HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp

* Chương 07*
 

TƯỞNG VĨNH KÍNH và Hồ Chí Minh tại Trung Quốc


Nguyên tác Hoa ngữ của tác phẩm Hồ Chí Minh tại Trung Quốc chỉ được xuất bản lần đầu tại Đài Bắc năm 1972, nhưng trước đó 5 năm đã xuất hiện bản dịch Anh Ngữ của nữ dịch giả Margaret Chen vào tháng 6-1967. Năm 1999 mới có bản dịch Việt ngữ của Thượng Huyền.

Cước chú từng trang cho thấy Tưởng Vĩnh Kính tham khảo rất nhiều tác giả Pháp, Mỹ như Charles B. McLane, Jean Lacouture, Philippe Devillers, Joseph Buttinger, Robert Shaplen, Ellen Hammer, I. Milton Sacks... và nhiều tác giả Việt Nam trong số có Trần Dân Tiên mà lúc đó chưa ai biết là bút hiệu của Hồ Chí Minh. Tác giả cũng nhắc tới các nhân vật thân cận với Hồ Chí Minh như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Khánh Toàn…

Một số nhân vật Việt Nam khác được nhắc nhiều lần như Nghiêm Kế Tổ, Hoàng Văn Chí. Hoàng Văn Chí và Julie How là những người từng có thư từ liên lạc với tác giả. Nhưng tác phẩm của Tưởng Vĩnh Kính dựa phần lớn vào tài liệu của văn khố Trung Hoa Quốc Dân Đảng với những báo cáo của Julie How, Trương Phát Khuê, Tiêu Văn, Hình Sầm Châu, Trịnh Học Giá…Vì phần lớn tài liệu được sử dụng là tài liệu trong văn khố Trung Hoa Quốc Dân Đảng nên tập trung khá nhiều vào thời kỳ hoạt động của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc từ 1925 đến 1945. Trong khoảng thời gian này, Hồ Chí Minh lui tới Trung Quốc ít nhất 5 lần và ở lại đây ít nhất 10 năm.

Qua 375 trang sách, TưởngVĩnh Kính thuật lại nhiều chi tiết về cuộc đời và hoạt  động của Hồ Chí Minh trong những năm sống tại Trung Quốc và xác định Hồ Chí Minh luôn luôn vì chủ nghĩa Quốc Tế Cộng Sản – tức Liên Xô – vì lúc nào cũng làm theo lệnh và báo cáo cho Bộ Phương Đông (1) Đệ Tam Quốc Tế. Theo Tưởng Vĩnh Kính, việc Hồ Chí Minh dành được tình thân và lòng tin của một số giới chức Trung Hoa như Trương Phát Khuê hay bà Tống Khánh Linh, phu nhân của lãnh tụ Tôn Dật Tiên… không do ý hướng đấu tranh phụng sự đường lối cách mạng quốc gia mà do những thủ thuật giao tiếp.

Hồ Chí Minh đã khôn khéo ứng phó với từng trường hợp để tìm điều kiện che chở cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu chính trị bí mật nhận lãnh từ Đệ Tam Quốc Tế.  Đây cũng là cách thức mà Hồ Chí Minh tiếp tục vận dụng vào những thời điểm cần tỏ ra thân Mỹ hay thân Pháp để tạo điểm tựa cho việc giành quyền lãnh đạo và triệt hạ các thành phần đối lập, dù đó là những phần tử yêu nước như các nhà cách mạng thuộc các đảng Việt Cách, Việt Quốc và Đại Việt...

Nơi trang 116, Tưởng Vĩnh Kính nêu lên 5 điểm chứng tỏ Hồ hoạt đồng dưới sự điều khiển chặt chẽ và theo đúng kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế. Hai tổ chức mà Hồ Chí Minh thường liên hệ trong những năm 1929-1930 là Phòng Bí Thư Hội Công Chức và Công Nhân Thái Bình Dương (từ 1930-1931 do Viễn Đông Cục quản lý) và Viễn Đông Cục của Đệ Tam Quốc Tế ở Thượng Hải, ban đầu do Pavel Mif về sau do Hilaire Noulens điều hành.

