TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (4)
 

Từ khoảng mồng mười tết cho đến cuối tháng giêng, trời bỗng mưa rào liên tục. Nếu theo thời tiết thông thường những cơn mưa này chỉ có thể đổ xuống vào khoảng đầu tháng tư âm lịch, nghĩa là cuối tháng năm theo lịch phương tây. Những cơn mưa ào ạt, rơi như bão táp trong vòng nửa giờ rồi ngừng lại. Nắng hửng lên, trời bỗng oi nóng một cách khó chịu. Rồi sau đó, gần như một trận tấn công bất ngờ của lũ cướp, mưa lại sầm sập tuôn rơi. Sau những cơn mưa, trời có một màu hồng xám nhợt nhạt, với những vẩn mây bẩn như bụi chì. Người ta ngửa mặt nhìn trời, than:

- Lạ lùng, sao mới tháng giêng đã có mưa rửa đền như vậy?

- Mưa rửa đền tới sớm, cháo cám cũng chẳng có mà ăn.

- Lạy trời, đừng bắt dân khốn khổ thêm nữa. Vừa mới dịch châu chấu rồi lại sâu rầy.

- Ông không tin vào sức người mà chỉ lạy trời thôi ư?

- Sức người có hạn, uy trời vô bờ. Mấy ngàn năm tổ tiên chúng ta lạy trời, nay tôi cũng lạy trời.

- Thôi, lạy trời xong cũng phải tìm cách mà dặm lấy ít khoai... Mưa sớm thế này, lợi dụng làm thêm vài luống khoai trái vụ. Nếu không may mất lúa thì còn có thứ mà bỏ vào dạ dày.

Người ta rủ nhau đi dặm khoai trái vụ. Rồi tiếp đó, người ta rủ nhau lên rừng hái nấm. Mùa này, nấm mọc như sung, mỗi buổi đi gặp may có thể hốt đầy bao dăm, bẩy cân tây hoặc hơn nữa. Nấm tươi xào mỡ lợn xuông cũng ngọt. Nhà nào xôm cho thêm vài lạng thịt bò ướp tỏi và lá ngò gai thái miến thì tuyệt vời, chẳng cần nêm gia vị hay bột ngọt vẫn ăn đứt nấm xào trong khách sạn thủ đô. Đối với những nhà đang còn nuôi con nhỏ, các bà có thể vằm nấm tươi với thịt thăn và hành hoa rồi đem viên theo kiểu viên bún mọc, sau đó nấu cháo hoặc nấu canh rau ngót rừng hay hoa lý. Tuy nhiên, người ta không chỉ hái nấm để ăn mà còn hái nấm để phơi khô, sấy khô đem bán. Quanh năm các cửa hàng ăn thành phố, từ thủ đô cho tới các thị xã miền xuôi lẫn miền ngược đều cần tới nấm khô. Bún mọc, bún thang, bóng nấu tôm, măng nấu sườn... tất thảy những thứ ấy đều phải có dăm cánh nấm mới dậy mùi. Ấy là chưa kể tới các món xào, các món hầm, hoặc món chưng cách thuỷ nơi cao lâu, tửu quán... Nấm đối với dân vùng này không nhẹ cân hơn lúa, khoai mì và những nguồn thu khác. Như thế, mùa nấm cũng giống mùa gặt lúa dưới châu thổ sông Hồng, vừa là mùa làm ăn vừa là một dịp chính đáng để tụ họp vui vẻ nên mọi người khó bỏ qua.

Mùa nấm năm nay là mùa nấm đầu tiên cô Ngân lên rừng với đám đàn bà Xóm Tiều Phu. Cũng chính là cơ hội đầu tiên để một cô dâu xứ lạ tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng. Thoạt tiên, cô đi với bà Tư Móm, vị thần bảo trợ và người thân thiết nhất với cô sau đức lang quân. Rồi khi mối bang giao xóm giềng đã khá mặn nồng, hoặc là làm ra vẻ mặn nồng, cô đi với mấy bà, mấy cô liền dậu. Mỗi tốp như vậy khoảng từ năm đến mười người. Họ cùng nhau mang theo đồ ăn và thuốc phòng rắn độc. Mỗi năm chỉ có một mùa hái nấm chính thức nên đàn bà con gái Xóm Tiều Phu đổ hết lên rừng.Vợ con Quý đương nhiên cũng đi nhưng họ nhập vào tốp khác, và cả hai bên đều tìm cách tránh mặt nhau. Tuy nhiên, dù muốn hay không, cũng vẫn có những cuộc chạm trán. Bởi đường lên rừng buộc phải qua những trảng cỏ hẹp nơi lòng thung hay những con dốc độc đạo. Người ta không có cách chi tránh được những lối đi bắt buộc ấy. Cái sự chạm trán giữa những kẻ cừu thù đương nhiên phải xẩy ra trước mắt láng giềng. Sau mỗi lần, thiên hạ lại trần thuật một cách rộng rãi khắp xóm cùng thôn, giống như cuộc trần thuật những trận bóng đá tranh giải quốc gia hay quốc tế xảy ra tại các câu lạc bộ thành phố. Theo cách đánh giá chung của người làng, vợ con Quý ỷ vào hai thế: Trứơc hết, họ là dân sở tại, mà cái thói: "Ma cũ bắt nạt ma mới" vốn là thói quen đã hiện hành hàng nghìn năm. Thứ hai, họ lại là số đông, bởi họ có những ba mẹ con, trong khi đối phương đơn thương độc mã. Thế nhưng, điều oái oăm là cả hai thế mạnh kia đều không chạm tới được lông chân cô nàng áo xanh của ông Quảng. Người ta kể một cách chi tiết rằng, ngay lần chạm trán đầu tiên, vợ Quý chiếu vào mặt cô Ngân một cái nhìn đầy vẻ khiêu khích và phỉ báng, ngay tức khắc cô Ngân cũng quay đầu, giương mắt trừng trừng nhìn lại địch thủ, không lùi một phân. Kể về sức lực cũng như tinh thần thì cô ta uy hiếp hẳn người con dâu của ông chồng, nhỏ bé quắt queo nặng không quá bốn mươi cân, cổ dúm lại như cổ bà lão. Nếu hai đứa con gái nhà Quý nhổ nước bọt một lần, tức khắc cô Ngân nhổ hai lần trả miếng. Những cuộc chạm trán thù địch như vậy thường diễn ra trong sự im lặng của dân làng. Mọi người đếu cúi mặt làm ngơ, chẳng ai dám lên tiếng can ngăn hay hoà giải. Một lần nào đấy, đứa con gái nhỏ của Quý, chanh chua thách thức:

- Giỏi thì chơi?

