TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (5)
 

Ngày hôm sau, mưa lại rơi sầm sập.

Thế là ý đồ lên nương làm cỏ sắn bị bãi bỏ. Người ta thở dài vì càng mưa, cỏ sẽ mọc càng dày, rễ đâm xuống nhanh như thổi, chẳng mấy nỗi chúng sẽ chọc ngang thân các củ sắn non. Sắn đã bị cỏ đâm, không hà thối thì cũng nhạt thếch hoặc ngai ngái đắng, chỉ dùng nuôi lợn chứ không thể làm thức ăn cho người. Tuy chẳng đáng bao tiền, nhưng công chăm bẵm cũng không ít. Vì thế, ai nấy đều sốt ruột, chẳng ai còn lòng dạ nào chơi bài hay rang ngô. Họ đành đội áo mưa ra nhổ cỏ vườn, không làm việc nọ phải làm việc kia, có phải dân ăn trắng mặc trơn đâu mà dám chơi mãi?

Qua ngọ, mưa tạnh hẳn. Cũng vừa xong bữa cơm trưa. Người ta đang ngồi uống nước, xỉa răng thì nghe còi ô tô toe toe ngoài đường thôn. Cái thứ tiếng động hiếm hoi này bình thường ra chỉ nghe thấy mỗi năm đôi lần. Vào tất niên ấy hẳn là tiếng xe của đội chèo lên diễn. Còn năm thì mười hoạ, ấy là tiếng xe của phái đoàn y tế về kiểm tra các loại bệnh nghiêm trọng như sốt rét rừng, viêm gan, bạch hầu, hoặc bệnh phụ khoa cho đám đàn bà, con gái. Với người dân Xóm Tiều phu, tiếng còi ô tô đồng nghĩa với một biến cố vui mừng, vì cùng với nó là sự xuất hiện của các nàng tiên môi son má phấn, váy áo long lanh rực rỡ dưới ánh đèn, hoặc sắc áo bờ-lu trắng của các bác sĩ. Theo thông lệ, cứ nghe tiếng còi, là mọi người ơi ới gọi nhau:

- Phái đoàn khám phụ khoa đã về...

Hoặc là:

- Hôm nay là phái đoàn tiêm phòng bạch hầu, các bà đã chuẩn bị cho trẻ con chưa?

- Hôm nay đội kế hoạch sinh sản sẽ làm việc. Nhà chị đã làm đơn trình bày và xin con dấu xã để tháo vòng hay chưa?

V... và... v... v...

Vì đã từ nhiều năm nay, mọi sự diễn ra theo một công thức không ngoại lệ nên buổi trưa hôm ấy, khi nghe tiếng còi, người ta ngơ ngác hỏi nhau:

- Quái lạ, đoàn nào nhỉ?

- Sao chẳng thấy ai phổ biến? Cả chủ tịch lẫn phó chủ tịch, cả bí thư phụ nữ lẫn bí thư thanh niên?

- Chẳng lẽ lại là chương trình bổ xung đặt vòng, triệt sản?

- Chương trình triệt sản tạm dừng rồi. Nghe nói trung ương đang bàn lại...

Tuy nhiên, dù có biết hay không biết đích xác tiếng còi xe ấy là của ai, người ta vẫn đổ ra xem, như xem một màn chèo, như xem một gánh xiếc rong, giống hệt những kẻ hiếu kì chốn thị thành thường xúm đông xúm đỏ xem một con điên xổng bệnh viện trần truồng khoe vú lẫn khoe mông trên hè phố. Trên con đường cát chạy xuyên qua ba thôn, một chiếc xe jep sơn màu cỏ úa, mui xe cũng là vải bạt màu cỏ úa, đang bò túc tắc như con cánh cam. Đường đã hẹp, lại khấp khểnh, gồ ghề. Xe lách chầy chật giữa hai rặng trúc, đôi lúc nhảy tâng tâng trên một khúc vòng, đôi lúc chúi đầu vào khe kẹt giữa hai vườn cây um rùm. Sau đó, nó buộc phải lùi lại, húc đít vào bờ đường đối diện rồi mới bẻ lái đi tiếp. Mặc dầu cuộc hành trình vất vả, trầy trật, chiếc Jep vẫn lùi lũi tiến thẳng đến thôn Thượng, kéo theo sau nó một đám trẻ chừng hai chục đứa, đứa nào đứa nấy toe toét cười, vừa chạy vừa nhẩy cẫng lên hò hét, mặc kệ lớp bụi mù mịt phả vào đầu vào mặt. Đến giữa thôn Thượng, người lái thò cổ ra hỏi dân đứng hai bên đường:

- Xin bà con cho biết nhà chủ tịch Quý?

Lúc ấy, người ta mới nhận ra chiếc xe này chở toàn công an, và người lái xe cũng là công an nghiêm chỉnh trong đồng phục. Một làn chớp nhạy bén lan truyền rất nhanh dọc theo đám dân thôn:

- Xe công an đến nhà chủ tịch Quý!...

- Từ hồi cải cách đến nay mới lại thấy xe công an về.

- Chắc chắn xe đến bắt cô Ngân lên tỉnh.

- Đúng, tỉnh mới có quyền xét xử. Có phải thời cải cách đâu mà cấp xã có quyền lập toà án? Thằng nào hôm qua tuyên bố chính quyền xã sẽ xét xử cô Ngân là nói láo.

- Xã trưởng công an chứ thằng nào.

- Xã trưởng mà nói thế cũng là nói láo. Cấp xã mà có quyền xét xử thì lại đầu rơi máu chảy, rồi lại sửa sai dăm bẩy lần.

- Thế sao hôm qua ông không lên tiếng? Tôi cũng thấy mặt ông trước cái nhà kho giam cô Ngân?

- Ăn có lời mời, cất nhời có người thỉnh... Đương nhiên nói trống không giữa trời hoạ có lũ điên.

- Thôi, lặng im mà xem. Họ tới nơi rồi kìa...

Dân làng đổ tới đứng nghẹt lối rẽ vào nhà Quý. Họ chờ đợi ông chủ tịch quay ra cùng với bốn anh công an tỉnh để đi tới nhà kho giam cô Ngân. Một số người không thể lách vào gần đã tranh thủ đi trước đến nhà kho để chờ lúc tội nhân bị dẫn lên xe, bởi đó chính là cảnh kích động trí tò mò cũng như lòng thương cảm.

Chừng hai mươi phút sau mới thấy tốp công an quay ra cùng chủ tịch Quý. Nhưng ông chủ tịch không có chút mẽ nào của kẻ cầm quyền. Những người đứng xa thì thấy anh ta cúi đầu đi cung cúc, mặt không còn chút máu. Đến cửa xe, anh ta leo lên, chui tọt vào trong, ngồi nép tận góc xe để khỏi nhìn thấy ai và cũng không bị ai dòm ngó. Những người đứng gần nhìn rõ mồ hôi toát đầm đìa từ trán lẫn hai thái dương Quý chảy dọc theo gương mặt dài và nhọn, loang xuống tận cằm. Họ còn nhìn rõ hai bàn tay anh ta run như giẽ, cặp môi trắng bợt như môi kẻ sốt rét kinh niên cũng run đến nỗi không thể mím lại được, và cặp mắt sâu tối như hũ nút của anh ta bỗng nhiên bạc hết màu. Tất thảy vẻ lạ lùng ấy khiến đám đông nín thở. Linh cảm mách bảo cho họ điều gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra. Khi chiếc xe quay bánh để tiến về phía nhà kho, dân đứng dạt sang hai bên đường, không ai nói với ai một lời. Rồi khi xe rời bánh, họ lặng lẽ bám theo xe mà đi, giống một đám đưa tang hơn là đám đông hiếu kì tìm cách thoả mãn cơn tò mò bệnh hoạn.

Chiếc jep dừng lại trước kho, tốp công an nhẩy xuống trước rồi mới đến Quý. Anh ta bước lên để mở ổ khoá, nhưng loay hoay mãi không làm nổi khiến cho một người trong số bốn công an phải giằng chùm khoá và tự tay mở ra. Hai công an khác tiến vào trong gian nhà tạm giam để một phút sau đó quay trở ra cùng với cô vợ trẻ của ông Quảng, mặt đầy những mụn đỏ vì muỗi đốt. Người cuối cùng, ắt hẳn là sĩ quan lãnh đạo nhóm, quay lại hỏi Quý:

- Anh còn muốn nói gì nữa không?

Không thấy Quý trả lời.

Người công an đã mở khoá gian nhà kho giờ rút từ trong túi quần ra một chiếc còng số tám, mở còng và chìa ra trước mặt Quý, không nói thêm một lời. Quý cũng không nói một lời, im lặng như xác chết, anh ta đưa hai bàn tay vào ổ còng, trước vẻ kinh ngạc sững sờ của tất thảy dân chúng, kể cả cô Ngân.

Người sĩ quan lúc đó đưa mắt nhìn nạn nhân vừa được giải phóng:

- Chị có cần chúng tôi đưa về tận nhà hay không?

- Dạ...

Cô Ngân đáp một cách máy móc, dường như chưa kịp hiểu người ta hỏi gì. Anh công an nhắc lại, giọng nhẹ nhàng hơn:

- Chị có thể tự trở về với gia đình hay muốn chúng tôi đưa chị về?

- A... Không... Em có thể đi về được... Cảm ơn các anh.

- Vậy thì chào chị, và chúc chị mau trở lại cuộc sống bình thường.

Anh ta nói, với giọng trầm tĩnh nhưng không che giấu nổi mối thiện cảm tự nhiên mà bất cứ người đàn ông nào cũng nảy sinh khi đứng trước một người đàn bà đẹp.

- Vâng, em xin chào các anh, và cảm ơn các anh.

Cô Ngân đáp. Vẻ linh hoạt đã bắt đầu trở lại.

Tốp công an áp giải Quý lên xe. Rồi chiếc xe lăn bánh. Dân Xóm Tiều phu đứng như đám phỗng nhìn theo. Họ cứ đứng như vậy cho đến khi đám bụi đã hoàn toàn lắng và tiếng động cơ không còn nghe thấy nữa. Rồi một bà nào đó chợt lên tiếng:

- Khổ thân cô, muỗi đốt chi chít như cám thế này. Ấy là mới chỉ một đêm. Cái đận cải cách ruộng đất, chị tôi còn bị giam đến mấy tháng.

- Kể làm gì thời cải cách, người biến thành quỷ, quỷ đội lốt người hiện hình.
 

***
 

Ngay đêm hôm ấy, ông Quảng về làng.

Những người láng giềng gần nhất nghe cô vợ trẻ gào lên như đứa trẻ bị đòn khi ra mở cổng:

- Trời đất ơi, anh đi đâu để cho con anh hành hạ tôi như thế?

- Tôi có tội tình gì mà phải chịu đoạ đầy, sỉ nhục như con điếm? Chỉ vì yêu thương anh, làm vợ anh mới nên nông nỗi này đây...

Không ai nghe thấy tiếng ông chồng, kể cả những kẻ thính tai nhất. Họ cũng không thấy bếp đỏ lửa nên đoán rằng ông Quảng đã liệu thân ăn quàng ăn quấy dọc đường vì chắc mẩm cô vợ giận dỗi không thèm nấu cơm. Nghe ngóng mãi chẳng thấy gì láng giềng cũng đành đi ngủ, lòng dạ đầy ắp những nôn nao sau hai ngày đầy sự biến.

