ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG (2)
 

Quân y viện 306 nằm ở bìa rừng, không quá xa dòng suối, điều kiện tối cần thiết để duy trì một bệnh viện đa chức năng. Toàn bộ các khu nhà quây tụ trên cao, dưới bóng những tán cây um tùm, dày đặc đến nỗi những ngày hè chói chang nhất ánh sáng cũng không lọt qua được. Trong bóng râm miên viễn đó, lủng lẳng các chùm phong lan núi lẫn các cây tổ quạ, loài cây kí sinh có sức nảy nở lạ thường. Phía sau viện, là một hang đá lớn mà những lúc bị bom dội cấp tập, có thể chuyển ba mươi thương binh nặng vào trong. Nhà bếp, phòng ăn tập thể, và kho thuốc men lẫn y cụ đều dồn vào một khóm ngay sát cửa hang, nơi người ta có thể thường xuyên hứng nước khe để nấu ăn và lau rửa các y cụ bởi nước suối chỉ có thể dùng giặt giũ đại trà những thứ quần áo và đồ bẩn. Điều bất tiện là nước khe không đủ dùng. Mà nếu tắm gội bằng nước suối thì sớm hay muộn tóc cũng rụng. Đối với đám đàn bà con gái, có một cái đầu trọc lốc cũng đau khổ ngang ngửa như bị bom tiện cụt chân tay. Thế nên ở nơi đây, vệ sinh thân thể trở thành khổ nạn. Các cô đành phải chờ đến lúc lặn mặt trời mới dám xách nước khe về lán gội đầu. Còn tắm, phải chờ những đợt mưa nhiều, nước khe chảy liên miên không cạn. Nếu không, hoặc là xách nước suối lên đánh phèn cho lắng, hoặc là lau người theo kiểu dân vùng sa mạc. Sau một ngày làm việc căng thẳng, tối đến lại hì hục xách nước từ dưới suối lên cửa hang, mò từng bước trên con đường dốc ngược lởm chởm đá. Thêm nữa, đeo năm sáu ống lồ-ô nước trên lưng leo dốc là cách thức của người vùng núi cao. Đối với những cô gái đồng bằng, việc đó cũng giống như một thứ lao động của tù khổ sai, phải nghiến răng lại mà chấp nhận.

Đầu xuân năm 1969, y viện đầy ắp thương binh. Hai người phải nằm đổi đầu đuôi trên một chiếc giường hẹp như cáng tải thương, đặt ngay trên những bệ gỗ cao hơn gang tay chút xíu. Số thương binh chờ phẫu thuật nhiều gấp ba con số bình thường khiến từ bác sĩ đến các nhân viên phải chia ca đổi nhau làm việc quần quật không nghỉ. Đèn phòng phẫu sáng suốt ngày đêm. Tiếng kêu gào, tiếng rên rỉ, tiếng cãi cọ cấm cảu và cả tiếng hát của đám thương bệnh binh đông đúc khiến y viện có một vẻ náo loạn mà trước đó nó chưa từng biết đến. Mười hai cô gái của y viện không còn thời giờ xách nước tắm, đành phải quấn ngược tóc lên cao mà nhảy ùm xuống suối, người nọ bảo người kia:

"Thây kệ, tắm cái đã, rồi muốn ra sao thì ra...."

Thời gian căng thẳng kéo dài hơn một tháng, sau đó số thương binh nhẹ được chuyển sang điều trị tiếp tại một binh trạm cách đó ba cánh rừng. Lúc này, các cô gái được hưởng một sự đền bù ngoài sức tưởng tượng: trong đám thương binh còn ở lại, xuất hiện một hoàng tử quyến rũ, một miếng mồi thật ngon lành cho tất cả các nữ nhân đang đứng bập bênh trên ranh giới giữa giai đoạn chót của tuổi thanh xuân với sự lỡ thì. Đó chính là trung tá Hoàng An. Hoàng An được coi như người đàn ông lý tưởng vì ngoại hình đã đành, nhưng cũng còn vì lòng can đảm mà không phải bậc nam nhi nào cũng có. Anh chẳng hề cất một tiếng kêu trong suốt cuộc phẫu thuật không gây mê. Một quân y viện nằm sâu như Viện 306, chẳng thể có đủ thuốc mê cho các ca bình thường nhằm cắt bỏ tứ chi. Hoàng An bị mảnh pháo tiện đứt cánh tay bên trái. Về đến viện, vết thương bị ga-rô quá lâu trên đường đã bắt đầu gây hoại thư, và người ta phải tháo khớp vai để cứu anh. Điều lạ lùng là Hoàng An hồi phục rất nhanh, trong một diễn tiến gần như thần bí. Đám thương binh xung quanh dù trẻ gấp đôi tuổi đều nhìn anh với con mắt vừa thán phục vừa ghen tị. Ngay khi vết thương chưa kịp mọc da non, anh đã dạo chơi nhởn nhơ khắp vùng, đã đặt bẫy bắt dúi, bắt nhím, bắt chồn cho nhà bếp cải thiện bữa ăn. Rồi khi vết thương lên da non, anh tự nguyện xách nước suối lên viện giùm các cô gái. Chỉ bằng cánh tay còn lại, chàng trung tá này có thể làm mọi thứ việc mà một gã trai khác đủ cả hai tay chưa chắc dám đảm đương. Hoàng An có thể đeo một chùm mười lồ nước trên lưng, tay phải xách thêm bốn năm lồ khác. Với đôi chân của người thợ săn, anh leo dốc như sơn dương. Mười hai cô gái viện nhìn anh với con mắt mê mẩn. Trừ dăm cô đã thề non hẹn biển với đồng nghiệp, số còn lại đều đưa mắt liếc nhau xem ai đã lọt mắt xanh của hoàng tử có trái tim vàng?... Nhưng dường như Hoàng An đã chia đều lòng tốt của anh cho tất cả mọi người, và như thế chưa cuộc chiến tranh nào xảy ra giữa đám các cô gái chòng chành chờ đợi... Cũng vì thế, khi vết thương của anh đã lành, viện trưởng vẫn nấn ná giữ anh lại thay vì chuyển anh sang một binh trạm để chờ lệnh quân khu. Nghiễm nhiên, Hoàng An trở thành một nhân viên không phiên chế. Anh có vẻ vô cùng thoả mãn với vai trò mới. Không ai nói, người ta cũng hiểu rằng ngày một ngày hai, anh sẽ được chuyển về hậu phương vì mất khả năng chiến đấu. Khi sắp được hưởng một thứ quyền lợi tối thượng như vậy, cần phải tận tình giúp đỡ tất cả những ai đang còn trụ lại nơi nguy hiểm và gian lao. Hẳn là nghĩ như thế nên Hoàng An không tiếc sức lực cũng như thời gian để góp phần cải thiện cuộc sống chung và giúp đỡ mọi người.

Một buổi sáng giá buốt, sương mù trùm phủ khắp núi non, bỗng tiếng còi xe vang inh ỏi. Ai đó đứng từ xa gào lên:

- Xe thuốc của quân khu đã tới....

Mọi người trong viện đổ ra, ngơ ngác nhìn nhau:

- Sao điện báo nói hai ngày nữa xe mới đến?...

- Ai biết được?... Có lẽ vắng bom oanh tạc nên đường thông...

Rồi từ y viện trưởng tới các nhân viên đều lũ lượt tụt dốc xuống đường để nhận thuốc và các y cụ. Hoàng An nhập vào đoàn quân đó. Đúng là xe chở thuốc của quân khu và cũng đích xác vì máy bay oanh tạc của Mỹ nghỉ cuối tuần nên đường thông suốt. Ai nấy đều hỉ hả vì ngoài thuốc còn có kẹo bánh và thuốc lá sợi. Khi mọi kiện hàng đã được khuân hết xuống, xếp thành đống gọn ghẽ bên lề đường, người lái xe nổ máy cho xe quay lại quân khu tức khắc vì muốn tận dụng thời gian thuận lợi. Xe vừa lăn bánh được vài mét, anh ta chợt hét váng lên:

- Tôi quên.

Đoạn cho xe phanh kít lại, anh ta cúi xuống dưới gầm ghế moi lên một chiếc ba-lô lính cũ nát, lấm lem:

- Viện ta có thương binh nào là Hoàng An không?...

- Tôi đây.

Hoàng An đã nâng kiện thuốc lên vai lại vội vã đặt xuống, đáp lời.

Anh lái xe bảo:

- Trên quân khu có gửi cho đồng chí chiếc ba-lô của một liệt sĩ. Liệu anh ta có thực là họ hàng của đồng chí hay không?...

- Nếu không phải là người thân thích có lý do gì mà họ lại gửi cho tôi?...

Hoàng An vặn lại, mặc dù óc anh thoáng qua những nghi ngờ:

"Ai có thể gửi cho ta?... Không lẽ đây là ba-lô của thằng Mèo Mã Lỳ chết dẫm?... Ồ không, điều này không tin được. Bởi y họ Mã, sắc tộc Mèo và ở tận núi Hoàng liên sơn... Không ai có thể nhầm lẫn một cách điên rồ như thế..."

Anh lính nhìn Hoàng An, phân vua:

- Không phải chúng tôi tò mò nhưng vì địa chỉ đề rất mơ hồ... Thêm nữa, trong quân khu này có đến sáu người tên là Hoàng An. Phòng tổ chức còn đắn đo vì đồng chí quê ở Lạng Sơn nhưng liệt sĩ này lại là người Tầy tỉnh Thái nguyên.

- A....

An nở nụ cười xí xoá:

- Tỉnh nào cũng là đất nước Việt nam cả... Người Kinh làm ăn buôn bán khắp nơi, người Tầy chúng tôi tuy không giỏi giang bằng nhưng cũng biết đi từ tỉnh này qua tỉnh kia để kiếm sống.

- Ô.... Nếu vậy thì đồng chí cầm lấy... Tôi sẽ báo cáo với quân khu rằng kỉ vật đã đến đúng địa chỉ của người thân. Lẽ ra...

Anh ta ngần ngừ một lát rồi nói tiếp:

- Lẽ ra, theo nguyên tắc, đồng chí phải kí giấy biên nhận. Nhưng vì tôi còn chuyến hàng thứ hai cho y viện này, mà đồng chí còn ở lại đây nên lần sau ta sẽ làm việc đó.

- Nhất trí. Tôi sẽ chờ đồng chí lần sau.

Hoàng An đáp.

Anh ta trao chiếc ba-lô rồi xiết chặt tay anh:

- Chúc đồng chí mạnh khoẻ...

- Cảm ơn. Tôi cũng chúc đồng chí lên đường may mắn....