Cô Ngân cười khẩy, vênh mặt lên:

- Chớ cậy thứ luật: "Hai chọi một, chẳng chột cũng què". Tao đây, tao chấp cả ba chọi một. Dám hay không?

Lúc này, chính ba mẹ con nhà Quý lại phải nuốt hận làm thinh vì nhìn tình thế, rõ ra cô thợ quét vôi kia có thể tả xung hữu đột với cây trượng của ông chồng giáng cho họ những đòn chí tử. Và chắc chắn không một người láng giềng nào dám đứng vào bè với họ để đánh lại cái "con đĩ áo xanh kia". Sân nhà "Con đĩ áo xanh" giờ đây đã trở thành câu lạc bộ của người làng, còn có phần đông vui gấp bội thời bà Quảng còn sống. Người ta đã ăn đã uống, đã vui vẻ chuyện trên trời dưới biển trong ngôi nhà ấy, người ta, dẫu trong lòng có muốn, cũng không thể quay đầu lại đánh gia chủ.

Thời gian này, chẳng thấy chủ tịch Quý đâu. Mọi thứ giấy má của dân xã, đã có ông phó chủ tịch lo liệu. Nghe đâu có đợt tập huấn mười hai ngày dưới huyện dành cho các chủ tịch xã, sau đó tiếp đến cuộc tập huấn mười ngày dành cho các bí thư xã. Quý vừa là chủ tịch vừa kiêm nhiệm phó bí thư. Tập huấn xong bên chính quyền, anh ta ở lại luôn dự đợt tập huấn đảng thay cho ông bí thư ở nhà nuôi vợ đẻ.

Trước khi đi, anh ta rẽ qua nhà cô Vui:

- Ông bố tôi biết chuyện cô về làng Khoai rồi hả?

- Chứ anh tưởng giấu được ông ấy hay sao?

- Ông ấy có tra hỏi gì không?

- Anh không hiểu bố anh. Ông ấy chẳng thèm động dạng tới chuyện đó. Ngay một nửa chữ.

- Bố tôi không vừa đâu.

- Anh chẳng phải dạy.

- Thế hai người nói chuyện gì?

- Chuyện trồng mai, trồng đào phai hay bích đào... Chuyện nuôi ong, thay giống, hớt phấn hoa hay cải tiến kích thước đõ. Thiếu gì việc ông ấy quan tâm.

- Giờ tôi hỏi cô sự này: Cô có chắc hai người ấy đăng kí được ở làng Khoai hay không? Bởi lão giáo làng Khoai lại là cháu ruột chủ tịch xã?

- Người ta đoán vậy thôi, chẳng ai chắc. Một mặt, chủ tịch xã không thể phỉ báng cháu ruột mình. Bởi nếu ông ấy công khai làm đăng kí kết hôn cho cô Ngân khác nào dáng cho cậu cháu một cái tát. Nhưng mặt khác...

- Mặt khác làm sao?

- Tôi không biết được.

Cô bí thư buông câu nói nửa chừng vì trong óc cô hiện lên những ngôi nhà mà ông Quảng đã ra tay xây dựng. Chủ tịch làng Khoai không được hưởng một cơ ngơi đồ sộ như thế, nhưng ít nhất ông ta cũng đã được thay mái ngói, thay bốn bức tường lồi lõm cong queo thành những bức tường gạch phẳng phiu, trát xi-măng từ ngọn tới gốc, lại quét vôi vàng sáng choé... Thêm nữa, chân tường cũng chạy diềm sỏi trắng như kiểu nhà công sở, đối với dân làng Khoai, đấy hẳn đã là cách chơi sang. Chưa hết, mảnh sân cũng được lát gạch lá nem và có tường hoa bao quanh. Như thế, nhà ông ta tuy vẫn chỉ một tầng nhưng trông khang trang, lộng lẫy như con công đứng giữa đám gà vịt đói lông cánh xơ xác xung quanh. Rõ ràng là của cải từ túi bà giáo làng Khoai chảy ra để đắp đổi cho ngôi nhà này không phải ít.

Quý sốt ruột trước vẻ ỡm ờ của Vui. Anh ta cau có dằn giọng:

- Cô bảo sao? Làm gì mà nửa kín nửa hở như vậy?

- Tôi không biết được.

- Cô không biết thì còn ai biết? Cô là người duy nhất ở Xóm Tiều Phu đi đến tận làng Khoai.

- Vì thế nên tôi sẽ phải hứng đòn của ông bố anh. Mà anh cũng không thể giơ lưng chịu thay tôi được.

Cô Vui nổi khùng quát trả lại, giương mắt nhìn Quý, hai kẻ a tòng nhanh chóng biến thành thù nghịch sau cái nhìn hờn oán. Rồi sau một tích tắc bất động, cô gái già bất chợt vùng đứng lên xô ghế và vung tay như đuổi gà:

- Tôi đã bảo không biết tức là tôi không biết. Muốn rõ đầu đuôi, anh về làng Khoai mà điều tra.

Quý không nói thêm nửa lời, mặt đen sầm như đám mây trước cơn mưa bão. Anh ta ra cửa, cô Vui quay lưng vào buồng trong, chẳng ai chào ai.

Ở dưới huyện, nhưng gan ruột Quý cồn cào như ăn phải thuốc phiện sống. Giống mảnh vải bị cuốn vào guồng bánh xe, lòng thù hận khiến anh ta quay đảo, khắc khoải không nguôi... Anh ta không còn nhìn thấy vật gì ngoài "con đĩ áo xanh". Con đĩ áo xanh, kẻ bất chợt từ trên trời rơi xuống hoặc từ một miền đất lạ gió cuốn tới đây...

"Con đĩ áo xanh! Kẻ thù sinh tử của ta!"

"Con đĩ áo xanh!"

Nhưng vì đâu mà có lòng căm thù ấy? Quý không thể tự hỏi vì anh ta không đủ sáng suốt lẫn can đảm để làm điều ấy. Bởi chính anh ta cũng không hiểu vì sao mình căm thù người đàn bà khác xứ kia đến như vậy. Dường như lòng căm thù này là một loại mèo hoang hay chó lạc bỗng dưng từ đâu đó chạy thẳng vào sân nhà cất tiếng gào dã man cất tiếng sủa điên loạn. Hoặc như thứ hạt mầm cay độc cơn gió lang thang bỗng dưng mang tới, cấy vào trái tim con người, ở trong đó, nó nảy mầm, đơm lá, những chùm rễ sinh trưởng mau hơn loài thuỷ tức, lan toả, len lỏi, ăn sâu vào từng tế bào và con người khốn khổ không còn là gì hơn một thứ xác chết vận hành dưới những sợi dây điều khiển của lòng thù oán. Những dòng chữ thường xuyên hiện lên trong óc não, những tiếng nói thường xuyên vang lên bên tai Quý là:

"Con đĩ áo xanh, kẻ sẽ chiếm mái nhà mà ta có quyền thừa tự, kẻ khiến cho gia đình ta tan vỡ, cha con chia lìa và mẹ ta phải ngậm hờn nơi chín suối."

