nghiệp phải bán dần máy móc như máy may, máy dệt... cho đến lúc phải làm bằng tay. Thương gia thì bán phố, bán nhà, che lều tranh bên căn nhà cũ kiếm sống qua ngày.

Riêng thành phần khá giả hơn, VC ghép cho cái tội "Địa chủ". Đối với người có ruộng đất nhiều, hoặc không nhiều, nhưng nhân lực gia đình không đủ tự canh tác, phải cho kẻ khác làm đóng tô, VC gán cho họ cái tội "Bóc lột". Thành phần ở thành thị có đời sống cao hơn, nhờ kinh doanh thương mại thì VC gọi họ là "Tư sản mại bản" và họ cũng mang cái tội là... "Bóc lột nhân dân". Nói chung, thành phần nào có đời sống khá giả đều bị VC gán cho cái tội "Bóc lột". Và "Bóc lột" là kẻ thù của giai cấp công nhân lao động nên cần phải tiêu diệt ! Cho nên lúc bấy giờ, HCM và đảng của ông ta đề ra khẩu hiệu : "Đoàn kết bần cố nông, liên kết trung nông, lôi kéo phú nông, tiêu diệt địa chủ" ! Không thấy khẩu hiệu về Thuế Công Thương Nghiệp vì lúc ấy, 95% người dân VN sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, VC cũng có đặt các thứ thuế Công Nghiệp, Thương Nghiệp, Sát sinh, Lâm thổ sản và Xuất nhập cảng, không bỏ sót một thành phần nào. Bất cứ ai có tiền, có đời sống khá giả đều bị ghép vào "địa chủ, tư bản, phản động" và dĩ nhiên là có tội... "Bóc lột". Vì vậy, có nhiều nhà thèm thịt, bắt con gà do chính mình nuôi làm thịt ăn cũng phải dấu kỹ, ăn lén, chôn lông sợ người chung quanh biết, cán bộ VC biết thì sẽ bị quy vào thành phần khá giả, có tội bóc lột, v.v...

Chính sách thuế Nông Nghiệp và Công Thương Nghiệp do HCM đề xướng được đảng của Hồ khoe khoang đề cao là tiến bộ bật nhất, vì vừa giản dị vừa chính xác !

Song song với các sắc thuế khắc nghiệt đó, HCM và đảng của Hồ còn đề ra chính sách "Giảm tô" và chính sách thu thuế. Để xoa dịu số đông là thành phần bần cố nông vốn đã nghèo nàn thiếu thốn, nay lại phải đóng thuế nặng nề hơn trước, HCM đề ra chính sách "Ban ơn trước mặt, móc túi sau lưng", bằng cách cưỡng bách địa chủ, phú nông phải giảm tô cho mọi người cày cấy, ví dụ như nếu trước khi phải đóng cho chủ ruộng 50% số lúa thu hoạch thì nay người nông dân mướn đất chỉ cần đóng 10%, 20% hay 30% số lúa thu hoạch tùy theo thành phần để rồi, đảng của Hồ qui hoạch tổng số thu nhập thực thụ của người nông dân phải chịu thuế, rốt cuộc... người nông dân cày cấy chỉ là trung gian, lấy thêm của chủ ruộng để nộp cho Đảng và Nhà nước.

Để chóng bần cùng hóa giới phú nông và tiêu diệt nhanh giới địa chủ mà đảng của Hồ luôn luôn cho là bọn phản động, là kẻ thù của đảng, HCM còn đặt ra Thuế Phụ Trội (PT).

Ngoài thuế chính nghạch phải nộp cho chính phủ, thành phần phú nông, địa chủ còn phải đóng thuế PT cho đảng của Hồ, nghĩa là tùy theo các bậc thuế PT đã được qui định sẵn từ 01 đến 41, thì thuế chính ngạch mà mọi người phải đóng là 50% số thu hoạch cho chính phủ, còn lại 50%, nếu ai phải đóng ở thuế PT bậc trung bình 20, thì phải đóng thêm 30% của số thu hoạch còn lại cho đảng. Nếu ai phải đóng thuế PT bậc 41 là bậc cao nhất thì coi như... chẳng còn gì để ăn.

Có những trường hợp cười... không ra nước mắt như, cán bộ thuế VC cố tình ấn định mức thu hoạch cao hơn mức thu hoạch thực thụ qua những bình nghị không chính xác vì đối tượng đã bị xếp vào hạng kẻ thù của đảng. Do đó, các cán bộ thu thuế VC cũng không cần phải định thuế chính xác, trái lại còn áp dụng những hình thức đàn áp dã man như, nếu không đủ lúa để nộp, đảng và nhà nước không nhận số tiền tương đương mà bắt buộc người chịu thuế phải ra chợ mua lúa theo giá chợ đen để nộp thuế (sau 75, VC đã áp dụng chính sách này tại vài nơi ở miền Tây Nam phần, bị dân chúng phản đối mạnh nên phải bỏ đi).

Thường thì giới khá giả ở nông thôn có mảnh vườn chung quanh nhà để trồng cây ăn trái, chăn nuôi súc vật tự túc, cũng bị qui ra ruộng lúa để tính thuế với sản lượng cao nhất. Nhưng chưa phải là xong, họ còn phải chịu thuế lợi tức chăn nuôi gà, vịt, heo thỏ, dê, v.v... (sẽ kể lại trong phần thuế Công Thương Nghiệp).

Thuế Nông Nghiệp mỗi năm thu hai lần (vụ mùa và vụ chiêm). Trong mỗi vụ mùa, trước khi thu thuế, đảng của Hồ đều phát động một chiến dịch học tập, hô hào mọi nông dân thi đua "Phơi khô, quạt kỹ, nộp nhanh" vì cán bộ Việt-Minh đã có kinh nghiệm lúc Nhật còn chiếm đóng, có đề ra việc thu thóc của nhân dân, chính cán bộ VC đã xúi người dân ngâm thóc vào nước cho nặng cân và trộn lúa lép vào, nên giờ họ ngại dân quen nếp cũ. Và họ đã bắt dân phải "thi đua", chẳng những phải "phơi khô, quạt kỹ" mà còn phải "nộp nhanh".

Những thành phần bần cố nông, một phần nhờ bị ít thuế nên họ có thể gánh lúa đến kho thuế nhanh, một phần vì họ đã trở thành cán bộ đảng, hay ít ra cũng là ông nọ bà kia trong các Ủy ban Hành Chánh, Đoàn thể, Hiệp hội địa phương... nên họ phải làm gương, phải thi hành đúng tiêu chuẩn thi đua. Còn thành phần phú nông, địa chủ thì... dù đã hết sức cố gắng, dù vợ chồng con cái đều cùng nhau gánh thóc dến kho thuế nhưng họ ít khi gánh đến kho xã ấp kịp thời (kho đã đầy lúa/thóc), nên họ phải gánh thóc đến kho Huyện, Tỉnh ở xa vài chục cây số.

Lúa thóc mang đến kho để nộp thuế không hẳn đã được nộp ngay, đôi khi phải đợi ngày này qua ngày khác, vì cán bộ VC còn xét lý lịch theo thứ tự ưu tiên được... nộp thóc vào kho. Trong mọi trường hợp, cán bộ CS đều được biệt đãi ví dụ như việc điều trị tại bệnh viện, con cái vào trường học, thi cử, mua hàng quốc doanh, v.v..

Vấn đề thi đua đóng thuế do đảng và chính quyền VC đề ra, giới khá giả không có cách nào chu toàn được nên họ tự nhận... "thua non", thì bị ghép tội "châm biếm, phản động". Họ cảm thấy cùng quẩn, muốn trở thành bần cố nông cho đỡ khổ nên "tự giác" đem ruộng đất, tài sản hiến cho đảng và Nhà nước. Nhưng chưa hết chuyện đâu, vì họ còn phải xin phép Nông hội địa phương cứu xét kỹ xem họ có còn của kín (vàng bạc, châu báu) hay không, rồi đảng mới có thể "nhận dùm cho". Họ chỉ giữ lại trâu bò và một số tiền đủ để mua thóc giống và phân bón cho vụ sau. Thực ra lúc đó, nhiều người đã kiệt quệ, không còn đâu để bới ra thêm được nữa, bởi trong những năm đầu, đảng và chính quyền VM đã hô hào nào là "Tuần lễ Vàng" để kháng chiến chống Pháp, nào là "Thi đua nhận bộ đội làm con nuôi", v.v... người dân vì tình thân yêu nước muốn góp công chống Pháp nên đã thi hành hăng hái triệt để, đã dốc ra hết của cải tài sản để được đề cao là "Chiến sĩ thi đua" nên đã trở thành "chiến sĩ khánh tiệt" mà đảng vẫn không tin.

Một số phú nông, địa chủ đành phải liều mạng, vì không còn cách nào để làm vừa lòng đảng và chính quyền Việt-Minh, nên đã nằm ì ra tới đâu hay tới đó. Đảng và chính quyền tới nhà xúc đi, khiêng về nhà lao nhốt, đưa giấy có mẫu sẵn bắt phải điền vào. Hết phần tự kiểm đến phần tự nguyện dâng hết cửa nhà, sản nghiệp cho đảng và nhà nước, không được mang ra một món gì dù lớn hay nhỏ, thì ruộng đất, tài sản mới được Nông hội địa phương "nhận dùm", rồi đến các chuồng bò hàng xóm còn bỏ trống mà ở. Lúc đó, đảng và chính quyền địa phương mới chịu tha cho người đó cái tội "bóc lột" và được ban khen là... "người tiến bộ" !

Một số các phú nông, địa chủ trốn ra vùng Pháp còn chiếm đóng để thoát nạn. Cán bộ đảng và chính quyền địa phương bèn mở "phiên tòa" xử tử khuyến diện đương sự về tội Việt gian, bắt các thân nhân liên hệ còn lại phải đứng nghiêm trước phiên xử từ đầu đến cuối, rồi buộc phải ký tên thừa nhận bản án. Còn số đồng bào bị bắt đến dự phiên tòa thì phải hô những khẩu hiệu do cán bộ VM hướng dẫn như... "Đả đảo Việt gian phản quốc", "Hoan hô chủ tịch Hồ chi Minh".

Vì số đông đả đảo và hoan hô tới tấp nên đôi khi những tiếng "đả đảo, hoan hô" hòa lẫn nhau và lắm khi người ta chỉ nghe... " Chủ tịch Hồ Chi Minh, đả đảo, đả đảo" vì các tiếng Việt gian, hoan hô quá ít. Nhiều người thì thầm bàn tán : -"Đả đảo Hồ chí Minh thì cũng như đả đảo Việt gian" !

Khi tinh thần nhân dân đã trở nên khiếp nhược thì HCM và đảng bèn đưa ra chính sách "Điều chỉnh diện tích ruộng đất", vì nghĩ rằng dưới thời Pháp đô hộ, nông dân đã man khai diện tích ruộng đất để trốn thuế, nhất là thành phần phú nông, địa chủ là những thành phần cường hào ác bá có quyền lung lạc ở địa phương.

CS dùng các cán bộ cốt cán bắt nông dân phải khai tăng diện tích ruộng đất, để đảng dựa theo đó mà gia tăng sản lượng và gia tăng thuế. Thành phần bần cố nông có độ 3 sào, phải gương mẫu tự khai tăng lên từ 15 đến 30% diện tích làm tiêu chuẩn để bắt dân phải khai theo. Sau đó, CS bắt dân tập họp từng vùng lại, cho cán bộ làm chim mồi "tự giác" khai giữa buổi họp đại khái rằng... "Anh ta có hai sào ruộng, theo sản lượng tính thuế có 260 kílô thóc, nhưng thật sự anh ta gặt được những... 390 kílô. Như vậy, diện tích đất của anh ta phải là 3 sào mới đúng".