Qua nửa đêm, trời se lạnh và tràn ngập sương mù. Từ đỉnh Lan Vu, sương trôi xuống các tầng núi thấp. Rồi từ các giải núi ấy, sương lan toả khắp các miền đồi, sương trôi xuống các khu vườn; la đà cuộc rong chơi trắng ngát trên những nương chè, nương sắn, và sau rốt, những đồng lúa. Trong màn sương trắng mịt mùng, giấc ngủ trở nên sâu thẳm. Tiếng gà gáy báo canh nghe chừng cũng rụt rè, dấp dính như ngái ngủ. Và bóng đêm vùng cận sơn thường nhử đến những giấc mơ lạ lùng. Khoảng ba giờ sáng, thằng cu Hoà ở thôn Trung tung chăn vùng dậy chạy khắp nhà, vừa chạy vừa kêu như lợn bị chọc tiết. Bố mẹ nó phải giữ chặt tay chân đứa con trai, đổ nước gừng nóng cho nó tỉnh. Mở mắt được rồi, cu Hoà khóc mếu đòi thắp đèn sáng trưng từ trong nhà ra ngoài sân, rồi ngủ ngồi trên ghế. Cứ tắt đèn, nó lại bừng mắt dậy kêu thét lên. Người nhà đành phải để đèn sáng như thế suốt đêm, khi hửng mặt trời mới dám tắt. Thằng bé ngủ cho đến tận trưa mới dậy, bấy giờ mặt trời đúng ngọ chói chang, cu Hoà kể lại giấc mơ hãi hùng của nó. Trong mơ, nó nhìn thấy một con trăn khổng lồ nhưng có vây như cá, có móng như rồng, có đuôi chẻ như đuôi rết, có lưỡi dài như lưỡi chó ngao, có mào thịt giống như mào chim vẹt. Con vật khổng lồ từ dưới vực trườn lên, nằm dài trên dãy núi Trúc. Khi nó há mồm ra ngáp, con trâu đực có thể rơi thỏm vào bên trong. Một cái miệng đỏ rực màu máu, trong khi toàn thân con vật lại đen, vằn vện những sọc dài màu xanh lục chen màu vàng ốc. Những chiếc vây của nó cứng như tạc bằng than vỉa, có hình dạng từa tựa như vây kì đà. Con vật khổng lồ trườn từ dãy núi Trúc sang các giải núi Cườm xanh, Cườm vàng. Khi bò, đuôi nó quật sang hai bên khiến cây rừng đổ rạp như phải bão. Qua mấy giải núi, con vật phóng lên đỉnh Lan Vu. Nhưng nửa chừng, nó bất thần dừng lại, rống lên đau đớn. Cái bụng khổng lồ của nó trồi sụt, phập phồng như sóng biển, có thể nhìn rõ những chuyển động của một con thú đang quẫy đạp, nhào lộn bên trong. Con vật mẹ quằn quại, vật vã, mắt lồi lên như sắp bật ra khỏi mí, mũi phả ra từng luồng hơi nóng rực, mồm khạc ra từng tràng tiếng kêu ầm ầm như tiếng sấm. Rồi qua một hồi lồng lộn vì đau đớn, bụng nó từ từ nứt toác, một kẽ nứt dài, sâu hoắm, không vết máu mà chỉ chảy ra một chất nhựa đen, đặc như mủ cây. Từ trong kẽ nứt ấy, lộ ra một cái đầu y hệt như đầu con mẹ, cùng hình dáng, cùng màu sắc, cùng cả vẻ hung dữ của đôi mắt lồi, cùng cả màu đỏ như son của chiếc mào thịt khổng lồ giống như mào vẹt. Cái đầu thứ hai lớn lên vùn vụt, tựa hồ một trái bóng được thổi, chỉ trong phút chốc nó đã lớn ngang đầu con vật mẹ và vươn ra khúc thân bóng nhẫy, với những vằn dài màu vàng đất và màu xanh. Khi đã vươn đủ chiều dài để sánh ngang tầm với con vật mẹ, chiếc đầu quái vật thứ hai này gầm một tiếng hung tợn, táp vào đầu con mẹ một cú dữ dội khiến cho con vật mẹ bị thương. Từ vết thương ấy, máu phun lên đặc như mủ cây, tím như nước mận. Con vật mẹ vươn cổ lên gầm thét, và cuộc giao tranh bắt đầu. Cu Hoà đứng ngay dưới chân núi Lan Vu, đúng khoảnh đồi ngày thường nó vẫn chơi đá cầu với lũ bạn. Hai con vật cắn xé nhau ngay trên đầu nó khiến nó sợ những chiếc vuốt khổng lồ kia chà nát khoảnh đồi mà nó chỉ nhỉnh hơn con cáo ở bên trong. Nó tháo chạy nhưng không chạy nổi. Xung quanh khu đồi bỗng nhiên mọc dựng lên những bức tường kết bằng các loại gai nhọn và dây leo. Thoạt tiên là những búi cây lúp xúp cao không quá đầu gối. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, những búi gai nảy nở như loài tảo, vươn lên ngang đầu người lớn, cành nọ đan xen, kết nối với cành kia. Và cùng lúc, các loài dây leo bất thần từ các xó đất vươn lên ngàn ngàn chiếc vòi xanh đầy lông, cuốn chằng chịt quanh những búi gai khiến cho những bức tường xanh trở nên kín đặc, con mèo cũng không chui lọt. Cu Hoà nhìn kĩ lại, và nó chợt nhận ra khắp bốn bề, nhan nhản các loài gai độc lẫn lá han. Những thứ gai nhọn chỉ cần chích vào da là da lên mủ, còn lá han là thứ lá hễ chạm vào là người sẽ phỏng rộp lên như bị bệnh đậu mùa. Tuyệt vọng, nó la thét kêu cha gọi mẹ. Không một ai nghe thấy tiếng kêu cứu của nó. Nhưng điều kinh khủng hơn là chính lúc ấy bụng nó bắt đầu chuyển động. Nó cúi nhìn xuống, thất kinh vì thấy bụng nó cũng trồi lên trụt xuống, dập dờn như sóng cuộn, hoàn toàn giống bụng con quái vật mà nó vừa chứng kiến. Nó mường tượng rằng bụng mình sẽ nứt làm đôi, từ trong đó sẽ nhô ra một cái đầu giống hệt như đầu của nó; cũng cái cằm chẻ, cũng đôi mắt xếch, cũng cái mũi hếch, và cũng gọi tên là cu Hoà... Rồi cái thằng Hoà thứ hai kia sẽ quay lại cắn cổ nó giống như con quái vật trên núi, và cuộc giao tranh ắt phải xảy ra... Nỗi sợ hãi khiến nó hồn xiêu, phách lạc, chạy cuống chạy cuồng, tìm lối thoát. Chính trong cơn sợ hãi ấy, nó biến thành kẻ mộng du...

Thằng cu Hoà từ bữa đó không dám ngủ với các em cho dù nó là con trưởng và đã mười một tuổi. Bố mẹ nó đành cho nó ngủ chung, nằm giữa. Thêm nữa, suốt đêm, họ phải để ngọn đèn hoa-kì trong góc phòng. Láng giềng tò mò hỏi chuyện chăn gối ra sao thì cả hai người đều phải thú nhận rằng những đêm nóng máy họ phải chờ cho nó ngủ thật say, khêu to đèn cho buồng thật sáng, rồi mới khẽ khàng ôm chăn chiếu xuống nhà ngang" hoạt động cách mạng"...

Người dân quê vốn coi những giấc mơ là điềm báo trước của trời đất hoặc lời đe doạ của quỷ thần. Có giấc mơ báo điềm lành, có giấc mơ báo điềm dữ. Sau các giấc mơ dữ thường xảy ra thiên tai hay địa hoạ. Rồi chúng sinh sẽ phải khốn đốn long đong trong một thời gian dài. Không hiểu ngẫu nhiên hay các đấng thần linh cố ý răn dạy loài người mà giấc mơ mẫu tử giao tranh lại xảy ra ngay sau câu chuyện nhà ông Quảng. Thế là khắp ba thôn, dân Xóm Tiều phu nháo nhác cả ngày lẫn đêm. Có lẽ chỉ trước khi bước vào giấc ngủ là con người có thể nằm bình tĩnh vắt tay lên trán để tự mình suy ngẫm về chuyện đời, còn từ lúc mặt trời lên cho đến lúc tối mịt, dân xã chuyện trò, đấu khẩu, thậm chí cãi nhau kịch liệt xung quanh sự cố này. Trước hết là các buổi làm cỏ sắn. Từng nhóm mang theo ấm nước chè đại để uống chung. Còn đàn ông, phải có ống điếu với bịch thuốc lào; đàn bà con gái có kẹo lạc, kẹo vừng; các bà già có túi trầu têm sẵn. Tối đến, người ta lại túm năm tụm ba, nhưng bây giờ, không phải ở sân nhà ông Quảng cũng không ở sân nhà cô Vui, những người được coi là các nhân vật chính trong "tấn tuồng thế sự". Bởi vào đêm ông Quảng trở về, cô Vui cũng trở về. Hai hôm sau, đảng uỷ xã họp dưới sự chỉ đạo của bí thư huyện uỷ. Chủ tịch Quý đang ngồi trong nhà giam tỉnh, chờ xét xử vì tội:

"Lạm dụng quyền chức, bắt giam người vô tội..."

Nhìn rõ trăm phần trăm là Quý sẽ mất tuột cả chức tước chính quyền lẫn bên đảng. Hơn nữa, anh ta sẽ bị khai trừ không bảo lưu. Như thế, đảng bộ Xóm Tiều phu phải họp cấp tốc để bầu chủ tịch và phó bí thư mới. Một khi đảng bộ đã quyết, dân chúng cứ việc theo đó mà bỏ phiếu hoặc giơ tay. Trong cuộc họp này, bí thư huyện uỷ đã tuyên bố thẳng thừng rằng bí thư chi đoàn Nguyễn thị Vui đã đóng vai trò xuất sắc trong việc bảo vệ uy tín đảng. Nhờ tinh thần nghiêm khắc của đồng chí Vui trước những hành động lạm dụng quyền lực, trấn áp công dân vô tội của chính quyền xã, mà huyện uỷ đã kịp thời can thiệp, với thời gian nhanh nhất, ngăn chặn những tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra. Do đó, huyện uỷ đánh giá rất cao tinh thần trách nhiệm và năng lực điều hành của bí thư chi đoàn, coi như người đảng viên ưu tú nhất, người cán bộ có triển vọng nhất của xã...

Với ngần ấy lời biểu dương của con người quyền lực nhất huyện, đương nhiên cô Vui tức khắc trở thành chủ tịch xã kiêm phó bí thư, trước sự vỗ tay nhiệt liệt và sự hoan hỉ nhiệt liệt của các đảng viên rồi tiếp theo đó là toàn thể dân cư. Sau lễ nhậm chức, có một cuộc liên hoan linh đình. Hợp tác cho phép ngả thịt ba con bò vừa lành vừa què, vì lẽ từ xửa từ xưa, dân Xóm Tiều phu không coi trọng những mâm cỗ chỉ có hai con vật. Cỗ đáng kể chắc chắn ngoài gà, lợn phải có thịt bò. Vào những dịp trọng đại như thế này, chính sách tiết kiệm của nhà nước đành phải cúi mặt giả điếc, giả câm trước truyền thống sâu xa, dài rộng của đám dân thích "khoái khẩu". Ba món được tán thưởng nhất là bò luộc chấm tương gừng, giò bò cuốn tiêu và bò quấn mỡ chài nướng. Khi hàng trăm mâm cỗ đã bày la liệt trong hội trường cũng như ngoài sân, mùi rượu bốc hơi hoà cùng mùi lợn quay, bò nướng thì bầu không khí hứng khởi, say sưa khiến mọi người quên hẳn xuất xứ cuộc liên hoan. Họ cũng không để ý rằng ông Quảng, cô Ngân và bà Tư móm vắng mặt trong suốt hai ngày hội họp lẫn nhậu nhẹt... Vào lúc chén chú chén anh, chén tôi chén bác, chẳng ai dại gì đụng chạm tới những chuyện dễ làm mếch lòng người khác và bản thân họ phải đau đầu. Nhưng tiệc vui mấy cũng có lúc tàn, huống chi đây lại là tiệc mừng cô Vui nhậm chức chứ không phải tiệc mừng thọ cha mẹ, hoặc tiệc mừng con cháu thi đỗ đại học. Người dân Xóm Tiều phu đầy đủ lý do để ngoảnh mặt lại nhìn "cô Vui chủ tịch" với con mắt hà khắc sau khi cô đã nhận đủ các thứ thủ tục bàn giao quyền lực, và nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế xưa nay cậu Quý vẫn ngồi. Vả chăng vào lúc ấy, các món lợn quay, bò nướng lá sả mỡ chài cũng đã tiêu thành phân bón. Thế là, chỉ dăm bẩy ngày sau, khắp các nương sắn, đồi chè; dân chúng đem câu chuyện "Con gái già Lộn Rồng" ra chỉ trích.

Theo lược thuật, Quý đã lấy trộm được một tờ lệnh bắt gái mại dâm ở nhà ông anh họ, con cô con cậu về đằng ngoại. Anh này đang là phó phòng điều tra xét hỏi thuộc sở công an tỉnh. Đấy là tờ lệnh cũ, xếp trong đống tài liệu chờ bỏ vào kho bảo lưu. Những mớ tài liệu bảo lưu này, nếu không cần dùng cho một vụ khiếu kiện ở cấp cao hơn, hoặc một cuộc điều tra chính ngạch, sẽ bị huỷ bỏ hai mươi lăm năm sau. Người anh họ kia hoàn toàn không nghi ngờ gì cậu em chủ tịch xã nên đã để Quý ngồi chờ trong phòng mà đi mua bia và đồ nhắm về thết khách. Ăn cắp được tờ lệnh này, Quý đã dùng hoá chất tẩy xoá tên bị can cùng ngày tháng cũ, điền tên cô Ngân và niên hạn mới cho phù hợp. Như thế, trưởng công an xã không hồ nghi gì khi đọc tờ lệnh trên, với con dấu sở công an tỉnh và chữ kí của cán bộ phòng điều tra xét hỏi. Thêm nữa, vốn là cánh hẩu cùng nhau làm việc từ nhiều năm nay, anh ta sẵn sàng thực hiện một cách hăng hái tất thảy những gì Quý yêu cầu. Do đó mà có cả một tiểu đội du kích ập đến nhà ông Quảng, bắt kẻ "chuyên lừa đảo đàn ông, phá hoại thuần phong mỹ tục" tên gọi thị Ngân. Vào chính buổi trưa xảy ra sự việc này, cô Vui tức khắc cưỡi xe đạp xuống tỉnh báo tin cho ông Quảng. Phần tiếp sau đấy, là những gì đã xảy ra mồn một trước mắt tất thảy mọi người... Không cần thêm lời chú giải.

Dân quê vốn ghét những kẻ mưu cao kế hiểm, cho dù chính họ cũng luôn luôn dùng mẹo vặt để kiếm chác những mối lợi cho mình. Đối với họ, kẻ cao mưu luôn luôn là một sức mạnh đen tối có thể tàn phá không chỉ một cá nhân mà là cả một gia đình, đôi khi cả một làng, một xã... Kẻ mưu cao kế hiểm cũng giống như phù thuỷ thời trước, hạng quái nhân dùng bùa phép khiến người ta phải mê mụ đi mà yêu, mà ghét, mà thù, mà làm tất thảy những hành vi ngu ngốc hoặc điên rồ phi nhân tính. Nếu kẻ cao mưu lại là một người đàn bà thì sự kinh sợ và lòng thù ghét sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Bởi người đàn bà sinh ra với hai vú, hai mông. Hai vú là để nuôi con, hai mông là để làm sung sướng đức ông chồng. Đàn bà không nên làm điều gì trái với những thiên chức mà đất trời đã giao phó cho họ. Một người đàn bà nhảy lên cái ghế của các ông chánh tổng, lý trưởng cũ đã là sự nghịch mắt. Nhưng cái con triện này lại nắm được sau khi dính dấp vào một vụ mưu phản, một cuộc đánh tráo cơ hội là thứ quyền lực chịu nhiều sự phỉ báng nhất, nói theo ngôn ngữ cổ:

"Là thứ danh mà chán vạn người nhổ bọt lên trên".