Tuy nhiên, anh ta chưa bao giờ dám thú nhận với chính mình rằng cái "con đĩ áo xanh kia" còn khiến anh ta mất hoàn toàn thăng bằng mỗi khi gặp mặt. Rằng ngay lần đầu chạm trán cô ta, toàn thân Quý đã hầu như tê liệt, giống như một con cua trong tầm tay vồ của con ếch, co rúm cả tám càng lại chờ phút khai tử, hoặc giống như một con chuột hoàn toàn bị đông cứng tứ chi mất hết khả năng tự vệ trước cặp mắt thôi miên của loài rắn. Khoảnh khắc ấy, toàn thân anh ta lạnh ngắt như tử thi rồi sau đó lại bừng bừng như đám cháy, và những cảm giác tột độ trái chiều như thế cứ lần lượt đổi thay nhau. Ngay lần ấy, anh ta đã cảm thấy sinh mệnh của mình từ nay thuộc về một kẻ khác, và cái thân xác anh ta đang cư trú chẳng qua cũng chỉ còn là vỏ của một con tàu mà bánh lái lẫn những ngọn buồm đã bị điều khiển bởi bàn tay một ác thần vô hình đầy quyền năng. Kể từ ngày ấy, cứ mỗi lần nhìn thấy đôi mắt nhóng nhánh đen huyền của cô ta là máu trong huyết quản Quý lập tức sôi lên. Cái thứ máu sôi sục trong thân xác đó thổi lên trên mặt anh ta một đám cháy, khiến da mặt anh ta bỏng rát trong khi đầu óc quay cuồng, và mọi vật bỗng trở nên bồng bềnh mờ mịt như bị nhìn qua đám khói đốt rạ giữa cánh đồng. Anh ta cũng không kịp nhận ra rằng khi thấy cô ta, cổ họng anh bỗng dưng bị nghẹn, kiểu như người ăn khoai bị nghẹn vì nuốt nhầm thứ khoai quá bở lại không có nước chiêu. Và hơi thở của anh ta cũng bỗng nhiên thiếu hụt như kẻ leo núi cao mà không còn đủ sức. Sáng mồng một, để giữ được vẻ bình tĩnh khi đối đáp với người cha, Quý đã phải tự cấu vào lòng tay mình cho đến nỗi máu tụ đen bầm sau đó. Rồi tới lúc bị ông bố đuổi, bầu đoàn kéo nhau qua sân anh ta vẫn cảm thấy nửa bên mặt hướng về phía gian bếp bị tê liệt vì chờ mong "cái con đĩ tử thù kia" xuất hiện lần nữa. Một nỗi ước mong thầm kín bất khả nhận diện và bất khả kiềm chế khiến anh ta bước đi một cách vô hồn như sự vận hành của một zombie. Mảnh sân quen thuộc nơi nhà bố mẹ đẻ bỗng trở thành một sa mạc bất trắc. Và khuôn cửa nhà bếp bỗng trở thành cửa một hang đá bí ẩn nơi có nguy cơ xuất hiện một loài thú huyền diệu có khả năng dẫn tới cùng một lần địa ngục lẫn thiên đường. Anh ta đã đi qua mảnh sân ấy với cơn bão lốc cuồng nộ trong tâm hồn... Nhưng cô Ngân đã cố thủ bên trong. Cuộc tấn công của anh ta thất bại hoàn toàn mà không có mảy may an ủi hay cứu rỗi...

Giờ thì những cuộc chạm trán thù nghịch giữa "con đĩ xinh đẹp" kia với vợ con anh ta đã diễn ra mỗi ngày mỗi căng thẳng. Lòng căm thù của anh ta cũng càng ngày càng ngùn nghụt bốc cao:

"Con Vui đã trở mặt, nó không còn muốn giúp ta nữa. Con voi cái thiếu đực này chắc đã ngã lòng trước ông bố của ta. Lão già ăn hết mọi phần lộc của thiên hạ."

Quý ngẫm nghĩ với nỗi đau đớn rằng sẽ chẳng bao giờ anh ta với được đến vai ông bố, không chỉ vì tầm vóc bên ngoài mà còn vì biết bao điều khác. Và cái ý nghĩ này dầy vò anh ta cả ban ngày lẫn ban đêm, cả lúc ăn lẫn khi ngủ. Sau những ngày đêm liên tục bị nghiền nát dưới cảm thức về sự thua thiệt và tủi hổ, đôi khi anh ta ngồi làm phép tính cộng trừ tuổi tác giữa ông bố đẻ với mình. Chỉ khi đó, Quý mới tìm được nguồn an ủi. Muốn hay không, anh ta cũng còn trẻ, và tuổi trẻ là sức mạnh vô địch. Trời cho anh ta thời gian. Trời cho anh ta cơ hội. Có một khác biệt không thể chối cãi, một vực sâu không thể san lấp giữa một ông già sáu mươi mốt với một người đàn ông tuổi bốn mươi:

"Ta không thể chấp nhận để mình bị gạt ra ngoài lề và thành kẻ trắng tay. Cuộc đấu không thể kết thúc dễ dàng như vậy. Ta còn cơ hành động. Chẳng cần cái con gái già kia, ta vẫn có thể làm mọi sự một mình."

Ý nghĩ cuối cùng nung nấu Quý trong suốt ba tuần lễ tập trung nghe huấn thị của cấp huyện và cấp tỉnh. Khi đợt huấn thị kết thúc, anh ta bỏ bữa cơm liên hoan bế mạc dông thẳng xuống thành phố, nơi công trường tỉnh uỷ. Người làng báo cho anh ta biết rằng ông Quảng đang còn ở lại Xóm Tiều Phu để giúp cô vợ trẻ phơi sấy nấm. Thực là cơ may. Tại công trường, Quý tránh khu vực của đám thợ nội tỉnh vì đa phần đều là người trong huyện do ông Quảng tuyển lựa. Anh ta phải lân la ở dãy quán bán cơm bên ngoài khá lâu nhằm dò cho ra khu nhà mà đám thợ Hà Tây, lũ "gái công trường" trú ngụ. Tìm ra "hang ổ" của con đĩ áo xanh rồi, Quý còn phải ngồi chờ ngoài quán cơm cho đến khi trời sẩm tối, anh ta mới dám mò vào công trường sau khi mua hai bao thuốc làm quà cho gã gác đêm:

- Tôi có cậu em họ làm việc trong đội nề của ông Quảng. Nó đang tìm hiểu một cô thợ quét vôi Hà Tây. Chú thím tôi nhờ tôi kiểm tra xem tình hình sinh hoạt của cô ta có được lành mạnh hay không để còn quyết định tổ chức đám cưới. Lý do chính đáng như vậy, hy vọng rằng đồng chí có thể giúp đỡ tôi.