Rồi chiếc xe nổ máy ra đi. Lần này, nó đi thật sự.

Hoàng An cúi xuống nhìn chiếc ba-lô bẩn thỉu hôi hám như chiếc bị ăn mày, đoán rằng nó đã bị ném trong hang đá khá lâu, ít nhất cũng một hai năm nên những vết máu khô mới mốc meo thành tầng và các vết lỗ chỗ dán nhấm mới nhiều đến thế. Trên nền vải lem nhem màu cỏ úa ngả sang đen xỉn, găm một mẩu giấy trắng mà ai đó viết không lâu:

Kỉ vật của trung uý Hoàng huy Tú, tiểu đoàn 115 quân khu 18, đại đội 3, trung đội 1, liệt sĩ trên chiến trường Thuận hoá. Đề nghị chuyển cho đại uý Hoàng An, thuộc tiểu đoàn Một, tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã.

Anh tê lặng một hồi. Hoàng văn Tú, cái tên gợi cả một thời ấm êm, hạnh phúc. Tú là chồng của nàng My, em gái anh. Gia đình Tú ở sát thị xã Lào Cai, một vùng đất chen chúc những người thiểu số khác sắc tộc. Cha Tú là thợ rèn nổi tiếng, chắt nội của một người thợ rèn còn nổi tiếng hơn, được đặc trách rèn vũ khí cho các tướng lĩnh và vương hầu cai quản miền biên giới. Đến thời cha Tú, người ta không còn sử dụng gươm dáo nên ông chỉ rèn các loại nông cụ và dao, búa. Nhưng dao đi rừng của ông được coi là vật tuỳ thân tuyệt hảo đối với người miền núi, còn các loại dao nhọn, dao bầu, dao bản vuông... của ông được coi là dụng cụ kiếm sống không thể thiếu của đám dân bán thịt trong vùng. Cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ thành công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, nhờ bà mối. Một người đàn bà còn ròn rã xinh tươi, tuy đã ngũ tuần. Bà mối này vốn buôn lâm sản ở Lào Cai, là hàng xóm liền vách với nhà Tú nhưng lại có người chị ruột lấy chồng bản Xíu. Năm nàng My mười bảy, bà về bản Xíu chơi, gặp cô thiếu nữ nhu mỳ liền vội vàng quay lại Lào Cai, rồi tức tốc dẫn Hoàng huy Tú lên Thất Khê tìm con gái ông trưởng bản. Vừa chạm mặt mỹ nhân tháng trước, tháng sau Tú đã cùng cha mẹ đem lễ vật đến nhà chú thím anh xin cưới. Dịp hôn lễ của họ chính là dịp anh đặt chân tới thị xã Lào Cai lần đầu tiên... Rồi sau đó, chẳng còn cơ hội nào quay về đấy...

Năm tháng trôi qua, gia đình Tú đã chuyển xuống sinh sống ở tỉnh Thái nguyên lúc nào mà anh không hay biết?... Tuy trong lòng nóng như lửa đốt, nhưng Hoàng An vẫn khoác chiếc ba-lô vào cánh tay rồi đặt kiện thuốc lên vai, tiếp tục leo dốc cùng đám nhân viên quân y viện. Phải ba tiếng đồng hồ họ mới chuyển hết được số hàng vào nhà kho. Chờ mọi người tụ tập trong bếp ăn để chia bánh kẹo, An xách chiếc ba-lô của Tú đi về phía sườn dốc dẫn xuống dòng suối, lúc này chẳng một bóng người. Ở đó, anh mở ba-lô một cách cẩn trọng, lấy ra một bộ quần áo thu-đông, một ống thuốc đánh răng đã dùng dở khô đét, một chiếc bàn chải đã toẽ hết gai, một chiếc lược sừng nhỏ và một phong bì bọc dán chằng chịt bởi những lớp vải ni-lông, hẳn được cắt ra từ một tấm áo mưa cũ. Đoạn anh dốc ngược ba-lô lên rũ một hồi để cứt dán còn bên trong rơi xuống. Một cây bút bi rơi xuống theo. Mùi hôi mốc bốc lên cùng mùi vải ẩm.

"Đây là tất cả những gì còn lại của một người đàn ông đẹp đẽ và cường tráng. Tất cả những gì còn lại của một người chồng và một người cha. Gia sản của trung uý Hoàng huy Tú. Kỉ vật mà ngày nào đó ta có thể trao lại cho nàng My cùng những đứa con của nàng...

Anh ngồi như thế hồi lâu trước mớ vật dụng vô nghĩa rồi mới giở bức thư của Tú ra. Thư dán quá kĩ, chẳng có cách gì gỡ được những lớp vải ni-lông chằng đụp như vậy. Trong túi anh không có một lưỡi dao, ngay đến cả chiếc bấm móng tay cũng không có nốt. Sau cùng, anh đành tìm một lưỡi đá nhọn ven dốc, mài lớp bì thư vào đó theo cách những người nguyên thuỷ cọ đá để lấy lửa cho bùi nhùi. Khoảng chừng mươi phút sau, anh đã có thể móc ngón tay vào lỗ rách để xé toang các lớp vải quấn ra. Thư của Hoàng huy Tú viết trên giấy kẻ ô của học trò vỡ lòng. An trải tờ giấy lên đầu gối, đọc:

Anh thân mến,

Kể từ ngày anh tiễn nàng My lên Lào Cai, bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, bao nhiêu sự việc đã xoay chuyển. Tuy không còn cơ hội gặp nhau nữa, nhưng em chẳng bao giờ quên anh bởi nàng My luôn luôn nhắc nhớ tới anh. Chúng em đã có hai con, hai đứa đều là con trai cả. Gia đình em đã chuyển xuống sinh sống ở Thái nguyên sau ngày anh nhập ngũ, bởi ở dưới đó, cha em tìm được một đầu mối bán buôn lớn và xưởng rèn gia đình có cơ phát triển. Cha em cũng đã già nên phần sản xuất do chúng em đảm nhiệm đồng thời thuê thêm non chục thợ. Em không có điều gì phải phàn nàn ngoại việc trong ba anh em hai người đã phải lên đường. Không rõ tin tức đứa em út nhưng ngày mai chính em sẽ tham dự chiến đấu trên mảnh đất Thuận hoá. Lính bước chân vào đây khó có đường về. Người ta bảo đất này vừa dữ vừa hẹp nên thây người không chôn thành một lớp mà chí ít cũng dăm bảy tầng chồng chất lên nhau. Chiều nay, toàn đơn vị ngồi viết thư cho gia đình, em cũng viết thư cho anh. Ai cũng ngầm hiểu rằng đây là lá thư cuối cùng trong đời lính.

Anh thân mến, anh còn nhớ đêm liên hoan mà anh đã gặp Mã Lỳ hay không?... Chính em cũng có mặt đêm hôm ấy. Chính em là con chồn lủi trong bóng đêm mà anh đã rượt đến tận cửa rừng... Thoạt bước chân đến mảnh đất của anh, em đã thấy anh đứng với Mã Lỳ nên vội lảng tránh. Bởi do tình cờ mà em đã thuyên chuyển về chính đơn vị của anh năm năm sau ngày anh ra đi. Cũng do tình cờ mà em ở cùng trung đội với Mã Lỳ và được gã Mèo này tin cẩn. Có lẽ vì trong đại đội chỉ có hai chúng em là dân miền núi. Mã Lỳ hoàn toàn không biết chúng ta là anh em nên đã kể tất cả mọi sự theo... con mắt nhìn của gã. Vào đêm liên hoan ấy, khi nhìn thấy gã đi với... bạn mới, em liền đi theo. Em biết chắc điều gã Mèo sẽ làm. Em đã lên nhà gã. Nhà gã nhỏ hơn chuồng nuôi lợn của chúng ta. Mọi người ngồi ăn cháo ngô ngay trên nền đất, lợn chạy xung quanh, thúc mõm cả vào lưng chủ lẫn khách, rồi ỉa lung tung khắp nền nhà...Có lẽ anh khó hình dung được cảnh tượng đó. Nhưng em đã chứng kiến nên em hiểu Mã Lỳ sẽ làm bất cứ việc gì để được tiến bộ... Vì vậy em đã đuổi theo y...

Anh thân mến, còn sự việc này chắc anh đã dự đoán nhưng chưa biết rõ. Nàng Xuân và Nàng Đông đều bị giết cùng năm Con gà(I957), theo cách lấy chầy gỗ đập vào sọ. Thây Nàng Xuân bị ném ven đường ngoại ô Hà nội giả làm tai nạn giao thông còn Nàng Đông bị ném dưới chân cây cầu gỗ bắc qua Khe Lan, trên đường về huyện Thất Khê. Nhưng em cũng chỉ biết điều này ba năm sau, nhờ một người quen... Bố mẹ vợ em và ông Cao đều bị giết vào mùa đông năm Con chó(I958), hơn một năm sau cái chết của hai nàng. Bà mối nhắn tin cho em. Khi em quay trở lại bản Xíu, ba tuần sau cái đêm tai hoạ đó, chỉ thấy tro tàn của hai ngôi nhà sàn. Dân bản nói rằng đêm hạ tuần tháng trước bỗng nghe tiếng máy bay trực thăng đổ xuống khu vực suối Sơn ca. Vì trời rất rét thêm nữa đêm tối đen như mực nên chẳng ai tò mò nhìn ngó. Người ta tin rằng chỉ có máy bay của bộ đội biên phòng vì lý do đặc biệt nào đấy mới bay vào lúc khuya khoắt như vậy. Nhưng khoảng chừng nửa giờ sau hai ngôi nhà sàn bốc cháy. Lúc đấy, dân bản mới hò nhau thắp đèn thắp đuốc đi cứu hộ. Khi họ đến nơi, lửa cháy cao ngất như rồng táp mà mùi săng vẫn bốc sặc sụa nên chẳng ai dám động chân động tay. Nhìn qua đám lửa không thấy một bóng người. Dân bản cứ đứng như tượng nhìn từng cây cột theo nhau đổ. Lửa cháy tới tận hôm sau. Khoảng non trưa, sương quang trời sáng rõ, người ta mới tìm thấy xác ông Cao bị thui đen trong đám than tro. Còn bố mẹ vợ em thì mất tăm, vô hình vô dạng. Huyện phổ biến rằng một đội biệt kích của Mỹ nguỵ từ phía nam bay ra gây hoả hoạn để gieo rắc hoang mang cho đồng bào dân tộc. Nhưng em biết rằng lũ giết người này chính là bọn đã giết Nàng Đông và Nàng Xuân. Cái lý của người Tầy chúng ta chỉ ra như vậy.