Cán bộ đội trưởng các cuộc tập họp còn đưa ra lời hăm dọa : -" Nếu không khai báo đúng sẽ bị tịch thu ruộng đất và tài sản. Ruộng đất sẽ giao cho đội sản xuất phân phối canh tác còn tài sản thì bù vào số thuế thất thu từ trước". Do đó, ai nấy đều lo sợ, tự ý khai tăng diện tích đất của mình lên, ví dụ như người có một mẫu thì khai tăng lên 1 mẫu 5 sào và thu hoạch 1300 kí lúa phải khai tăng lên 1650 kí.

Thành phần phú nông, địa chủ chịu bậc thuế cao, thiếu thóc để đóng thuế đã đành, đàng nay, có nhiều bần nông thu hoạch xong cũng chỉ đủ để... đóng thuế. Tình hình này khiến cho nhiều bần nông vốn là thành phần cốt cán của đảng cũng ngấm ngầm bất mãn, tiêu cực trong công tác làm ảnh hưởng đến nhiều chính sách của đảng.

HCM và đảng bèn đề ra đợt điều chỉnh diện tích, bằng hình thức tự kiểm thảo của mỗi giới. Lúc bấy giờ, nhiều ông nhiều bà trong giới bần cố nông mới dám nói thật là... "Tôi điển hình phải khai như vậy", "Tôi bị cán bộ bồi dưởng chính sách ép làm như thế", hay là "Tôi ngượng với nhân dân, không dám phản đối, chỉ nghe theo", v.v.... Song song với đợt "Điều chỉnh diện tích", đảng lại đề ra "Thi đua tăng năng suất". Từ một mẫu ruộng năng suất 1,300 kílô, thi đua thách, bắt tăng lên 1,600 kílô thóc. Giai đoạn này là "điều chỉnh sản lượng", cũng có lắm ý kiến bàn cãi, vì đám cán bộ cốt cán vẫn giữ vai trò gương mẫu, và mọi người phải nhao nhao đồng ý theo. Chỉ có vài người thuộc thành phần lỡ trung nông, lỡ bần nông, không phải là đảng viên thầm thì bàn bạc với nhau : "Cải cách đã sửa sai rồi, bây giờ lại theo như cải cách thì sửa sai cái gì ? Thì thầm với nhau như vậy nhưng không ai dám nói gì, đành bóp bụng chịu.

1b/ THUẾ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP.

HCM và đảng của Hồ chủ trương bao vây kinh tế các vùng Pháp chiếm đóng, tạo khó khăn về lương thực và vật dụng đối với quân đội Pháp cũng như người dân sống trong các vùng ấy. Vì vậy, việc buôn bán giữa hậu phương và các vùng bị Pháp chiếm bị ngăn cấm tuyệt đối. Những người buôn lậu bị bắt, bị phạt tù, hàng lậu bị tịch thu. Tuy vậy, việc buôn hàng lậu không tài nào ngăn cấm được triệt để, bởi các cán bộ hạ tầng của đảng quá thiếu thốn, nên đã có sự thông đồng với con buôn để chia lợi, hoặc hàng lậu bắt được nhưng không báo cáo công khai, chỉ chia nhau dùng và đem biếu cán bộ cấp trên.

Do đó, việc buôn bán rất thịnh hành, con buôn có đời sống cao hơn nông dân. Hơn nữa, nhờ có buôn lậu mà hậu phương mới có được những hóa phẩm như thuốc tây, xăng dầu hay nguyên liệu để chế biến, sản xuất, v.v...

Thấy vậy, HCM và đảng của Hồ bèn hạn chế phong tỏa kinh tế và đề ra "Thuế Công Thương Nghiệp" và lập "Mậu Dịch Quốc Doanh".

Thuế Công Thương Nghiệp cũng như thuế Nông Nghiệp nhưng đánh trên lợi tức thu được HÀNG THÁNG. Ước định số lợi tức của mỗi công thương gia hàng tháng, tùy theo nghề làm, loại buôn để xếp hạng phải đóng thuế bao nhiêu phần trăm lợi nhuận. Nếu có số lợi tức cao, các công thương gia cũng phải chịu "lũy tiến gia tăng" (như các địa chủ phú nông đóng thuế PT), là phải đóng thêm từ 15 đến 30% nữa. Mỗi Công, Thương gia phải mua nơi chính quyền một cuốn Sổ Chi Thu có ghi đầy đủ các tiết mục. Mỗi lần mua món gì, bao nhiêu, bán món gì, bao nhiêu (dù là bán nước, bán trấu hay sản xuất cái gào, cái nồi đất, v.v... ) đều phải làm 3 hóa đơn (1 giao người mua, 1 nộp ban thuế, 1 giữ).

Tuy nhiên, sổ sách và những hóa đơn này chỉ giữ lại để mỗi khi chính quyền cần kiểm tra, hoặc trình báo địa phương, chứ không phải để tính thuế vì CÔNG VIỆC ĐÓNG THUẾ LÀ CÔNG VIỆC CỦA NHÂN DÂN không phải của chính quyền. Đảng cho rằng, dưới một chế độ dân chủ tiến bộ, nhân dân LÀM CHỦ MỌI CÔNG VIỆC, chính quyền chỉ THU VÀ GIỮ mà thôi. Nên việc tính thuế, đóng thuế, thu và nạp là việc của nhân dân, vì đảng luôn luôn tin vào sự giác ngộ, sáng suốt của nhân dân, không cần căn cứ vào sổ sách giấy tờ, vì giấy tờ chỉ là hình thức không xác thực. Đảng coi việc chấp nhận mức thuế, nạp các loại thuế là một "HÂN HẠNH", khác hẳn các nước tư bản là một "nghĩa vụ". Việc đóng thuế là "thể hiện lòng yêu nước", nên việc đóng thuế là một "hân hạnh". Nếu ai không xứng đáng với "ĐẶC ÂN" đó, hoặc vì lý do gì không làm tròn "HÂN HẠNH" đó, thì nhân dân có bổn phận phải đối xử với họ, chính quyền và Đảng chỉ thi hành những biện pháp DO NHÂN DÂN đề ra.

Ban đầu, nhân dân còn thắc mắc chưa hiểu được "HÂN HẠNH" và "ĐẶC ÂN" là gì. Sau những cuộc học tập gọi là "bồi dưỡng" do đảng và chính quyền tổ chức để "đả thông tư tưởng" của nhân dân thì... nhân dân mới được rõ :- Tại sao nộp thuế là một "HÂN HẠNH", một "ĐẶC ÂN" ?

Theo HCM và các cán bộ đảng thì, dưới chế độ "Dân chủ Nhân dân", NGƯỜI CÔNG DÂN KHÔNG CÓ QUYỀN KINH DOANH TỰ DO, đây là đặc điểm quan trọng khác chế độ tư bản, vì kinh doanh nằm trong phạm vi của "Mậu Dịch Quốc Doanh". Nhưng vì hoàn cảnh chung, chính quyền và Đảng đã "thương lượng" với cơ quan Mậu Dịch Quốc Doanh để dành "ĐẶC ÂN" cho những thành phần nào, những việc kinh doanh nào mà tư nhân được làm, chứ không phải ai cũng được quyền kinh doanh và kinh doanh cái gì tùy ý (như địa chủ không được quyền bán cơm, cắt tóc, v.v... vì rất nguy hiểm cho sinh mạng của nhân dân).

Vì vậy, đơn xin hành nghề Công, Thương phải nộp cho Ủy Ban Hành Chánh, nhưng cho phép hay không là quyền của Chi Bộ Đảng, vì CHỈ CÓ ĐẢNG MỚI BIẾT RÕ LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ CỦA ĐƯƠNG ĐƠN. Sau đó, quyền kiểm soát dịch vụ chuyên môn liên hệ và nhu cầu do Mậu Dịch Quốc Doanh điều khiển.

Do đó, không phải hễ ai đã "HÂN HẠNH" nộp thuế là được "ĐẶC ÂN" kinh doanh vì TỰ DO KINH DOANH CAO QUÍ HƠN TẤT CẢ MỌI THỨ TỰ DO KHÁC ! VÀ, CHÍNH VÌ SỢ CHÊT ĐÓI MÀ TOÀN DÂN MIỀN BẮC VIỆT NAM ĐÃ KHÔNG DÁM CƯỠNG LẠI BẠO QUYỀN CỘNG SẢN ! Vì tầm mức quan trọng, bổn phận của nhân dân phải làm gì ? Cán bộ hô hào nhân dân phải đi họp đông đủ, có mặt những người hành nghề Công Thương ở địa phương, để mổ xẻ công việc làm ăn của mỗi Công Thương gia, rồi lập danh sách thứ tự từ người thu hoạch nhiều nhất xuống dần tới kẻ thu hoạch ít nhất, gọi là "Bình Dọc". Danh sách thứ tự này còn được gọi là "Sổ hành nghề Công Thương".

Tiếp đến cuộc họp thứ hai, các Công thương gia tự mổ xẻ nhau về mức lợi tức thu hoạch, bình nghị ai hơn ai kém trong buổi họp có đông đủ nhân dân địa phương chứng kiến và cuối cùng, tất cả mọi người đều có quyền giơ tay "biểu quyết xác định" mức lợi tức hàng tháng của mỗi Công Thương gia, xếp hạng họ vào loại cao hay thấp để chịu thuế từ 20% đến 60% lợi tức, được gọi là "Bình Ngang", nghĩa là cán bộ hô hào mọi người bới móc nhau, cạnh tranh, ganh tị, tố cáo nhau, để ước định mức thuế.

Còn "chính quyền và nhân dân" thì chỉ là kẻ chứng kiến và thi hành việc thu thuế mà thôi ! Qua các buổi họp kiểu "dân chủ" thủ đoạn như trên, đảng của HCM tha hồ khai thác sự xích mích, thù hằn giữa những người dân cùng làng, cùng xóm, được dịp trả thù nhau trong những buổi họp "Bình thuế". Do đó, hầu hết mức thực thu của mỗi Công Thương gia đều bị "kích lên" gấp đôi, gấp ba lần. Vì vậy, người dân bỏ công sức ra làm mà không đủ ăn lại phải bán tư trang dần để nộp thuế, dần dần họ phải kiệt quệ. Cuối cùng, họ đành phải tìm cách trốn sang vùng Pháp kiểm soát nương thân sống tạm, mặc cho Mậu Dịch Quốc Doanh ban ân xuống phước.

Vì chính sách thuế Nông Nghiệp và Công Thương Nghiệp của HCM và bè đảng quá thủ đọan, khắt khe, thâm độc, nhằm bóc lột và đàn áp, nên đại đa số người dân đã trở thành bần cố, ngoan ngoản làm công cụ cho chính quyền do đảng CS lãnh đạo, núp dưới danh từ "Đảng Lao Động", một đảng quái gở, độc tài, hà khắc, dã man nhất trong lịch sử loài người từ xưa tới nay.

Đảng Lao Động do HCM lãnh đạo là một quái thai của đảng CSVN, ngày nay đã lộ nguyên hình, chỉ là công cụ thuộc địa, tay sai cho Đế quốc Cộng sản Nga sô, đang lảm nhảm đề cao những thủ đoạn vụng về, ấu trỉ "Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo", nghĩa là nhân dân phải cúi đầu làm nô lệ dưới hai tầng áp bức và bóc lột tận cùng xương tủy.
 