- Đồng chí có giấy tờ chứ?

- Có ngay đây.

Quý chìa chứng minh thư kèm theo theo giấy triệu tập chỉnh huấn của huyện. Người gác cổng chúi mũi xuống đọc. Sau đó, anh ta ngẩng lên nhìn Quý với vẻ nịnh bợ:

- Mời đồng chí vào. Cẩn thận những khúc đường trơn vì giờ này chúng tôi tắt nửa số đèn, khu vực thi công còn nhiều đoạn lầy lội. Chúc đồng chí thành công.

- Cảm ơn.

Chủ tịch Quý đáp một cách hài lòng. Vẻ khúm núm của người gác cổng khiến anh ta thấy tự tin hơn, phấn chấn hơn.

Từ cổng công trường tới khu vực ăn ở của thợ không gần. Đi rảo bước cũng phải mất hơn nửa tiếng. Vừa đi, Quý vừa suy tính cách tiếp cận với đám thợ quét vôi, những kẻ không mảy may quen biết. Một lần nữa, cái bóng sừng sững của người cha lại đổ xuống, trùm lấp. Quý biết rằng anh ta không có khả năng chinh phục, anh ta thiếu duyên giao tiếp. Những điều mà ông Quảng có thể nói ra một cách dễ dàng trong giây phút anh ta phải suy ngẫm đắn đo, tìm lời sắp ý một cách khó khăn. Theo rõi ông bố từ tuổi thiếu niên, Quý ngạc nhiên vì hầu như ông ta không cần suy tính gì trước, khi sự việc đến, tức khắc cách phản ứng, những lời lẽ đối đáp như dòng suối bất thần chảy tới, hoặc như mạch nước ngầm từ trong núi đá tuôn ra. Quý chứng kiến khả năng ứng biến tài tình của người cha, vào chính những dịp ông dẫn anh ta xuống xin học dưới tỉnh. Thoạt tiên là trường trung cấp hàng hải vì thuở nhỏ Quý thích gấp thuyền, tắm suối và giấc mơ tuổi mười ba của anh ta là trở thành thuỷ thủ. Nhưng ngay lần thứ nhất tham quan tầu thuỷ, Quý đã say sóng đến nỗi cả tuần sau đứng lên vẫn xây xẩm mặt mày, anh ta nằng nặc xin bố cho chuyển sang trường trung cấp cơ khí. Với nghề cơ khí, Quý theo học được hơn một năm, nhưng cho dù hết sức cố gắng và cho dù ông Quảng không tiếc công tiếc của nhờ các thầy giáo trong trường lẫn các quản đốc công xưởng kèm cặp, Quý cũng không đủ khéo léo và kiên nhẫn để có thể trở thành thợ tiện mức trung bình. Sau thất bại này, mới đến trường trung cấp lâm nghiệp, cây cầu cuối cùng để sau đó anh ta phải rút ván và không bao giờ dám mơ tưởng quay lại bất cứ mái trường nào nữa. Sự thay đổi liên tục các trường trong hệ thống hành chính nhiêu khê, phiền toái như thế, ai nghe cũng lè lưỡi lắc đầu, vậy mà Quý thấy ông Quảng phẩy tay nhẹ như bấc. Dường như con người đó sinh ra để thành công, ông ta có tất thảy những phẩm chất của kẻ thành đạt.

Nhưng một khi ông ta đã hưởng hết mọi quà tặng của số mệnh, con cái sẽ phải chịu hẩm hiu...:

"Trời cho người này, trời rút trong túi người kia!"

Quý đinh ninh như vậy. Không hiểu từ đâu, mà anh ta có cái kết luận lạ lùng đó. Có những ý nghĩ quái đản mọc rễ trong óc con người mà không ai nhổ bật lên được. Phải chăng vì có những thứ tâm hồn u ám chỉ thuận lợi để nuôi dưỡng sự hằn học, ghen tuông giống như những đầm lầy chỉ có thể làm nảy sinh loài rong đuôi chồn, cỏ mực?

Khu nhà dành cho các nữ công nhân ồn ã nhất là sau bữa cơm chiều. Đây là giờ các bà các cô ăn cơm xong, ngồi túm tụm chơi tu-lơ-khơ hoặc chuyện gẫu. Mùi ngô rang bay thơm lừng. Các bà nạ dòng vừa đánh bài vừa ăn kẹo lạc và ngô rang. Còn những cô trẻ nhất đang kề mặt dưới ngọn điện mà tỉa lông mày, thứ chăm sóc dung nhan ít tốn kém nhất. Quý phải dừng lại ngoài cửa vì nghe tiếng quật bài đen đét, tiếng cười sằng sặc, tiếng nói quang quác của họ. Một thứ thực tiễn mà anh ta chưa chạm trán bao giờ. Đàn bà Xóm Tiều Phu không dám cười sằng sặc như thế, cũng không dám la hét và quát tháo hệt như lũ đàn ông quanh chiếu bài. Nói cho thật đúng, đàn bà Xóm Tiều Phu không được phép chơi bài. Họ có nhiều việc trong nhà và trong bếp:

"Rõ là mấy con đĩ công trường, thiên hạ chửi không ngoa. Đúng là lũ ngựa cái được xổ chuồng tháo cũi."

Anh ta thầm nghĩ, cảm thấy hả hê khi con đĩ áo xanh chính nảy nòi từ đây, giữa bọn đàn bà mất nết này. Ông bố chẳng có lý do gì để quá tự hào vì một cô vợ như thế... Trong khi Quý tần ngần nghĩ ngợi, một cô gái trẻ vừa sửa sang xong cặp lông mày bỗng dưng bước ra ngoài. Thấy bóng đàn ông nép trong bóng tối, cô ta kêu thét lên:

- Ối giời ơi!Ai? Ai thế?

- Tôi... tôi...

Quý lắp bắp trả lời:

- Tôi là người nhà cô Ngân... Hà Tây... Tôi đến tìm cô ấy...

Tiếng kêu thét của cô gái kéo cả lũ các bà các cô đổ ra cửa. Họ vây lấy Quý, người đang còn nhai dở ngô rang, kẻ đang cầm cỗ bài, cả bọn nhìn chòng chọc khiến anh ta thấy đôi chân bỗng dưng mềm nhũn ra như muốn chạy trốn khỏi cơ thể:

- Ngân nào nhỉ, Ngân thối tai hay Ngân Quảng?