Như thế, nếu cô Vui đủ thông minh, hẳn cô cũng có thể đoán được người ta bình phẩm ra sao sau lưng mình. Nhưng may thay, mọi trí thông minh đều bị giới hạn, và cô con gái ông Đô đang ngây ngất vì hạnh phúc của kẻ cầm quyền, còn chú tâm lo xây tổ, kết bè kết cánh, củng cố chiếc ghế chủ tịch xã... Công việc ấy khiến cô không còn đủ thời gian cũng như sự bận tâm để tìm hiểu những phẩm bình của dân chúng, đám người đang ra sức đào bới những bí ẩn trong con tim cô như những nhà lập pháp đào bới một thây ma để làm rõ một cái chết mờ ám. Cuộc điều tra có tính cách "pháp lý nhân dân" cũng giống như tất thảy những sự kiện có tính "toàn dân" khác, phổ cập một cách triệt để. Già trẻ, lớn bé, gái trai đều tham dự, mặc dầu những người chính thức nhảy vào cuộc đối thoại chỉ thuần kẻ mày râu:

- Các ông có thấy chúng mình già đời mà ngu dại hay không?...Cả lũ cả đàn xóm trên xóm dưới đến kéo nhà nó nghe chuyện vợ chồng ông Quảng như đám trẻ đi xem đèn kéo quân mà không biết vì sao nó lại nhiệt tình chào đón đến như vậy.

- Thì ai biết... Tưởng nó mới nổi lên giàu nên thích làm sang, thích sánh vai Mạnh Thường Quân, ganh đua với ông Quảng.

- Xì... xì... Con ấy làm sao mà rộng lòng, hởi dạ được. Bữa trước con cháu nội của tôi bị sốt, tưa lưỡi. Nhà hết mật chạy sang xin, nó cho được đúng hai thìa.

- Ông nói điêu... Ai mà dám giơ tay cho xóm giềng hai thìa mật?

- Cái chén hạt mít đựng mật hãy còn ở trên tủ nhà tôi, chốc nữa ông sang mà xem.

- Có thế thật. Cô ấy bỗng dưng trở nên hào phóng cũng vì muốn lấy lòng chòm xóm, nhưng cũng còn vì muốn mượn dư luận triệt hạ kẻ địch tình. Chẳng phải tự nhiên công cốc bỏ của bỏ tiền ra, thuê xe về tận làng Khoai điều tra tình cảnh một con đàn bà khác. Nếu là kẻ dưng không ai điên rồ làm như thế.

- Vậy mà hồi đó cứ nghĩ đơn giản là cô ta nghe lệnh cậu Quý.

- Lệnh chủ tịch chẳng to được đến thế nếu không có sự thúc hối tự tâm can.

- Đúng thật, giờ nhớ lại mới thấy mình có mắt như mù. Chính tôi đứng sát cô ta ngày đám tang bà Quảng. Chính tôi thấy cô ta lên thắp hương ba lượt, vái những ba lần.

- Vái ba lần để vong hồn bà ấy ưng thuận cho bước lên giường hợp hôn với ông chồng goá bụa. Còn xóm giềng lẫn người trong họ, ai cũng chỉ một lượt vái là phải phép.

- Rõ rành rành mà chẳng ai để ý, cô ta kín võ thật.

- Cũng chẳng kín võ, nhưng vì chúng ta bị ma che mắt nên chẳng nhìn ra. Tôi đoán chừng là ông Đô phù trợ để cô gái yêu lấy được tấm chồng, hoạ may kiếm được tí cháu. Ngoại tam tuần rồi còn đâu thời gian mà ngóng đợi?

- Tôi không tin chuyện ma che mắt, nhưng tôi cho rằng chúng ta là những kẻ vô tâm. Còn cô gái già này mới chính là con người mưu lược. Ngẫm đi nghĩ lại mới thấy cô ta chọn ông Quảng mà tấn công là hoàn toàn chính xác. Trong xã này, ông ấy là người thạo đời nhất, ăn cơm thiên hạ bao nhiêu năm trường, đã giàu lại to gan. Phi ông ấy ra, ai dám mó đến cô ta?

- Đích thị như vậy. Nhưng khéo tính cũng chẳng lại với trời. Trời không cho thì trăm mưu nghìn kế cũng bằng không. Thế gian có câu "may hơn khôn" là vì thế.

- Miếng ăn ngỡ đến miệng lại bị rơi nên mới theo thằng Quý trả thù. Cô ta tưởng chắc chắn sẽ bước chân lên cái giường gỗ lim của bà Quảng. Chẳng gì cũng có cơ ngơi toà ngang toà dọc, anh tám lạng, ả nửa cân, nào kém cạnh nhau? Không ngờ có con đàn bà ở tít tắp mù khơi nó bay vèo đến như con chim yến, đậu đúng cành soan của người trong mộng. Thế là tan cuộc.

- Đoạn này chính cô ta vụng tính. Thằng đàn ông đáng mặt quân tử không thèm ngó đến của nả nhà vợ. Chỉ bọn đào mỏ mới nghĩ đến túi tiền. "Trai anh hùng, gái thuyền quyên" bậc chính nhân chuộng dung nhan, ngôn hạnh.

- Chí phải, ông Quảng thiếu gì tiền mà phải tìm một con đàn bà giàu có? Ông ta bê một đứa xinh đẹp như tiên, tươi trẻ nõn nà, da thịt thơm phưng phức. Tuổi sáu mươi được như thế chết cũng không còn chi hối tiếc.

- Kết luận lại là cô gái già vụng tính.

- Đừng vội kết luận. Dẫu vụng tính nhưng nó giỏi xoay. Cái đầu nó lắm mưu hơn toàn thể những cái đầu chứa rặt bã đậu của lũ chúng ta cộng lại. Tôi đố các ông xoay chuyển tình thế giỏi như nó. Đang từ phe cậu Quý, nó nhảy một phát thành đồng minh của ông Quảng. Người ta bảo "đục nước béo cò" chính là thế này đây.

- Phải công nhận là con đàn bà này khiếp đảm. Ông Quảng kín võ như bưng vậy mà nó biết được thế ông ấy mạnh như chẻ tre, trùm từ huyện đến tỉnh. Ắt hẳn nó phải có tay trong, họ hàng thân thiết ngồi ở đám cầm quyền. Một con đàn bà đang từ Hán chạy sang Hồ, bỏ Tần sang Sở nhanh như lật bàn tay thế cũng đáng gờm mặt.

- Không tóm được củ khoai của ông Quảng thì lại nắm được con triện uỷ ban xã, giờ nó là con đàn bà quyền hành nhất hạng, đứng trên đầu hơn hai ngàn dân Xóm Tiều phu này. Thế chẳng phải là nó thắng một ván to hay sao?

- Thắng ván to thật. Chuyện này không ai dám chối cãi. Nhưng tôi xin hỏi các ông, cái đầu nó lắm mưu thế thì con ba ba của nó có sỏi bên trong không nhỉ?

- Có... Chắc chắn là có. Hôm nào nó đi qua các ông cứ thử lắng tai nghe xem, hai hàng sỏi đóng hai bên cái hẽm của nó cọ vào nhau leng keng, lục cục.

- Ông chết nhá. Tối nay tôi về bảo bà ấy là ông chuyên nghiêng đầu giỏng tai nghe con ba ba của cái Vui gióng chuông. Bà ấy véo đứt tai ông là cầm chắc.

- Ôi dào, mách vợ tôi chuyện ấy cũng bằng thừa. Nó biết rằng chỉ nhìn thấy con gái già này là bộ sậu của tôi đã héo rũ lại, kim đồng hồ chỉ số sáu ngay lập tức.

- Cũng tội nghiệp cho cô em, quyền cao chức trọng, nhà to sân lớn thật nhưng con ba ba để mốc thếch, khéo bây giờ gõ kêu công cốc như mõ chùa.

- Láo, sao ông dám ví von thế hả? Bậy bạ, các cụ vả cho sưng mõm lên bây giờ.

- Ôi xin các ngài đại xá, chúng con vui miệng lỡ mồm...

- Lặng im. Tôi có một câu đố dành cho các ông, kể cả các bà các cô nữa, nếu muốn tham dự. Đố rằng từ giờ trở đi vườn nhà cô chủ tịch Vui sẽ trồng loại cây nào?

- Sao ông hỏi oái oăm như thế?...Ai ngồi trong óc nó mà biết được?

- Thế mà tôi biết đấy, các ông đánh cược cái gì tôi nói cho mà nghe.

- Đồng ý, một bữa rượu với cá rô rán.

- Bủn xỉn thế, không thèm.

- Thêm bữa rượu thứ hai với gà mái tơ hấp, chấm muối lá chanh.

- Chưa đủ.

- Bữa thứ ba với bún lòng mắm tôm, mùi tàu, húng quế.

- Tôi chấp nhận. Giờ, các ông giỏng tai lên mà nghe: Từ nay về sau cô chủ tịch xã của chúng ta sẽ nhổ sạch các loài cây hiện có trong vườn mà chỉ trồng toàn chuối ngốc. Loài chuối ngốc này phải lấy giống tận dưới tỉnh Hưng-yên, còn có tên gọi là chuối tăng sản, hoặc chuối triển lãm, mỗi quả nặng từ nửa cân tới bảy lạng tây, to hơn cái chày giã cua của các bà nội trợ...

Các bà các cô lập tức rú lên như bị rết cắn, hoặc bị dội nước sôi:

- Phải gió cái nhà ông này...

- Đồ đàn ông đểu cáng... Đồ chết giẫm...

- Đồ quỷ, đồ trời đánh thánh vật...

Rồi họ cười lăn cười lộn, cười ngả cười nghiêng, cười rú lên từng hồi như điên, cười đến bật cơn ho sằng sặc như mắc chứng ho gà, cười đến chảy nước mắt nước mũi... Như thế, đoạn kết của tất thảy những cuộc bình phẩm bao giờ cũng vẫn là những câu chuyện tưởng tượng lạ lùng và tục tĩu, nơi trí tưởng tượng của người nông dân được xài hết công xuất để dồn trút những ẩn ức trong tâm hồn họ và để bắn loạt đạn hành hình vào kẻ nào đó bị buộc vào cây cọc trước một pháp đình xưa cổ và miên viễn.

Nhưng những câu chuyện vừa nghiêm chỉnh vừa cợt nhả về người đàn bà quyền lực cũng chính là một lối trả thù. Lối trả thù vô thức, xưa cũ như trái đất. Khi một cơn chấn động tinh thần tập thể xảy ra, người ta phải tìm phương thức giải cứu để có thể tìm lại sự cân bằng, để củng cố niềm tin vào bản thể, và sau rốt, để biện minh cho cuộc sống tương lai. Cách tiện lợi nhất là tìm vật hiến dâng một vị thần vô hình vô ảnh, một đấng linh thiêng tối cao đầy quyền năng đủ bùa phép hoá giải mọi tai ương. Người xưa từng bắt những cô gái đẹp nhất vùng ném xuống vụng biển để làm vừa lòng Hải long vương với những tên gọi Thanh long vương, Bạch long vương hay Hắc long vương tuỳ theo vùng biển các vị thần trấn ải. Người Xóm Tiều phu giờ đây không thể bắt con cháu họ ném xuống vực sâu để tế sơn thần nên họ phải tìm cách mang lên dàn hoả thiêu của dư luận một kẻ khả nghi nhất về tư cách. Trong trường hợp này, không có vật thí mạng nào thích đáng hơn cô chủ tịch vừa nhậm chức Nguyễn thị Vui. Giấc mơ của đứa bé thôn Trung thổi một cơn bão khắp vùng, nhưng trước hết là dân trong xã. Một con quái vật khổng lồ giao tranh cùng đứa con vừa chui ra từ lòng nó. Phải chăng đó là hình ảnh biểu trưng cho nỗi bất hạnh mà người ta sợ hãi nhất trên đời: sự vô phúc, sự vô đức, sự bất nhân.

Bất cứ một gia đình nào, dẫu sang hay hèn, giầu hay nghèo cũng đều xem mối quan hệ giữa các thế hệ là nền tảng vững chắc nhất của một dòng tộc. Không có tiền thì không sống được. Cảnh bần hàn là một thứ địa ngục dưới ánh mặt trời, không ngạ quỷ cũng chẳng có lò thiêu nhưng nung nấu con người trong đau khổ. Tuy nhiên, nếu rương hom đầy tiền bạc, mà vợ chồng đánh lộn, anh em vác dao chém nhau để tranh giành phần hơn phần kém thì sự giàu sang ấy cũng được coi là một thứ địa ngục thứ hai. Một địa ngục không kém phần kinh hãi. Tình mẫu tử cũng như tình phụ tử xưa nay vốn được coi như thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cõi người. Từ thuở đứa bé lọt lòng, người ta đã hát ru:

" Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra."

Câu hát bên nôi ấy sẽ còn lặp đi lặp lại như một điệp khúc bất tận qua suốt tuổi thơ sang đến tuổi trưởng thành. Rồi khi đứa bé ấy đã trở thành một chàng trai hay một cô gái, trong hôn lễ, ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời, họ phải quỳ lậy những người đã sinh thành và nuôi dưỡng họ ngay trước bàn thờ gia tiên. Nghi thức ấy biểu lộ sự tôn kính và lòng biết ơn. Nghi thức ấy cũng là lời cam kết của tình hiếu đễ. Thời cuộc đổi thay, các đám cưới dưới chính quyền cách mạng không trầu cau, cũng chẳng còn pháo hồng, khăn lụa. Trai gái vừa liếc mắt đưa tình tối hôm trước, sáng hôm sau đã báo cáo đoàn thể, đảng, đoàn, hay ban phụ nữ xã. Cha mẹ chưa kịp cất nhời, họ đã kéo nhau ra uỷ ban cộp con dấu vào tờ khai giá thú. Mực vừa ráo, tức khắc các đoàn thể đứng lên tuyên bố, diễn ngôn, khuyên nhủ các cặp tân hôn phải đoàn kết, chăm chỉ lao động, hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước và gia đình. Sau đó, là kẹo lạc nước chè xanh thay cho cỗ lớn, cỗ nhỏ; những tràng vỗ tay thay cho pháo hồng, khăn lụa. Người ta phải cúi đầu khuất phục quyền lực thế tục. Nhưng những cuộc phục thù rình nép trong bóng tối của lặng câm. Và vào thời điểm cho phép, chúng ắt xảy ra.