Anh thân mến, sớm mai chúng em phải lên đường. Chắc sẽ không có ngày quay lại. Anh hãy cố gắng sống bằng mọi cách để trả mối hận này. Anh hãy bảo bọc nàng My và những đứa con em. Được như vậy, dù ở dưới mồ, em cũng sẽ ơn anh mãi mãi...

Em Hoàng huy Tú.

Chữ kí rắn rỏi, không một chút run rẩy. Nét bút của một tay thợ rèn, quen quai búa từ thuở còn thơ. Anh đặt lá thư xuống. Trời không có gió nhưng tờ thư run rẩy. Những cơn rung động chạy khắp toàn thân khiến anh nổi da gà. Rồi những ý nghĩ nối nhau chạy qua óc não anh như đàn chuột lửa:

"Chúng giết hai nàng bằng chầy gỗ vì đó là cách tiết kiệm và giản đơn nhất cho một cái chết. Chúng giết ông Cao bằng cách đâm chém để thiên hạ ngờ rằng đó chính là cuộc thanh toán trong giới giang hồ bởi ông Cao đã rời bản đi lênh đênh chân trời góc biển hai mươi năm. Chúng bắt cóc chú thím ta lên máy bay để giết họ rồi quăng thây xuống một cách rừng tỉnh khác để không ai còn có thể dò ra tăm tích và để dễ bề tung tin rằng lũ biệt kích giết người, bởi chú ta đương kim vẫn là chủ tịch xã, chức quan bé mọn nhất trong bộ máy quyền lực này... Quả là một bọn sát nhân thành thạo, mọi con tính đều có sẵn trong ngăn kéo bàn giấy của chúng. Tất thảy những người thân của ta đều bị huỷ diệt trong một cuộc cờ. Ta chẳng còn ai trên cõi đất này... Chẳng còn ai..."

Ngọn lửa trong đầu anh bốc như đám cháy hai ngôi nhà sàn mà anh mường tượng. Những đàn chuột lửa không ngừng chạy đi chạy lại, nhảy nhót, khiến anh vừa đau đớn vừa ngứa ngáy, một thứ cảm giác anh chưa từng biết đến và chẳng thể diễn đạt. Rồi đôi mắt anh bỗng nhiên mờ dần, mờ dần trước đám khói mù mịt bốc ra ngay trên đỉnh sọ, tựa hồ hộp sọ đã nứt đôi để phun lên những đám khói ngột ngạt của một cuộc thiêu đốt âm thầm. Một cơn đau khác dưới đám ruột cuộn lên, trào qua cơ hoành, thốc vào hai lá phổi những luồng khí nóng bỏng, dường như ngực anh đã trở thành một chiếc nồi súp-de đầy ứ hơi sắp nổ. Đột nhiên anh cất lên một tiếng thét rợn hồn, một tiếng thét khiến chính anh cũng choáng váng, chính anh cũng chết lặng đi vì không hiểu nó từ đâu tới. Dường như chẳng phải chính anh đã cất lên tiếng thét đó, chẳng phải âm thanh kinh dị ấy vừa thoát ra từ hai lá phổi đầy ứ khí nóng của anh mà đó là tiếng gào của một con quỷ lạ, một loài ngạ quỷ mượn cổ họng người để trút ra tiếng gào của chính nó.

Từ phía quân y viện, ai nấy đều đổ xô ra nhìn. Chưa bao giờ họ nghe thấy một tiếng thét khủng khiếp như thế. Mặc dầu tiếng la hét đau đớn trong những ca giải phẫu thiếu thuốc gây mê là thứ âm thanh tra tấn thường xuyên và đã trở thành quen thuộc nhưng đây là lần đầu họ nghe thấy một tiếng thét kì lạ, trong đó không chỉ có nỗi đau đớn thể chất hay sự thống khổ tâm hồn mà còn cuồn cuộn những con sóng cuồng nộ của một sức mạnh kinh hoàng. Sức mạnh của man dại và thù hận. Bốn phía núi rừng rung động. Mọi người ngừng thở vì sợ hãi. Người ta cho rằng tiếng thét ấy chỉ có thể là tiếng thét của thần sông, quỷ núi, hoặc của người điên. Một người điên khổng lồ hung dữ và đang ở cực điểm cơn kích động...

Chẳng tìm thấy ai ngoài trung tá Hoàng An. Anh đang ngồi một mình ven con dốc dẫn xuống suối. Một mình anh. Bác sĩ viện trưởng lẫn mọi người đưa mắt nhìn nhau trong khoảnh khắc rồi tất cả kéo nhau đi tới. Khi nghe thấy tiếng chân đám đông vang lên phía sau lưng mình, Hoàng An ngoảnh lại, tuy mặt trắng nhợt nhưng anh đã nhoẻn miệng cười nụ cười dễ mễn mà mọi người quen thuộc:

- Đây là chiếc ba-lô của đứa em tôi, hy sinh tại chiến trường Thuận hoá... Tôi không thể chôn nó, cũng không thể khóc thương nó... Tôi hét lên vì tôi căm thù... Tôi căm thù Mỹ nguỵ....

- Đồng chí An...

Viện trưởng dịu dàng đặt tay lên vai anh:

- Đồng chí hãy về viện nghỉ ngơi... Chiến tranh mà. Tất cả chúng ta có mặt ở đây đều vì cuộc chiến tranh này... Tất cả chúng ta đều phải căm thù Mỹ nguỵ...
 

*
* * *
 

Chủ tịch thức dậy lúc nửa đêm. Sau những giấc mơ nặng nề, mắt ông bỗng nhiên ráo hoảnh và tim ông phập phồng, hồi hộp. Tiếng quật bài tu-lơ-khơ của hai chàng cận vệ ở bên ngoài tuy khẽ khàng nhưng vẫn vang lên trong đêm khuya khoắt. Cây kim dạ quang trên mặt đồng hồ chỉ một giờ hai mươi nhăm. Ông kéo tấm chăn lên cằm, lắng nghe những tiếng thì thầm một cách lơ đãng:

- Tám nhép.

- Mười nhép.

- Ji cơ.

- Ka cơ...

- Quy rô... Mày sắp chết rồi con ơi....

- Chết cục cứt tao đây này, ka rô đỏ chon chót nhé. Tao chờ xem mày xuống cây gì?...

- Con ơi, mày đã đến ngày tận số... Át cơ!... Phăng-teo đâu rồi, đem xuất xưởng. Nếu không thì bó gối lai hàng cho xong...

- Thôi được, chịu thua ván này... Nếu có quân phăng-teo chắc chắn tao cho mày sấp mặt keo nữa... Bây giờ là tám ba nhé. Mày vẫn còn nợ tao năm ván. Khó lòng mà gỡ đêm nay, con ơi...

"Chúng nó sung sướng thật, những đứa trẻ chơi loại cờ này. Thắng, chúng ăn vài chiếc kẹo vừng hay kẹo lạc... Thua, chúng bị đối phương vẽ nhọ nồi lên mặt... Ván cờ của chúng không làm tổn hại đến ai, không có máu chảy đầu rơi, cũng chẳng hận thù ân oán..."

Chủ tịch thầm nghĩ. Rồi một gương mặt khác đến với ông, vừa điệp với gương mặt đứa con trai người tiều phu Xóm Núi, lại vừa nhù nhoà trong lớp sương mù tưởng tượng. Ông bất giác buông tiếng thở dài:

"Con trai của ta... Nếu lũ phản bội để cho con được sống, chắc chắn con sẽ có một cuộc sống vô danh vô diện của thứ dân. Con sẽ trà trộn trong đám người đứng ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Ngày nào đó con sẽ chơi bài ăn kẹo lạc và vẽ râu nhọ nồi như mấy chú lính ngoài kia... Nhưng biết đâu con chẳng hài lòng vì cuộc sống vô danh đó?... Và biết đâu những ván bài ăn kẹo lạc chẳng đem lại cho con một hạnh phúc thật sự trên cõi đời?..."

Để xua đuổi những ám ảnh, chủ tịch giơ tay định bật cây đèn ở đầu giường để đọc sách nhưng chợt nhớ ra rằng làm như vậy cuộc chơi cờ của hai chàng trai ắt phải dẹp bỏ. Họ sẽ phải băn khoăn hỏi xem vì sao ông mất ngủ?... Có cần gọi bác sĩ hay không?... Có cần đun nước pha trà không?... Có cần chuẩn bị thứ gì đó ăn nhẹ cho đỡ mệt?... Tất thảy những quan tâm hành chính ấy khiến ông não lòng. Ông lại nằm xuống, kéo chăn lên cằm, đăm đăm nhìn khoảng trần nhà mờ tối. Dưới chân tường, ngọn đèn ngủ bé xíu như con đom đóm và cũng có màu xanh của lửa đom đóm. Ngày ấu thơ, ông vẫn cùng bạn đi bắt đom đóm bỏ vào những chiếc vỏ trứng gà. Trong bóng đêm, những chiếc vỏ trứng sáng óng ánh và mùa hè đom đóm ấy là mùa hè thần thoại nhất trong đời ông...

"Giờ đây, liệu thằng bé có chơi đèn đom đóm hay không?... Nó cũng đang sống nơi thôn dã cùng đám bạn học và xung quanh chúng cũng là những khu vườn, những bờ cỏ, những nghĩa địa làng um tùm như quang cảnh thời xưa khi ta còn ở Nghệ An?..."

Ông tự hỏi, nhưng rồi lại tự riễu mình vì đứa con ông sẽ chẳng bao giờ biết quê quán ở đâu và lúc này chẳng đứa trẻ nào có thể chơi đèn đom đóm. Đất nước đang trong cuộc binh đao, thay vì ánh lửa lập loè của lân tinh là đạn các loại pháo cày đỏ trời đêm. Thứ lửa gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng cái chết...

"Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh....

Một lịch sử đã dằng dặc những cuộc chiến liên miên không ngưng nghỉ, vậy mà lũ người đam mê vinh quang còn cộng thêm vào đó cuộc chiến này. Một cuộc chiến vô tiền khoáng hậu cả về phương diện năng lực bị huy động cũng như những tổn thất máu xương... Ôi cuộc chiến tranh ngu xuẩn, cuộc chiến tranh đã được thực thi như đòn trừng phạt đối với một dân tộc. Một dân tộc tự đưa thân mình ra làm tăm-pông giữa hai toa tầu lịch sử, tự sử dụng danh tính của mình như con tốt đen trong bàn tay của thế nhân, tự hoán cải giang sơn thân thiết thành chiếc cối xay thịt khổng lồ trong một cuộc huynh đệ tương tàn khủng khiếp gấp ngàn lần cuộc binh đao Trịnh Nguyễn!...