- Ngân... Hà Tây... Ngân làng Khoai.

- A... Thế là Ngân Quảng. Nó đi lấy chồng rồi, họ hàng sao chẳng biết?

- Tôi cũng đi thoát ly dưới Ninh Bình từ mấy năm nay...

Quý đáp. Các bà các cô nhìn anh ta từ đầu đến chân một cách tọc mạch, và ngờ vực:

- Anh họ hàng thế nào với nó?

- Tôi với cô ấy là... con cô con cậu...

- Con cô con cậu hay anh em... thông ruột? Cứ khai thật ra rồi chúng tôi khắc mách đường mách nẻo cho mà tìm.

Quý im lặng, mặt bỗng dưng nóng rần rật và mạch máu nhảy như đánh trống hai bên thái dương. Anh ta không biết đối đáp ra sao với lũ đàn bà dạn dĩ này. Trong khi đó các bà các cô nhất loạt phá lên cười ngả cười nghiêng, giống như họ được xem một màn hề chèo tuyệt đỉnh. Những ánh mắt tinh quái của họ chiếu vào mặt Quý giống những mũi kim châm khiến anh ta ê ẩm da thịt. Lát sau, anh ta hắng giọng, cố gắng nói một cách từ tốn và bình thản:

- Các chị hay đùa quá. Tôi đến đây thăm hỏi thật tình.

Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi nhất, sau khi lau nước mắt bằng ống tay áo, thu cỗ bài dang dở lại và bảo Quý:

- Thôi được, nếu anh đã muốn nói thật tình, chúng tôi sẽ bảo anh tình thật. Đùa một chút cho vui thôi. Mà cho dù anh là họ hàng con cô con cậu hay nhân tình nhân bánh thì cái sự ấy cũng chẳng dây gì đến chị em chúng tôi. Nếu đúng anh muốn hỏi cô Ngân làng Khoai thì cô ấy bỏ công trường theo chồng về làm trang trại. Chồng cô ấy là ông Quảng, xếp điều hành toán thợ tỉnh sở tại chứ không phải những kẻ đi làm mướn xứ người như chúng tôi đây. Anh muốn rõ thêm, sang khu nhà A 7, A 8 mà hỏi. Thợ ở đấy toàn một tay ông Quảng tuyển về. Họ biết rõ hơn chúng tôi.

- Cảm ơn chị, vậy cô Ngân cưới vào thời gian nào?

- Chịu! Không ai biết.

- Tôi tưởng công nhân xây dựng gia đình, ban tổ chức công trường có nhiệm vụ giúp đỡ?...

- Công nhân cũng dăm bẩy loại công nhân. Chúng tôi đây chỉ là dân quê chân đất được tuyển tạm chứ có đứng trong biên chế nhà nước đâu mà được quyền đòi hỏi. Vả chăng tình cảnh gia đình cô Ngân cũng rắc rối lắm. Họ không thể cưới xin bình thường như những người khác.

Một cô trẻ tuổi đứng cạnh chêm vào:

- Nghe nó nói là có cưới xin đàng hoàng mà?

Cô khác ngắt lời ngay tức thì:

- Cưới cái con khỉ...

Đoạn quay lại cô kia, cấm cảu:

- Cưới xin gì mà nó im ỉm như ngậm hột thị thế?

- Nó đã chẳng mời bọn mình bún chả với bánh kẹo nhoè bữa chia tay rồi còn gì?...

- Liên hoan chia tay là một việc, cưới xin danh chính ngôn thuận lại là việc khác. Mày to đầu mà sao ngu thế?

Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi mắng cô gái. Đoạn bà cúi xuống nhìn cỗ bài trong tay. Quý biết rằng đã đến lúc phải chuồn, anh ta cúi chào mọi người:

- Xin cảm ơn các chị, các cô.

- Không dám.

Anh ta vừa quay lưng đi đã nghe các đám đánh bài hò nhau vào chiếu. Những tràng cười ròn rã lại nổ như bắp trong nồi rang. Trong khung cửa sáng, bóng con gái đi qua đi lại, cô áo trắng, cô áo tím, cô áo hồng:

"Mấy con đĩ ngựa xổng chuồng."

Quý lầm bầm trong họng, nhưng mắt vẫn dán vào khung cửa hình chữ nhật sáng loá điện. Có cái gì nơi đó hút anh ta như nam châm hút sắt? Anh ta không biết. Nhưng đứng hồi lâu trong bóng tối, thầm lén nhìn những người con gái kia, anh ta bỗng cảm thấy như vừa đánh mất cái gì đó, một sự mất mát mà anh ta không hình dung nổi và cũng chẳng hiểu vật bị mất là cái gì. Cố cắt nghĩa những điều xảy ra trong lòng mình mà không thể được, Quý tự hỏi:

"Cái gì nhỉ? Ta đánh mất vật gì? Ta muốn điều chi?"

Không có lời giải đáp. Rồi bất chợt một cơn tức giận xộc lên họng mặn chát khiến anh ta phải bật thành lời:

"Đúng là lũ ngựa cái động đực, thằng nào rước phải thứ của nợ như chúng mày chẳng chết sớm cũng chết muộn. Rõ ra thứ gái công trường. Con đĩ kia trước đây vài tháng cũng ra ra vào vào õng ẹo như thế."

Trong đêm, tiếng anh ta vang rất to, dội qua những khu nhà thô rỗng vọng lại khiến anh ta đâm hoảng. Sợ đám người trong nhà nghe thấy Quý vội quay đầu chạy. Đường công trường len lách giữa những đống cát sỏi, những đống gạch ngổn ngang cao thấp, những đống xà giầm, những cối vữa dùng dang dở được ủ lại bằng nhiều lượt bao tải ướt. Trong bóng tối, thần hồn nát thần tính, Quý đạp lên một viên đá cục, ngã bổ nhào vào đám vữa đang còn nhão. Vữa lấp đầy mặt lẫn một bên vai và cánh tay anh ta. Khi đứng lên được, Quý mới nhận ra tình cảnh của mình:

"Thế này mặt mũi nào mà đi ra phố?... Mà trước khi ra phố lại còn phải qua mặt thằng gác cổng?"