Hồ Chí Minh cũng giúp Noulens điều hành Nam Dương Cục từ ngày 3-3-1930 đến tháng 6-1931 bao gồm các nước Nam Dương, Mã Lai, Xiêm.

Nhiều tác giả khác đều cho biết Hilaire Noulens là người trực tiếp điều khiển Hồ Chí Minh tại Thượng Hải trong một thời gian. Noulens là người ra chỉ thị cho Hồ Chí Minh và nhận báo cáo của Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành công tác.

Dựa vào những chứng nhân người Trung Hoa và tài liệu trong văn khố Quốc Dân Đảng, Tưởng Vĩnh Kính cho biết hoạt động chủ yếu của Hồ Chí Minh trong giai đoạn ở Hoa Nam là dựa vào uy tín các nhà ái quốc Việt Nam, kết thân với một số giới chức Trung Hoa để dễ dàng xâm nhập các tổ chức cách mạng Việt Nam tại đây.

Hồ Chí Minh không gia nhập với mục đích góp phần đẩy mạnh hoạt động đấu tranh giải phóng đất nước mà trước hết, tạo bình phong che giấu hình tích, và kế đó là đạt các mục tiêu mà Đệ Tam Quốc Tế đang nhắm.

Mục tiêu cụ thể trong thời điểm đó của Đệ Tam Quốc Tế là vừa khai thác vừa lũng đoạn phá hoại các tổ chức này để tạo đà phát triển ảnh hưởng cộng sản. Hồ Chí Minh mượn các tổ chức này để trình diễn bộ mặt yêu nước đồng thời lôi cuốn người của các tổ chức này gia nhập hàng ngũ cộng sản, và nếu được, sẽ biến các tổ chức này thành tổ chức cộng sản.

Nhận định của Tưởng Vĩnh Kính phù hợp với tiết lộ của Hoàng Văn Hoan, một nhân vật thân cận với Hồ Chí Minh nhiều năm, về giai đoạn Hồ Chí Minh tham gia tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của các nhân vật Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần...

Theo Hoàng Văn Hoan, Việt Minh vốn là tên gọi tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội mà Hồ Chí Minh đã tham gia và sau đó biến thành tên gọi của phong trào cộng sản Việt Nam vào năm 1945 mà mọi người đều biết là Mặt Trận Việt Minh.

Tưởng Vĩnh Kính xác nhận hai chữ Việt Minh là viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội từng hoạt động từ lâu trước tháng 5-1941 do Hồ Học Lãm lãnh đạo. Về sau, tổ chức này cùng một số tổ chức khác kết hợp thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của nhiều nhân vật như Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công ...“Hồ gia nhập Cách Mạng Đồng Minh Hội, một mặt là do đã ngụy trang thành công, được cá nhân tướng Trương Phát Khuê tín nhiệm, mặt khác là được các phần tử tả khuynh Trung Quốc âm thầm hỗ trợ từ bên trong.” (2) và “Một năm sau, khi Hồ Chí Minh tỏ thái độ "hợp tác" và gia nhập Cách Mệnh Đồng Minh Hội, lúc bấy giờ các đảng phái Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc mới thực sự bị đẩy vào một tình huống "khốn đốn”. (3)

Tóm lại, Tưởng Vĩnh Kính đánh giá toàn bộ hoạt động của Hồ Chí Minh suốt thời gian ở Hoa Nam chỉ là xâm nhập để đánh phá các tổ chức cách mạng dân tộc yêu nước, bởi cộng sản theo đuổi việc nắm độc quyền lãnh đạo các lực lượng đấu tranh nên đã coi các tổ chức này là kẻ địch. Tình huống khốn đốn mà Tưởng Vĩnh Kính nhắc tới được khắc họa bằng hai hình ảnh: hoặc bị sang đoạt đổi tên thành tổ chức công cụ ngoại vi của Cộng Sản hoặc lâm cảnh bị kích động chia rẽ rồi tàn lụi.