Ta biết làm gì giờ đây khi ván cờ đã lỡ, khi ta bắt buộc trở thành con rối gỗ trong tay lũ sát nhân?... Những người anh em thù nghịch của ta, chẳng lẽ chúng ngu dại đến mức không có một chút ngờ vực khi dấn thân vào tấn trò này hay chúng cố tình quay lưng lại với lương tâm vì cuộc ganh đua quyền lực hấp dẫn hơn thân phận của một dân tộc?... Ôi danh vọng, vinh quang... những thứ người ta chẳng thể ăn chẳng thể ngửi chẳng thể làm tình nhưng lại có sức huỷ diệt kinh hoàng, không chỉ huỷ diệt một cá nhân, một tập đoàn mà cả một nòi giống...

Nhưng vì cớ chi ta mãi đắm đuối, mãi khổ đau vì dân tộc này?...

Cái dân tộc cần đến cuộc đời ta như cần một con vật làm lễ hiến thần linh. Cái dân tộc ngu ngơ cười những nụ cười thoả mãn, cất tiếng tung hô ta như tung hô một hoàng đế vĩ đại, thần phục ta như đám ba quân thần phục một nguyên soái lẫy lừng bất khả chiến bại mà không mảy may hiểu một phần nghìn nỗi đau đớn giằng xé con tim ta, mà không đủ nhân từ ban cho ta một chút cỏn con hạnh phúc?... Vì cớ gì ta mãi phải dày vò vì cái dân tộc vị kỉ và vô tình ấy cho dù nó chính là của ta?...

Ồ không, từ muôn đời người ta đã biết rằng đám đông chỉ là một luồng gió, một đợt sóng, một trận cuồng phong, một cơn lũ hay một cơn hoả hoạn... Đám đông vô danh vô tính và vô trách nhiệm trước tất thảy những gì họ đã làm. Ta không thể lên tiếng oán trách hồ đồ như vậy. Dù muốn hay không dân tộc này vẫn là dân tộc của ta.

Lý do cuộc sinh tồn của ta là vì nó. Nỗi thống khổ lớn nhất trong con tim ta cũng là vì nó: Một dân tộc bị đoạ đầy...

Vì chưng ta đã sinh ra chính ở nơi đây, mảnh đất bùn lầy đau khổ... Vì chưng sợi dây đàn mong manh nhất trong tâm hồn xứ sở vang vọng nơi tâm hồn ta cũng như nỗi tủi nhục nghìn năm của nó tẩm liễm vào từng tế bào cơ thể ta, từ da thịt máu xương cho đến cách cảm thụ sinh tồn...Chính ở nơi đây ta đã bị kết án vĩnh viễn khổ đau. Chính ở nơi đây ta buộc phải trả món nợ non sông lưu tồn từ ngàn kiếp!..."

Vậy là mọi nẻo đường đều dẫn ông quay lại địa ngục của chính ông. Không có cách nào trốn thoát...

Chủ tịch bật lên một tiếng rên rồi vội vã nghiến răng lại vì sợ hai cậu lính bên ngoài nghe thấy. Trái tim ông dường như mắc chứng sung huyết, nở to ra, đập một cách nặng nề. Ông nghe rõ từng nhịp đập ấy, ông cảm thấy rõ rệt những cơn co thắt khó khăn của nó:

"Ước gì thay vì một trái tim, con người có thể sở hữu một cái bơm máu, một thứ dụng cụ đủ chức năng nuôi dưỡng sự tuần hoàn mà chẳng mảy may gây ra những đớn đau... Giá như ta có một trái tim khác, một bộ óc khác hẳn ta có thể sống an nhiên?... Giá như..."

Ông đưa tay lên xoa ngực, sờ đốt xương sườn cuối và bỗng thương thân:

"Tại sao ta mãi tự đầy đoạ ta trong một nỗi khắc khoải triền miên, một nuối tiếc dằng dặc và một nỗi nhớ mong không bao giờ nguôi dịu?...

Tại sao ta không thể lãng quên vì cuộc sống cần đến sự lãng quên như kẻ mắc chứng nhiễu tâm cần thuốc ngủ?... Ta đã học cách lãng quên gần như suốt cuộc đời để rồi khi trở về già mọi bài học đều hoá thành đám tro như đám tro sau cuộc đốt mã?... Cuộc chiến tranh ngu xuẩn này là đòn trừng phạt đối với dân tộc của ta còn sự vãn hồi trí nhớ là pháp đình tối cao dựng lên để triệu hồi ta về nghe phán quyết?... Phải chăng đây chính là một liên đới thảm khốc giữa thân phận riêng ta với kiếp nạn chung của giống nòi?... Hay là sự trùng lặp ngẫu nhiên bí ẩn sẽ còn lại như một câu đố mãi ngàn thu?..."

Ông nghe một tiếng cười khẽ khàng bên tai nên mở mắt ra.

Gã đàn ông có nước da màu nõn chuối đang đứng dựa lưng vào tường. Bảnh bao trong bộ com-plê màu trắng ngà, thứ màu ông thích nhất. Ông vẫn nhớ cái cảm giác súng sính hớn hở khi lần đầu có đủ tiền để cắt may bộ com-plê ấy tại Paris, cái thành phố đắt nhất thế giới, nơi thợ may kiếm tiền nhiều gấp năm đến mười lần đám thợ các thành phố khác... Bộ quần áo sang trọng đầu tiên trong tuổi trẻ của ông, giờ đây gã đang mặc. Cũng cách bẻ cổ áo sơ-mi như thế, cũng chiếc cà-vạt màu xanh dương thẫm điểm chấm trắng và kiểu thắt cà-vạt cũng là kiểu thắt của thời xưa... Nhưng đó chẳng phải một chàng trai trẻ mà là một kẻ trạc ngũ tuần, có ngoại hình giống ông như bản chính với bản sao... Một lần nữa, ông hiểu rằng gã chính là bản diện thứ hai của ông, là kẻ mà lẽ ra ông có thể trở thành...

Gã đứng tựa lưng vào tường, dáng thong thả và điệu đàng, hai tay đút trong túi quần, mắt nhìn thẳng vào mặt ông với cái nhìn chăm chú:

- Ngươi không khóc đấy chứ?...

Ông ngần ngừ một chút rồi đáp:

- Xin lỗi... Tôi không thích câu hỏi của ông.

- Nếu cần, cứ khóc một chút cho nhẹ lòng... Ta vốn rộng lượng với những kẻ yếu đuối.

- Tôi không quá yếu đuối như ông tưởng.

- Để rồi xem.

- Câu ấy để giành cho trai tráng. Tôi đã ngoại bẩy mươi, câu nói của ông với tôi là thừa thãi.

- Nếu ngày mai ngươi lên đường về với tổ tiên, ngày hôm nay câu nói ấy vẫn còn cần thiết.

Ông lặng im vì thấy gã có lý. Nhưng ông cũng không thể thú nhận thua cuộc. Cách tốt nhất là lặng im. Và ông đưa mắt nhìn lên khoảng trần nhà mờ tối. Gã mỉm cười nói tiếp:

- Vào tuổi này mà ngươi vẫn cố sức đi tìm lời giải cho những câu hỏi siêu hình... Thế cũng đáng khen.

- Người ta có thể bị quay đảo bởi những câu hỏi như thế cho đến tận phút xuống mồ. Vì vậy, cuộc tìm kiếm lời giải cũng là lẽ đương nhiên.

- Có cả ngàn câu hỏi mà nhân loại chẳng bao giờ tìm được câu trả lời. Vì bản chất cuộc sống là sự đánh đố và thách đố. Sự đánh đố và thách đố này bao trùm lên mối quan hệ giữa loài người với thiên nhiên, giữa các nhóm người khác nhau trên quả địa cầu, và giữa người với người trên tư cách cá thể... Hãy nhìn lại quãng đời đã qua, ngươi sẽ tìm thấy những lỗ hổng, những mắt xích yếu kém, những rạn nứt, những đổ vỡ... Tất thảy những thứ đó xảy ra khi ngươi mất khả năng kiểm soát những phẩm chất cốt lõi nhất của cuộc đời...

- Tôi sẽ cố tìm bằng chứng cho sự lý giải của ông.

- Không phải cố. Chỉ cần ngươi quay đầu lại và nhìn mọi sự một cách khách quan hơn. Các bằng chứng nằm đầy rẫy trên con đường phía sau lưng ngươi, như những cột mốc sắp hàng dọc quốc lộ.

- Tôi vẫn luôn cố gắng phân tích sự việc một cách khách quan. Đấy là đòi hỏi tối cần thiết của người cầm quyền.

- Cái đòi hỏi tối cần thiết ấy lại chính là phần thường xuyên thiếu hụt nơi kẻ cầm cân nẩy mực. Sự sụp đổ của mọi đế chế, sự tan rã của mọi vương triều đều xảy ra vì thiếu hụt cái nhìn khách quan. Khách quan đối với tha nhân chỉ là sườn đất thoai thoải miền thảo nguyên, nhưng khách quan với chính bản thân là con đường leo lên đỉnh Hymalaya. Ta về đây để chỉ cho ngươi rõ những vết nứt lớn nhất trong tâm hồn ngươi. Như thế, ta sẽ giúp ngươi tìm được tự do. Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi cái địa ngục này...

Ông im lặng vì trong thâm tâm ông đang chờ sự giúp đỡ của gã, chờ một cách thực sự, và điều ấy giống như sự sỉ nhục. Sau một hồi im lặng, ông thu hết can đảm cất tiếng:

- Vâng. Tôi chờ nghe ông.

Gã mỉm cười, nụ cười của gã vừa có nét quyến rũ truỵ lạc của Yve Mongtan vừa có vẻ giản dị, hồn nhiên của Jean Gabin thời niên thiếu. Gã nghiêng đầu sang bên trái một chút, nhìn sâu vào mắt ông với cặp mắt trong suốt màu nâu:

- Ta bắt đầu bằng nỗi dày vò thường trực nhất của ngươi, cái chết của người đàn bà ngươi yêu dấu. Ngươi thuận tình chăng?...

- Tôi có nhiều nỗi dày vò. Trên vai tôi cũng chất chồng vô số những tiếc thương và ân hận...

- Ta hiểu. Nhưng nỗi tiếc thương cho một dân tộc chỉ có đấng toàn năng mới đủ quyền lực để hoá giải. Ta, cũng như ngươi chẳng phải là đấng toàn năng. Ta chỉ có thể giúp ngươi trong cuộc chìm tầu này, trong cái bi kịch xưa cũ giữa một người đàn ông với một người đàn bà đồng thời giữa một ông vua già với một ái phi trẻ tuổi. Ngươi nghĩ sao?