Anh ta bỏ chiếc cặp da bò xuống, lục tìm các ngăn xem liệu có tờ báo nào có thể vò nhầu để lau đỡ khuôn mặt nhem nhuốc của mình. Lúc ấy,nước vôi đã kịp ngấm vào một bên mắt khiến anh ta buốt rát. Cơn buốt rát mỗi lúc mỗi tăng theo cấp số nhân, một sự gia tăng kinh hoàng. Cơn đau nhục thể ấy rút lên tới tận đỉnh đầu hoà với một nỗi đau khác, còn khủng khiếp hơn, ý thức về sự bất khả và nhục nhã. Nước mắt anh ta tuôn ra, hoà lẫn chất vôi khiến cho cả khu quầng mắt và gò má bỏng rát như bị chà lửa. Rồi nỗi đau đớn đẩy bật lên những tiếng nức nở. Người đàn ông đã ngoại tứ tuần hốt hoảng vì không thể kìm nén khóc. Những cơn nức nở buột khỏi sự gìm nén của anh ta, giống sợi dây diều tuột khỏi tay đứa bé chơi diều, như dòng lũ phá sập bờ đê để tuôn tràn như thác đổ. Trước mắt Quý chỉ còn lại một không gian mênh mông, trong đó những con thác đen không ngừng tuôn xối xả. Dường như toàn bộ máu trong huyết mạch anh ta giờ đây đã trở thành đen, đen tuyền, đen kịt. Những dòng máu đen lan toả khắp cơ thể. Toàn thân Quý run lên trong một nỗi thèm khát điên cuồng: Cần phải cắt cổ ai đó, cần phải đập vỡ sọ ai đó, cần phải chà nát ai đó dưới chân cho hả cơn đau đớn mà giờ đây anh ta đang phải chịu. Vừa chùi bộ mặt lem luốc vôi vữa, Quý vừa nhắm chặt mắt lại để nước mắt có thể rửa trôi đi phần nào chất vôi bám quanh bờ mi. Và lúc đó, trong óc não, anh ta thực hiện mọi cuộc trả thù: Anh ta đốt cháy khu nhà lộng lẫy của tỉnh uỷ. Anh ta cầm súng lia vào đám đông hội nghị như đứa bé lấy roi quật nát một tổ kiến, anh ta cưỡi lên đầu bí thư tỉnh uỷ, cái lão bụng phệ đã một lần mắng anh ta như mắng trẻ lên ba trong hội nghị đảng bộ tỉnh, anh ta cầm con củ tia vọt nước đái vào cái mặt phương phi nhờn những mỡ của lão, anh ta khạc lên mái tóc hoa râm mĩ miều lúc nào cũng rẽ đường ngôi thẳng tắp của lão, anh ta trèo lên xe Volga chễm chệ ngồi và bắt lão chạy bộ ngửi đám bụi mù mịt ở đuôi xe...

...Hình ảnh sau cùng lưu lại trong đôi mắt bỏng loét của Quý là hình ảnh chính anh ta đang cưỡi lên ngực một con đàn bà trần truồng, trắng nõn. Anh ta bóp nặn, cấu chí, rồi cắn rách đôi vú của ả. Vết răng anh ta hằn rõ như vết răng loài sói trên bờ những vết thương, nơi máu ri rỉ chảy ra. Đôi núm vú nhỏ của cô ta sắp đứt chỉ còn lủng lẳng bám vào bầu vú nhờ một mẩu da nhỏ, giống như hai hạt sen. Anh ta cúi xuống dứt đứt chúng bằng những ngón tay đen đủi của mình, với niềm khoái trá như đứa bé vặt chân con châu chấu. Rồi anh ta hiếp ả. Hiếp, với tất cả đam mê và căm uất tích tụ từ bao nhiêu kiếp sống. Hiếp, như cách duy nhất để có thể tồn tại trên mặt đất này. Anh ta hiếp ả no nê từ lúc mặt trăng mới lên cho đến tận trưa hôm sau, giờ ngọ, khi mặt trời in bóng các vòm cây tròn xoe trên mặt đất. Anh ta hiếp ả từ khi da thịt ả mơn mởn như mỡ đông, hồng tươi như vỏ trứng gà cho đến lúc da thịt ả trở nên mềm oặt, phôi phai, lợt lạt và sau rốt trong suốt như đám trứng ếch. Anh ta hiếp ả từ lúc ả xinh đẹp như bông hồng mùa xuân cho đến khi ả suy nhược, mệt lả, đến độ chỉ còn thoi thóp thở và khi anh ta đứng lên, cài khuy quần, ả hoàn toàn tan rã như đất mủn. Chỉ còn lại trên mặt đất một mớ giẻ lươm tươm, rách nát.

Một mớ giẻ màu xanh.
 

***
 

Mùa hái nấm qua đi như một thứ hội hè. Người ta thường nói tháng giêng là tháng ăn chơi, nhưng với dân Xóm Tiều Phu, tháng giêng lại là tháng làm cật lực. Trừ những ngày mồng bẩy, mồng tám và ngày mười bốn, mười lăm, dân chúng đi lễ chùa, không nghĩ tới đồng tiền bát gạo. Thời gian còn lại, ngày nào cũng được hoạch định ra tiền:

- Hôm nay nhà chị được bao nhiêu?

- Năm cân bẩy.

- Thế cũng tàm tạm.

- Tạm làm sao? Thua xa nhà con Minh thôn Hạ. Nhà ấy cũng một mẹ một con như nhà tôi mà mỗi ngày trung bình kiếm được bẩy cân rưỡi.

- Bì sao được với họ? Cả hai mẹ con đều khoẻ như hùm. Chúng nó leo núi chẳng khác gì dân Sán Dìu, Sán Chỉ.

- Nhà bà cũng kiếm tốt đấy chứ, ngày nào cũng ngót nghét một yến.

- Cả ba mẹ con làm không kịp thở, tuốt mồ hôi lưng, đêm về hai bắp chân đau ê ẩm... Nhưng nhờ trời, thế cũng bõ. Mùa nấm năm nay bằng ba vụ sắn.

- Đúng thật, trồng sắn chẳng ăn thua.

- Chúng ta ngẩng lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống cũng ối kẻ thèm được như mình. Trời thương ra tay cho lộc, ngoài ruộng nương còn có rừng, có ong, có nấm Trần xì mỗi hạt thóc hay củ sắn chỉ có nước ăn cơm độn quanh năm với cà muối hay mắm tôm chưng.

- Phải. Chẳng trách chi dân những vùng độc canh dạ dày quanh năm lép, quần một mảnh áo một manh.

Cô Ngân tuy chẳng phải dân sở tại nhưng cũng không chịu kém cạnh ai, tuy một mình nhưng ngày nào cũng trên dưới bốn cân nấm. Bà Tư móm khoe khắp họ hàng:

- Mợ Ngân về làm dân Xóm Tiều Phu chưa kịp ấm chỗ mà tay lam tay làm còn hơn chán vạn người khác.

"Chán vạn kẻ khác" ở đây bao gồm ba mẹ con nhà Quý với đám đàn bà ngứa lưỡi chưa biết nếp tẻ xuôi ngược ra sao đã dài mồm chê:

- Cái ngữ áo đỏ, áo xanh ấy làm sao leo nổi núi? Có hoạ chăng leo lên được lên bụng chồng.