Mục tiêu và ý hướng đó đã được Tưởng Vĩnh Kính nhắc lại qua những ghi nhận về thái độ của Hồ Chí Minh đối với cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930: "Ông Hồ rất vui mừng thấy Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại. Điều đó phản ảnh rõ trong ngữ khí của ông ta khi bình luận về cái thu hoạch được của Cộng Sản Việt Nam như sau: "Từ sau cuộc khởi nghĩa đó, giai cấp tư sản (chỉ Việt Nam Quốc Dân Đảng) đã mất tất cả ảnh hưởng trong cuộc vận động giải phóng dân tộc; và giai cấp công nhân cùng quần chúng nông dân lao động được tổ chức lại trong đảng tự do (chỉ Cộng Sản). Đảng trở thành người lãnh đạo duy nhất của cuộc cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.” (4)

Đây là thời kỳ hoạt động mà về sau Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn diễn tả sai lạc hoặc xóa bỏ bằng sự khẳng định Mặt Trận Việt Minh được Hồ Chí Minh cho ra đời tại Pác Bó. Các tác giả Cộng Sản Việt Nam sau này, ngoại trừ Hoàng Văn Hoan, đều ghi rằng Mặt Trận Việt Minh thành lập vào tháng 5-1941 theo sáng kiến của Hồ Chí Minh lúc đó còn mang tên Nguyễn Ái Quốc. (5)

Trọn chương 4 của tác phẩm được tác giả dành kể về hành động cụ thể của Hồ Chí Minh tại Quảng Châu trong nỗ lực ngụy trang bằng chủ nghĩa dân tộc và cách thức xâm nhập hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam cũng như hàng ngũ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Tháng 1-1926, nhân dịp đại hội Trung Hoa Quốc Dân Đảng,  Hồ lấy tên Lý Thụy đã gửi thư xin được tới trình bày về tình hình ở Việt Nam. Tưởng Vĩnh Kính cho biết "Hồ đã tiếp xúc với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, giống như kế hoạch của Trung Cộng là cố nắm trong tay cuộc vận động chủ nghĩa dân tộc.”

Tưởng Vĩnh Kính nhắc tới một số người hoạt động với Hồ Chí Minh đã có nhiều hành vi phản bội cách mạng như Lâm Đức Thụ, Vũ Anh, Lê Tùng Anh, Nguyễn Văn Thiều ... Lâm Đức Thụ được Hồ Chí Minh đưa lên thay Hồ Tùng Mậu trong vai trò lãnh đạo Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội tại Hương Cảng chính là kẻ giao nộp hình ảnh, tin tức hoạt động của nhiều người đấu tranh cho mật thám Pháp – "Thụ là người từng hợp mưu với Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp năm 1925”. (6)

Theo Tưởng Vĩnh Kính, người đầu tiên Hồ Chí Minh tìm gặp khi đến Côn Minh là Vũ Anh có bí danh Trịnh Đông Hải vốn cùng với Nguyễn Văn Thiều, Lê Tùng Anh là những kẻ “vẫn giữ liên hệ với lãnh sự quán Pháp một cách âm thầm” đã phản bội Việt Nam Quốc Dân Đảng khiến các nhân vật Trương Nguyên Minh, Vũ Hồng Khanh, Đào Quang Bào bị nhà cầm quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa trục xuất.

Tất nhiên việc tranh thủ tình cảm và lòng tin của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc là điều Hồ Chí Minh hết sức chú trọng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã cùng đồng chí Phùng Chí Kiên mượn danh nghĩa hội Việt Nam Dân Chúng Trợ Hoa Kháng Địch Hậu Viện đưa ra các truyền đơn chống Nhật để được sự bao che của bà Tống Khánh Linh đồng thời chiếm thiện cảm của nhiều giới chức Trung Hoa lúc đó.