Ông im lặng không trả lời. Gã nhún vai một cách ngạo mạn và cất tiếng hỏi:

- Vào ngày Nàng Xuân bị giết hại, ngươi đã làm gì?...

Ông lại tiếp tục im lặng vì không biết trả lời ra sao... Ngày ấy, ông đã gọi điện cho tướng Long nhưng khi vị tướng này sang, hai người chỉ trao đổi những sự việc liên quan đến quan hệ quốc tế. Ông đã chờ đợi tướng Long lên tiếng, nhưng cuộc trò chuyện kéo dài từ tám giờ sáng cho đến mười hai giờ rưỡi trưa mà ông ta chẳng cất lời. Còn chính ông, ông không dám mở miệng. Ông hiểu rằng vào lúc ấy, chỉ tướng Long mới đủ khả năng giải quyết sự manh động và lạm quyền của bộ trưởng Quốc Tuỳ. Toàn bộ các tướng lĩnh và bộ quốc phòng còn đang nằm dưới tầm tay của ông ta. Nhưng tướng Long đã lờ đi vì chính ông ta cũng muốn chủ tịch đóng vai thánh sống. Chính ông ta cũng muốn chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc mà không để lại mảy may dấu vết của cuộc sống gia đình. Trò chơi Thánh sống này đem lại lờ lãi cho toàn thể bộ máy quyền lực, không một ai từ chối miếng ăn ngon...

- Ngươi không làm gì cả và miệng ngươi câm như hến, đúng không?...

Gã hỏi nhưng không đợi câu trả lời. Gã biết thừa ông không đủ can đảm để cất tiếng. Đôi mắt đẹp của gã nheo lại trong một cái nhìn vừa khinh bỉ vừa nhuốm màu thương xót và nói tiếp:

- Nói đúng ra, ngươi mong chờ tướng Long, người đàn em thân thiết nhất ra tay. Còn chính ngươi, ngươi không dám chủ động lên tiếng, bởi trong thâm tâm, ngươi lo sợ bị lịch sử kết án: Vì tình riêng mà gây sự biến cho quốc gia... Ai cũng nhìn thấy cách duy nhất để hành động lúc ấy là sử dụng lực lượng quân đội vây bắt Quốc Tuỳ đồng thời truất quyền Sáu, tên phản bội đầu bảng... Nhưng như thế, ắt máu phải đổ. Và ngươi lo sợ cho cái uy danh muôn đời của ngươi trong cuốn sử đất nước. Vì ngươi là tác giả của khẩu hiệu thơ mộng này:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công."

Ý tưởng của ngươi đẹp đẽ thật và hiệu lực thật... Nhưng chỉ trong một thời, và trong một cảnh. Thứ đạo đức cốt lõi của những ai đang sống nơi rừng rậm nơi suối reo vượn hót... Ngươi không hiểu rằng khẩu hiệu đó chỉ là chiến lược trong cuộc chiến tranh du kích. Nhưng một khi guồng máy quyền lực đã thiết lập, ý tưởng cao sang ấy chỉ còn là một con chim oanh đẹp đẽ nhưng không hót được cũng không bay được vì đó là xác điểu nhồi bông. Khẩu hiệu của ngươi là thứ xăng nhớt chỉ dùng chạy cỗ xe kháng chiến nhưng không dùng được cho bộ máy điều hành quyền lực, nhất là quyền lực đảng độc tài... Ngươi quá mê mẩn với cái thứ lời hay ý đẹp của bản thân mà không hiểu rằng ngôn từ cũng như mọi thứ trên đời có sinh thì có tử. Quyền lực là quyền lực, nó không song hành với mỹ học hay đạo đức. Tính chất đặc trưng của đời sống là đánh đố và thách đố chính ở đây. Cú đòn giáng xuống người vợ trẻ của ngươi chính là trận đánh thăm dò. Vì ngươi đã tự bó tay nên hồi sau những kẻ thù nghịch trèo lên đầu ngươi cũng là điều dễ hiểu.

- Nhưng tôi cũng không thể yêu cầu tướng Long hành sự... Bởi điều đó sẽ khiến bao nhiêu con người vô tội phải đổ máu... Đất nước vừa trải qua chín năm kháng chiến, dân chúng chưa được hưởng yên vui...

- Ồ, muốn tránh máu cũng vẫn đổ... Trên hành tinh này có lúc nào ngừng tiếng súng đâu?.. Nếu như ngày ấy ngươi tự nguyện hy sinh để tránh vài vũng máu tươi thì giờ đây ngươi đã không ngăn được những dòng sông máu lênh láng chảy... Cuộc chiến tranh hiện thời sẽ là cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, một cuộc chiến tranh quỷ khóc thần sầu, bởi số người chết sẽ lớn hơn tổng số những kẻ đã hy sinh trong các cuộc chống ngoại xâm, từ thời Minh Nguyên cho đến tận mùa thu năm Ất Dậu(I945)... Điều ta nhận định đúng hay sai?...

- Ông biết rằng tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản nó... Nhưng....

- Nhưng lực bất tòng tâm và ngươi là kẻ ngã ngựa giữa trận tiền... Ta đặt giả thuyết rằng ngay từ ngày người vợ trẻ của ngươi bị sát hại, ngươi tổ chức cuộc phản công và thay vì để cho lũ đàn em thù nghịch giam lỏng ngươi trong cái nhà tù trá hình này, ngươi nhốt bọn chúng trong một nhà ngục thật sự... Biết đâu ngươi chẳng tránh được cuộc chiến thảm khốc này và tiết kiệm được biết bao xương máu của lương dân?...

Ông im lặng thở dài và gã nhún vai nói tiếp:

- Nhưng thôi, chúng ta sẽ không tính lại chữ Nếu... Chữ ấy luôn luôn là thứ kẹo mút của bọn trẻ lên ba. Ta trở lại với bi kịch gia đình của ngươi. Và lần này ta không sử dụng từ nếu mà quả quyết rằng tướng Long giữ im lặng vào lúc ấy, chính vì ông ta cũng muốn trục lợi trong trò chơi ngươi đóng vai Thánh sống. Dưới bóng của một ông thánh có biết bao nhiêu kẻ được hưởng phần xôi oản, kẻ hưởng phần to nhất chính là ông ta. Tên tuổi của ngươi gắn với tên tuổi ông ta trong trận Điện biên Phủ. Vì thế, chính viên tướng này cũng muốn vĩnh viễn nhốt ngươi trong một ngôi đền. Ồ, trò chơi làm Thánh chính là trò chơi độc ác nhất cõi đời, ấy là độc đạo chỉ có thể trèo lên mà không có lối tụt xuống. Kẻ đóng vai Thánh sống phải chết cứng và chết đứng trên bệ của y, chết trong giá lạnh và mưa gió, chết trong cô đơn tuyệt đối vĩnh hằng, chết muôn kiếp trong tư thế một bức tượng, vĩnh viễn chẳng còn được chôn cất như những người khác... Một cái chết vô cùng mệt mỏi... Chết mà không được nằm, đó là thứ mệt mỏi kéo dài muôn kiếp... Một kiểu hình phạt độc đáo của Tạo hoá...Ta nói đúng hay chăng?...

Gã cất tiếng cười mai mỉa. Ông thấy mặt nóng bừng còn toàn thân lại lạnh buốt như băng. Dường như lưng ông và hai vai ông đã hoá đá dán chặt xuống giường. Ông không dám mở mắt nhìn kẻ đối thoại nên đành nhắm mắt lại và tiếp tục nghe tiếng gã tuôn ra như nghe những viên cuội dốc ra từ một chiếc hũ sành:

- Ngươi hoàn toàn tê liệt bởi chẳng có một ý tưởng nào rõ nét chỉ đạo hành động của ngươi vào lúc đó. Ngươi muốn đánh trả kẻ thù nghịch nhưng không dám thuyết phục đám tay chân. Ngươi đã quên nguyên tắc hành xử của các quân vương tự ngàn đời:

"Kẻ nào đụng đến tả hữu của ta chính là chặt chân chặt tay ta;
Kẻ nào đụng đến máu mủ ruột rà của ta chính là chạm đến con ngươi mắt của ta vậy...."

Lẽ ra, ngươi có thể vạch rõ mối hiểm nguy cho chính tướng Long và phe nhóm của ông ta. Rằng nếu ông ta giữ im lặng trước sự lạm quyền của Sáu thì sau cuộc đánh thăm dò này chính ông ta sẽ là một đại thụ cần phải đốn ngã trước tiên. Rằng kẻ hôm nay ăn cắp một quả trứng ngày mai sẽ ăn cắp một con thỏ và ngày hôm sau nữa sẽ ăn cắp con bò. Rằng quyền lực chỉ đi theo con đường của nó mà không bao giờ ngoái lại phía sau để suy ngẫm hay thương tiếc. Nếu ngươi đủ khôn ngoan để phân tích một cách đầy đủ như vậy, ta cam đoan là người đàn em của ngươi sẽ ra tay ngay tắp lự, chẳng một phút chần chừ, chẳng mảy may nao núng. Xưa nay, con người vẫn hành động tức khắc khi chính bản mệnh họ bị đe doạ. Lòng vị kỉ vốn là bản năng xa xưa và mạnh mẽ nhất của chúng sinh. Nhưng thay vì hành động với tất cả khả năng sáng suốt của lý trí, ngươi lại im lặng chờ đợi sự thông cảm một cách ngầm ẩn của đám đàn em. Sự im lặng này không hẳn vì ngươi hoàn toàn ngu ngốc, nhưng vì ngươi dùng dắng trong tranh tối và tranh sáng, chính trạng thái mù mờ đó khiến ngươi trở nên tê liệt. Có hai khả thể vào tình cảnh này: Hoặc ngươi hổ thẹn không dám bảo vệ người đàn bà yêu dấu vì nàng quá trẻ quá đẹp, một miếng ăn quá ngon đối với cái miệng của vị vua già, một thứ phản cảm đối với quan niệm chung của thứ dân và vì thế tuy trong lòng sôi sục yêu đương nhưng ngươi ngại ngùng và không dám công khai bảo vệ tình yêu đó. Trong trường hợp này đích xác ngươi là kẻ mắc chứng khổ dâm tinh thần. Nếu không, chỉ còn một cách giải thích khác. Ấy là vì ngươi quá thích thú với vai trò Thánh sống, là cuộc chơi này thoả mãn cái phần kiêu hãnh nhất trong bản thể nên ngươi buộc phải chịu đựng sự thiến hoạn cuộc sống bình thường của một người đàn ông, và do đó ngươi đã cam tâm hy sinh nàng, người đàn bà mà ngươi yêu nhất. Trong trường hợp đó ngươi là...