Cái sự "leo lên bụng chồng" thì chỉ ông Quảng mới biết, nhưng việc leo núi hái nấm thì cả làng cả xã phải rõ rành rành, bởi ngày nào người ta cũng cân đo, đong đếm, ngày nào người ta cũng cộng các con số. Nhà nào cũng có một cuốn sổ để ghi chép từ đầu vụ đến cuối vụ, một thói quen ganh đua giữa các gia đình, một cách trực tiếp khích lệ lao động, nhưng nhiều khi cũng lại là duyên cớ làm nảy sinh những ghen tuông. Như thế, cuối vụ nấm, những ai sớm bĩu môi bĩu mỏ chê cô gái "áo đỏ áo xanh như con cào cào" đều phải sượng sùng cúi đầu làm thinh. Cô thợ quét vôi từ thành phố lên đã ăn đứt đám đàn bà sở tại. Ông chồng ở nhà vừa lo cơm nước vừa xoay sở sấy nấm mệt vã mồ hôi nhưng hớn hở như trẻ được quà. Chẳng nói ra nhưng mùa nấm năm nay chính là trận thử thách thứ nhất đối với cô vợ trẻ của ông. Họ lấy nhau khi chưa kịp qua giỗ đầu của bà Quảng, hơn nữa cô Ngân lại quá trẻ quá đẹp và ông thừa biết tất thảy những thứ "quá" ấy đều gợi lòng ghen tuông lẫn hậm hực của người đời. Nhiều bận, ông bắt gặp lũ trẻ rong chơi ngoài đường thôn nghêu ngao hát:

"Áo đỏ áo xanh
Là ả cào cào
Nơi nảo nơi nào
Mà mày bay đến..."

Ông hiểu những câu đồng dao cũ kĩ ấy được moi lên để ám chỉ ai. Cho dù vợ ông không bao giờ mặc áo đỏ, màu duy nhất cô ấy thích là màu xanh, nhưng cái thành ngữ kép "áo đỏ áo xanh" đối với dân quê nhằm ám chỉ những người đàn bà đỏm dáng thái quá, nhưng cũng còn ám chỉ những cô gái ở xóm chơi, những ả hát cô đầu. Mùa nấm qua đi cùng với tiếng thở phào của ông, bởi cho dù là người quả quyết, ông cũng biết rằng dư luận công chúng là sức mạnh không dễ vượt qua.

Giờ đây, dù muốn hay không, cái quan niệm "con đĩ thị thành áo xanh áo đỏ" không còn cơ tồn tại. Bằng năng lực lao động của chính cô ấy, vợ ông có quyền đánh bại bất cứ kẻ vu khống nào. Nói như bà Tư móm:

"Từ giờ trở đi, đứa nào dài mỏ nói láo, mợ Ngân cứ việc lấy gậy mà gang họng nó ra..."

Đương nhiên, bà Tư không chỉ nói một lần mà lặp đi lặp lại nhiều lần ở mọi nơi chốn một cách đầy dụng ý. Những lời lẽ cong cớn ấy được coi như một thứ cảnh báo chính thức nhất, cổ truyền nhất mà những người đàn bà Xóm Tiều Phu vẫn quen dùng để tự vệ.

Khi mùa hái nấm chấm dứt, chỉ còn lại những gia đình rỗi việc hoặc đông con là tiếp tục mót nấm ở những xó rừng hẻo lánh, còn đa số dân xã ở nhà để hoàn tất khâu lao động cuối cùng: sấy nấm và đóng bao nấm khô. Khắp xóm cùng thôn, mùi nấm thơm lan toả khiến không gian ngọt ngào, ngây ngất. Khói từ những lò sấy nấm bay lên, thanh mảnh nhẹ nhàng, toả vút cao giống những bó sợi trắng lửng lơ giữa khung trời, vây quanh chúng là những đám mây núi trắng vần vũ và những làn hơi mênh mang trắng từ các khe vực bốc lên tạo thành một bức tranh diễm lệ, nơi những màu trắng hoà sắc trên nền lơ xanh bất tận của thinh không. Vào buổi chiều, chim ríu ran về tổ, chim vợ gọi chim chồng, chim mẹ rủ chim con, từng đàn bay lượn trên các khu vườn. Ấy là những thời khắc mà tâm hồn con người bỗng trở nên tốt lành, êm dịu. Người ta dễ quên đi những cay đắng nhọc nhằn cũng như những xót xa, hờn oán. Mùa hái nấm còn đọng lại biết bao kỉ niệm vui vẻ của một thời gian lao động chung và lòng biết ơn nồng nàn những ân sủng của đất trời.

Trong nhà ông Quảng, đóng xong bao nấm cuối cùng cũng là lúc lo làm giỗ đầu cho bà vợ. Từ hai hôm trước, đám anh em trong họ đã dựng rạp che kín sân, kê từng dãy dài bàn ghế. Ước tính phải trên một trăm mâm, bởi khách ăn từ trưa đến tối gồm ba đợt, mỗi đợt ba mươi lăm mâm. Chưa kể, cỗ cho người nhà và xóm giềng tới giúp việc nấu ăn cũng như rửa chén bát. Giỗ đầu bao giờ cũng là giỗ quan trọng nhất đối với cả người sống lẫn người chết. Với người chết, đó là thời khắc vĩnh viễn để vong linh được an tâm nơi chín suối, không còn muốn quay lại quấy rối những người thân sau khi đã nhận đủ phần hương hoa cũng như nợ nần ân ái. Đối với người sống, rõ là dịp bày tỏ trách nhiệm và tình cảm của họ với kẻ ra đi. Ấy là bằng chứng hiển nhiên về cung cách ứng xử cũng như tinh thần đạo đức. Với tình cảnh riêng trong gia đình ông Quảng, những tiêu chí này được nhòm ngó một cách kĩ lưỡng bội phần. Hẳn chủ nhân biết rõ điều đó nên việc chuẩn bị được thực hiện một cách hoàn hảo. Chủ chi, đương nhiên là ông Quảng, nhưng chủ trì, lại là bà Tư móm. Cô Ngân, chỉ đóng vai trò phụ tá cho bà Tư, có nghĩa là làm bất cứ việc gì được phân công, giống như bất cứ người nào trong đội quân láng giềng tương trợ. Xưa nay cô thường bận áo xanh, từ xanh cốm non hay nõn chuối đến xanh lá dừa hay xanh rêu đá. Hôm giỗ bà Quảng, cô bận áo đen. Rõ ra một sự để tang kín đáo người đã khuất. Thêm nữa, cô tháo đôi hoa tai mặt đá ru-bi đỏ lẫn cặp nhẫn dóng trúc cất vào hòm. Thêm nữa, lời ăn tiếng nói của cô cũng kín đáo nhẹ nhàng chứ không hồn nhiên thơ trẻ như vốn dĩ bản tính của cô, cũng không chanh chua đanh đá như khi cô phải chống trả những kẻ kình địch. Thành ra, ngay cả những người xăm xoi, móc mói nhất trong dân xã cũng không nỡ mở miệng chê bai.