ĐẤU TỐ CHÍNH TRỊ.

Đang lúc toàn dân thiên hạ đang thất điên bát đảo về các thuế Nông Nghiệp và Công Thương Nghiệp mà dân chúng gọi là "Thuế Sạt Nghiệp" thì HCM và đảng của ông ta đã chuẩn bị trong bí mật, bất thình lình phát động một chiến dịch đại qui mô chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là chiến dịch "Đấu Tranh Chính Trị".

Sau một thời gian các đảng viên CS liên lục hội họp, học tập kín từng cấp bộ, đả thông tư tưởng, thông suốt chủ trương và thủ đoạn của HCM, bắt đầu nửa đêm 23 tháng Chạp âm lịch, tức vào đầu tháng 2 năm 1953, có tiếng mõ trống báo động bất thình lình khắp hang cùng ngõ hẻm. Dân chúng ai nấy tưởng Pháp tấn công qui mô bất ngờ, nên rất hồi hộp lo sợ, nhưng khi biết ra thì đảng bắt đầu phát động chiến dịch "Đấu tố chính trị", tập họp mọi tầng lớp nhân dân theo đơn vị thôn ấp, được cán bộ hướng dẫn đến một địa điểm Xã hoặc Liên Xã, để TỔNG KIỂM THẢO về thuế Nông Nghiệp và Công Thương Nghiệp.

Trên bàn chủ tọa, có đôi ba tên đảng viên cốt cán như Bí thư Xã ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chánh, Trưởng ban Nông hội, tuyên bố lý do tập họp, thường chỉ có một câu : - Tại sao có nhiều người ngoan cố không chịu nộp thuế, hoặc nộp không đủ số thuế đã ấn định ?

Mọi người đều im lặng vì họ biết cán bộ đã nói sai rồi. Suốt hai năm qua, giàu cũng như nghèo, phú nông, địa chủ hay bần cố nông đều đã kiệt quệ, không còn ai có thể chạy ra thóc lúa, tiền bạc để đóng cho hai sắc thuế "sạt nghiệp" ấy được nữa. Nhưng cán bộ CS đưa ra câu hỏi trên, không phải là họ muốn tìm hiểu thực trạng về thuế, mà nhằm thực hiện một thủ đoạn chính trị vô cùng ác nghiệt và man rợ, vì trước khi tập trung đồng bào tại các địa điểm để tổng kiểm thảo, các cán bộ CS đã chuẩn bị sẵn giây thừng, gậy, hèo, búa, và nhiều dụng cụ tra tấn khác.

Sau khi tuyên bố lý do, cán bộ CS đọc danh sách của những người thiếu thuế, không kể là thiếu ít hay thiếu nhiều đều bị điệu ra trước bàn chủ tọa. Cán bộ chủ tọa lần lượt hỏi từng "can phạm" hai câu chính là :

- Kẻ nào đã xúi giục "can phạm" không nộp thuế ?

- Có phải là... Nguyễn văn Tí/Tèo/Ất/Giáp (cán bộ gọi tên những người đã có tên trong sổ đen mà cán bộ muốn mang ra đấu tố) xúi mày phải không ? Nói mau ! "Can phạm" chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp nghĩ ra ai thì cán bộ chủ toạ đã ra dấu cho cán bộ hạ tầng bu lại đè xuống đánh phủ đầu. Nếu không nhìn nhận ngay thì "can phạm" sẽ bị lôi ra phía sau đánh đập, kìm kẹp tra tấn cho đến lúc nạn nhân không chịu nổi nữa, chỉ còn biết gật đầu xác nhận là đã nghe lời xúi giục của ông... Tí/Tèo/Ất/Giáp nào đó . Nếu không gật đầu xác nhận thì nạn nhân có thể bị đánh đập cho đến chết. Tức thời, Nguyễn văn Tí/Tèo/Ất/Giáp nào đó bị trói ngay và cán bộ cổ động mọi người hô to liên tục "Đả đảo Nguyễn văn...Gì đó". Chương trình đấu tố cứ lập đi lập lại liên tục như thế cho đến người thiếu thuế sau cùng. Những ai đã khai rằng đã bị ai đó (do cán bộ CS mớm tên) xúi giục thì được tha về.

Tiếp theo đó là phần tra tấn những người BỊ KHAI tội xúi giục, mà tên tuổi đã nằm trong sổ đen của đảng CSVN. Họ thường là những người Quốc gia yêu nước thuộc các đảng phái, hay không đảng phái nhưng không theo hay không ưa Cộng Sản.

Dĩ nhiên là họ bị tra tấn tào bạo hơn và bị bắt buộc phải trả lời hai câu hỏi sau đây :

1. Mày ở trong tổ chức phản động nào ?

2. Trong tổ chức phản động của mày có thằng Dần, Mẹo (lại mửng cũ để bắt ai đó) nào đó không ? Vì bị đánh đập tàn nhẩn quá nên khi trả lời câu hỏi thứ nhất, có nhiều nạn nhân không theo đảng phái nào cả đã phịa ra đảng X, đảng Y gì đó (có người đã khai là họ thuộc đảng Bảo Đại, đảng Tây, đảng Nhật gì đó, v.v... ) cho đỡ bị đòn. Thậm chí có những nông dân ít học, từ bé chỉ biết cặm cụi làm ăn trên ruộng vườn do ông bà để lại, bị tra tấn cuống quá bèn khai rằng mình thuộc "đảng Cộng sản", vì dân ta đã từng nghe lờ mờ về đảng CS rồi không nghe thấy gì nữa, chứ họ đâu biết rằng đảng CS đã biến dạng thành đảnh Lao Động và cán bộ đảng Lao động đang tra tấn họ như bầy dã thú.

Khi trả lời câu hỏi thứ hai thì hầu hết đã bị tra tấn ngất ngư nên chỉ còn biết gật đầu xác nhận thằng A hay ông B nào đó (tên do cán bộ chủ tọa mớm cho) là những tên "phản động", cho đảng của Hồ có cái cớ để bắt giam họ và lần lượt đem ra xử trước các "Toà án nhân dân".

Tất cả những người bị gọi là "phản động" và bị cán bô. CS bắt tra tấn trên đây thuộc đủ mọi thành phần... giàu, nghèo, có học, thất học, địa chủ, tiểu tư sản, nông dân thuần túy, v.v... chỉ vì sơ hở một lời nói, một cử chỉ hoặc đã có một hành động dù nhỏ nhoi, như đã tỏ ra bất bình hay lưng chừng không theo CS.

Thực ra, những kẻ chống đối CS, hoặc đã bỏ chạy sang các vùng Pháp chiếm đóng, hoặc đã bị CS thủ tiêu trong mấy năm vừa qua. Nhưng đối với Việt cộng thì LƯNG CHỪNG CŨNG NẶNG TỘI NHƯ PHẢN ĐỘNG ! Do đó, HCM và đảng của ông ta đã đề ra khẩu hiệu :- THÀ GIẾT LẦM CÒN HƠN BỎ SÓT ! Về hình thức xử án thì cũng như những lần tập họp trước. Tập trung nhân dân, cán bộ đảng tuyên đọc tội trạng, "hỏi ý kiến nhân dân" về biện pháp trừng trị và thi hành ngay. Nói là "hỏi ý kiến nhân dân" cho ra vẻ "Toà án nhân dân" nhưng các cán bộ cơ sở đã chuẩn bị sẵn những lời đề nghị cho các cán bộ cò mồi đưa ra, và đã chuẩn bị đâu vào đó những hình phạt và hình thức áp dụng như sau :

- Bắt nạn nhân phải quỳ trên đống sỏi lẫn lộn với gạch vụn, miểng chai. Hai tay giơ lên đỡ một thùng đá nặng đặt ngay trên đầu.

- Nạn nhân bị treo hai tay, hay hai chân bằng một sợi thừng vắt qua cái đà ngang giữa hai cây trụ. Chốc chốc lại kéo lên, hạ xuống, vừa đánh vừa tra hạch. Thỉnh thoảng thả rơi cái bịch xuống đất.

- Quấn giẻ có tẩm dầu vào hai ngón tay cái rồi bật lửa đốt.

- Bỏ nạn nhân vào trong một cái rọ rồi dìm xuống nước vài ba phút, lôi lên tra hỏi, nếu chưa nhận tội thì lại dìm xuống nước.

- Kẹp đầu ngón tay các nạn nhân giữa gọng một cái ê-tô (étau). Cứ mỗi lần tra hỏi mà nạn nhân chưa nhận tội thì cán bộ quay xiết thêm một vòng.

Những hình thức tra tấn dã man trên đây đều được cán bộ CS áp dụng trong các vùng do Việt-Minh kiểm soát. Cho nên, dân chúng thời bấy giờ xầm xì rằng, chủ trương dùng các cực hình đấu tố là do các cố vấn Nga sô hay Trung cộng nhập cảng vào VN, còn kẻ thi hành là Hồ chí Minh và đảng của họ Hồ.

Điều đặc biệt đáng chú ý là, các cán bộ đảng viên cốt cán chỉ chủ tọa và cổ động cho nhân viên (mà họ gọi là nhân dân) làm, chứ họ không trực tiếp nhúng tay tra tấn. Mọi việc họ đều giao cho "nhân dân", tức là những cảm tình viên cốt cán của đảng, của chính quyền Việt-Minh, như cha mẹ, con cái, anh chị, cô chú, cậu mợ ruột thịt của các đảng viên. Nên sau này, khi nhân dân than oán về cung cách tra tấn dã man trong chiến dịch "Đấu tố chính trị" thì HCM và đảng của họ Hồ phủ nhận trách nhiệm, đổ hết tội lỗi lên đầu nhân dân.

Sau đây là một câu chuyện điển hình về thái độ "bán cái" kể trên.

Một cô giáo cấp I, ra đề bài luận trong một lớp tiểu học như sau... "Các em hãy tả một cuộc Đấu trong xã của em". Các em học sinh còn thơ ngây nên thấy sao tả vậy. Nào là cảnh bắt người trói lại, rồi đánh đập tra khảo. Nào là tiếng nạn nhân rên xiết hòa lẫn tiếng đả đảo vang dội cả một góc trời. Cuối bài thì các em kết luận bằng những câu ca tụng chủ trương, đường lối sáng suốt và đứng đắn của "bác Hồ và đảng".

Cô giáo, nếu không phải là đảng viên CS hay đoàn viên thì ít ra cũng phải là con cháu, vợ hoặc anh chị em trong gia đình các đảng viên, đã học tập thông suốt là đảng không dính dấp gì đến các vụ đấu tố này, mà đấy chỉ là "nhân dân tự động đấu tranh chống phản động". Cho nên khi chấm bài, cô giáo đã phê rằng học sinh đã tả không đúng sự thật, vì các em đã không nói lên "tinh thần tự động đấu tranh của nhân dân" thay vì "chủ trương của bác và đảng".

Cả lớp đã bị mắng là "nói điêu" nên giơ tay ráng gân cổ cãi lại cô giáo rằng... "chúng em đã thấy tận mắt thế này, thế nọ". Một vài em đã đứng lên kể rành mạch rằng các em đã thấy cán bộ chặt tre làm gậy, mang giây thừng, đan rọ, tẩm dầu vào giẻ hay mang các dụng cụ dùng để tra tấn đến các địa điểm đấu tranh trước khi triệu tập nhân dân đến, v.v...