Như thế, giấc mơ của đứa bé thôn Trung dội vào tâm hồn những người dân cơn bão của sợ hãi và phẫn nộ. Ngoại trừ những kẻ mất trí, chẳng ai muốn có một đứa con quay cổ lại đâm dao găm vào lưng mình. Người làm cha làm mẹ thường hy sinh không tiếc thân cho các con được ăn, được học, được trở thành một "ông nọ bà kia" hơn hẳn chính họ. Người ta vẫn được dạy dỗ từ bao đời: chỉ lợn mẹ mới táp lợn con, chỉ chó mẹ mới tranh ăn với chó con, loài người không thể hành xử như vậy. Khi đã hy sinh như thế, ắt hẳn họ tự cho phép mình quyền được đòi hỏi nơi những đứa con lòng hiếu đễ. Lô-gic thường hằng của đạo lý lại luôn luôn bị dập vùi bởi một hiện thực phũ phàng. Giấc mơ tình nghĩa vốn dĩ mênh mông như biển khơi, nhưng hiện thực của lòng nhân ái, của sự quên mình chỉ là những dòng sông mảnh mai, những con kênh hẹp. Tự muôn đời, cuộc sống trôi đi như dòng nước, giữa hai bờ của hy vọng và thất vọng, của lòng tin với sự mất lòng tin, yêu thương và oán hận... Giống như trái đất quay giữa mặt trời và mặt trăng, một sự luân chuyển không ngưng nghỉ, một đổi dời bất tận, một xoay vần miên viễn cho đến ngày vũ trụ trở thành đám tro của hỗn mang, trong cuộc trở về cuối cùng. Bởi quy luật của sự luân chuyển không mệt mỏi này, người ta phải cứu vớt niềm tin của chính mình vào những thời khắc hiểm nguy nhất. Không còn niềm tin thì chẳng còn cuộc sống, cho dù là một niềm tin rồ dại. Người dân quê cần phải bảo vệ mái nhà của mình, họ cần tin rằng con cái sẽ biết ơn sự hy sinh của họ, rằng chúng sẽ trở thành những đứa con hiếu đễ để xứng đáng với tất thảy những lao khó, nhọc nhằn,những hy sinh, tận tuỵ trong ngần ấy tháng năm. Họ cần được bảo đảm rằng một mai đây, khi họ nằm trong quan tài, những đứa con đi sau linh cữu sẽ nhỏ những giọt lệ chân thành vì tiếc thương chứ không phải vì chúng cần diễn màn kịch để che mắt xóm giềng, hay để trả thù lao cho nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc mà họ đã để lại cho chúng. Họ cần được bù đắp lại một cách công bằng, bởi tình yêu cần được đắp đổi bằng tình yêu. Tấn tuồng thế sự diễn ra trong gia đình ông Quảng, thoạt kì thuỷ tưởng như một màn chèo tiêu khiển, dần dà đụng chạm đến những bi kịch vụng lén, kích động những cơn khắc khoải, những nỗi lo âu kinh niên nung nấu sau cánh cửa nhiều gia đình. Đến khi giấc mơ "mẫu tử giao tranh" của thằng cu Hoà thôn Trung xuất hiện thì những cơn day dứt thầm kín trong tâm hồn con người bùng khởi như giông tố chà xát khắp vùng, và người ta đổi tên giấc mơ "mẫu tử giao tranh" thành "phụ tử huyết chiến" để cho gần với hiện thực.

"Phụ tử huyết chiến" bởi có những bí ẩn không thể lý giải trong câu chuyện lạ lùng này. Chính trưởng công an xã, sau khi bị huyện hỏi cung vì đã "thi hành mệnh lệnh một cách cẩu thả, máy móc, không tỉnh táo giám sát kĩ lưỡng " đã kể lại rằng khi tới nhà ông Quảng đọc lệnh, yêu cầu cô Ngân chứng minh rằng quan hệ của cô với ông Quảng là hợp pháp, người vợ trẻ của ông đã la lên:

- Chúng tôi có cưới xin hợp pháp. Tôi sẽ đưa tờ khai giá thú cho các ông xem...

Giọng cô quả quyết. Rồi cô tất tả vào buồng, tức khắc mở khoá chiếc tủ lim ba gian đồ sộ để lục tìm giấy tờ. Vẻ mặt lẫn hành vi của cô khiến cho trưởng công an xã chột dạ, bởi anh ta hiểu rằng nếu quả thực cuộc hôn nhân của họ là hợp pháp thì tờ lệnh truy nã kẻ mại dâm là giả mạo, và trong trường hợp ấy, anh ta sẽ bị kết tội a tòng giả mạo giấy tờ, đàn áp công dân cùng chủ tịch Quý. Tim anh ta đã bắt đầu nhẩy loạn nhịp. Nhưng may mắn sao, càng lục soát, cô Ngân càng tuyệt vọng, và sau rốt người đàn bà hoảng hốt gào lên:

- Ai đã ăn cắp tờ khai giá thú của tôi? Tôi thề với các anh rằng chúng tôi đã đăng kí đàng hoàng ở làng Khoai, chính cậu tôi, chủ tịch xã đứng lên làm thủ tục.

Nhưng vào lúc ấy, mọi tiếng kêu gào, khóc lóc của cô đều vô nghĩa vì trưởng công an xã cũng như đội du kích đều tin chắc mệnh lệnh họ thi hành là chuẩn xác, và nếu đã là một mệnh lệnh chuẩn xác, họ sẽ thẳng tay trừng trị một "con đàn bà vô đạo đức, phá hoại thuần phong mĩ tục của xã hội."

Điều kì lạ là sau khi huyện thông báo lên công an tỉnh, công an tỉnh phái người về giải quyết tức khắc, lúc cô Ngân được giải phóng khỏi căn phòng tạm giam hôi rích mùi nước đái chuột và đầy dĩn, muỗi; cũng chính là lúc ông Quảng mang tờ giấy khai giá thú trả lại cho cô vợ trẻ. Rõ ràng là chính ông đã lấy nó chứ chẳng phải một tên trộm vô danh nào đấy. Điều bí ẩn này chắc chắn không một ai dám hỏi, nhưng nó là chủ đề cho tất thảy những cuộc tranh cãi của dân trong vùng. Người thì cho rằng ông Quảng đoán trước sự việc nên đã lừa cậu con trai vào bẫy. Người lại cho rằng ông Quảng mang tờ khai giá thú theo vì e rằng nó sẽ bị đánh cắp và thủ tiêu bởi chính cậu con trai. Chiếc tủ lim ba buồng đồ sộ vốn là vật gia bảo đã qua nhiều đời. Là con trai trưởng nên Quý được quyền giữ một chiếc chìa khoá. Sự cẩn trọng của người cha đã vô tình trùng khít với việc cậu con trai cay cú muốn hạ nhục người mẹ kế chỉ đáng tuổi con gái mình. Có người lại cho rằng mọi sự xảy ra dưới bàn tay của quỷ hoặc thần, rằng không một đứa con tỉnh táo nào có thể hành xử như Quý, cũng chẳng có một người cha bình thường nào nỡ lòng ám hại con mình. Rằng sự việc này đích thị người xưa vẫn gọi là: Ma ám!... Rằng gia đình này có những dây tơ mối nhợ với thế giới của ma quỷ nên luôn luôn xảy ra những sự việc bất thường. Người mẹ bị ma đói nhập hồn, giờ đứa con trai lại bị quỷ mù ám quẻ. Những con người này đều hành động như rồ như dại dưới sự điều khiển của một gã phù thuỷ hiểm ác, hoặc một con quỷ vô hình. Họ chỉ còn là những cái xác biết di động, hoặc những con rối gỗ dưới những sợi dây điều khiển thế giới ma...

Thôi thì đủ loại giả thuyết, đủ mọi chiều phân tích. Cuộc khẩu chiến kéo dài liên miên ngày nọ qua tháng kia. Nhưng một điều tất cả mọi người đều cảm nhận, ấy là nỗi sợ hãi trước một hiện thực quá tàn bạo, một hiện thực khiến cho mọi kẻ làm cha làm mẹ đều chấn động đến tận nơi sâu xa nhất trong cõi lòng. Họ cố dò tìm sự thật.

Một ngày, người em trai ông Quảng bạo gan hỏi anh:

- Thằng Quý bị tù bao lâu theo xét xử?

- Bốn năm sáu tháng.

- Thế là bây giờ con Vui ngồi chồm chỗm trên ghế của nó.

- Đấy là chuyện của kẻ cầm quyền, chẳng phải việc của chúng ta.

- Nhưng dù sao nó cũng là con anh, và là cháu ruột của em.

- Ai chẳng biết chuyện đó.

- Sao anh không tìm cách nào đấy làm giảm nhẹ sự tình?

- Chú muốn nói gì?

- Em muốn nói chẳng lẽ tầm tay dài như anh lại không giữ được nó trên ghế chủ tịch xã?

- Chú tiếc hả? Nhưng tôi là cha đẻ của nó, nó còn hà hiếp tôi đến thế, huống chi người dưng?

Ông em không dám nói gì thêm.

Sau đó nhiều ngày, ông ta mới đến nhà Quý, trách mắng đứa cháu dâu:

- Thằng chồng mày ngu hơn chó, sướng chẳng biết đường sướng. Từ khi chúng mày dựng vợ gả chồng, nhà dọc nhà ngang đều do ông bố lo liệu. Chúng mày sinh con đẻ cái, từ đồ ăn thức uống đến quần áo giầy dép lũ trẻ, cũng ông ấy sắm sanh. Cho đến cái ghế chủ tịch, chẳng có ông ấy, đố thằng chồng mày ghé đít ngồi vào được. Có ông ấy, không những cả đàn cả lũ chúng mày mà họ hàng cũng được nương nhờ cây cao bóng cả. Mẹ chồng mày chết rồi, ông ấy muốn lấy ai là quyền ông ấy, phận sự gì chúng mày phá thối? Đúng là lũ đầu lợn. Bây giờ thằng chồng ngồi tù, con vợ ở nhà chỉ lo hai bữa cơm ăn đã đủ hết hơi, cổ dài như cổ ngỗng. Chúng mày đã thấy sướng hay chưa?

Đấy là sự thức tỉnh của lý trí cũng như đạo đức. Phải chăng đó chính là bài giảng luân lý cổ truyền? Nhưng trong cuộc thi điền kinh, đạo đức bao giờ cũng là kẻ chậm chân. Đạo đức luôn luôn là vận động viên cuối cùng về đích.
 

***
 

Chủ tịch Quý bị kết án tù ngồi bốn năm sáu tháng.

Mọi người đều biết rõ sự tình. Nhưng sau một năm, người ta đã thấy anh ta trở về. Những ai không lên nương, xuống ruộng mà ở lại làm việc nhà vào buổi sáng hôm ấy, sẽ nghe tiếng gõ móng ròn rã của con ngựa nhà ông Quảng trên đường thôn. Đó là nhịp chân của một con ngựa nòi, lông nâu hồng óng mượt như nhung, bờm dài đẹp như bờm ngựa trong tranh Tàu cổ. Tiếng gõ móng của nó hoà nhịp với tiếng lục lạc nơi cổ, là khúc nhạc quen thuộc đối với dân Xóm Tiều phu, bởi nó gợi lên hơi hướng của cuộc sống náo nhiệt nơi đô thành. Cứ nghe tiếng lục lạc reo là người ta ngóng ra cổng, hoặc qua hàng rào để ngắm con ngựa, và cất tiếng chào chủ nhân. Sớm hôm ấy, họ đều thấy ông Quảng ngồi phía trước, vẻ mặt tư lự, tay lơ đãng ra roi. Phía sau là vợ chồng Quý. Cả hai quắt queo như hai túm giẻ, im lặng như hai mô đất, quay mặt vào nhau. Vẻ im lặng lạ lùng ấy khiến mọi người không dám cất tiếng chào như thường lệ. Họ giả tảng như không nhìn thấy ai, chẳng nghe thấy gì. Nhưng vào buổi tối hôm ấy, người nọ thì thầm với người kia, xóm này loan tin sang xóm khác. Chẳng ai còn vẻ háo hức hồ hởi của những kẻ rỗi việc, tò mò thóc mách chuyện ngoài đường. Cũng chẳng ai còn vẻ nhởn nhơ của kẻ đi xem hát chèo, hay dửng dưng như đứng ngoài lề mọi chuyện. Dân Xóm Tiều phu nhìn vào mắt nhau, với vẻ đắn đo lạ lùng của những người tuy già đầu nhưng chưa đủ khôn lớn, tóc đã muối tiêu mới truy tìm hình ảnh đích thực của bản thân mình:

- Ông bố đã ra tay kéo cậu con trai khỏi cánh cửa ngục tù. Thôi, như thế cũng còn may.

- Cơ sự này chắc chắn cậu ấy sẽ phải mở to mắt mà nhìn ra ngoài để hiểu sự đời, nhìn vào trong tâm để hiểu bản thân. Từ nay về sau ắt biết đường hối cải.

- Nghe đâu cậu ta đã phải quỳ lạy ông Quảng ngay cửa nhà giam tỉnh, vào chính lúc công an đọc lệnh tha trước hạn tù.

Người này nói, người kia lặng im, hoặc nhìn lên trời, hoặc nhìn ra những bờ dậu, hàng cây, với con mắt nửa chăm chú nửa ngơ ngác. Rồi sau những im lặng đầy nghi vấn, người ta thở dài như trút được gánh nặng:

- Sự đời ngàn năm không thay đổi: máu chảy ruột mềm, hổ cũng chẳng nỡ ăn thịt con...