Những viên sỏi tiếp tục lăn ra từ miệng chiếc hũ sành, nhưng tai ông đã ù đi nên ông chỉ còn cảm giác là những đợt mưa rào đâu đó gõ ầm ầm lên mái tôn, có lẽ mái tôn nhà ngục Hương cảng... Những đợt mưa rào hung dữ. Các tấm tôn xám kêu rùng rùng dưới những cơn mưa ấy. Phía trên các mái tôn là một mảnh trời. Lúc xanh lơ, lúc tối sầm mây giông, lúc trong vắt trong veo, lúc mịt mù sương khói... Ôi,chỉ có kiếp tù nhân mới hiểu được tận cùng sự đổi thay sắc thái của mầu trời. Đã bao nhiêu ngày, ông nhìn bầu trời Hương cảng để hồi nhớ mảnh trời xứ sở? Rồi đột nhiên ông thấy nàng xuất hiện trên mái tôn nhà ngục nhìn ông, cười nụ cười thơ trẻ. Hệt như cô gái mười chín tuổi ngồi trên cành cây ăn vả trong cánh rừng Việt bắc năm xưa. Hai hàm răng trắng bóng lên như ngọc trai, và cặp môi lấm lem ruột quả...

Ông cất tiếng gọi nàng nhưng miệng ông bị gắn chặt bởi một thứ nhựa dính như sơn ta và lưỡi ông dính bết vào hàm.

"Không lẽ ta đã chết và họ trám miệng ta bằng thứ nhựa này?..."

Ông nghĩ, nhưng rồi ông lại nghe tiếng quật bài tu-lơ-khơ bên ngoài vọng vào phòng và khi mở mắt ra ông vẫn nhìn rõ ngọn đèn ngủ xanh màu xanh của lửa đom đóm:

"Ồ không, ta đang ở đây... Ta đang ở trên đỉnh Lan Vu... Đối diện với khu nhà này là khu chùa phụ, nơi sư cụ có hai hàm răng đen nhánh sống cùng đệ tử... Rõ ràng ta vừa sang chơi bên ấy, và họ thết ta nước vối hãm gừng với chè lam, một thứ chè lam mềm như chuối chín..."

Ông định thần, giương mắt nhìn quanh gian buồng lần nữa. Cảnh vật bình thường. Gã bảnh bao diện com-plê màu trắng ngà đã biến mất. Nơi gã vừa tựa lưng giờ chỉ còn lờ mờ chiếc khung gỗ trong đó lồng bức ảnh đen trắng mà ông rất thích: Hoa đào. Bức ảnh ấy chính nàng tặng ông khi họ vừa có đứa con gái đầu lòng. Không ngày nào ông không đứng trước tấm ảnh đó. Nó là tất cả những gì còn lại của nàng, gợi về nàng trên cõi đời rộng rênh hoang vắng này. Hoa đào. Sứ giả của mùa xuân. Hoa đào. Di vật bất tử của mối tình chết yểu....

Ông thấy vị mặn của muối.

Đó là nước mắt ông hay nước biển năm xưa lạc lối quay về?.

"A!... Tuổi trẻ của ta... Khúc ca xưa cũ...."

Ông vừa chợt nhớ ra câu hát ấy thì một câu hát khác đã trở lại, láy vọng và nhấn chìm ông trong nỗi tiếc thương:

"Dầu đã lìa xa, lòng ta không nguôi nhớ..."

Tiếng hát rền vang trong ông, xuyên xoáy từng tế bào, khiến cơ thể lẫn tâm hồn ông tan ra như đám cát. Ông thấy những con sóng quật lên ông, lên cái khối bùi nhùi mà trong đó thịt xương bấy nát hoà trộn cùng thứ khí đục như mây giông. Ông biết ông không còn là ông nữa, bởi ông nhìn thấy mình đang dập dềnh trên ngọn sóng, một mớ bọt biển tiếc thương quyện vào đám rong rêu vật vờ của oán hờn và tuyệt vọng...

Tiếng đập cửa phòng ầm ầm vang lên rồi cánh cửa bật ra. Điện bên ngoài đã sáng choang. Ông nghe tiếng bác sĩ:

- Thưa chủ tịch, xin phép được thăm bệnh cho người.

- A...

Ông chưa định thần được, cánh cửa đã mở toang và bác sĩ xuất hiện. Anh ta nói luôn:

- Cảnh vệ nghe nghe tiếng chủ tịch kêu nên sang gọi tôi. Xin người cứ nằm yên trên giường...

Ông im lặng. Bác sĩ luồn ống nghe để kiểm tra tim phổi ông. Thứ dụng cụ bằng kim loại lạnh buốt chạm vào da thịt khiến ông rùng mình. Nhưng những ngón tay bác sĩ rất mềm và ấm nóng, những ngón tay đầy nhục cảm. Hơi thở của anh ta cũng ấm nóng lướt nhè nhẹ trên trán ông. Mọi động chạm của người đàn ông này gợi nên những ý nghĩ thầm kín:

"Sự nồng ấm, đó chính là phẩm chất tối thượng của đời sống. Sự nồng ấm, vừa là hình hài vừa là đường biên của ngọn lửa đam mê... Ngọn lửa đam mê lớn nhất của đời ta đã dùng để đốt lên đám cháy cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng ấy chẳng đem lại hạnh phúc cho con người. Ngọn lửa đam mê nhỏ nhoi hơn đốt cháy con tim ta vì nàng. Rốt cuộc nàng đã bị huỷ diệt trong chính thứ lửa địa ngục ấy. Ôi tội nghiệp thay cho sự uổng phí sinh lực của kiếp người. Đời ta đã cháy lên như một ngọn lửa hoang, một sự bốc cháy nhầm lẫn, một sự tiêu xài năng lượng điên rồ. Ta thua kém bất cứ một kẻ bình thường nào khác, như tay bác sĩ này chẳng hạn. Anh ta có thể dùng năng lượng để sưởi ấm các con bệnh, để làm nóng lên tấm thân người đàn bà gần gũi, và để hát những khúc tình ca..."

- Thưa chủ tịch, không có vấn đề gì nghiêm trọng nhưng người suy nghĩ quá căng nên giấc ngủ không lành... Có lẽ người chấp thuận uống vài viên an thần hay chăng?

- Ồ không. Mất ngủ là bệnh của người già. Còn nói mê là bệnh của trẻ con. Tuy nhiên, khi về già người ta thường cũng hay ngủ mê vì đó là triệu chứng khởi đầu của sự lú lẫn. Thành thực mà nói, chú đã thấy tôi bắt đầu lú lẫn hay chưa?

Ông cất tiếng cười. Bác sĩ cũng cười theo:

- Ồ! Chuyện hài hước.

Ông nói tiếp:

- Tôi hy vọng rằng tôi không bị lú lẫn trước khi chui vào hòm. Nằm trong lòng ông sáu tấm tha hồ lú lẫn cũng không phương hại tới ai. Còn bây giờ, chú cứ quay về phòng ngủ tiếp. Không cần quá lo lắng cho tôi. Tôi chẳng còn trẻ để có quyền ăn no ngủ kĩ. Mắc đôi chứng của bệnh già cũng là lẽ thường thường tình.

- Nhưng mất ngủ, người sẽ rất mệt.

- Sáng mai, tôi sẽ ngủ bù. Bảo họ chớ đánh thức tôi dậy ăn bữa sáng.

-Vâng.

- Cứ an tâm về ngủ lại. Chú nữa, chú cũng có quyền ngủ trễ ngày mai bởi phải thức dậy vào nửa đêm. Lúc này mấy giờ rồi?...

- Dạ, ba giờ hai mươi nhăm phút.

- Tốt lắm. Còn rất nhiều thời gian để ngủ tiếp.

- Dạ. Chúc chủ tịch ngủ ngon.

Bác sĩ khép cánh cửa lại. Đèn phòng ngoài tắt. Ông nghe tiếng anh ta bảo hai cậu lính chuyển bàn ghế sang tít đầu hồi bên kia chùa chính mà đánh bài để ông được hoàn toàn yên tĩnh. Hai chú lính dạ ran rồi lục cục chuyển bàn ghế. Tiếng chân bác sĩ vang trong đêm nhẹ nhàng nhưng khoáng đạt. Hẳn đây là một người đàn ông vô cùng nồng ấm trong chuyện gối chăn. Ông chợt nhớ lại cảm giác sững sờ khi lần đầu nghe anh ta hát. Vì giọng hát ngọt ngào hay vì lời hát xuyên thấu con tim ông bằng lưỡi gươm tàn khốc:

"Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau?"

Ông nhận ra rằng ông đã quay lại pháp đình, nơi gương mặt nàng đối diện với gương mặt ông và giữa họ là tấm lưới pha lê dệt bởi muôn nghìn dòng nước mắt. Ông lên tiếng gọi nàng nhưng nàng không đáp. Tại sao nàng giữ mãi sự lặng câm? Tại sao nàng không trách móc, không sỉ mắng ông, dù chỉ một lời? Ồ, nếu như vậy hẳn lòng ông vơi nhẹ. Sự lặng câm của nàng là vạc dầu địa ngục khiến tâm hồn ông bị nung nấu trường kì.

"Sự lặng im của nàng là cuộc tù chung thân đối với ta. Trước tâm hồn trong trắng của nàng, trước sự tin cậy thơ ngây của nàng, trước mối tình chân thành và nồng ấm của nàng, ta là kẻ tội đồ ngàn kiếp"

Ồ, không phải chỉ có riêng ông. Những kẻ đã hy sinh nàng một cách nhẫn tâm rồi cũng phải trả giá. Chỉ một năm sau ngày nàng chết, Ba Danh và Sáu đã cho xây nhà ngục đặc biệt ở đảo Tuần Châu với ý đồ giam tướng Long vĩnh viễn trong đó. Nhưng sau khi bàn đi tính lại, chúng e ngại dư luận quốc tế nên đã bắt ông ta sang làm việc tại uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch, lãnh nhiệm vụ đi đặt vòng cho đám đàn bà. Toàn bộ cái trò hề nhơ nhuốc này phaỉ chăng là sự trả thù của tạo hoá? Bởi con tim nàng quá trong trắng, bởi nhan sắc của nàng là vưu vật của đất trời, sự thánh thiện của nàng cả thần lẫn quỷ đều phải chứng, thế nên những kẻ quay mặt đi trước cái chết của nàng đến lượt họ cũng phải chịu những phản trắc, những đầy đoạ, những sỉ nhục của đám đồng chí bất lương. Dù vì lý do nào chăng nữa, khi tội ác đã đặt được chân vào cửa đền thì nó sẽ tiếp tục đi thẳng vào hậu cung mà không gươm dáo nào cản nổi.