Thường thì mỗi vụ đấu tố kéo dài cả tháng mới xong cái thành phần phản động. Đêm nào cũng có người bị tra tấn, đánh đập đến chết. Cho nên trong dịp Tết này, phần đông đồng bào miền Bắc không biết Tết là gì, nhà nào nhà nấy đều im hơi lặng tiếng, tối đến không dám thắp đèn. Chỉ có nhà các cán bộ đảng và chính quyền mới dám bày biện tiệc tùng. Ngoài ra, nhân dân đều phập phòng hoảng hốt trước cái cảnh hằng đêm phải chứng kiến những vụ tra tấn, chết chóc tức tưởi. Có người đã nhận xét rằng :

- "Súc vật thấy người sợ cũng sợ lây. Chó không dám sủa, gà không dám gáy, mọi vật, mọi cảnh và thời gian hình như ngưng lại.

Trong thời gian hơn một tuần lễ đầu, việc đấu tố diễn tiến tuần tự theo các kế hoạch mà đảng đã vạch ra. Những người có tên trong sổ đen lần lượt bị đem ra tra tấn. Phong trào đấu tố được đẩy mạnh, cán bộ CS càng say sưa quyết sát, nên dần dần không còn chú ý đến sổ đen nữa, hoặc danh sách trong sổ đen đã hết, hễ thấy ai bị "phát giác" là bắt ngay để tra tấn. Đảng không kiểm soát nổi phong trào nên lúc bấy giờ, ở khắp mọi nơi, các cuộc khủng bố trở thành lung tung, không còn giới hạn. Khắp mọi xã ấp, ở đâu cũng nghe nói có đánh đập, tra tấn, chết chóc, oán than... Cuộc đấu tố trở nên hỗn loạn, do các nguyên nhân sau đây :

1. Đảng căn dặn cán bộ giao việc tra tấn, đánh đập cho nhân dân thuộc thành phần nòng cốt (có liên hệ chặt chẽ với các đảng viên). Nhưng trong mỗi địa phương xã ấp, chỉ có một số ít được coi như cốt cán, nhưng một số trong bọn ấy ngần ngại, không muốn thẳng tay đánh đập bà con trong xóm, vì có liên hệ gia đình, hay vì đánh hoài cũng mõi tay, nên đã tuyển chọn người khác thay thế mình trong việc tra tấn, đánh đập. Trong một xã hội đạo đức, lễ giáo như xã hội VN, tìm những kẻ chịu làm cái công việc bất nhân, thất đức này không phải dễ, rốt cuộc, bọn thay thế họ tiếp tục đánh đập tra tấn các nạn nhân của đảng là thành phần lưu manh vô loại trong các vùng nông thôn. Bọn này từng có nhiều thành tích bất hảo như trộm cướp, giết người, trốn tránh nghĩa vụ, v.v... nhưng chính quyền CS coi các tội ấy không quan trọng nên chưa hỏi tới. Bây giờ "cờ đến tay", bọn chúng ra sức "phất mạnh", đánh đập bất cứ ai để làm oai với nhân dân và để lập công chuộc tội với đảng và chính quyền hiện hữu. Từ "thằng", bổng nhiên chúng nó trở nên "ông", có quyền đánh đập tra tấn bọn "phản động" để không ai dám quy chúng là lưu manh bất hảo nữa. Chúng ra sức tra tấn bọn "phản động" rất tàn nhẫn như rất căm thù phản động, để "rửa tội" cho bản thân là lưu manh, phản động. Bọn chúng chỉ cần đánh cho đẹp, để lấy lòng đảng và "lấy le" với nhân dân, làm cho mọi người phải sợ chúng để sau này không ai dám tố cáo cái tội lưu manh giết người của bọn chúng. Vì đa số thất học nên bọn chúng không hiểu "Tư bản, Cộng sản, Đế quốc, Thực dân, Dân chủ, Độc tài" là cái chi chi mà chỉ hành động theo chỉ thị của đảng. Mọi người dân lương thiện trong địa phương đều khinh rẻ bọn này, coi bọn chúng như những tên "phản động" thứ thiệt, nghe lệnh CS giết bà con trong thôn xóm mình.

2. Do vậy mà các cuộc đấu tố trở nên hỗn loạn. Không ai bảo ai, mọi người đều đặt câu hỏi : - Nếu đêm nay, chẳng may mình bị đem ra đấu tố đánh đập, thì phải khai như thế nào cho đỡ đòn ? Có người lanh trí lý luận rằng, muốn cho đảng và nhà nước đình chỉ phong trào đấu tố, nên lợi dụng tình trạng hỗn loạn này để khai rằng chính các cán bộ đảng, hoặc bà con thân thích của các cán bộ đảng viên là những tên "phản động". Kết quả là nhiều cán bộ đảng viên bị khai tên cũng bị bắt tra tấn như các "phản động" khác. Các Chi bộ đảng không có cách nào can thiệp ngay, vì khẩu hiệu mà đảng đã nêu ra là "Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh chống phản động". Đảng đã tuyên bố và ra lệnh cấm tuyệt đối, không một cá nhân nào, hoặc cán bộ nào được can thiệp, ngăn cản việc phát giác và đấu tố của nhân dân. Thế là cán bộ đảng viên trở thành nạn nhân của đảng, đúng như câu thành ngữ VN "Âm binh quật phù thủy".

Lắm lúc, người bị tra khảo mất hết tinh thần, nên khi bị hỏi "Trong tổ chức phản động của mày có những ai ?" bèn giơ tay chỉ ngay người đang ngồi chủ tọa. Ông chủ tọa bị lôi xuống chịu đòn tức khắc. Nhưng sau đó, cuộc đấu tố phải tạm ngưng vì... không có ai ngồi chủ tọa !

Sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh và đảng của Hồ nhận thấy tình hình trở nên quá nghiêm trọng, nên gởi điện hỏa tốc từ trung ương xuống các địa phương đình chỉ ngay các cuộc đấu tố. Nhưng trong điện văn có ghi rõ là "Phải giam giữ cẩn thận những kẻ mà nhân dân đã sáng suốt tố cáo là phản động".

Lệnh giam giữ những nạn nhân của các cuộc đấu tố chứng tỏ dụng tâm của HCM và đảng của Hồ đã vạch sẵn. Đảng muốn tiêu diệt những phần tử thuộc các đảng phái Quốc Gia yêu nước còn lẫn lộn trong quần chúng nông thôn, hoặc tạm thời gạt bỏ ra ngoài xã hội các thành phần mà đảng nghi ngờ, có thể chống đối các chính sách của đảng sau này.

Quả thật, trong các vụ đấu tố, trung bình mỗi xã có từ 5 đến 10 người bị ghép những tội nặng nhất, bị đánh chết hoặc đã uất ức tự tử, trong số đó có một Bộ Trưởng đương thời của chính phủ nước VNDCCH do HCM làm chủ tịch, là ông Đặng Văn Hướng, được nghỉ phép về quê thăm nhà, gặp phải vụ đấu tố địa phương, cán bộ xã ở địa phương không biết ông ta là Bộ Trưởng, chỉ biết sơ qua ông ta trước kia thuộc thành phần khá giả, có học thức, lại đi đâu vắng một thời gian, đúng là tên "phản động" nên mang ra đấu tố cùng với người anh ruột thuộc thành phần phú nông trong xã.

Trong lúc ấy, từ HCM cho đến các Bộ Trưởng khác, từ Chủ tịch cho đến các Tỉnh ủy, không ai đoái hoài đến số phận những người bi đấu tố nên cả hai ông đều uất ức tự tử chết. Ông Đặng văn Hướng là thân phụ của một Đại-tá VC từng nổi tiếng là "Anh hùng lộ số 4" vì mấy năm trước đó, viên Đại-tá này đã đánh thắng Pháp mấy trận ở Cao Bắc Lạng. Riêng số phận của những người bị "phát giác" là phản động thì bị giam trong các trại tập trung ở vùng rừng núi, tự sản xuất sinh sống, có đảng viên làm cai tù, kéo dài mãi cho đến khi có phong trào "Sữa Sai" năm 1956 mới được tha.

Chẳng phải chỉ có những phần tử Quốc Gia mới là nạn nhân của những màn đấu tố thanh lọc dã man, mà cả những người giàu có lúc trước, sau này ý thức được cuộc chiến đấu giành độc lập, đã đóng góp hết tài sản của mình cho phong trào Việt Minh, rốt cuộc cũng bị đem ra đấu tố.

Điển hình là vụ bà Cát Hanh Long bị tra tấn đến chết tại một "phiên tòa" tòa án nhân nhân. Bà Cát Hanh Long là một phú thương đã "giác ngộ" phục vụ kháng chiến ngay từ thời kỳ Việt Minh mới cướp được chính quyền. Bà Long đã một thời được đảng CSVN tôn vinh là "Mẹ chiến sĩ" nhờ thành tích cống hiến vàng bạc của cải để nuôi chiến sĩ. Nhưng đến khi phát động chiến dịch đấu tố nhằm bứng tận gốc các thành phần Quốc gia tư sản thì Cộng sản đã lôi bà Long ra đấu trường để "nhân dân" luận tội. Thế là bà Cát Hanh Long bị trói và đánh dập tàn nhẫn đến chết tại chổ. Con trai của bà Long đang cầm quân kháng chiến cũng bị "hạ tầng công tác" vì là con của một... "thương gia giàu có".

Đây là dã tâm, phản trắc và độc ác vô song của HCM và những người CSVN. Đã là con người, dù chỉ có chút ít ý thức đạo đức, không ai có thể hành động như vậy được !

Trong khi các cuộc đấu tố dã man, đa số diễn ra ở nông thôn, thì ở các thị trấn cũng có tổ chức những cuộc đấu tố tương tự nhưng với hình thức nhẹ hơn. Lý do là vì những tiểu thương ở các thị trấn có nề nếp tổ chức sinh họat, đa số là người tứ xứ không quen biết nhau nhiều nên không có hận thù nhau. Hơn nữa, tại các thị trấn này chỉ có buôn bán vặt, vì CS đã phá sạch địa ốc ở các thành phố lớn qua chính sách "Tiêu thổ kháng chiến" chống Pháp, không để cho quân Pháp chiếm đóng lập căn cứ.

Thực ra, dã tâm của CSVN là thực hiện phá sản giai cấp, dẹp tư sản thành thị mà CS coi là khó cai trị, cho nên các thị trấn thuộc vùng CS kiểm soát chỉ là những dẫy nhà lá, giáp ranh các xã có nhiều người qua lại. Chủ nhân các "quán" nhà lá này trước kia là những người sinh sống ở thành thị, nay bị VC cướp/đốt mất hết cơ nghiệp, phải di tản về vùng thôn quê, không có ruộng hay không quen làm ruộng, nên dựng lên túp lều buôn bán lặt vặt sống tạm qua ngày tháng. Vì vậy, các cuộc đấu tố ở các thị trấn có phần nhẹ nhàng hơn ở các nông thôn.

Dân thành thị "lanh láu" hơn dân ở nông thôn nên ngay từ những cuộc đấu tố đầu tiên, có nhiều người chưa bị cái bạt tai nào đã "quỳ gối thú tội" rằng họ có "bốc lột để sống qua ngày". Những tội ấy không có gì "phản động" cho lắm. Và vì thiếu "phản động" để kéo dài các cuộc đấu tố theo thời gian ấn định của đảng nên các cán bộ VC phải đi lùng bắt, truy nã những ai dùng hàng ngoại hóa, xa xí phẩm.