Có lẽ, đấy cũng chính là lời tự an ủi, một thứ thành trì tâm linh che chắn, phòng ngừa trước những cơn bão có nguy cơ đổ bộ từ một đại dương xa lạ và bất tường vào đất liền, nghiền nát những con tim yếu mềm của họ.

Sự trở về của Quý diễn ra trong im lặng. Anh ta ở nhà một tuần, chẳng bước chân khỏi ngõ. Sang tuần sau, vào một sớm, Quý cùng hai cô con gái vác sọt lên nương dỡ sắn. Đang từ con người quyền lực nhất xã, đi tới đâu cũng nghe người ta cất lời chào trước khi kịp mở mồm; giờ trở thành kẻ thường dân đã là một thử thách cam go, huống chi lại là một thằng tù được bàn tay của chính cha mình giải cứu. Xóm giềng chắc mẩm mọi sự phải diễn ra như vậy. Do đó, bởi một thứ trắc ẩn xưa cũ đã tồn tại hàng ngàn năm trong các cộng đồng, dân Xóm Tiều phu nhất loạt giả tảng như không biết chuyện gì đã xảy ra, như Quý vừa mới đi xa trở về. Những cuộc trò chuyện diễn ra một cách an lành như cây cỏ:

- A!... hôm nay bố con nhà cậu cũng đi dỡ sắn?

- Phải.

- Nương sắn bên ấy tốt gấp hai lần nương sắn nhà tôi.

- Cũng tàm tạm, ơn trời.

- Cô Đào cô Mận chăm làm cỏ, sắn năm nay hẳn tốt bột. Đến tết tha hồ tráng miến.

- Vâng. Bọn trẻ nhà tôi thích ăn miến. Mẹ chúng nó tuy vụng dại đủ đường nhưng cũng biết vài mánh trong nghề này.

- Năm nay cậu có tính gây lại đàn ong hay không?

- Tôi chưa tính. Còn chờ xem sao.

- Nhà tôi cũng vậy. Năm ngoái mất mùa phấn hoa, đàn ong vơi quá nửa.

- Làm nông nghiệp như đánh bạc, phải chấp nhận thiên tai.

- Có câu ca này:

"Mất mùa thì tại thiên tai
Được mùa bởi tại thiên tài đảng ta"

Nếu cậu còn là chủ tịch cậy răng tôi cũng chẳng dám nói. Nhưng bây giờ cậu cũng là phó thường dân như chúng tôi. Mọi sự chẳng còn phải giữ gìn.

- Thế a?

- Bây giờ thì mọi người đều bạo mồm, bạo miệng nói đủ chuyện đời với cậu.

- Thế a?

- Phải.

- Vậy mà tới giờ tôi mới biết. Câu ấy ca ấy hay thật. Lão nào nghĩ ra đúng là bậc kì tài.

- Cậu nói thật hay chơi đấy?

- Sao anh hỏi thế?

- Ồ, tại vì bao nhiêu năm nay ngồi trên ghế chủ tịch, cậu chỉ nghe huấn thị đảng với chính quyền. Những câu hát bậy bạ chẳng lọt tai các vị cầm cân nảy mực.

- Có thế thật. Nhưng vào nhà tù tôi mới biết thật sự cuộc đời. Trong ấy ối thằng thông minh sáng láng gấp vạn lần lũ cấp huyện trên đầu tôi.

- Thật thế a?

- Sao không thật?

- Ấy là tôi mớm nhời như vậy.

Thế là từ hôm ấy "chuyện đi tù" của Quý bỗng dưng nhờn như chuyện đùa. Chẳng ai còn mặc cảm, chẳng ai còn nương dè vì sợ đụng chạm đến nỗi đau của người khác. Quý kể khơi khơi chuyện những "bạn tù" với vẻ nhởn nhơ, hãnh diện như gặp gỡ họ là một đặc ân và chính họ là những người thầy đầu tiên dạy cho anh ta bài học vĩ đại về cuộc sống. Dân làng đều thấy rằng Quý đã hoàn toàn trở thành con người khác. Điều ấy, anh ta không che giấu. Chẳng phải một lần mà nhiều lần Quý nói oang oang cho họ nghe:

- Ồ, trước đây cứ tưởng ông phỗng là to, giờ tôi mới biết hòn đá rửa chân ở cầu ao còn to vạn lần hơn ông phỗng.

- Cậu nói bóng nói gió như thế, hoạ chăng có dân đầy bụng chữ mới hiểu nổi; cánh dân cầy chúng tôi mít đặc.

- Vậy tôi giảng cho các ông nghe: Trước đây cả làng cả xóm tranh nhau thi đua, phấn đấu. Người lớn thi đua lao động, tăng sản lượng, vượt chỉ tiêu; trẻ con thi đua nhặt phân trâu, lượm lúa rơi lúa vãi; ở trường thì thi đua học hành, được đứng lên bảng danh dự, được nhận phần thưởng và gài bông hoa vải đỏ lên ngực là tột bậc hạnh phúc. Bao nhiêu năm sống như thế, giờ tôi mới nhận ra đó là những chuyện hão huyền. Đời sống thật sự của chúng ta chỉ quy tụ vào ba cái lỗ, một cái lỗ miệng bên trên, còn hai cái lỗ khác ở trong đũng quần. Chỉ quan tâm đến ba cái lỗ ấy là đầy đủ một kiếp sống.

- Nhưng còn...

- Chả còn gì hết. Hoặc nếu còn, cũng chỉ là sự phỉnh phờ. Rặt những chuyện phỉnh phờ. Tôi cắt nghĩa cho các ông nghe: Tất thảy chúng ta đều bị triệt sản. Đàn ông thì thắt túi tinh trùng, hoặc dùng bao phòng tránh thai. Đàn bà phải đặt vòng, hết vòng con giun đến vòng tròn như cái nắp. Da dẻ xanh như đít nhái, mặt mày tái mét như trúng gió độc cũng cứ phải tiếp tục đeo vòng cho hoàn thành kế hoạch sinh sản để được nhận cờ thi đua cấp huyện, cấp tỉnh. Trong khi đó những kẻ ra lệnh cho chúng ta triệt sản có chịu thi hành chính mệnh lệnh của họ đâu. Vào trong tù tôi mới biết được sự thật ấy. Vào tù tôi mới biết trong khi dân đô thị ăn sắn ăn khoai, khẩu phần thịt mỗi tháng từ một lạng đến hai lạng rưỡi thì các quan lớn có sổ Tôn Đản tha hồ tọng vào mồm những gì họ thích. Thứ bảy, chủ nhật, toàn dân đi lao động xã hội chủ nghĩa thì vợ con các quan lớn nhảy đầm hoặc vẫy điếm đực vào buồng phục vụ. Tết nào nhà nước cũng yêu cầu dân chúng tiết kiệm trong khi các quan thừa thãi sâm nhung, quế phụ, bếp nhà họ đầy sơn hào,hải vị, hết cháo yến lại đến ba vị đại bổ hầm với sâm cầm. Như thế, không là sự phỉnh phờ thì các ông gọi là gì?

- Ồ... quả tình chúng tôi không biết.

- Vì thế, tôi mới hiểu rằng bọn người đứng trên đầu trên cổ chúng ta chỉ cốt làm sướng ba cái lỗ của họ. Vậy dại gì chúng ta không làm trơn ba cái lỗ của chúng ta?

Đến đây thì xóm giềng đều im bặt, phần bởi ngượng nghịu, phần bởi những điều Quý vừa nói quá mới lạ họ chưa biết phản ứng ra sao. Có người cho rằng anh ta nói cà trớn như vậy cốt gây sự chú ý đến "những bài học trong tù" mà quên đi những sự việc tồi tệ anh ta đã làm. Có người lại cho rằng Quý cố tình thổi phồng sự thực để tỏ ra anh ta bất cần đời, anh ta không chút mảy may mặc cảm, rằng chuyện đi tù với anh ta cũng giống như cuộc dạo chơi...

Nhưng hoá ra thiên hạ bé cái nhầm. Vài tuần sau đó, vợ Quý khóc mếu chạy đến uỷ ban xin cô Vui kí lệnh tháo vòng, với lý do ông chồng muốn có con đàn con đống, vì từ ngàn xưa tới nay người ta vẫn cho rằng nhà nào đông con nhiều cháu là "phúc lộc đề đa"; rằng nếu chị ta cưỡng lại ý thích của Quý anh ta sẽ đuổi chị ta ra khỏi cổng ngay tức khắc và đưa một đứa con gái thị thành, trẻ đẹp gấp ngàn lần "con đĩ Ngân" về nhà,... Cô chủ tịch mới hiểu rằng cô ta đang đứng trước một gã Chí Phèo thật sự, rằng "vua cũng thua thằng khùng" nên chẳng dại gì giơ đầu ra đối chọi với "kẻ vừa thoát khỏi cánh cổng nhà tù". Không hỏi han thêm một lời, cô Vui giơ bút kí đánh xoẹt. Thế là tuần sau, vợ Quý xuống bệnh viện huyện tháo vòng. Buổi chiều hôm ấy, Quý ngồi uống rượu giữa sân, ngật ngưỡng như một lão già bẩy mươi tuổi. Nửa chừng bữa rượu anh ta cất tiếng chửi đổng:

- Con gái già biết thân biết phận cắm mặt xuống mà kí lệnh. Nếu không, tao sẽ cho nó biết thế nào là võ của các "đại ca trong nhà giam".

Rồi Quý hạch vợ mang thêm rượu, nửa tỉnh nửa say, anh ta bảo hai đứa con gái với cậu con trai rằng:

- Tao bây giờ chẳng đảng bộ cũng chẳng uỷ ban, mọi dây trói đã được tháo cởi. Tao với mẹ mày cứ đẻ tha hồ, bao giờ hết trứng thì thôi. Đến lượt chúng mày cũng vậy,cháu nội cháu ngoại đối với tao đều là lộc hết. Từ thượng cổ, các cụ đã dạy rồi:" có người là có của". Nhà mình mà đông, nhất loạt đánh một cái rắm cũng làm sập mái nhà chúng nó.

"Chúng nó" đây ám chỉ vợ chồng ông Quảng với đứa con trai vừa chào đời, được đặt tên là Quế. Thời gian Quý ngồi tù cũng chính là thời gian cô Ngân mang thai. Người khác mang thai thì ốm nghén vài tháng liền, chẳng nôn oẹ cũng ăn toàn những thứ gớm ghiếc như ổi xanh, vôi sống, ớt tươi, cà đắng... Cô vợ trẻ của ông Quảng càng chửa càng đẹp như hoa mùa xuân, da dẻ láng mượt, hai má đỏ hồng. Khi bụng đã kềnh càng như cái trống mà cô vẫn chạy phăng phăng, vẫn lên nương xuống ruộng, cười ròn như pháo tết, chẳng mảy may tỏ ra mỏi mệt. Đủ ngày, đủ tháng, Bà Tư móm đưa cô xuống huyện đẻ, quay trở về khoe khắp làng trên xóm dưới rằng đứa bé lọt lòng có ba vòng tràng hoa quấn cổ, rằng vừa gỡ tràng hoa nó đã cất tiếng khóc vang khắp mấy gian nhà, rằng tuy là con đầu nhưng nó đã nặng bốn cân rưỡi, dài năm mươi chín phân tây. Với những con số như vậy, nó đích thực là đứa bé lọt lòng lớn nhất trong vùng, không chỉ Xóm tiều phu mà trên toàn huyện.

Ông Quảng đứng chờ vợ ngoài hành lang bệnh viện. Khi mọi việc xong xuôi, ông bước vào đeo lên cổ cô Ngân một sợi dây chuyền mặt đá tạc tượng Phật bà quán thế âm Bồ tát. Tất cả những sản phụ trong vùng sẽ phải ghen tị vì điều này. Vào ngày thằng bé đầy tháng, bà Tư móm đứng lên làm ba mươi mâm cỗ mời họ hàng gần xa. Ông bố bồng đứa bé trên tay thay vì cô vợ trẻ để chào họ mạc, điều ông chưa từng làm đối với những đứa con của người vợ trước.

Họ hàng nội ngoại, xa gần của ông Quảng đều công nhận chưa từng thấy thằng bé nào đẹp như Quế, rằng nó quả là xứng đáng với sự hãnh diện cả gia đình, rằng nếu cha già con cọc mà được như gia đình ông Quảng, hẳn trên cõi đời này sẽ có hàng triệu người mơ tưởng...

Phải chăng những gì xảy ra dưới mái nhà của người cha đã dội đến tai Quý làm con tim thù hận của anh ta nhức nhối. Những lời lẽ nửa tỉnh nửa say không che giấu được nỗi đắng cay độc địa. Người ta hiểu rằng nhà tù chẳng khiến cho đứa con trai tỉnh ngộ mà ngược lại nó càng gia tăng mối hờn oán đối với người cha. Giấc mơ "phụ tử huyết chiến" vẫn tồn tại, không ngừng ám ảnh tâm hồn người dân quê. Vào những đêm tối trăng, dân Xóm Tiều phu ngước nhìn bầu trời mịt mùng mây phủ, khắc khoải buông tiếng thở dài...

Tết năm ấy, Quý gả chồng cho hai cô gái cùng lượt. Lễ cưới diễn ra trong lúc vợ Quý sắp xếp áo quần chuẩn bị xuống huyện đẻ. Cái bụng lặc lè của chị ta đã tới tháng thứ tám. Rồi đứa con thứ tư của họ ra đời khi lễ "Lại mặt" của hai cô chị vừa kết thúc. Đó là một đứa con trai, được đặt tên là Chiến, một cái tên bao hàm đủ sở nguyện lẫn ý chí của ông bố. Chiến vừa được chín tháng, vợ Quý đã mang thai. Năm sau chị ta lại đẻ con trai, bố nó đặt tên là Thắng, cũng lại là một cái tên đầy tính biểu tượng, diễn tả ước mơ của bậc sinh thành. Cùng năm ấy, hai cô Mận và Đào cũng cho ra đời hai đứa con gái. Cô chị đẻ tháng trước, tháng sau tới lượt cô em. Hai đứa bé vừa đầy năm chưa kịp cai sữa, cả hai cô lại đã có nghén, mặt xanh như lá cải, và những đứa trẻ bú sữa độc, đi ỉa chảy cả tháng ròng. Cứ như thế, gia đình này sản xuất liên tục, bất chấp mọi đàm tiếu của làng xóm... Gặp được hai anh con rể yếu bóng vía, tuy bố vợ mất chức nhưng họ vẫn còn e nể, nên giấc mơ "nhà mình đông người, nhất loạt đánh một cái rắm cũng làm sập mái nhà chúng nó" của Quý có cơ trở thành hiện thực.