Sáng hôm nay, Vũ gọi điện cho ông, chỉ để nói một câu:

"Anh Cả ơi, đại cuộc đã hỏng rồi"

Ông sững sờ, định hỏi thêm nhưng ở đầu bên kia, Vũ đã đặt máy. Lễ cho ông biết Vũ phải nhập viện ba tuần nay vì bị ngất đột ngột mà không lập được hồ sơ bệnh lý chính xác. Nhờ cú điện thoại sáng nay, ông hiểu được căn nguyên sự suy sụp tâm thể mà các bác sĩ phải bó tay. Đồng bệnh tương liên, lẽ đời như vậy. Tất thảy sự ngờ vực của họ bấy nay đã kết thúc trong tiếng kêu của con chim trước khi cụp cánh để buông thân rơi xuống vực sâu:

- Than ôi, đại cuộc đã hỏng rồi!...

Tấm áo lót cuối cùng của sự hồ nghi, của sự tự biện minh, của những hy vọng vớt vát và nguỵ tạo đã rơi xuống. Sự thật phơi mình. Nàng tiên mỹ miều chỉ còn là con cóc cái ghê tởm. Mỹ nhân yêu kiều hoá thân thành xác cáo chín đuôi. Hơn một thập kỉ dùng dắng trong sự nhá nhem giữa ánh sáng phán đoán của lý trí với sự mù loà của lòng kiêu hãnh, giữa sức mạnh của lương tri với bản năng vị kỉ và niềm si mê tự ngưỡng mộ mình. Chính vào buổi sáng hôm nay, khi nghe giọng nói khàn đặc của Vũ, ông hiểu rằng đây chính là hồi kết thúc:

"Ta không còn lý do nào để dung thứ cái chính thể đồi bại và tàn độc này, cái chính thể mà ta đã tạo ra nhưng nó phản bội lại chính ta sau khi đã phản bội lại dân tộc. Ta không thể tiếp tục cộng sinh với nó. Một thứ ngạ quỷ lớn lên trong lòng xứ sở nhưng ngay sau khi lọt lòng lại cắn cổ và hút máu chính người mẹ đã mang nặng đẻ đau. Ôi, khốn khổ thay cuộc hoài thai đau đớn này. Khốn khổ thay cho dân tộc của ta và khốn khổ thay cho chính ta"

Bóng tối trước mặt ông bỗng trở nên đen sẫm màu mực, thứ mực Tàu mà những ông đồ già thường viết trên giấy đỏ. Óc não ông chợt sáng bừng lên một hình ảnh cũ, một mảnh đời của quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn nguyên tươi thắm: Cứ mỗi độ xuân, các nhà nho ngồi mài mực để viết những câu thơ đối vần trong đó hàm chứa cả ước mơ và hy vọng, vừa là lời chúc tụng vừa là điềm báo triệu cho tương lai. Những nét chữ thiêng liêng ấy hiện lên trên nền giấy đỏ rực, khi ngoài kia mưa phùn nhẹ như lông tơ bay trên những vườn đào thắm đào phai; và xa hơn nữa những đàn cò trắng dập dìu trên cánh đồng xanh thắm. Ồ, đẹp làm sao những cặp câu đối mừng xuân. Những nét chữ múa lượn như rồng uốn, như phượng bay, như mây cuốn. Màu đen, đen đến tận cùng đen. Màu đỏ, đỏ mút mùa đỏ. Cuộc đời bao giờ cũng là sự đan xen giữa những đối cực. Vậy tại sao ông không sử dụng nguyên tắc của trò chơi này? Ý nghĩ ấy vụt đến khiến ông sửng sốt:

"Tại sao ta không dùng cái chết của ta như ông đồ già dùng thứ mực đen, để tôn vinh lên màu đỏ rực rỡ kia, biểu tượng cho tương lai huy hoàng của dân tộc? Tại sao ta không nghĩ ra nước cờ này, đó chính là nước cờ tối hảo ta sẽ đi trên bàn cờ thế sự. Đấy chính là cách hiệu nghiệm nhất để bóp chết loài ngạ quỷ, để chuộc lại lỗi lầm của ta trước dân chúng... Đấy cũng chính là con đường ngắn nhất để ta tìm gặp lại người yêu."

Tức khắc, ông thấy lòng nhẹ nhõm. Giống như kẻ bấy lâu mò mẫm trong bóng tối bỗng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.

"Ô, tuyệt vời! Cái chết này đem đến cùng một lần sự giải thoát và cứu rỗi. Tại sao đến tận lúc này ta mới nghĩ ra? Ôi, bộ óc vô dụng của ta, ngươi thật nghìn lần đáng trách."

Ông lật chăn, ngồi bật dậy.

Đã từ lâu ông thuộc như lòng bàn tay lá số của ông, biết chắc chắn ngày trở về cát bụi sẽ là ngày Mùi tháng Hợi năm Tân Hợi. Nhưng ông vẫn bật đèn, mở tủ lấy lá số tử vi cũ nát mà ông giữ từ hơn sáu chục năm. Các nếp gấp đã sờn, màu giấy ngả sang vàng úa. Ông thận trọng mở lá số ra, thận trọng soi chiếu lại sự tụ hợp của những hung tinh vào thời hạn mà tử thần sẽ đến tận giường để cắt sinh mạng của ông bằng lưỡi hái. Không có gì sai lệch. Cuộc kiểm định hoàn toàn chính xác. Trí nhớ của ông vẫn đáng tin cậy như thuở tráng niên.

"Ồ, sống làm gì thêm hai năm trong cuộc sống tù hãm và tuyệt vọng này? Sống làm gì thêm để tiếp tục đóng vai trò một con rối gỗ, khích lệ những đứa trẻ vô tội lao vào một cuộc chiến sầu thảm và ngu ngốc, để rồi mai đây lịch sử sẽ lên án ta như lên án một gã vua già hèn nhát hoặc bất lương? Cuộc ra đi này sẽ là cách sám hối tốt nhất, nó sẽ trả lại cho ta sự thanh thản trước pháp đình tối hậu của tâm hồn"

Ông gập lá số lại, cất vào tủ rồi đến bàn giấy, lục tìm trong ngăn kéo bản di chúc đã phác thảo dở dang từ năm trước. Ông sẽ hoàn tất nó đêm nay bởi ông quyết định chết vào ngày mồng 2 tháng chín. Theo phép thuật cổ, kẻ sáng lập ra một vương quốc, một tôn giáo, một môn phái võ lâm mà chết đúng vào ngày khai sinh các tạo phẩm ấy thì đó sẽ là điềm tiên triệu xác thực, là bản phán quyết định mệnh cho sự kết thúc không thể tránh được của chính các tạo phẩm trên.

Sáng hôm sau, cậu lính béo lên đổi ca lúc bảy giờ ba mươi, như thường lệ. Ông bảo:

- Chúng ta đi lên núi rồi hãy quay lại uống trà.

- Thưa chủ tịch, nhưng...

- Tôi muốn leo núi một chút cho dẻo chân. Tôi chưa thấy đói.

- Thưa chủ tịch, con phải chờ lệnh bác sĩ... Con không dám...

- Yên tâm, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn. Bác sĩ còn đang ngủ.

Nói đoạn, không chờ cậu ta nói thêm, ông xăm xăm bước. Anh chàng lính béo chẳng có cách nào hơn là hối hả chạy theo rồi túm lấy cánh tay ông.

- Thưa chủ tịch, để con dắt người. Giờ này đường rất trơn, nguy hiểm lắm.

- Ồ!..

Ông quay lại mỉm cười:

- Ông già dưới xóm Tiều phu ngã vào đúng ngày tạnh ráo, và mặt trời đã đi qua ngọ, đúng không? Lúc ấy chẳng còn một giọt sương nào trên cỏ?

- Dạ, đúng là như vậy nhưng...

- Đừng quá cẩn thận. Chú cứ đi sau lưng tôi là được rồi. Đường núi hẹp thế này hai người bấu díu vào nhau càng khó đi hơn.

Cậu lính đành lẽo đẽo theo ông. Bởi ông đi nhanh thăn thoắt nên anh chàng cũng chỉ còn đủ thời gian để bám sát gấu áo ông mà thôi. Càng đi cậu ta càng thở dữ vì tấm thân nặng nề, cũng vì chưa bao giờ ông đi với nhịp điệu thần tốc như vậy. Vạt áo bông của ông đập phần phật lên hai chân và đuôi chiếc khăn quàng len kẻ sọc bay ngoặt lại sau lưng giống như đuôi diều bị gió thổi. Ông đi thẳng một mạch lên đỉnh Lan Vu, nơi cao nhất, nơi chưa bao giờ ông đặt chân tới. Ở đấy, ông đứng trên một tảng đá lớn đưa mắt nhìn bao quát đến chân trời. Những đám mây bồng bềnh lượn quanh đỉnh núi, rồi sà xuống các tầng núi thấp hơn. Dưới những dãy núi trập chùng ấy là làng mạc. Xa hơn nữa, đồi nương rồi đồng ruộng trải mút tới chân trời.

A! Non sông của ông...

Giang sơn gấm vóc hay miền đất bùn lầy tăm tối? Nói cách nào cũng được. Hiểu theo chiều nào cũng đúng. Bởi chỉ có duy nhất một hiện thực thôi: Đó là mảnh đất của ông, thuộc về ông. Cũng như ông thuộc về nó, mãi mãi. Tất cả những gì ông có được, tất cả những gì ông đánh mất, tất cả những gì ông đã làm, tất cả những gì còn lưu tồn như món nợ....tất thảy khởi sự từ nó và kết thúc cũng bởi nó, mảnh đất này. Quê hương lầm than. Dân tộc nô lệ. Một lịch sử không có tiếng đàn sáo mà chỉ vang lên tiếng lách cách của gươm đao. Một hiện sinh chẳng có tiếng cười mà chỉ vút lên tiếng hô Sát Thát. Tiếng hô ấy vang lên như tiếng hò kéo thuyền dọc con sông dằng dặc mấy ngàn năm.

"A! Đây sẽ là cuộc chiến đấu cuối cùng của ta. Đây sẽ là cuộc tế lễ cuối cùng của ta cho đất nước!"

Ông bảo cậu lính béo:

- Tôi muốn đứng ở đây một chút. Chưa bao giờ tôi đặt chân lên đỉnh núi thiêng liêng này. Quả là điều đáng tiếc.