Trong giai đoạn này, những ai ăn mặc tươm tất, có mùi nước hoa thơm thơm là có trọng tội với đảng và chính quyền. Các cán bộ VC, các "cảm tình viên" của đảng phụ trách công tác này, đón ở các ngả đường, thấy ai ăn mặc tươm tất, có mùi nước hoa thì họ bắt phải tự tay phết bùn đất lên mặt và "gội đầu" bằng chậu nước rửa chén để sẵn và đánh đập tùy thích. Có nhiều anh chị đã thấy cảnh ấy nên khi bị chận lại liền "xung phong" xin gội đầu bằng nước rửa bát để tránh bị đánh đập. Một nạn nhân trong vụ ăn mặc tươm tất này là bà vợ của bác sĩ Nguyễn Bát Can, đậu bằng bác sĩ y khoa ở Pháp qua cái tên Dr. Pascal Nguyễn, đang phục vụ tại một bệnh viện của Việt minh CS. Vì bà quen ăn sang mặc đẹp nên bị CS mang ra đấu tố, đánh gần ngất ngư.

Tình trạng đấu tố ở nông thôn và thành thị phát triển theo hai hướng trái ngược nhau. Trong khi các cuộc khủng bố tại nông thôn mỗi ngày thêm ác liệt, có nơi đi đến hỗn loạn, thì tại các thị trấn diễn ra những cuộc chống phản động bằng chiến dịch "đấu tranh chống lề lối sinh hoạt tiểu tư sản" một cách vớ vẩn. Tình trạng này đã khiến cho người dân ở các vùng nông thôn nhanh chân bỏ chạy ra thành thị ẩn náu mỗi ngày một đông, vì họ nhận thấy ở chốn thị thành ít xảy ra bạo động như ở nông thôn. Nên sau đó, đảng và chính quyền CS ra lệnh giải những người cư ngụ trái phép trở về nguyên quán.

Sau những cuộc đấu tố đẫm máu, HCM có viết một "bức thơ" gởi khắp nơi "xin lỗi đồng bào", bắt buộc tất cả xã ấp phải tổ chức những buổi học tập rộng rãi cho nhân dân hiểu về bức thơ của họ Hồ. Trong thơ, HCM nhìn nhận đảng và chính phủ "đã có sự thiếu sót" trong việc lãnh đạo phong trào "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh", khiến nhiều địa phương có những đồng bào đã khinh thường luật pháp, hành động trái với "chủ trương nhân đạo, khoan hồng" của đảng và chính phủ. Các cán bộ hướng dẫn đồng bào học tập có kể cho dân chúng nghe là... "Khi Hồ chủ tịt viết bức thơ xin lỗi đồng bào, họ Hồ vì xúc động, bực dọc, đã chảy nước mắt".

Câu chuyện trên đây, chắc chắn cán bộ của Hồ không dám bịa đặt, vì mọi người đều biết họ Hồ đóng trò rất tài tình, muốn cười, muốn khóc, và cả muốn hôn lúc nào cũng được. Nhờ "có tài" như vậy nên lúc đi thăm Ấn độ và Nam Dương, là những nơi còn giữ tập quán "Nam nữ thọ thọ bất thân", họ Hồ cứ tự nhiên ôm các bà các cô hôn lia lịa. Năm 1959, tờ nhật báo Djakarta (Nam Dương) đã tặng Hồ biệt hiệu "Vị chủ tịt thích hôn".

Sau khi cho học tập bức thơ xin lỗi đồng bào, HCM ra lệnh cho các Ủy ban Xã, Huyện, Tỉnh báo cáo lên cấp trên những vụ đấu tố quá đáng, đồng thời phải lập DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI ĐÃ SÁNG SUỐT KỊP THỜI THẤY SỰ SAI TRÁI CỦA ĐẢNG TRONG CHIẾN DỊCH ĐẤU TỐ và đã cố gắng ngăn cản.

Đa số những người có tên trong danh sách trên đây là những cán bộ đảng viên cơ sở Xã, Ấp, hoặc đã từng trốn tránh nhiệm vụ trực tiếp đấu tô tra khảo, hay đã bỏ chạy lên Huyện, Tỉnh để tìm cách xoay sở cứu các thân nhân đang bị đấu tố. Những cán bộ đảng viên này được Tỉnh Ủy mời lên, tưởng là được ban khen, không ngờ lại bị tống vào các trại "quản huấn", vừa lao động, vừa học tập lại những "nguyên tắc bất khả xâm phạm" của chủ nghĩa Mátxít-Lêninít.

Mãi đến ba năm sau, trong chiến dịch "Sửa sai", song song với chiến dịch "Cải cách ruộng đất", họ mới được tha về. Trên đây là một bằng chứng điển hình về chủ trương và thủ đọan độc ác của Hồ chí Minh, ngoài việc tiêu diệt các thành phần yêu nước còn ẩn náu ở nông thôn, HCM còn ra lệnh trừng phạt các đảng viên, tuy trung thành với đảng, nhưng không tích cực tán thành các chính sách khủng bố của đảng.

Chiến dịch "Sửa sai" đã gây hiểu lầm và ảnh hưởng đến chủ trương, mục đích phát động chiến dịch "Cải cách ruộng đất" dài hạn của họ Hồ và đảng CSVN. Qua các cuộc đấu tố, đảng và nhà nước của Hồ đã mất nhiều uy tín, nên một số đông nông dân bị mất cả tài sản, nhà cửa đâm ra oán trách "cụ Hồ". Hàng ngàn dân công gánh gạo tiếp tế cho bộ đội của Hồ làm reo, quăng gánh gạo bỏ về nhà. Các dân quân của một xã nọ đã vây bắt cả một chị bộ đảng đang họp kín. Dân quân cho họ là bọn phản động, lấy cớ là họp kín bất thường, vì cái gì bây giờ cũng phải công khai trước nhân dân. Sau đó, cán bộ đảng ở cấp cao hơn phải về giải thích giải tỏa những sự hiểu lầm đó.

Tình hình các vùng nông thôn lúc bấy giờ tương đối yên ổn hơn, nên những kẻ đã bỏ chạy ra thành thị lần lượt trở về làng cũ. Đảng và chính quyền giả vờ làm ngơ không hạch tội để lấy lòng những người nông dân vốn đã sợ hãi nghi ngờ chủ trương độc ác và đường lối sắc máu tàn nhẫn của họ Hồ.

Phải nhìn nhận là trước thời gian này, rất nhiều người nhiệt tình theo kháng chiến chống Pháp, vì tinh thần yêu nước, nên có thiện cảm với Việt minh Cộng sản, nay đã mất hết tin tưởng. Họ nhận thấy rõ là HỒ CHÍ MINH CHỈ LÀ MỘT TÊN TAY SAI CỦA CỘNG SẢN QUỐC TẾ, CHỈ BIẾT TÔN THỜ ĐẢNG CỘNG SẢN, ĐÃ ĐÀN ÁP DÂN TỘC VIỆT NAM BẰNG NHỮNG CHÍNH SÁCH NGOẠI LAI ÁC NGHIỆT MÀ TỰ NGÀN XƯA, CHƯA TỪNG XẢY RA DÙ BẤT CỨ DƯỚI THỜI ĐẠI NÀO TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM.

Mọi tầng lớp dân chúng bắt đầu bàn tán xôn xao và cho rằng HCM và đảng của Hồ đã nắm hết mọi quyền hành trong tay, đã thanh toán các đảng phái yêu nước, lại còn dùng những thủ đọan tàn ác để trừng trị các thành phần nông dân bằng chiến dịch "phát động quần chúng", gán ghép bất cứ ai không phải là đảng viên CS là "đối phương". Thủ đoạn ấy quả thật là vô cùng tàn ác, tiểu nhân và bần tiện. Do đó, mọi tầng lớp nhân dân đều có một nhận xét tương tự rằng HCM và đảng của Hồ sẽ không bao giờ có chính sách nhân đạo, công bằng để trị dân, đem lại cơm no áo ấm và tiến bộ cho dân tộc và đất nước VN.

Cho nên, số đông quần chúng chán nản và thất vọng dần dần và luôn luôn phập phòng sợ hãi trong một chế độ độc ác lạc hậu. Không kể là ngày hay đêm, người dân bị bắt buộc phải đến các nơi tập trung, để cán bộ CS nhồi nhét chủ nghĩa Mátxít-Lêninít nhàm chán, nhưng không ai dám có ý kiến gì cả, chỉ được hô "đồng ý nhất trí" với bất cứ lý luận nào hay chủ trương nào do đảng CS đề ra. Người dân sống trong vùng do Việt Minh kiểm sóat gần như mất hết lý trí, một phần vì bị nhồi sọ, một phần vì quá sợ hãi.

Đời sống mọi tầng lớp dân chúng mỗi ngày một kiệt quệ, tinh thần ngao ngán bơ phờ, nên họ lần lượt trốn sang vùng Pháp kiểm soát để tạm dung thân qua cơn khủng hoảng. Đó là một lựa chọn bất đắc dĩ chớ không phải họ muốn theo Pháp.

Đa số dân chúng đã từng ủng hộ Việt minh kháng chiến chống Pháp, nay ân hận khi biết rõ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỦA HỒ CŨNG CHỈ LÀ MỘT THỨ ĐẾ QUỐC PHÁT XÍT CÒN ĐỘC ÁC, KHẮC NGHIỆT HƠN BẤT CỨ ĐẾ QUỐC NÀO TỪ XƯA TỚI GIỜ. Dân chúng kết luận rằng : HỒ CHÍ MINH LÀ CON RẮN ĐỘC ÁC NHẤT TRONG LỊCH SỬ NƯỚC VIỆT NAM. HỒ CHÍ MINH ĐÃ "CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ - RƯỚC VOI VỀ DÀY MẢ TỔ".

Dân chúng đã có sự so sánh chế độ CS với chế độ thực dân ngày trước và cho rằng : Tuy chế độ thực dân thiếu tự do, không công bằng, nhưng ít ra, bọn thưc dân còn có một vài hình thức pháp lý để trị dân. Thực dân cũng bắt bớ, tù đày hay giết những kẻ chống đối, nhưng thực dân không bắt dân lành quê mùa chất phát phải làm nô lệ cả tinh thần lẫn thể xác như những tù nhân trọng tội bằng thủ đoạn "phát động quần chúng", gây thù hằn chém giết lẫn nhau như những người CS.

Cả những đảng viên đã từng trung thành với đảng CS cũng bắt đầu ngờ vực. Họ tự hỏi, nếu gây quần chúng căm thù lẫn nhau, thì cuộc cách mạng dù có thành công, sẽ đi về đâu ? Họ nghĩ rằng, trong một xã hội mà người mạnh hiếp kẻ yếu, giàu bốc lột nghèo, là một địa ngục, là sự bất ổn triền miên. Họ lại càng không tin ở cái xã hội mà những kẻ thất học dốt nát lỗ mãng nghèo đói lại có quyền đánh đập tàn nhẫn những người khá giả hơn để xây dựng một đất nước giàu đẹp theo chủ thuyết Mátxít. "Thiên đường kiểu Cộng sản" trên mặt đất này chỉ là một ảo mộng.

Do sự mất tin tưởng của các đảng viên và tình trạng dân chúng ngấm ngầm bất mãn, Hồ chí Minh và các đồ đệ vội vã áp dụng hai biện pháp, vừa đánh tan luồng tư tưởng tác hại trên, vừa tung một đòn mạnh để áp đảo tinh thần người dân :

1. HCM ra lệnh tổ chức ngay một chiến dịch "Cải tạo tư tưởng" cho cán bộ đảng viên CS học tập thấu triệt chủ trương "Phóng tay phát động quần chúng" tuy có những "sai lầm lặt vặt", nhưng vẫn đạt được chính sách "hợp tình hợp lý". Cán bộ CS lý luận rằng... "hợp tình" ở chổ, mọi người dân được quyền vạch mặt chỉ tên bọn phong kiến bóc lột, không sợ một áp lực nào và "hợp lý" ở chổ, người dân được quyền trừng trị bọn phản động, chính quyền không có nhúng tay, v.v...