Tuy nhiên... Tuy nhiên... Bởi sự đời bao giờ cũng khởi đầu bởi hai chữ tuy nhiên... Tuy nhiên, trong lúc thực hiện giấc mộng điên cuồng của mình, Quý không lường nổi những hành trang cần thiết kèm theo một đội quân đông đúc như thế. Gia đình hai chàng rể lại túng bấn vào loại được xếp hạng thường xuyên cứu tế trong xã. Nghèo khổ, nhưng họ có thói vô lo của những người sống được chăng hay chớ, nói như các cụ thuở xưa:

"Được miếng sống ăn cả miếng sống, được miếng chín ăn hết miếng chín."

Thế nên, tiếng là cưới vợ cho con trai, nhưng những gia đình này chẳng có mảy may trong tay cắc bạc. Từ lễ ăn hỏi, cho đến cỗ "đời sống mơí" chỉ kẹo bánh với nước chè họ cũng phải ngửa tay đi vay hàng xóm rồi sau ngày "lại mặt", vợ Quý phải tuồn phong bì cho các cô con gái để các cô trả nợ đậy. Lễ "lại mặt" vừa xong, hai cặp vợ chồng trẻ quay lại nhà bố mẹ vợ vì không có phòng riêng. Ngày hợp hôn, bố mẹ chồng phải nhường chiếc giường độc nhất cho đôi tân hôn, vác chõng tre ra ngoài hè ngủ. Thế là vợ chồng cô Mơ cũng như cô Mận chia nhau năm gian nhà ngang của bố mẹ. Mỗi cặp hai gian, còn lại gian cuối cùng là nơi chất chứa tất thảy những thứ sản phẩm cũng như dụng cụ nông gia. Với thành tích sinh đẻ vượt bực như vậy, gia đình Quý bỗng nhiên rơi theo chiều thẳng đứng từ loại gia đình ngất ngưởng trên đỉnh phong lưu xuống hạng những gia đình bơi lội lóp ngóp trong vũng lội của nỗi bần hàn. Tiền bạc dự trữ tiêu tán nhanh như lá khô mùa đông bị gió cuốn. Sức lực của Quý chẳng mấy khả quan, cái duyên làm ăn của anh ta cũng vậy. Ba năm liền, Quý xoay sở chấn hưng nền kinh tế gia đình. Dưới quyền anh ta, hai chàng rể ngoan ngoãn, bố vợ bảo gì nghe nấy. Nhưng vị gia trưởng chẳng phải người nhiều trải nghiệm trong sản xuất, hai chàng rể vốn dĩ xuất thân từ những gia đình nghèo túng lại càng vô năng. Cả một đống người tụ tập trong ngôi nhà lớn như vậy, lẽ ra phải đem lại một hơi hướng nồng ấm, đầy sinh khí, và thóc lúa cũng như tiền bạc phải được nảy nở dồi dào... Nhưng số phận không mỉm cười với Quý. Chẳng những thế, thần may mắn còn nghiến răng kèn kẹt và hắt nước lạnh vào mặt anh ta. Mấy năm liền, tuy sắn khoai trồng riêng cũng như công điểm lao động cho hợp tác đầy đủ, nhưng những món ra bạc ra tiền Quý lại hoàn toàn thất bại. Mùa hái nấm, chỉ ba người đàn ông hùi hụi lên rừng, còn những người đàn bà hết chửa lại đẻ, con bên nách, con sau lưng, những lo nuôi con đã tàn lực. Việc sấy nấm, bao nấm xưa nay vẫn thuộc về đàn bà vì nó đòi hỏi sự kiên nhẫn và khéo tay, nay chính Quý và hai hàng rể phải đảm nhiệm nên phần bị hỏng khá nhiều. Món ra tiền đáng kể nhất là nuôi ong lại càng thảm hại hơn. Đàn ong nhà anh ta hết bị bệnh " ỉa chảy " lại đến bệnh " rụng cánh " chết dần chết mòn, trong khi nhiều nhà khác mật đặc như keo, đổ đầy chum lớn chum nhỏ. Quý chạy đôn chạy đáo, hết lần mò hỏi han những gia đình nhiều năm trong nghề cho tới công ty ong của tỉnh, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai hiểu gì về căn bệnh quái ác này: Những con ong sớm hôm trước còn khoẻ, hôm sau tự nhiên nổi nấm mốc xanh trên lưng. Thứ nấm màu xanh lam giống như màu rỉ đồng chính là một loại kí sinh trùng, chúng ăn nhanh hơn cả tằm ăn rỗi, chỉ nội một ngày chúng đã ăn lan đến cuống chân cánh ong khiến cho con vật khốn khổ rụng cánh, quay tròn như hột lạc trong đõ vài giờ rồi chết. Có một sự rủi ro bí ẩn nào đó xảy ra với gia đình Quý mà nhiều người thì thầm sau lưng anh ta, nhiều người khác sợ đến nỗi không dám nói đến. Thảng có đi qua cổng nhà Quý, họ thấy cả ba gia đình trải chiếu ngồi ăn cơm trên sân, hoàn toàn giống cảnh những gia đình cố nông thời xa xưa, cùng vẻ nhếch nhác, cùng vẻ bất lực và không còn khả năng hổ thẹn. Quãng thời gian ấy, gia đình Quý là gia đình đầu tiên ăn cơm độn sắn trong Xóm Tiều phu. Vào chính lúc đèn măng-xông vẫn thắp sáng choang trên mảnh sân bao la của nhà ông Quảng, nơi xóm giềng vẫn được đãi một cách hào phóng xôi gà lẫn các loại bánh trái. Không ai dám nói một lời. Nỗi hoảng sợ trước một nghịch cảnh khiến những con tim họ vặn thắt và mọi lời lẽ đông cứng trong cuống lưỡi. Kế hoạch "đông con lắm cháu, phúc lộc đề đa" của Quý đã vấp phải bức tường chắn, sự khốn cùng.

Sự khốn cùng là người bạn xấu tính, nhưng là kẻ thù đáng kính trọng. Nó dạy cho địch thủ những bài học mà không trường lớp nào có thể thành công. Xưa nay vốn quen nghĩ rằng "quyền huynh thế phụ", rằng sớm hay muộn,ông Quảng cũng sẽ phải dàn hoà với anh ta để có đứa chống gậy tre, đội mũ mấn, khoác áo sô khi nằm xuống, Quý không mường tượng nổi rằng một ngày, cái người đàn ông anh ta từng gọi là cha ấy, cũng có khả năng nhìn anh ta như nhìn một kẻ qua đường.

Vào một sáng, Quý cùng hai chàng rể lên rừng đốn củi. Trời mới mơ sương, khí núi còn cuồn cuộn bốc trên các khe vực khiến ai nấy sởn da gà. Ba người đàn ông co ro trong những manh áo chưa đủ ấm, người nọ giục người kia rảo chân leo dốc để chống lại cơn giá rét. Đường dốc ngược, lại lắm đá gan gà. Những mảnh đá găm vào lớp đất ẩm sương dễ làm trơn tuột bước chân, nhất là những ai đi dép lốp. Rủi cho Quý, anh ta bỏ đôi giầy vải cũ ở nhà để đi đôi dép cao-su sáu quai cho nhẹ. Như thế, anh ta chính là nạn nhân đầu tiên tuột chân trên con dốc, lăn xuống vực. Đến ngang chừng sườn đá, một bụi gai già, kết chằng chịt những cành khô đã ngăn không cho anh ta rơi tiếp. Nhờ thế Quý thoát chết. Nhưng anh ta bị gãy bốn chiếc sương sườn. Vào lúc nằm chết dí ở bụi gai, chờ hai chàng rể xuống giải cứu, bất chợt anh ta ngước nhìn lên đỉnh dốc. Ông Quảng đứng đó, đang nhìn xuống vực. Trong tích tắc, ánh mắt của họ giao nhau. Lần đầu tiên, đứa con trai hiểu rằng mọi sự đã vĩnh viễn chấm dứt. Anh ta bắt gặp trong đôi mắt người cha một thứ lạnh lẽo rợn hồn. Thứ lạnh buốt của gió bấc tháng chạp. Thứ ánh sáng u ám của ngục luyện tội. Thứ trống vắng của những bãi tha ma. Anh ta rùng mình, vội vàng nhắm mắt lại.

Đận ấy, Quý phải nằm viện hơn hai tháng. Hai tháng ấy, anh ta thấu hiểu thế nào là sự khốn cùng. Thế nào là nỗi nhục nhã khi không đủ tiền viện phí. Thế nào là nỗi bào da, buốt ruột phải bưng bát cơm chan canh rau muống xuông trong khi kẻ khác ăn tô phở đầy tú hụ những thịt gà hay uống sữa bò. Thế nào là cơn rát mặt khi không mua nổi một bao thuốc lá lót tay cho anh chàng y vụ, hay không kiếm nổi túi kẹo làm quà cho đứa con ba tuổi của cô y tá chuyên tiêm thuốc, thay băng. Bốn chiếc xương sườn gãy cũng lâu lành vì ăn uống kham khổ. Khi vợ con nhất loạt bước vào phòng bệnh, anh ta mới có cơ hội nhìn họ từ xa, những kẻ ruột thịt của mình, cái đội quân đông đúc mà anh ta hy vọng sẽ có cơ trèo lên đầu lên cổ loại gia đình "độc đinh", áp đảo những mái nhà "neo sơ, quạnh người, vắng tiếng". Đội quân ấy, dẫu được đặt tên Chiến và Thắng, chỉ là một mớ người nhếch nhác, còm cõi, sự thiếu dinh dưỡng in dấu lên từng gương mặt. Khi họ sống loanh quanh trong những giải núi trúc của Xóm Tiều phu, nỗi bần hàn không hiển lộ rõ ràng. Bệnh viện huyện, người khắp huyện đến đây. Người đứng cạnh người, gương mặt sát gương mặt, sự so sánh trong một bức tranh toàn cảnh bao giờ cũng là những chứng cớ hiển nhiên, một hiện thực không thể chối cãi.

Sau khi ra viện, Quý triệu tập gia đình, xuống lệnh hưu chiến:

- Thời này nuôi người khó hơn thời trước, chúng mày tạm dừng lại đã. Khi nào gia đình nhà ta vượng lên, lại đẻ tiếp.

- Bố dạy thế nào, chúng con xin thực hành như thế.

Hai cậu con rể ngoan ngoãn đáp. Vợ Quý lẫn cô Mơ cô Mận lặng thinh. Lệnh của bậc gia trưởng được ban ra quá muộn. Vợ chồng Quý đã có ba cậu con trai: Phú, Chiến, Thắng. Vì nghe câu:

"Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần"

nên họ đẻ tiếp đứa thứ tư. Nhưng lần này lại là con gái, mà lọt lòng được hai mươi ngày cũng chết vì quá yếu. Đứa bé đẻ ra nặng có cân tám, lại bị viêm phổi cấp tính, không trụ nổi. Còn cô Mơ, cô Mận, cô nào cũng ba nhóc bên lưng, với một cái thai bốn tháng trong bụng. Đẻ dày như sung, lại không được ăn uống đầy đủ, mẹ lẫn con đều xanh như tàu lá. Vợ Quý chỉ còn ba mươi lăm cân, da xếp nếp trên cổ. Hai cô con gái mới ngoài hai mươi tuổi mà má đã đầy vết nhăn như những chiếc râu mèo. Cả một đội quân đông đúc, chỉ những lo ăn đã héo ruột, héo gan, còn đâu thời gian lẫn tiền bạc mà chăm chút chuyện áo quần, khăn yếm. Thành ra, mỗi lần nhìn thấy họ,người làng ngao ngán bảo nhau:

- Trông kìa, con cái Mơ cái Mận bây giờ già hơn cô Ngân cả chục tuổi.

- Đích thị. Thế là cháu dâu già hơn bà trẻ cơ đấy. Thật lạ kì, bà trẻ lại càng ngày càng trẻ đẹp nõn ra. Xưa các cụ ví mỹ nhân lộng lẫy như tiên sa. Tiên sa cũng chỉ thế là cùng.

- Họ giàu thế sao không đẻ thêm nhỉ?

- Nghe đâu cô vợ muốn, nhưng ông chồng lại không. Ông ấy bảo: Một thằng Quế đáng giá hơn mười đứa khác. "Quý hồ tinh, bất quý hồ đa".

- Ờ, ông ta có lý. Một cục vàng trong tay còn hơn mười hòn chì trong túi.

- Nhà ấy sướng thật, vợ đẹp, con đẹp, ông chồng tuy già nhưng vẫn bảnh bao. Người ta bảo:

"Cơm trắng ăn với chả chim,
Chồng đẹp, vợ đẹp, những nhìn mà no."