- Dạ, chúng con cũng chưa bao giờ trèo lên đây. Nghe nói các vua xưa cứ ba năm lại lên đây tế lễ một lần.

- Ai bảo cậu thế?

- Dạ, dân xóm Tiều phu kể lại.

- Đúng đấy. Đỉnh Lan Vu là nơi tụ khí thiêng sông núi. Điều này các cổ nhân đã viết rành rẽ trong sử sách. Chịu khó đọc sẽ hiểu.

- Dạ.

- Bây giờ, cậu lùi xuống dưới kia chờ tôi. Chỗ cụm thông mọc giữa hai vách đá. Lúc nào cần quay về, tôi sẽ gọi.

- Thưa chủ tịch, nhưng...

- Xuống dưới đó chờ tôi. Không cần băn khoăn nữa.

Vì giọng ông cương quyết thậm chí có đôi phần lạnh lẽo nên cậu lính béo đành lùi lũi tụt xuống bên dưới, đúng nơi ông chỉ định. Đó là khoảng đất hẹp giữa hai vách đá, nơi vọt lên một cụm thông già. Anh lính béo chần chừ một thoáng rồi sau rốt, đành ngồi bệt dưới gốc thông, ngước mắt theo rõi ông.

Còn lại một mình, chủ tịch quay lưng về phía biển đông và ngoảnh mặt lại phía tây. Đứng im như tượng giây lát, đoạn ông nhắm mắt lại, thu hết tâm trí để tiếng nói của con tim ông có thể vang dội, để những âm thanh thầm kín nhất nơi cõi lòng ông có thể lan truyền và vọng động tới các đấng thần linh:

"Hỡi các vị thần linh đất nước, hỡi những linh hồn cao thượng của các anh hùng hào kiệt và các bậc quân vương, những người từng khai phá và bảo vệ giang sơn này. Nếu thân xác các ngài đã tan rã nhưng linh anh của các ngài vẫn tồn tại và ngự trị vĩnh hằng trên tổ quốc, xin hãy trở về đây để trợ giúp tôi.

Hỡi Như Lai Phật tổ, tôi chưa từng đi theo đạo của ngài nhưng tôi may mắn biết được những đệ tử trung thành của Ngài ở nơi đây và tôi hiểu sức mạnh chinh phục của Ngài với trần thế. Nếu quả thật anh linh của ngài luôn luôn ngự trị cõi trời tây, xin ngài hãy hợp lực cùng với các vị thần xứ sở của tôi, để giúp tôi đạt được sở nguyện cuối cùng này:

Tôi, kẻ đã khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt nam vào mùa thu năm Ất Dậu, tức ngày mồng hai tháng chín theo lịch Ki-tô, xin được rời bỏ cõi trần vào đúng ngày ấy tháng ấy năm nay, mùa thu Kỉ Dậu. Cái chết của tôi sẽ là điềm báo triệu và là bản phán quyết khai tử cho chính nó, cái thể chế tàn độc và phản bội này.

Cái chết của tôi sẽ là tặng phẩm cuối cùng dành cho dân tộc tôi.

Cái chết của tôi sẽ là chiến thắng cuối cùng có thể gặt hái, để bù trả lại những thất bại và lỗi lầm tôi đã phạm trong suốt cuộc đời mình.

Cái chết của tôi sẽ là lời sám hối thánh thiện nhất trước pháp đình tối thượng của thiên nhiên và của lương tâm.

Vậy, tôi tha thiết xin tất cả các ngài hãy giúp cho tôi đạt được điều ước nguyện!"

A... a.... a....

A... a.... a....

A... a.... a.... a.... a....

Ông nghe muôn ngàn âm thanh mơ hồ, vừa như tiếng dàn đồng ca từ biển Đông vẳng lại, chan hoà, nhào trộn cùng tiếng sóng. Lại như tiếng xì xào thầm thĩ của những cuộc chuyện trò từ ngàn năm xưa vừa được thu hồi. Ông nhìn thấy những bóng người trong suốt như nước khe, mong manh như bọt sóng, khoác những thứ y phục xưa cũ, từ các vua triều Lý cho đến vua tổ triều Trần, người khởi nghiệp phái thiền Trúc Lâm. Từ tướng Đinh bộ Lĩnh cho đến tướng Quang Trung. Cả vua Lê lẫn tướng Trần nguyên Hãn. Tướng Nguyễn Xảo trong dáng một con ma không tay và Nguyễn Trãi trong bóng một con ma không đầu... Cuộc hội ngộ những con người ưu việt nhất của xứ sở, trong đó có biết bao kẻ đã từng là bằng hữu rồi trở thành thù nghịch theo thời gian....

Phía sau đám người đó, nơi chân trời vàng rực phía tây là một người cao lớn có gương mặt trầm tĩnh, cặp môi đẹp như hai cánh hồng với nụ cười thanh thản vĩnh hằng. Ông biết, đó chính là Đức Thế Tôn...

Như thế, lời nguyện cầu của ông đã được chứng.

Ông đứng im như vậy hồi lâu, cảm nhận một hạnh phúc ông chưa bao giờ biết. Một thứ hạnh phúc hoàn toàn khác biệt với niềm vui chiến thắng hay vị ngon của điếu xì-gà. Một thứ hạnh phúc bất khả truyền đạt.

- Thưa chủ tịch, thưa....

Ông mở mắt ra, thấy cậu lính béo đứng ngay dưới chân mình:

- Tôi có làm sao đâu?

- Dạ, con thấy người đứng im như tượng. Rồi con bỗng thấy mặt người đỏ rực lên như say rượu. Con không hiểu vì sao?

- Không có gì phải sợ. Người ta thường đỏ mặt lên trong trường hợp nào? Hoặc hổ thẹn, hoặc sung sướng, đúng thế chăng? Thế cậu cho tôi đang hổ thẹn hay đang sung sướng?

- Dạ... Con sợ...

- Không có vấn đề huyết áp ở đây. Tim tôi đang đập rất bình thường. Nào, giờ chúng ta sẽ quay xuống.

Ông đáp đoạn tụt xuống tảng đá rồi trở lại lối mòn dẫn xuống chùa Lan Vu. Cậu lính chạy hồng hộc phía sau giơ tay túm lưng áo bông của ông và nói:

- Thưa chủ tịch, giờ con không thể nghe lời người. Dường xuống dốc thường dễ ngã hơn lúc trèo lên dốc.

- Ờ...

Ông tủm tỉm cười, để mặc cho anh chàng túm lưng áo ông kiểu như trẻ con nắm đuôi áo nhau trong trò chơi rồng rắn. Hồi lâu, anh chàng nói:

- Giờ con sẽ pha trà, người uống xong tập thái cực quyền rồi hãy điểm tâm.

- Không, từ nay tôi không tập thái cực quyền nữa.

Cậu lính béo lặng im một hồi vì ngạc nhiên. Rồi sau đó, dường như không chịu nổi cơn tò mò, anh chàng hắng giọng hỏi:

- Nhưng... Người vẫn dạy thể thao là kỉ luật?

Đó là thứ kỉ luật nghiêm nhặt nhất mà chúng ta cần phải thực hành khi muốn duy trì sức mạnh tâm thể. Tuy nhiên, mỗi thời điểm yêu cầu một thứ thể thao thích hợp. Theo tuổi tác, con người phải thay đổi cách thức ăn uống cũng như các hình thức thể thao.

Ông đáp khi trong lòng nở nụ cười thầm thĩ:

"Từ nay ta sẽ tập thứ thể thao tương xứng nhất để mùa thu này ra đi một cách nhẹ nhàng. Bởi nếu ta biết cách bảo dưỡng thân thể như người thợ biết bảo dưỡng cỗ máy, ắt ta phải biết cách tắt mạng sống của ta như ông thủ đền tắt một ngọn nến vào lúc bình minh."

Con đường vòng qua một khe sâu, nước róc rách vọng lên hoà cùng lời chim chóc. Bình minh núi non bao giờ cũng thần bí và tinh khôi. Mọi thứ đều vấn vương mây trắng, đều mát lạnh những giọt nước trong veo, đều ngân nga lời chim. Ông bước phăm phăm như một chàng trai và cảm thấy như lần đầu nhìn thấy mọi vật. Rồi khi con đường ló ra khỏi đám rừng, chùa Lan Vu hiện lên đột ngột như bức tranh.

- Ồ, nhanh thật!

Ông buông tiếng kêu.

- Vâng, đường xuống núi bao giờ cũng nhanh gấp bội.

Anh chàng béo đáp.

Họ qua cổng tam quan để vào sân chùa.

Đột nhiên, một màu trắng mênh mông đập vào mắt chủ tịch khiến ông bàng hoàng như bị loá. Chủ tịch vội dừng lại, định thần rồi hiểu rằng đó là vườn mai phản chiếu ánh hừng đông. Bất giác ông cất tiếng kêu:

- Ồ, hoa mai nở đầy vườn. Sao lúc đi tôi không nhìn thấy?

- Dạ, lúc đi trời còn lảng vảng sương mù. Vả chăng người bước vội vàng nên không để ý. Đây là đợt hoa cuối cùng nở rộ. Sau đó, chỉ còn các cành lẻ muộn thôi. Sư nữ bảo con như vậy.

- À... ra thế...

Ông dừng lại, giơ tay nhẹ nhàng chạm lên những chùm hoa.

Những cánh hoa ướt lạnh và mịn màng lướt trên da thịt ông, vuốt ve an ủi. Ánh rạng đông làm những giọt sương còn đọng trên đầu lá sáng loé như kim cương. Ông nhắm mắt lại để tận hưởng vẻ dịu dàng của những cánh hoa và để nghe tiếng thì thào gió sớm. Khi ông mở mắt ra, gương mặt nàng đã trồi lên phía bên kia vườn, đối diện với ông. Nàng tươi tắn trong tấm áo chàm, cái nhìn êm ả trong vắt, gương mặt hồn hậu tinh khôi. Ông biết rằng đó chính là nàng, là nàng của ngày hôm nay, là nàng đã được giải thoát khỏi oán hờn hình nhục, là nàng của tuổi hai mươi, của mối tình bất tử, đang đợi chờ ông ở bên kia bờ dòng sông U tịch. Đợi chờ...

Ông cất tiếng:

"Giờ đây, ta nói với em, người đàn bà dịu dàng và khiêm ái, người vợ nồng nàn và rất đỗi thơ ngây, con chim oanh bé nhỏ của riêng ta. Sơn nữ ơi, ta chuẩn bị lên đường đi gặp nàng đây."
 

(Hết) ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG
 

www.geocities.ws/xoathantuong