2. HCM vội vã cho thành lập một tòa án quân sự tại mỗi tỉnh để xét xử những người bị giam giữ trong các vụ đấu tố, với mục đích gán cho họ cái tội "Việt gian", chứng minh cho dân chúng thấy rằng, nhờ nhân dân giác ngộ, sáng suốt tố giác bọn Việt gian phản động, tay sai cho giặc Pháp. Lấy cớ đó, đảng đày ải, thủ tiêu những thành phần Quốc gia yêu nước hoặc bất cứ thành phần nào không ưa thích CS, để uy hiếp tinh thần dân chúng, dù ngấm ngầm bất mãn, cũng phải cúi đầu ngoan ngoản làm nô lệ cho Việt Minh Cộng Sản.

Sau chiến dịch học tập cải tạo tư tưởng lập trường cho các đảng viên CS và khủng bố đồng bào bằng những toà án quân sự, tất cả các đảng viên và cán bộ chính quyền Việt Minh CS đều nắm hết các vai trò lãnh đạo và quản lý mọi việc, từ chính trị, kinh tế, tới xã hội, quân sự, v.v...

Họ bắt nhân dân phải làm, để đảng hưởng (kiểu nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý), được thì đảng nhờ, sai trái thì dân phải chịu (kiểu ngồi mát ăn bát vàng).

Đảng viên CSVN bổng nhiên thấy mình có quyền uy lợi lộc, làm chủ nhân ông, nên hăng hái làm theo lệnh đảng. Bởi đa số bọn họ thuộc thành phần thất học, nghèo kém vào bậc thang thấp nhất trong xã hội ngày trước, nay được ăn trên ngồi trước và hưởng đủ thứ quyền lợi, đặc ân... nên đảng chỉ đâu làm đó. Đó là miếng mồi ngon để câu một số người thấp kém khác, vốn chiếm đa số trong xã hội. Cả những kẻ trước đây lừng chừng chao đảo, nay cũng xin gia nhập hàng ngủ cảm tình viên của đảng CS, đi đầu thúc đẩy mọi chủ trương công tác do đảng đề ra, nhằm lập công để chính thức xin vào đảng.

HCM thấy đã thành công trong việc củng cố và phát triển đảng mạnh hơn trước, bèn đề ra chính sách mở rộng đảng bằng khẩu hiệu "Liên kết trung nông, lôi kéo phú nông" và chỉ cô lập, đày ải thành phần địa chủ, trí thức, tư bản, là thành phần mà đảng cho là ngoan cố phản động, bởi đảng khó phỉnh dụ họ tiêm nhiễm chủ thuyết Mátxít ngoại lai.

Từ đó, sự phân biệt giai cấp tại những vùng do Việt Minh CS kiểm soát thật chặt chẽ, khắc khe. Những ai bị chính quyền Việt Minh CS liệt vào các thành phần tư bản, trí thức, địa chủ ngoan cố, phản động, lập tức bị bao vây cô lập trong mọi sinh hoạt hằng ngày, kể cả việc kết hôn giữa giai cấp này với giai cấp nọ cũng bị cấm đoán tuyệt đối.

Ai may mắn chưa vào tù thì cũng như cá nằm trên thớt, còn ở nhà nhưng phập phồng như đang mang án treo chung thân, không biết lúc nào mình bị bắt mang đi đày ải, hoặc giết chết, nên không ai dám liên lạc ai, dù là họ hàng thân thích.

Lắm lúc, họ muốn trốn sang vùng Pháp chiếm đóng nhưng việc này rất khó khăn, vì ra khỏi nhà là có tai mắt theo dõi khít khao, có thể bị bắt cóc thủ tiêu giữa đường không ai hay biết. Hơn nữa, từ nhà họ đến vùng Pháp kiểm soát có quá nhiều chướng ngại như hầm hố chông gai, mìn, trạm gác, v.v... Ngoài ra, hầu hết các cầu đường đều bị phá hủy, nên hầu hết người dân ở các vùng nông thôn đành chấp nhận thân phận "cá nằm trên thớt".

Những người này, tuy may mắn chưa bị giết trong các cuộc đấu tố hay bị đày ải trong tù, nhưng luôn luôn phập phòng sẽ có một ngày "tai bay họa gởi". Quả thật, sau mỗi vụ Pháp bỏ bom phá hủy đê điều thủy lợi, thì một số dân trong vùng lập tức bị bắt tra tấn, bị ghép tội là Việt gian phản động, đã tiếp tay chỉ điểm, vẽ bản đồ cung cấp cho Pháp, v.v... Nếu Pháp bỏ bom nhằm kho lúa của đảng và chính quyền Việt Minh thì "tội" của họ càng nặng hơn và thường bị xử bắn tại chổ.

Ai cũng biết là toàn bộ bản đồ VN và Đông Dương đầu thế kỷ 20 là do Pháp vẽ, hầu hết các hệ thống đê điều dẫn thủy nhập điền tại VN do Pháp xây dựng, thế mà cán bộ VC lại đổ lỗi cho những người nông dân, thường vì họ không có cảm tình với đảng CSVN, cái tội đã vẽ bản đồ và chỉ điểm cho Pháp. Sự kiện phi lý, khôi hài này đã phơi bày bản chất tiểu nhân bỉ ổi của những người CSVN.

Nhưng đối với Cộng sản, nếu tiểu nhân vốn là bản chất, thì phi lý không phải là một trở ngại trong các mưu đồ của họ. Người CS chỉ cần có quyền, có sức mạnh, để họ có thể lý luận một chiều, và bắt mọi người phải nghe, phải công nhận là phải là đúng. Nếu ai ngây thơ lý luận ngược lại sẽ bị ghép tội là Việt gian phản động và chịu muôn vàn cực hình khổ đau chồng chất.

Vì vậy, dù lúc bấy giờ có rất nhiều người đã ý thức được rằng Hồ chí Minh và bè đảng là những tên Việt gian phản quốc số một, nhưng họ không dám nói ra. Tại sao ?

1. HCM và đảng CSVN (đảng Lao Động) đề ra chủ trương "Phản Phong" nhắm mục tiêu tiêu diệt sạch mọi thành phần yêu nước, không chịu làm tay sai cho Cộng sản, vì CS chủ trương áp đặt một chế độ độc tài, dã man trên đất nước VN.

2. Chính sách cai trị của HCM và đảng CSVN hoàn toàn đảo lộn luân thường đạo lý VN, xóa bỏ những đức tính nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà cha ông đã dày công vun bồi từ trước đến giờ, để phục vụ cho một chính sách ngoại lai ác độc. Chính sách "Phản Đế" do HCM đề ra nhằm che đậy việc HCM và bè lũ làm tay sai cho đế quốc CS.

Hồ chí Minh và đảng CSVN áp dụng chiến thuật "vừa ăn cướp vừa la làng" bằng hình thức chống thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ là những người nước ngoài, nên muốn nói hươu nói vượn, gán ghép thế nào cũng được, chỉ cốt làm cho dân chúng tối tăm mặt mũi, để chúng dễ bề áp đặt các chính sách độc tài và ngu dân.

Thời đó, HCM đã đặt công tác tuyên truyền chiếm hai phần ba công cuộc kháng chiến chống Pháp, đến đổi trong các trường tiểu học cũng tuyên truyền nhồi nhét vào đầu các cháu mới chín mười tuổi, làm các cháu chỉ biết ca tụng "bác và đảng" mà thôi. Đề các bài toán đố cũng mang màu sắc tuyên truyền, đôi khi đến độ phi lý, ví dụ như... "Một cán bộ dân quân phục kích một toán quân Pháp bắn một viên chết 3 tên Pháp. Nếu bắn tiếp ba viên nữa, sẽ hạ sát được bao nhiêu địch ?

Mặc dù lối tuyên truyền của Cộng sản là ngây ngô và phi lý, nhưng họ chủ trương cho lập đi lập lại tại bất cứ nơi nào có sinh họat nhân dân, như vậy, lâu ngày nhân dân sẽ nhập tâm và tin là thực là đúng.

HCM rất tiểu xảo, gian manh. Hắn lựa chọn đồ đệ đa số thuộc thành phần thất học, có tiền án, rồi dùng đa số áp đảo thiểu số, và đặt nặng vấn đề nhồi sọ thế hệ trẻ bằng mọi hình thức đầu độc trường kỳ. HCM chẳng những đã dùng các thành phần thất học làm căn bản trong việc thi hành các chính sách phi dân tộc, mà còn xử dụng cả những tên cờ bạc, cướp của, giết người tại các địa phương để đánh đập tra tấn dân lành thay thế các cán bộ đảng viên.

Tình trạng hổn loạn tại nông thôn trong các vùng do Việt Minh kiểm soát ngày càng lan rộng, vì các phần tử dốt nát lưu manh luôn luôn đố kỵ kẻ tài đức, nên sẵn sàng tố giác họ là những tên Việt gian phản động, và sẵn sàng đánh đập họ tàn nhẫn để lấy lòng đảng và thị uy với nhân dân. Những tên thất học và lưu manh chẳng hiểu gì "tư bản, đế quốc, thực dân" nên đảng nói sao làm vậy. Bọn ngu dốt, lưu manh thường bị những người lương thiện và hiểu biết khinh rẻ nên thừa cơ hội này, chúng trả thù bằng cách vu cáo họ là "phản động Việt gian" !

Hồ chí Minh chẳng những có thủ đoạn tiểu xảo mà còn biết áp dụng sách lược "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" để đạt đến ý đồ tiêu diệt mọi thành phần khác, độc quyền cai trị dân theo đường lối Cộng sản. Sau mỗi chiến dịch khủng bố dân chúng, HCM ra lệnh kiểm thảo, còn gọi là "công tác tư tưởng" nhằm đẩy mạnh tinh thần đảng viên, tránh né những lỗi lầm gây căm phẫn trong lòng dân chúng và ghép tội những ai đã chống đối đường lối CS để loại trừ họ ra khỏi hàng ngũ kháng chiến. Bản thân HCM đã rút kinh nghiệm tại Trung Quốc trước kia khi Quốc Dân Đảng và đảng Cộng sản Trung hoa liên kết với nhau trong cuộc Bắc phạt. Sau khi liên quân Quốc Cộng chiếm được Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch bắt nộp khí giới và bắt hết quân Cộng sản. Lúc đó, HCM đang ở Quảng Châu. Nhờ sự che chở của phái bộ Nga nên được đưa về Moscou. Mao Trạch Đông và đồng đảng phải mở đường máu, vừa đánh vừa chạy trong một thời gian dài (nên có tên là "vạn lý trường chinh") và phải lao đao trong hai mươi năm dài. Do đó, tuy lúc ấy đã nắm trọn quyền hành trong tay, HCM vẫn ra lệnh cho đàn em "Thà giết lầm hơn là bỏ sót".

Những người trí thức hợp tác với Việt Minh CS để chống Pháp cũng không nghĩ rằng họ Hồ nỡ lòng trở mặt vì họ không hề biết vụ Tưởng Giới Thạch trở tay ở Thượng Hải và cũng không ngờ HCM âm mưu "thà phụ người hơn để người phụ" nên họ chỉ lo kháng chiến chống Pháp, tranh đấu cho độc lập xứ sở mà thôi. Một số trí thức chỉ nghĩ rằng sự hy sinh của họ sẽ mang lại Tự Do, Công Bằng cho Tổ Quốc Việt Nam thân yêu.