Chẳng ai chối cãi được rằng cô vợ trẻ của ông Quảng đúng là hình ảnh tiêu biểu cho câu ví: "Gái một con trông mòn con mắt." Dân quê, tuy một nắng hai sương nhưng lại thờ phụng làn da trắng. Chiểu theo chuẩn mực ấy, cô Ngân là mỹ nhân ngoại hạng vì da cô không những trắng nõn mà còn mơn mởn như da đào khiến thiên hạ tưởng chừng cô đang còn ở tuổi ấu nhi. Ngược lại với làn da non mởn, đôi mắt cô đen như than, nhóng nhánh như sóng nước, với hai hàng mi dài rợp bóng bên trên, khiến tâm hồn chúng sinh tan nát. Đẻ xong, cặp môi cô như đỏ hơn, dầy hơn thời trước, giống trái cây mọng nước, hứa hẹn chất cam lồ của những nụ hôn. Ngực cô cũng nở ra hơn, căng vồng như hai trái bưởi dưới lần áo mỏng. Và cặp đùi cũng như các bộ phận khác trên cơ thể, thảy thảy đều gợi cho người ta cảm giác của một mùa hoa dâng đầy, ngào ngạt hương thơm tình ái.

Trong những ngày lên rừng hái củi hoặc xuống ruộng cầy vỡ, thứ công việc chỉ thuần đàn ông đảm đương, dân Xóm Tiều phu thì thầm vụng lén với nhau:

- Trên đời này chỉ lão Quảng là sướng. Vợ vua cũng chỉ đẹp đến thế là cùng.

- Ờ... xem phim Liên-xô, ối cô đào còn kém nước cô ta. Ông Quảng bỏ tiền bỏ của xây nhà lầu cho bố mẹ vợ cũng phải. Mấy người sinh được mỹ nhân?

- Nghe đâu cô ấy đã được tuyển vào văn công trung ương rồi đấy.

- Rõ hoài của, giá cô ta vào văn công thì bao nhiêu người được ngắm.

- Vớ vẩn, vào văn công trung ương thì chẳng bao giờ cô ta thèm đặt chân đến nơi khỉ ho cò gáy này?

- Ờ nhỉ, tôi quên mất.

- Giờ, tôi hỏi các ông một câu: Giá được ngủ với người đẹp như cô ta một lần, rồi sớm mai lên máy chém, các ông có dám hay không?

- Dám quá đi chứ. Đời người được mấy tấc gang?

- Ồ không, tôi chẳng dại... Cô ấy đẹp thật. Trước người đẹp thằng đàn ông nào chẳng thèm rỏ dãi, nhưng còn bao nhiêu chuyện phải tính trên đời.

- Chuyện gì?

- Gia đình, gia tộc, tương lai con cháu, mồ mả ông cha. Ai dại gì mà cúi đầu nghe theo cái con củ?

Những cuộc đàm thoại như vậy như ngọn gió luồn từ núi nọ qua núi kia, từ vực này bay sang vực khác. Và cuộc sống nơi Xóm Tiều phu như vậy diễn ra trong nhịp điệu bình thản vùng sơn dã. Người ta vẫn thấy chiếc xe ngựa của ông Quảng khi đi, khi về, tiếng lục lạc reo ròn rã trên đường thôn. Mỗi bận ông về, mảnh sân nhà ông lại sáng rực ánh đèn, lại rộn rã tiếng người chuyện trò xen lẫn tiếng đài Sương-mao, khi thì là bản tin, khi thì là tiếng hát lanh lảnh của cô ca sĩ Thương- Huyền:

"Lặng nghe bên bờ suối, có con chim đang chuyền...
Lặng nghe con tim em, tình yêu anh ca hát..."

Mùa đông tàn cất tiếng gọi mùa xuân. Mùa hè chưa qua những làn sương heo hắt đã từ các ngọn núi lan xuống báo hiệu một mùa thu dài đầy mưa bão. Thấm thoắt đến ngày cu Quế đầy năm tuổi, tuổi mà mọi đứa trẻ Xóm Tiều phu phải đến lớp vỡ lòng. Cả xã, chung một trường tiểu học. Nhưng thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ đều có lớp vỡ lòng kèm theo lớp mẫu giáo riêng. Lớp mẫu giáo lại chia làm hai: lớp bé dành cho trẻ từ ba đến bốn tuổi; lớp lớn dành cho trẻ từ bốn đến năm. Còn trẻ năm và sáu tuổi đều được tuyển chung vào lớp vỡ lòng, lớp chính thức dạy chữ viết, các con tính đơn giản với bảng cửu chương, chuẩn bị cho năm thứ nhất của trường tiểu học. Như vậy, tất thảy những gia đình có con từ ba đến sáu tuổi ắt phải thuộc con đường dẫn đến lớp học này. Lẽ ra, cu Quế đã phải đến lớp từ lâu, nhưng là con một, quý tử được mẹ lẫn chị Tư móm cưng chiều nên bỏ trốn lớp mẫu giáo. Ở nhà, hai người đàn bà dạy nó chữ cái, đếm các con số, phép cộng, phép trừ sơ giản. Khi nó đã tròn năm tuổi, họ không còn lý do để giam nó trong những vòng tay âu yếm của mình.

- Năm nay, cu Quế phải đến lớp học như mọi đứa trẻ trong làng.

Ông bố ra lệnh.

- Vâng, cháu cũng đã nghĩ đến việc ấy.

Bà Tư móm đón lời.

Cô Ngân lặng thinh, nhưng mở tủ chìa cho ông Quảng xem chiếc cặp da mới tinh, trong đó đã đầy đủ sách, vở, bút, phấn... tất thảy những gì cần thiết cho ngày tới trường của Quế.

Vùng sơn dã, xóm nọ cách xóm kia một quãng đường dài, có khi là một giải núi, không chen chúc như những làng dưới vùng châu thổ sông Hồng hay sông Mã. Trên một vùng dài rộng như thế, các đội sản xuất có thể cả năm không gặp gỡ nhau, nếu chẳng có những ngày họp đại hội toàn xã. Cũng vì vậy mà qua mấy năm liền, kể từ mùa hái nấm đầu tiên chạm trán nhau trên con dốc độc đạo, cô Ngân không còn nhìn thấy vợ con Quý. Bởi từ mùa nấm năm sau, cô nghỉ đẻ và nuôi con. Khi đứa bé khá lớn, đức lang quân ra lệnh:

"Ra tay một lần cho thiên hạ biết mặt, thế là đủ. Chúng ta không thiếu miếng ăn để phải lăn lóc xuống núi, lên rừng!"

Ngân lặng im. Chính cô cũng không còn muốn nhìn lại những gương mặt thù nghịch. Vào những dịp hội họp toàn xã, họ tìm cách tránh mặt nhau. Ngay đến cả những ngày đội y tế huyện về tiêm phòng bệnh cho trẻ, nhà nọ cũng dò hỏi láng giềng chờ nhà kia ra về rồi mới đặt chân tới. Cô vợ trẻ của ông Quảng sống với hạnh phúc của cô. Gia đình đứa con trai ông sống với những cơn vật lộn trong bão táp mưu sinh và những nỗi niềm riêng của họ. Ngày tiếp ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại đến năm... cuộc sống trôi đi như dòng sông lớn cuốn theo nó phù sa lẫn rác rến, bèo bọt. Dường như cô Ngân đã quên cái thời cô mới đặt chân về Xóm Tiều phu, cô đã quên đi những khoảnh khắc kinh hoàng, tàn độc, dường như cô đã quên những con người đứng trong bóng đêm quá khứ của ông chồng, những cái tên gắn chặt với một kỉ niệm xấu xa khủng khiếp. Còn họ, chắc chắn họ nhớ đến cô, vì những kẻ nép mình trong bóng tối thường nhìn rất rõ người đứng giữa vùng ánh sáng.

Rồi, ngày khai mạc lớp vỡ lòng và mẫu giáo cho trẻ em thôn Thượng đã đến. Tất thảy các bà mẹ đều phải dẫn con mình đến nơi ấy, trong cái ngày vô cùng trọng đại với cuộc đời đứa trẻ. Ở đấy, chúng sẽ được học múa, học hát, học vẽ trên cát và trên bảng. Chúng sẽ học những bài đồng dao đầu tiên. Chúng sẽ học những câu thơ đầu tiên mô tả thế giới xung quanh, cái thế giới mà người ta đã đặt chúng vào và chúng phải khám phá để tồn tại... Bởi thế, ai ai cũng hiểu rằng lớp vỡ lòng và mẫu giáo tuy chỉ là một bộ phận độc lập của trường tiểu học nhưng thực sự lại là lớp học quan trọng nhất, khởi đầu cho tuổi thiếu niên. Không phải trẻ con mà chính các bà mẹ mới là những người hồi hộp nhất. Có lẽ, đấy cũng là ngày hạnh phúc, nếu có thể gọi như thế. Ngày ấy, trái tim xốn xang, những người mẹ dắt con bước qua ngưỡng cửa gia đình để gửi gắm vào một mái nhà khác. Lần đầu tiên, họ tách rời những đứa con để giao phó cho người ngoài. Gần giống như chim mẹ đẩy chim con ra khỏi tổ để chim con buộc phải học bay, có một chút xé lòng, có một chút khắc khoải, có một chút đắn đo, và sau cùng, có rất nhiều hy vọng.

Vào cái ngày trọng đại ấy, chẳng ai nhớ rằng cả thôn chỉ có ngôi nhà duy nhất dành cho hai lớp mẫu giáo lẫn vỡ lòng. Và do đó, sự chạm trán giữa những kẻ vốn là cừu thù sẽ không tránh khỏi. Ấy là một ngôi nhà ba gian cao rộng, toạ trên sườn đồi, dưới bóng mát của một cụm du già, bốn mùa xanh rì màu lá, bốn mùa lảnh lót tiếng chim. Phía trước, một mảnh sân rộng và khá bằng bặn, rải sỏi. Chính giữa sân, một vườn hoa tí xíu trồng chen chúc đủ loại hồng gai, cúc tím và mào gà. Xung quanh vườn hoa là sườn đồi rộng, mọc đầy những thứ cỏ gà, cỏ tóc tiên, cỏ gấu, cỏ chuồn chuồn. Giờ ra chơi,lũ trẻ sẽ tha hồ bò lăn, bò lết. Sườn đồi nghiêng xuống một bờ cây bạch đàn. Bờ cây ấy chạy dọc theo đường thôn, nơi các bà mẹ sẽ từ hai ngả khác chiều đổ tới, hai chiều đó dẫn từ hai khu dân cư thuộc xóm bắc và xóm nam thôn Thượng.

Sáng hôm ấy, cô Ngân cho con ăn sớm hơn thường lệ, rồi tụ tập với những người mẹ trẻ xóm bắc. Hơn một chục bà mẹ, với ngót hai chục đứa bé tạo thành một đoàn vui vẻ. Vừa vượt qua rặng cây, nhìn thấy ngọn đồi lũ trẻ đã nhất loạt chạy lên. Cả bọn vừa chạy vừa la hét. Ngôi nhà trắng với khóm cây du già mời gọi chúng. Trên đó, đã lố nhố những người. Dân xóm nam đi sớm hơn bọn họ. Không gian tràn đầy tiếng nói cười. Hoà vào đó là tiếng chim hót, khúc nhạc rộn ràng làm xanh thêm khung trời xanh ngắt mùa thu.

Như những người mẹ khác, không khí buổi tựu trường khiến Ngân sung sướng. Như họ, cô cũng nói cười xôn xao và đuổi theo đứa con trai của mình. Lũ trẻ luôn luôn nhanh chân hơn các bà mẹ, khi chúng muốn vượt qua những vòng tay giằng trói. Lúc Ngân túm được cu Quế, cũng là lúc cả bọn đã tới sân trường. Trước mặt họ, ngay trước khuôn cửa lớp vỡ lòng, ông giáo Tốn đứng chỉnh tề, kính trên sống mũi, áo sơ-mi gài tận cổ, cuốn danh bạ mở sẵn trên tay. Hai bên ông là hai cô giáo trẻ, cô nào cô nấy diện áo phin hoa, nơ cài trên tóc. Ba người đứng theo đúng đội hình trường học: ông giáo Tốn dạy vỡ lòng, lớp chính giữa. Bên trái là lớp mẫu giáo bé, và bên phải là lớp lớn. Ba lớp ngăn cách nhau bởi những bức tường xây con kiến, quét vôi trắng, trang hoàng bằng những bông hoa vải đỏ. Bức tường chính diện treo tấm bảng danh dự, đề hàng chữ to tướng: "Trò giỏi, bé ngoan."

Tất thảy những con mắt của các bà mẹ tập trung vào đôi kính trên sống mũi ông giáo Tốn, nhân vật quan trọng nhất, con người mà họ sẽ kí thác lũ trẻ, người thầy sẽ dìu dắt chúng những bước đầu tiên chập chững vào đời. Ông giáo dạy vỡ lòng từ thuở còn là một chàng trai, từ thời chính quyền còn nằm trong cái tráp của ông lý trưởng, cái thời mà người ta gọi những ai đi làm nghĩa vụ quân sự là "bị bắt lính", và nhà nào càng đông con trai thì càng phải đóng nhiều xuất thuế đinh. Chiến tranh, cách mạng, trường kì kháng chiến, cải cách ruộng đất rồi lại sửa sai, chia ruộng rồi lại thâu tóm đất đai về một mối, thâu tóm về một mối rồi lại phải san sẻ một phần ra "đất phần trăm của gia đình" vì có nguy cơ chết đói... Tất thảy những biến dời ấy không chạm tới được lông chân ông giáo Tốn, kể ra cũng là một sự lạ lùng. Người thì bảo ông ấy ăn hiền ở lành nên thần linh phù trợ, người lại cho rằng thời nào con người cũng sinh con đẻ cái. Ai ai cũng máu đỏ, ruột mềm. Ai ai cũng muốn con mình trở thành người tử tế. Đã muốn thế thì phải biết kính trọng ông thầy. Theo cái chân lý mộc mạc ấy, ngay cả những kẻ ngu dốt, tàn độc và đểu cáng nhất nhảy lên làm "ông nọ bà kia" trong thời cải cách cũng chẳng dám hạ nhục hay hành hạ cái con người được coi như hiện thân của tinh thần trách nhiệm và tình yêu trẻ. Buổi tựu trường hôm ấy, người ta dán mắt vào cặp gọng kính trên sống mũi ông với niềm tôn kính và sự chăm chú tuyệt đối. Ông già mảnh khảnh, nghiêm trang kia chính là người quyết định phần đầu cuộc đời của con cái họ. Ông giáo Tốn chờ cho moị người tề tựu đủ, nhìn khắp bốn bên để kiểm tra lần cuối xem còn sót ai không. Đoạn ông nâng cuốn danh bạ lên cho vừa tầm mắt. Cuộc điểm danh bắt đầu, theo thứ tự chữ cái, khởi từ những đứa trẻ có tên A: An, Anh, Ánh, Ảnh... Ngân biết rõ con cô sẽ xếp vào gần hạng cuối cùng với vần Q. Nhưng cô lắng nghe tên những đứa trẻ láng giềng, cũng với một tinh thần chăm chú bởi chúng chính là những người bạn đồng môn với con mình.