Nhưng thời gian này, tháng 8-1940, Hồ Chí Minh đã âm thầm phái Trần Văn Hinh đến Diên An ký một mật ước với Trung Cộng hứa sẽ liên hiệp các đảng phái lập mặt trận thống nhất, lấy khẩu hiệu chống thực dân và phong kiến làm chủ điểm đấu tranh và hứa yểm trợ các đảng viên Trung Cộng hoạt động tại Việt Nam. Đổi lại Trung Cộng đồng ý cấp cho Hồ Chí Minh và các đồng chí 50 ngàn quan để chi phí ở Trung Quốc.

Tưởng Vĩnh Kính nhận định là trong hành động, Hồ Chí Minh luôn coi đường lối của Mao Trạch Đông là mẫu mực nên vận dụng tối đa tấm bình phong chủ nghĩa dân tộc và trưng dẫn thêm quan điểm mà Hồ Chí Minh đã nêu trong tác phẩm Con Đường Kách Mệnh: "Một là, nhiệm vụ cách mạng không phải vì một thiểu số người nào mà vì quảng đại giai cấp công nhân và quần chúng nông dân, do đó cần phải tổ chức quần chúng. Hai là, cách mạng tất yếu phải chịu sự chỉ huy của chủ nghĩa Mác Lênin. Ba là, cuộc vận động cách mạng ở mỗi quốc gia phải được kết hợp chặt chẽ với giai cấp vô sản quốc tế; công nhân và quần chúng nông dân phải phân biệt rõ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế.

Tưởng Vĩnh Kính cũng cho thấy sự trùng hợp như dập khuôn giữa nghị quyết đại hội kỳ 6 của Trung Cộng với bản hiệu triệu và cương lãnh giản yếu do Hồ Chí Minh đưa ra sau khi hợp nhất các nhóm Cộng Sản Việt Nam thành Đông Dương Cộng Sản Đảng ngày 18-2-1930. Cả hai văn kiện đều dựa theo phương án dành cho các đảng cộng sản Đông Nam Á được đề ra tại đại hội kỳ VI của Đệ Tam Quốc Tế nhưng trong bản hiệu triệu, Hồ Chí Minh đã lập lại đầy đủ 10 khẩu hiệu của Trung Cộng trong nghị quyết đại hội kỳ 6 của Cộng Sản Trung Hoa.

Tác giả trưng nhiều bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh luôn hành động rập khuôn theo Trung Cộng, từ việc khai thác chiêu bài kháng chiến chống Nhật qua việc tiếm danh các tổ chức quốc gia, việc lập nên các hội cứu quốc đến thủ đoạn triệt hạ các phần tử khác chính kiến mà tổ chức Việt Minh thi thố sau này: "Những người bị thảm sát đều bị gán cho tội "Việt gian”, tội "làm gián điệp cho địch”,  hoặc thân Nhựt vv…Cách thức đó của Việt Minh hoàn toàn giống với Trung Cộng trong khu giải phóng của họ.” (7)

Tưởng Vĩnh Kính xác định mục đích tối hậu của Hồ là đoạt chính quyền, chứ không phải dành độc lập cho tổ quốc. Mục tiêu này đã soi sáng mọi hành vi cũng như lời lẽ của Hồ Chí Minh trong giao tiếp với các thế lực ngoại quốc lúc đó là Mỹ, Pháp, Trung Hoa.

Tác giả viết:

"Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó không phải là vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không…

… Do đó trước khi công tác chuẩn bị cho việc cướp chính quyền chưa hoàn thành, ông không hề mong quân Đồng Minh vào Việt Nam; lại càng không mong các đảng phái Việt Nam khác theo quân đội Trung Hoa trở về Việt Nam để tranh thủ dân chúng và chính quyền cùng với ông. Bởi vậy các thành viên Cách Mạng Đồng Minh Hội không thuộc cộng đảng trở về Việt Nam đều bị Việt Minh bao vây, bắt giết và đội quân dò đường của Trung Quốc vào Việt Nam đã bị quấy phá ngăn trở …