Nhưng liên tiếp qua các cuộc đấu tố chính trị, đảng CSVN đã tàn sát hàng ngàn người đã từng cộng tác với Việt Minh, nhưng lại gian xảo cho rằng do "quần chúng tự động".

Giới trí thức từng cộng tác trong cuộc kháng chiến chống Pháp theo dõi và nhận thấy rằng chính sách và chủ trương của HCM thay đổi từng lúc, chẳng xác định được đâu là cách mạng, đâu là phản động nên họ rất hoang mang. Từ đó, một câu hỏi được đặt ra trong đầu óc trí thức : "- Một người, một đảng bá đạo như vậy làm sao có thể làm cách mạng vì dân vì nước ? Và họ nghĩ đến thuyết hoài nghi của Montaigne "Cái gì bên này là tà thuyết thì bên kia là chân lý".

Thậm chí nhiều đảng viên đảng CS cũng mang nhiều ấm ức trong lòng vì trước đây họ nghĩ rằng giới công nông cũng có thể trị quốc một cách công bình nhân đạo, bởi họ cũng là con người. Nhưng giờ đây, qua các cuộc đấu tố tắm máu, họ mới thấy rõ giới công nông chỉ là một công cụ cho một chế độ ngoại lai, mệnh danh là "công nông chuyên chính" giả hiệu.

Thủ đoạn của HCM không những đã lừa gạt được giới công nông mà còn lừa cả thành phần trí thức từng cộng tác đắc lực với họ Hồ. Qua phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" HCM đã thủ tiêu, tẩy trừ rất nhiều trí thức đã từng đóng góp rất nhiều cho phong trào kháng chiến và đảng CSVN.

Các thanh niên được gởi sang Trung quốc, Đông-Âu để học tập kỹ thuật, lúc trở về chỉ được dùng một thời gian khi chuyên viên kỹ thuật còn thiếu thốn và vai trò của họ còn cần thiết. Sau đó, họ lần lượt bị đào thải, vì theo CS, họ là con cái bọn trí thức cũ, đã hấp thụ tư tưởng thực dân đế quốc, khó "giác ngộ" chủ nghĩa Mác Xít.

HCM luôn luôn hoài nghi giới trí thức, coi trọng các tư tưởng Mát Xít vào bậc nhất và nhớ nằm lòng câu tuyên bố sau đây của Mao Trạch Đông : - "Trí thức mà không giác ngộ chủ nghĩa Mát Xít, thì không lợi ích bằng một cục phân" !

Thủ đoạn của HCM và đảng CSVN là dùng người theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn nhằm tiêu diệt một số kẻ thù theo thứ tự ưu tiên. Trong giai đoạn đầu, từ 1946 đến 1951, HCM vừa liên kết vừa ám hại các phần tử trong các đảng phái Quốc gia yêu nước.

Giai đoan thứ hai, HCM và đảng CSVN phát động phong trào "Cải Cách Ruộng Đất" (1952-1956) nhằm tiêu diệt các thành phần phong kiến, tư sản và nhằm đảo lộn các đạo lý Nho giáo cổ truyền Việt Nam.

Giai đoạn thứ ba (1957-1959), HCM và đảng CSVN phát động phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" nhằm tiêu diệt các thành phần trí thức, tiểu tư sản, lãng mạn, ham thích kỹ thuật Tây phương, tự do ngôn luận, tự do cá nhân, v.v....

Giai đoạn cuối (từ 1960 trở về sau), sau khi đã thanh toán xong các đảng phái, địa chủ, trí thức, đạo giáo có tinh thần dân tộc, sau khi đã xung công các xí nghiệp, ruộng đất và tài sản của nhân dân, v.v... HCM ra lệnh phát động phong trào "Tìm Cái Mới".

Về phương diện kinh tế, tích cực đi vào con đường làm ăn tập thể do đảng CSVN lãnh đạo, nhà nước quản lý, cải thiện kỹ thuật bằng sức người, tập trung tài sản, lương thực vào tay nhà nước, chấm dứt lề lối sản xuất cá thể, v.v...

Về phương diện chính trị, xã hội và giáo dục, HCM và các cán bộ đảng CSVN bắt buộc mọi tầng lớp dân chúng và các trường học phải liên tục học tập tư tưởng Mát Xít, để tư tưởng Cộng sản thấm nhuần sâu xa vào từng con người. Ngoài ra người dân còn phải tích cực chống ý thức phong kiến, tư bản, thực dân, và phải đẩy mạnh phong trào "chống Mỹ cứu nước", nhằm chuẩn bị xâm lăng thôn tính miền Nam Việt Nam.

Về quân sự, HCM ra lệnh cho các cán bộ đã tập kết ra Bắc năm 1954 xâm nhập vào Nam, kết hợp với các cơ sở VC nằm vùng, tổ chức các đơn vị võ trang và thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Đến giai đoạn cần chuẩn bị tham dự Hội nghị Ba Lê và để đánh lừa dư luận quốc tế, VC vội cho ra đời cái quái thai "Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam". Thành phần chính phủ ma này được rút ra từ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Để xây dựng một thiên đường Cộngsản tại miền Bắc và gieo hạt giống độc vào miền Nam, HCM và đảng CSVN đặt nặng công tác tư tưởng và tuyên truyền chủ nghĩa Mát Xít vào hàng đầu. Tất cả các đảng viên cán bộ thuộc cấp trở nên những tín đồ duy vật cuồng tín, chỉ biết chủ nghĩa CS là hợp lý, văn minh tiến bộ nhất, nên dám hy sinh cho đảng.

Từ đó, HCM cổ động đảng viên và quần chúng "Biến căm thù thành hành động" bắt mọi người xung phong vào các công trường tập thể, vô bộ đội để bảo vệ miền Bắc và xâm nhập miền Nam với khẩu hiệu "Tất cả cho miền Nam ruột thịt". Sự kiện này là mồi lửa khiến cuộc chiến Nam-Bắc ngày càng bùng nổ lớn, gây cảnh "Nồi da xáo thịt - huynh đệ tương tàn" kéo dài trên đất nước VN. HCM đã thực hiện bao nhiêu thủ đoạn thảm khốc trên đây chỉ vì muốn làm tay sai đắc lực cho đế quốc CS Nga-Hoa.

Chủ nghĩa Mát Xít là một thứ độc dược ngoại lai mà HCM là tên thợ chích đắc lực. Nếu tiêm liều thuốc đầu quá mạnh, hay từ từ cách xa nhau, bệnh nhân có thể phản ứng hay không công hiệu. Nên HCM luôn luôn thay đổi hình thức : tiêm, uống, xoa, v.v... nhưng trước sau chỉ dùng một thứ thuốc Mát Xít-Lêninít mà thôi.

Thợ chích HCM và đồng đảng luôn luôn đặt nặng công tác "Cải tạo tư tưởng". Mỗi khi đưa ra một chính sách, chủ trương, bắt buộc dân chúng phải thi hành, thì cán bộ đảng mở chiến dịch học tập, gọi là "Công tác tư tưởng". Trong kỳ Đại Hội Đảng lần III, năm 1960, tên bí thư đồ đệ của HCM đã giải thích :- Công tác chính trị quyết định công tác tư tưởng, công tác tư tưởng phụ thuộc vào công tác chính trị. Hai công tác ấy không thể tách rời nhau. Vì vậy, mỗi lần đảng thay đổi chính sách là phải mở chiến dịch "Cải tạo tư tưởng" từ đảng viên đến toàn dân. Người dân trong chế độ CSVN chỉ là học trò, đảng viên là "thầy", dù có nhiều "thầy" chưa học xong tiểu học, và nước CHXHCNVN là một trường học "cải tạo tư tưởng" khổng lồ.

Chương trình giáo dục, cải tạo tư tưởng chia ra hai cấp : một cho đảng viên và một cho toàn dân. Nhưng cấp nào thì cũng phải học qua chủ nghĩa Mát Xít, nhồi sọ con người thành một thứ nô lệ chỉ biết tôn thờ chủ nghĩa CS.

Tất cả những tư tưởng/đức tính truyền thống VN như "Thờ cha kính mẹ, yêu tổ tiên ông bà, yêu quê hương, tổ quốc" và những tư tưởng "phi CS" khác đều bị cho là "bệnh hoạn và phản động" cần phải chữa trị.

HCM và các cán bộ của Hồ đã kê nhiều "toa thuốc" liên tiếp để trị bọn "bệnh hoạn và phản động". Toa thuốc đầu tiên mang tên là "Yêu nước" (theo kiểu CS), là đảng có quyền tập trung tất cả "nhân tài và vật lực" để chống ngoại xâm, và các căn bệnh như "trí thức khoa bảng, tư sản lãng mạn, chủ nghĩa cá nhân, cường hào địa chủ, phong kiến, đạo giáo", v.v.... phải được tẩy trừ ra khỏi con người CS.

Toàn thể đảng viên, cán bộ và dân chúng đều phải bước qua ba giai đoạn kể trên, chỉ khác ở chổ người bước trước, kẻ đi sau mà thôi. Liều thuốc chích cho đảng viên dĩ nhiên là có liều lượng mạnh hơn liều thuốc của các cán bộ chưa gia nhập đảng, và liều thuốc của cán bộ nặng hơn của nhân dân. Cứ như thế, theo thứ tự mà HCM và đảng của Hồ đã đề ra, toàn thể đảng viên, cán bộ, nhân dân phải sắp hàng nối đuôi nhau, bước từ từ đến độ cuồng tín, chỉ còn biết cúi đầu tuân lệnh HCM và đảng CSVN.

Đồ đệ thứ nhất của HCM, gọi là Bí thư đảng, đã giải thích :

- Mục đích của cuộc cách mạng hiện nay là toàn thể nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, phải quán triệt tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phải gạt bỏ những nhân sinh quan và thế giới quan cũ kỹ và thay thế bằng chủ nghĩa Mát Xít. Chỉ có chủ nghĩa Mát xít mới có thể hướng dẫn nếp sống đạo đức cho cả nước, là cái khung chứa đựng tư tưởng tốt đẹp cho toàn thể dân tộc. Vì vậy, đó là nền tảng tạo dựng một đời sống hạnh phúc cho dân tộc ta.

Đoạn văn giáo điều trên đây chứng tỏ rằng chủ nghĩa Mát Xít là một thứ tôn giáo đã và đang tranh giành chổ đứng với các tôn giáo khác của nhân loại, vốn không chấp nhận chủ nghĩa vô thần. Để đạt được tham vọng và chỉ tiêu đã đề ra cho con người Cộng sản, HCM và giáo hội Mát Xít của Hồ đã dùng hai biện pháp "Học tập kiểm thảo và Chỉnh huấn đấu tranh", bắt buộc các đảng viên CS và mọi người liên hệ, dù muốn hay không, cũng phải hy sinh cho đảng.

Từ lý luận và giáo điều độc đóan đó, HCM và đảng của Hồ đẩy mạnh cuộc xâm lăng miền Nam bằng hai phương cách song hành.

Về chính trị, đảng của Hồ đề ra khẩu hiệu "Tích cực chống đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sàigòn" để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước bằng chủ thuyết Mát Xít, chủ trương giải phóng con người, sống trong cảnh đại đồng, tự do bình đẳng và hạnh phúc DƯỚI SỰ KIỂM SOÁT, QUẢN LÝ VÀ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CSVN.

Cán bộ CS nằm vùng đã dùng khẩu hiệu trên đây để tuyên truyền lôi kéo những thành phần dân quê chất phác ít học tại miền Nam, hay những thành phần lưng chừng hoặc bất mãn với chế độ Tự do tại miền Nam, xây dựng và phát triển cơ sở dưới sự quản lý của cái gọi là "Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam".