Bất chợt, cô giật nảy mình khi nghe ông giáo già xướng tên:

- Lại văn Chiến.

Một giọng đàn bà lí nhí đáp lại:

- Dạ, cháu có đây

Ông giáo già đọc tiếp:

- Lại văn Thắng.

Đọc xong, ông ngước lên nhìn mọi người, giải thích:

- Trò Thắng tuy đứng ở vần T nhưng gia đình yêu cầu cho được xếp cùng hàng ghế với anh ruột, Lại văn Chiến. Lý do ấy chính đáng, vì thế tôi đã vượt qua thứ tự chữ cái để gia đình được toại nguyện. Trò Thắng có mặt chưa?

- Dạ, cháu có đây.

Giọng đàn bà lí nhí đáp lại, nhưng chẳng ai nhìn thấy chị ta đâu. Ai đó lên tiếng giục:

- Đưa cháu lên hàng trên. Sao mà luấn quấn vậy?

Nhưng người mẹ vẫn lặng thinh. Lúc ấy Ngân mới hiểu rằng người đàn bà có giọng nói lí nhí, nép mình sau lưng những người khác chính là vợ Quý. Hai đứa trẻ vừa được xướng tên chính là con chị ta. Cả một đám người trồi lên từ vùng sương mù quá khứ. Cái vùng bóng tối mà cô ngỡ đã quên, giờ quay trở lại. Lại văn Chiến, Lại văn Thắng... Chúng đích thị là những cành nhánh có liên đới đến gốc rễ: Lại văn Quảng... Những cành nhánh ấy giằng néo đến đứa con trai xinh đẹp của cô: Lại văn Quế. Và chắc chắn mai đây những gã đàn ông bé nhỏ mang họ Lại này sẽ cùng chạy nhảy, nhào lộn trên sườn đồi đầy cỏ hay dưới bóng những cây du... Ý nghĩ ấy vừa như hiển nhiên vừa lạ lùng và khiến cô hoang mang trong giây phút. Rồi cô thấy ông giáo Tốn sửa cặp kính trên sống mũi, đưa mắt nhìn quanh:

- Nào, hai anh em Chiến Thắng bước lên hàng trên cho các cô giáo rõ mặt. Hai cháu sẽ cùng ngồi một lớp mẫu giáo lớn phải không?

- Dạ, thưa thầy cho cả hai đứa vào lớp bé. Thằng anh hơn thằng em có một tuổi rưỡi, con cho nó ở nhà chơi với em rồi cùng đến trường một thể.

- Thôi được, thế cũng tiện. Nào, đưa các cháu lên đây...

Ông giáo già vừa cười vừa đáp. Những người đứng hàng trên lẳng lặng rẽ sang hai bên để nhường lối cho người mẹ dắt hai đứa con từ phía sau bước lên. Lúc ấy, Ngân mới nhìn ra vợ Quý. Ngay tức khắc, một cơn rùng mình như điện giật toàn thân. Trước mặt cô là một người đàn bà héo rũ như nắm giẻ, gương mặt hóp lại như mặt chim với cái cằm nhọn. Hai quầng mắt thâm tương phản cặp đồng tử bạc phếch khiến cặp mắt chị ta giống mắt của kẻ mắc chứng máu trắng trong thời gian hấp hối. Màu da của chị ta gần như màu da xác chết, với những nếp nhăn dài như nan quạt xếp lại hai bên thái dương và dồn từng nhúm dưới cần cổ. Từ trán xuống mang tai lốm đốm những vết sạm nâu. Không ai có thể tin đó là một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi. Chị ta còn già hơn cả một người ở tuổi sáu mươi vì phía trên gương mặt tàn tạ ấy lại là một mái tóc xơ xác với những lọn tóc bạc trắng chạy từ trán lên đến tận đỉnh đầu.

Có lẽ Ngân đã thốt lên một tiếng kêu hoặc làm một cử chỉ nào đó khiến mọi người quay lại nhìn cô. Lúc ấy, họ mới nhớ rằng cô là người duy nhất trong xã không chứng kiến sự tàn phá xảy ra trong gia đình Quý. Những người khác đã chứng kiến sự suy sụp ấy từng ngày, từng tuần, từng tháng. Họ nhìn thấy những người đàn bà kiệt lực vì sinh đẻ và đói ăn, những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng bụng ỏng, đít vòn. Những gương mặt tối sạm lần lần cùng năm tháng. Họ không ngạc nhiên bởi sự huỷ hoại của đói nghèo đã diễn ra trước mắt họ như một cuộc trượt dài từ trên đỉnh núi xuống chân núi, một chu trình từ cây cỏ non tháng hai cho đến xác cỏ khô tàn vào tháng chín, tháng mười. Với họ, những hình ảnh ấy đã được tập nhiễm, đã trở thành quen thuộc. Chỉ riêng cô, đứng ngoài hiện thực này.

Khi thấy tất cả mọi người quay lại nhìn Ngân, bắt buộc vợ Quý cũng phải ngẩng đầu nhìn kẻ cừu thù. Hai luồng mắt giao nhau, cô Ngân bật lên một tiếng kêu, không rõ vì kinh hoàng, vì sợ hãi, hay vì động tình thương xót. Hoặc là cả ba thứ cảm giác đó hoà trộn thành một mối xúc cảm bất khả duy danh. Rồi nước mắt trào qua mi. Người đàn bà trẻ mím môi, cố giữ lại cơn thảng thốt, nhưng đôi môi cô run bần bật và sau một cố gắng cuối cùng, tiếng khóc tràn qua mọi ghìm nén, bật thành cơn. Ở đầu bên kia sân, vợ Quý cũng run như con cò chịu bão. Chị ta cũng khóc nức nở, cắm mặt xuống mà khóc, nước mắt chảy dài trên gương mặt rúm lại vì đau đớn và tủi nhục. Ai nấy trân trân nhìn họ. Mắt những người đàn bà đỏ hoe. Vài cô gái sụt sịt chùi mũi. Ông giáo Tốn dừng lại cuộc điểm danh. Những đứa trẻ im lặng sững sờ. Không gian bỗng nhiên chỉ còn tiếng gió. Và trên tiếng gió, tiếng chim hót nhởn nhơ.

Như thế, trôi qua những khoảnh khắc mà tất thảy mọi người đều bối rối. Sau đấy, ông giáo Tốn cất lời:

- Nào, trò Chiến, trò Thắng lại đây.

Khi hai đứa bé rụt rè tiến đến trước mặt ông, ông giào già dắt chúng bước về phía mẹ con cô Ngân:

- Đây là trò Lại văn Quế, các trò là những người có cùng một dòng máu. Từ hôm nay các trò sẽ cùng học dưới một mái trường, cùng chơi trên một sân cỏ. Hãy chào nhau đi!

Ba đứa trẻ chưa hiểu nổi những gì người ta yêu cầu chúng phải làm. Chúng nhìn nhau bỡ ngỡ. Một đứa cao lớn, trắng trẻo, sạch sẽ thơm tho từ đầu xuống chân. Hai đứa kia ốm nhách, gương mặt nháo nhác bần hàn. Lúc ấy, vợ Quý tiến đến, đẩy lưng hai đứa con trai:

- Chúng mày chào chú đi. Nói rằng: chúng con xin chào chú Quế.
 

***
 

Sau buổi tựu trường, Xóm Tiều phu sôi động. Nước mắt của hai người đàn bà thù nghịch khơi dậy ngọn gió lành. Phải chăng chúng chính là những dòng suối rửa oán hờn, nơi con người có thể lặn ngụp để tẩy sạch những vết đen trong tâm khảm? Dân quê vốn không thích những lý thuyết mỹ lệ, nhưng họ chú tâm đến các sự việc xảy ra trước mắt mình. Hiện thực quan trọng nhất với họ là hiện thực được cảm thức bằng giác quan. Điều trước tiên họ thấy là cô Ngân đã đứng ra đóng toàn bộ chi phí học hành cho những đứa con trai Quý. Rồi vào ngày ông Quảng trở về, trong bữa cơm tối gặp gỡ láng giềng như thường lệ, Chiến và Thắng được mẹ chúng sai:

- Vào nhà chào bà trẻ. Rồi bà trẻ cho gì thì mang ra đây.

Hai đứa bé vào bếp còn vợ Quý đứng nép ngoài bờ dậu nhà hàng xóm. Lát sau, chúng quay ra, lễ mễ xôi với gà. Ba mẹ con trở về, như đội quân quay về thành trì với chiến lợi phẩm. Lần thứ nhất còn lúng túng, ngượng ngùng. Lần thứ hai, thứ ba trở đi mọi sự diễn ra như một thứ hiển nhiên tuyệt đối. Gặp người làng người xóm, vợ Quý không chờ những câu hỏi xa, hỏi gần, mà gióng giả nói trước:

- Hôm nay trên nhà ông cháu có liên hoan, bà trẻ nhắn lên lấy phần.

Dân làng mừng cho họ, nhưng người ta không khỏi tò mò. Họ muốn biết phản ứng của bậc gia chủ ra sao.

Lần nào đó, nhân dịp cả xóm cùng lên rừng hái củi, một cô bạo mồm bạo miệng hỏi Mơ:

- Thế xôi gà, bánh trái nhà ông nội, bố Quý có ăn không?

- Không. Chẳng những không ăn, lần đầu thấy mẹ tôi vác phần lộc về nhà, ông ấy còn ném vỡ tan cái bình tích.

- Sao lại thế?

- Bởi bố tớ hận, ông ấy chửi: Chúng mày làm nhục ông. Vợ với con toàn lũ khốn nạn, toàn đồ chết giẫm.

- Cho đến tận giờ vẫn thế hay sao?

- Không. Từ lần thứ hai trở đi, ông ấy không chửi nữa. Nhưng ông ấy vào buồng nằm. Mẹ tớ bảo mọi người không được ngồi sân ăn mà phải chui vào bếp.

- Để làm gì?

- Để cho ông ấy khỏi ngứa mắt.

- Vẽ chuyện.

- Ai biết được lòng người?

Cô Mơ kết luận, vẻ bí ẩn. Người ta không thể hỏi thêm điều gì nữa.

Cuối mùa đông năm ấy, Quý bị cảm nhập tâm. Hai đứa con rể phải võng anh ta xuống bệnh viện huyện. Chắc chắn đó là hậu quả của mấy năm quyết chí phục thù, hao tâm tổn sức mà chỉ gặt hái được những thất bại, đắng cay. Cảm cúm là thứ tai nạn mà thảy thảy mọi người đều chạm trán, trừ những ai chân sắt da đồng. Nhưng với người bình thường, khi phải cảm chỉ cần trục xuất gió độc bằng cách cho bệnh nhân nôn, đại tiện hoặc đánh gió, xông hơi, rồi sau đấy cho họ ăn cháo loãng thật nóng và nằm nghỉ. Cảm nhập tâm chỉ xảy đến với những ai đã suy kiệt, cơ thể không còn khả năng chống đỡ sự tấn công của ngọai cảnh. Bị cảm nhập tâm nặng có thể đột tử, nếu nhẹ cũng phải tốt thuốc và bồi dưỡng dài ngày. Buổi trưa Quý ngã bệnh, anh ta vừa đi làm đồng trở về, vừa bước vào giếng dội gáo nước tắm đã lăn đùng ra ngay, toàn thân cứng như đá, da đen tím. Người làng vạch tấm chăn che võng ra nhìn, lắc đầu. Vợ Quý chạy te tái sau, miệng méo xệch, nước mắt chảy dài trên má.

Nhưng chắc hẳn số Quý chưa tận, nên ở dưới viện, anh ta may mắn gặp được một bác sĩ tốt tay nghề và được cứu thoát. Sau ba ngày hôn mê, ngày thứ tư anh ta mở được mắt ra và húp được lưng bát nước cháo. Vợ Quý quay về làng, vì còn một trăm thứ việc phải lo khi ông chồng vắng mặt. Chị ta về buổi trưa, ngay buổi chiều bà Tư móm đã dẫn thằng cu Quế đến cổng, dặn dò:

- Đây là nhà anh Quý, bố thằng Chiến với thằng Thắng. Em cứ đi thẳng qua sân lên nhà trên mà gặp mẹ chúng nó.

Quế bước vào, đi qua sân lên thẳng nhà trên, theo đúng lời chị Tư móm dặn. Ở đó, nó đưa chiếc phong bì dày cộp cho mẹ hai đứa cháu đồng môn:

- Mẹ em bảo đưa cái này cho chị.

Người làng đứng bên ngoài hóng chuyện. Sau cùng, ai nấy đều buông tiếng thở dài:

"Thế gian muôn đời vẫn vậy. Máu chảy ruột mềm..."

Và người ta nhìn lên đỉnh Lan Vu, như thầm cầu xin các vị thần linh chứng giám cho sự thanh lọc của cõi người, xin cho giấc mơ "Phụ tử huyết chiến" được hoá giải, xin cho cuộc sống của sơn dân được vĩnh hằng với những niềm tin và những ước mơ an lành lưu truyền tự ngàn xưa.
 

(Hết) Truyện Xóm Tiều Phu
 

www.geocities.ws/xoathantuong