... Ông Hồ đã dùng điện đài Mỹ tại căn cứ của ông để tiếp xúc thẳng với đại diện chính phủ De Gaulle tại Côn Minh, ngoài việc yêu cầu Pháp bảo chứng sẽ trả độc lập cho Việt Nam trong vòng từ 5 đến 10 năm, còn yêu cầu Pháp cấp vũ khí và huấn luyện. Khoảng tháng 7, một đoàn đại biểu Pháp, Mỹ gồm 6 người đã nhảy dù xuống tổng bộ Việt Minh. Ông Hồ đã ngụy trang cho mình một bộ mặt rất "thân Tây phương". John, một thiếu úy Mỹ trẻ tuổi, ở chung mấy tháng với ông Hồ tại căn cứ Việt Minh lúc bấy giờ, đã ngây thơ tin chắc ông Hồ không phải là cộng sản. Dưới cái nhìn của John, giả sử ông Hồ có là cộng sản, thì cũng chắc chắn rằng ông Hồ rất muốn hợp tác với tây phương, đặc biệt là với Mỹ và Pháp. Hiển nhiên, Việt Minh có hành động bài Hoa cũng là nhằm mục đích dụ hoặc người Pháp”.

Tưởng Vĩnh Kính cho biết ngay giữa thời điểm đó, Hồ Chí Minh đã có một hành động vừa nhắm lấy lòng Pháp vừa muốn mượn bàn tay Pháp triệt hạ một tổ chức yêu nước là đảng Đại Việt: “Ông Hồ đã dùng điện đài của quân Mỹ để nói xấu và bán rẻ cái mũi nhọn chống Pháp là đảng Đại Việt, hòng tranh thủ lòng ưu ái của Pháp.Trước ngày Nhật đầu hàng không lâu, John đã dùng điện đài của mình đánh đi bức điện tín sau đây giùm ông Hồ: "Đảng Đại Việt đang trù tính gây một cuộc khủng bố chống Pháp đại quy mô và mưu toan giá họa cho Việt Minh. Việt Minh đã ra lệnh cho 2 triệu hội viên và vô số dân chúng ủng hộ, hãy đem hết khả năng đề phòng cẩn mật cùng ngăn chặn kế hoạch phạm pháp này của đảng Đại Việt. Việt Minh xin tuyên bố mục đích rõ ràng của mình là mưu cầu nền độc lập cho quốc gia bằng đấu tranh chính trị; nếu cần thiết phải dùng đến hành động quân sự thì quyết không dựa vào các thủ đoạn hèn hạ và phạm pháp. Ủy ban giải phóng dân tộc VM - ký tên" (8)

Theo Tưởng Vĩnh Kính, lúc đó đảng Đại Việt của Nguyễn Tường Tam và Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh hợp nhất thành một lực lượng đấu tranh với thành phần lãnh đạo gồm 29 nhân vật đều là những phần tử trí thức ưu tú của Việt Nam không chỉ được sự ủng hộ của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mà còn có thanh thế rất lớn đối với dân chúng trong nước. Lực lượng này là mối lo cần đối phó trước hết của Hồ Chí Minh. “Bởi vậy, hành động "liên kết với Mỹ” và "bài Hoa” của ông Hồ và mặt trận Việt Minh hoàn toàn đặt cơ sở trên nỗi thao thức về vấn đề sinh tồn và phát triển của bản thân họ. Còn như Việt Nam có đạt được độc lập hay không chỉ  là vấn đề thứ yếu thôi.” (09)

Trong ý đồ đó, việc lợi dụng danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội được tác giả nhìn nhận là hết sức cần thiết cho Hồ Chí Minh và phân tích:

"…Tại sao ông Hồ và trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lại vẫn muốn lợi dụng lá cờ Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (chỉ bỏ chữ "hội” đi một cách khôn khéo mà thôi)? Cách thức đó chính là lặp lại một cách khéo léo điều mà người Cộng Sản gọi là "chiếm lĩnh cơ quan, làm phe tả của họ”. Ý đồ của họ, xét ra không ngoài việc lợi dụng danh nghĩa Độc Lập Đồng Minh Hội để dễ dàng chiêu tập tổ chức quần chúng của nó, thậm chí còn chiêu dụ cả đám tàn dư của phe thân Nhật. Ý đồ chủ yếu của ông Hồ và Cộng Sản Việt Nam khi tiếp thu Độc Lập Đồng Minh Hội hiển nhiên là nhằm chiêu dụ tổ chức quần chúng của hội này. (10)

Căn cứ vào các tư liệu tại Quảng Tây thời đó, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh được thành lập tháng 7 năm 1935, là sự hợp thành của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Độc Lập Đảng, Tân Việt Đảng … Các tổ chức quần chúng của nó cũng được ông Hồ đổi thành các hội "Cứu Quốc” (11)  Ý đồ lớn nhất của ông Hồ khi lợi dụng cơ cấu Việt Minh là che giấu cái bộ mặt cộng sản, lợi dụng tình thế cùng tâm lý quần chúng Việt Nam, ngụy trang chủ nghĩa dân tộc, nhằm phát triển thực lực của bản thân.” (12)

Tác phẩm của Tưởng Vĩnh Kính không bao quát hết cuộc đời Hồ Chí Minh nhưng đã xác định được chủ đích trong mọi hoạt động của Hồ Chí Minh là tranh thủ quyền hành cho tổ chức của mình để theo đuổi lý tưởng, còn mục tiêu giành độc lập cho đất nước chỉ là mục tiêu giai đoạn bắt buộc phải đạt tới.

Hồ Chí Minh tỏ ra không mệt mỏi trong việc hô hào đấu tranh giải phóng dân tộc vì không còn con đường nào khác để phụng sự lý tưởng Cộng Sản và như chính Hồ Chí Minh đã nói – nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập  thì quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.

Những trái ngược dễ dàng xẩy ra khi nhận định về Hồ Chí Minh có lẽ vì mức cuốn hút của một ý chí đấu tranh mãnh liệt đã phủ mờ yêu cầu phân tích tính mâu thuẫn tất yếu giữa quyền lợi giai cấp với quyền lợi dân tộc. Do đó, hình ảnh thực tế luôn chao đảo khiến mọi cái nhìn về một con người dựa trên nền tảng này khó tránh khỏi ngả nghiêng.
 

CHÚ THÍCH

CHƯƠNG 07

(01) Tên gọi của cơ cấu này theo tài liệu chính thức của Cộng Sản Việt Nam là Bộ Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản, còn báo chí thường nhắc theo nhiều cách như Đông Phương Bộ, Ban Phương Đông, Đông Phương Cục hoặc Cục Đông Phương hoặc có khi là Viễn Đông Cục, Viễn Đông Vụ ....

(02) - (03) - (04)  SĐD  tr. 246,  245,  119

(07)  Văn Kiện Đảng – T. 3, tr. 195 ghi: Từ ngày 10 đến ngày 19.5.1941 Hội Nghị lần 8 Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Đây là Hội Nghị Trung Ương Đảng lần đầu tiên họp ở trong nước do Nguyễn Ái Quốc chủ trì với tư cách đại diện Quốc Tế Cộng Sản. Hội nghị đã khẳng định: Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật ...Vì nếu không giải quyết được  vấn đề dân tộc giải phóng thì... quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi  lại được.

Hồ Chí Minh Toàn Tập – T. 3, tr. 197 ghi: Theo sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội Nghị trên đã quyết định thành lập Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không  phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn.

(06)-(07)  SĐD  tr. 108, 329

(08)-(09) SĐD – Cước chú ghi theo tài liệu của Robert Shaplen các tr. 28-30, tr.361

(10) Về gia nhập các tổ chức để tranh thủ quần chúng, xin xem chương về Phùng Thế Tài.

(11)-(12)  SĐD  tr. 202, 206

Last Updated Saturday, April 01 2006 @ 12:51 PM EST
 

www.geocities.ws/xoathantuong