Về quân sự, đảng CSVN đưa tất cả đảng viên, cán bộ và trẻ em tập kết ra Bắc từ năm 1954 trở về miền Nam. Họ có trách nhiệm vừa tuyên truyền vừa phá hoại chế độ Tự do và cuộc sống an lành của người dân miền Nam VN với khẩu hiệu "Trường kỳ kháng chiến - Giải phóng miền Nam VN".

Sau khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ và thay thế bằng nền Đệ Nhị Cộng Hòa, HCM tuyên bố "Nhất định ta sẽ thắng miền Nam" và vội vã đề ra "Tình hình mới - Nhiệm vụ mới" phát động chiến dịch học tập toàn đảng, toàn dân miền Bắc và ở một số vùng quê hẻo lánh tại miền Nam. Bài học tổng quát bắt đầu bằng một bản báo cáo tình hình cả nước, những "lớn mạnh về mọi mặt" tại miền Bắc và những "suy tàn sụp đổ" tại miền Nam và nhất là nghe báo tin những thắng lợi về quân sự và ngoại giao, v.v... nhằm lừa bịp những kẻ ít học tại những vùng xôi đậu, nhằm nâng cao tinh thần đảng viên, và tạo sức ép buộc mọi người phải cúi đầu phục vụ cho đảng và nhà nước Cộng sản. Cán bộ, bộ đội miền Bắc được đưa vào xâm lăng miền Nam mỗi ngày một đông để tuyên truyền, phá hoại và sẵn sàng "Giải phóng miền Nam".

Đề tài thứ hai được cán bộ đảng trình bày là "Tầm quan trọng và tinh thần bất vụ lợi" của các nước XHCN anh em, đứng đầu là Liên xô và Trung quốc, hai nước đàn anh đã tích cực viện trợ cho đảng CSVN có đủ tiềm năng để xâm lược miền Nam Việt Nam. Cán bộ VC so sánh nền kinh tế CS và nền kinh tế tư bản, điển hình là sức mạnh quân sự của Liên xô và tài lực của Trung cộng, không một nước tư bản nào có thể hơn được và kết luận rằng Mỹ chỉ là "con cọp giấy". Cán bộ tuyên truyền VC còn nêu vài thí dụ nho nhỏ như... hiện nay, không có một công ty tư bản nào có đủ tiền mua số lòng lợn do Mậu Dịch quốc doanh Trung quốc thu nhập trong một năm, v.v....

Để gây tin tưởng về sức mạnh của khối CS quốc tế nói chung và của đảng CSVN nói riêng, tài liệu học tập nhồi sọ lúc bấy giờ được HCM và các đồ đệ cốt cán "phân tích kỹ lưỡng" tình hình thế giới và tình hình trong nước và kết luận rằng tình hình rất thuận lợi cho công cuộc "giải phóng miền Nam", vì các "Chế độ tư bản đã đến ngày tàn lụi". HCM và các cán bộ của Hồ cho rằng đế quốc Mỹ đang bị nhân dân thế giới lên án gắt gao nên không thể nào tồn tại được. Cho nên, thắng lợi nhất định phải về phe ta - chỉ còn là vấn đề thời gian.

Muốn đạt đến thắng lợi hoàn toàn, đảng, chính phủ và nhân dân phải ra sức thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp sau đây :

1. Củng cố chế độ dân chủ nhân dân chuyên chính tại miền Bắc hết sức vững mạnh, nghĩa là dân chủ đối với nhân dân đã giác ngộ XHCN, và chuyên chính đối với kẻ thù của đảng. Chính thể hiện nay vừa dân chủ vừa chuyên chính, nghĩa là chỉ dân chủ đối với những ai ngoan ngoản với đảng và chuyên chính đối với những kẻ thù của đảng. Có dân chủ với nhân dân thì mới tập hợp được sức mạnh, có chuyên chính với kẻ thù thì mới bảo vệ được chế độ, đó là một chế độ "tiến bộ nhất của nhân loại".

2. Tăng cường đoàn kết toàn dân cả nước, tạo thêm sức mạnh về chính trị lẫn quân sự, thanh toán những phần tử phản động, nhất là trong guồng máy "Ngụy quân ngụy quyền miền Nam", lần lượt thay thế giai cấp vô sản trong chính quyền miền Nam, nghĩa là phải tìm cách gài các cán bộ CS vào các hàng ngũ quân đội, hay các cơ cấu hành chánh của nước VNCH để lũng đoạn về mọi mặt.

3. Liên kết mật thiết với các nước trong khối XHCN để nhận viện trợ và nhờ họ tuyên truyền "chính nghĩa giải phóng dân tộc và yêu chuộng hòa bình của nhân dân VN" đối với nhân dân các nước tư bản yêu chuộng tự do và công lý (ngụ ý yêu cầu họ tuyên truyền, xuyên tạc, đầu độc nhân dân các nước Tự Do có viện trợ hay tham chiến tại miền Nam VN để đòi hỏi chính phủ họ phải rút lui hay chấm dứt viện trợ). Từ các thủ đoạn và chiêu bài thâm độc kể trên, HCM đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc vào Nam để chuẩn bị nổi dậy cướp chính quyền, đồng thời lừa bịp dư luận quốc tế, nhất là các thành phần phản chiến tại Hoa Kỳ, để họ đòi hỏi chính phủ Mỹ phải chấm dứt tham chiến tại VN. Sự việc đã gây tác động mạnh, làm cho các chính giới Hoa Kỳ quyết định phải "leo thang chiến tranh" để sớm chấm dứt cuộc chiến.

Trong thời gian này, HCM bị bệnh nặng. Trung ương đảng CSVN quyết định "tổng khởi nghĩa" vào dịp Tết Mậu Thân 1968, hy vọng tạo được chiến thắng trước khi họ Hồ nhắm mắt, trở về với địa ngục Cộng sản.

Nhưng cuộc "tổng khởi nghĩa" thất bại hoàn toàn, nướng gần nửa triệu cán bộ và bộ đội tại miền Nam VN, làm cho họ Hồ buồn rầu, bệnh tình thêm trầm trọng. HCM ra lệnh cách chức Võ Nguyên Giáp, đưa Văn Tiến Dũng lên làm Tư lệnh Bộ đội Bắc Việt.

Năm sau HCM chết (1969), để lại những lời di chúc thâm độc và sắt máu, dặn dò đám đồ đệ hãy tiếp tục con đường làm tay sai cho CS quốc tế bằng võ lực tàn ác hơn, táo bạo hơn như cuộc xâm lăng tràn qua sông Bến Hải, tấn công hai tỉnh địa đầu của miền Nam VN năm 1972, chiếm dọc Quốc lộ 1 và vài thị trấn của hai tỉnh Quảng Trị -Thừa Thiên, tàn sát dân lành qua những hình thức rất dã man như chôn sống tập thể, pháo kích bừa bãi vào những đoàn người di tản trên Đại Lộ Kinh Hoàng, giết hại gần nửa triệu người, phần đông là phụ nữ và trẻ em, trước khi rút lui vì bị Quân Lực VNCH phản công mãnh liệt.

Trong cuộc xâm lăng năm 1972, còn được gọi là "Mùa Hè Đỏ Lửa", Cộng quân đã bỏ xác không ít trong các trận chiến tại "Bình Long Anh Dũng", "Kontum Vùng Dậy" và "Trị Thiên Oai Hùng" mà người dân miền Nam VN luôn luôn ghi nhớ sự tàn ác vô tiền khoáng hậu của bộ đội CSVN.

Thủ đọan của HCM, từ mộng làm quan cho thực dân Pháp đến làm tay sai cho đế quốc CS, đã phơi bày bộ mặt phản dân hại nước, ma đầu giáo chủ số một trong lịch sử VN và nhân loại. Nhưng vì quá gian manh xảo quyệt, HCM đã che đậy được tội diệt chủng dã man tàn ác dưới chiêu bài đấu tranh giai cấp, bằng cách thủ tiêu lần các nhà ái quốc VN, bằng cải tạo tư tư tưởng, v.v...

Sự thật là HCM đã giết nhiều triệu người Việt Nam để thực hiện mưu đồ độc tài đảng trị, biến toàn dân VN thành nô lệ của chủ nghĩa CS, biến đất nước VN thành một trại tù khổng lồ mà chủ nhân ông là Đế Quốc Cộng sản quốc tế, và Hồ Chí Minh là một tên cai tù ngoan ngoản. Chẳng những thế, HCM còn đầu độc các thế hệ trẻ bằng chủ thuyết Mát Xít ngoại lai ác độc, và xóa bỏ nền đạo lý truyền thống trên thuận dưới hòa đầy ấp tình người mà tổ tiên chúng ta đã dầy công gây dựng.

Thủ đoạn của HCM còn ác độc hơn thủ đoạn của Hitler thời Đức Quốc Xã trước kia. Hitler ra lệnh lùa dân Do Thái vào các phòng hơi ngạt và Hitler dám nhận trách nhiệm trước công luận quốc tế. Gần đây, Pol Pot đã chủ trương tàn sát dân Kampuchea nhưng chỉ làm được trong một thời gian ngắn. Trái lại, HCM và đảng CSVN đã có nhiều thủ đoạn để giết dân VN kinh khủng hơn, lâu dài hơn, dã man hơn, kéo dài hơn nửa thế kỷ qua, còn ghi lại những mưu lược cho các đồ đệ thế hệ sau tiếp tục đày đọa dân tộc Việt Nam bằng những chính sách bần cùng hóa, làm cho dân càng ngày càng đói khổ, suốt đời chỉ lo chạy theo miếng ăn, không còn hơi sức

Thủ đoạn của HCM còn ác độc hơn thủ đoạn của Hitler thời Đức Quốc Xã trước kia. Hitler ra lệnh lùa dân Do Thái vào các phòng hơi ngạt và Hitler dám nhận trách nhiệm trước công luận quốc tế. Gần đây, Pol Pot đã chủ trương tàn sát dân Kampuchea nhưng chỉ làm được trong một thời gian ngắn. Trái lại, HCM và đảng CSVN đã có nhiều thủ đoạn để giết dân VN kinh khủng hơn, lâu dài hơn, dã man hơn, kéo dài hơn nửa thế kỷ qua, còn ghi lại những mưu lược cho các đồ đệ thế hệ sau tiếp tục đày đọa dân tộc Việt Nam bằng những chính sách bần cùng hóa, làm cho dân càng ngày càng đói khổ, suốt đời chỉ lo chạy theo miếng ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ tới việc đấu tranh cho dân chủ, tự do, no ấm.

Sau khi đã làm chủ cả nước, đảng CSVN đã mở ra nhiều trại tù, bành trướng chiến tranh xâm lược qua các nước láng giềng, bán dân làm nô lệ, đẩy dân lên các vùng "kinh tế mới" rừng thiêng nước độc, v.v... làm cho mọi người phải sống trong cảnh phập phồng không biết sống nay chết mai như thế nào, nhất là các giới quân nhân, công chức và gia đình liên hệ với chế độ VNCH.

Vì thế, họ phải liều mình vượt biên vượt biển để tìm tự do, và hơn một triệu người Việt đã vùi thân dưới đáy biển sâu. Bao nhiêu triệu người VN lại chết oan uổng chỉ vì các đồ đệ của HCM quyết tâm thực hiện di chúc của họ Hồ trước khi cùng HCM đi xuống địa ngục.

Nguyễn Thuyên
(2006)
 

www.geocities.ws/xoathantuong