Về phần vật chất, ông Quảng lại càng chú trọng hơn. Luật đời đã dạy:

"Có thực mới vực được đạo."

Kẻ từng trải không được phép quên nguyên tắc căn bản ấy. Cỗ trong đám giỗ đầu của bà Quảng phải sang hơn cỗ những đám cưới linh đình nhất từ trước tới nay. Có cả một đội quân xóm giềng phụ trợ nhưng ông Quảng vẫn thuê ba người đầu bếp duới tỉnh lên. Kèm theo họ là một xe đầy những thứ gia vị lẫn các loại phụ liệu và dụng cụ làm bếp mà người ta không kiếm được nơi sơn dã. Các bà các cô Xóm Tiều Phu được dịp tròn xoe mắt mà xem cách thức nấu ăn đặc biệt kiểu thị thành. Mấy gian bếp vì vậy lúc nào cũng đầy nghịt đám đàn bà hiếu kì, đứng vòng trong vòng ngoài dòm ngó. Vừa để học lỏm mấy ngón nghề, vừa để thoả cơn tò mò cố hữu. Đám giỗ vì thế lại có vẻ sầm uất của một thứ chợ phiên hay phòng triển lãm mà người ta chưa từng thấy ở các gia đình khác. Và như thế, chẳng ai còn có thể tính toán: Cỗ năm tầng hay bảy tầng? Bởi cỗ của gia chủ làm theo kiểu thị thành, toàn bát lớn đĩa to, không bày trên mâm mà đặt lên bàn, do đó không thể đo được theo tiêu chuẩn cũ. Chỉ một điều ai cũng phải xác nhận, chưa từng có nhà ai làm cỗ sang trọng và ngon được như thế, kể từ ngày có Xóm Tiều Phu đến nay. Một ngày giỗ chính, hai ngày chuẩn bị trước và một ngày sau đó để thu dọn bàn ghế, chén bát, phát quà phát lộc cho những người giúp việc, dù trong họ hay ngoài làng, cả thẩy bà Tư móm tính vừa tròn một trăm tám mươi mâm, mâm ở đây có nghĩa phần ăn cho sáu người. Bà bảo:

- Ấy là còn thiếu người. Nếu đủ ắt hẳn phải tròn hai trăm mâm.

"Thiếu người" ở đây, ám chỉ sự vắng mặt của gia đình Quý. Anh ta làm cỗ riêng. Sự đương nhiên, sau khi bị ông bố từ bỏ. Đứng về lực, anh ta thua đứt ông bố đẻ. Mối quan hệ họ hàng, xóm giềng lẫn duyên giao tiếp cũng kém xa. Sức mạnh duy nhất của Quý là con triện anh ta đang giữ trong tay, mà bất cứ thời nào người ta cũng ngầm hiểu rằng cái con triện ấy chẳng phải củ khoai hay hòn đất sét. Thế nên tất thảy những ai đang ngấp nghế trước cửa xã cần một con dấu áp lên tờ giấy đều phải đến nhà ông chủ tịch xã "ăn giỗ đầu" bà Quảng. Một tay xách giỏ quà, tay kia sờ nắn trong túi cái phong bì đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Ngoài những gia đình đang cần chạy chọt cửa công, còn cánh thông gia của ông Quảng, tức là cha mẹ, chú bác, anh em ruột của vợ Quý cũng không dám đặt chân tới nhà ông bố. Thêm nữa, cánh cán bộ rường cột trong xã, những người ngày thường đang cùng ngồi một bàn với chủ tịch gồm bí thư đảng uỷ, công an trưởng, chi hội trưởng phụ nữ, trạm xá trưởng, cửa hàng trưởng của xã. Cả bộ sậu ấy cũng phải kéo nhau tới cửa nhà anh con. Cô Vui chơi trội, không đến nhà ai cả. Còn lại, đa phần người làng, họ đi cả hai bên bởi người ta cho rằng phận sự của mình là phải làm ngơ trước mọi hiềm khích và phải có mặt ở bất cứ nơi đâu có sự hiện diện của vong linh người đã khuất. Ăn giỗ nhà ông bố buổi trưa rồi quay về nằm nghỉ cho xuôi cơm hoặc tụ họp đâu đó chuyện gẫu cho qua chiều để chờ đến nhà ông con buổi tối. Thành ra giỗ đầu bà Quảng khiến biết bao người phải thực hiện một cuộc chạy việt dã mà họ không trù tính trước:

- Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới nay tôi mới ăn một giỗ hai lượt như vầy.

- Tôi cũng vậy.

- Xưa nay liệu có nhà ai rơi vào cảnh oái oăm như thế này không?

- Làm gì có?

- Có, nhưng lâu lắm rồi, đời cụ cố nhà tôi có hai anh em bất hoà, không nhìn mặt nhau. Ngày giỗ bố, giỗ mẹ, anh làm riêng, em cũng làm riêng; người trong họ ngoài làng đều phải đi hai lượt.

- Thế là đúng, mâu thuẫn gì chăng nữa họ cũng vẫn là người cùng máu thịt. Phận sự kẻ đứng bên ngoài là phải lấy chữ "dĩ hoà vi quý" làm đầu.

- Xưa nay chẳng ai dại dột làm mất lòng xóm giềng. Vả chăng, tốn công chạy đi chạy lại nhưng ăn cỗ hai nhà càng được dịp nhờn môi, khoái khẩu.

- Khoái khẩu chỉ có cỗ nhà ông Quảng... Cỗ nhà Quý thì quá thường. Rặt những đĩa lẫn bát nhưng mỗi đĩa lèo tèo vài miếng thịt.

- Ồ, chuyện đó chẳng phải nói. Vợ chồng nhà Quý xưa nay nổi tiếng rán sành ra mỡ.

- Tôi có câu này hay hơn: Ăn tép ỉa ra tóc.

- Nhà ấy xưa nay vẫn ỉ thế bố về mặt kinh tế. Giờ cha con từ mặt, chẳng hiểu rồi sẽ ra sao?

- Tự làm lấy mà ăn.

- Xem chừng cũng gay go. Cả vợ cả chồng đều ốm nhách. Con Mơ nặng chưa nổi bốn mươi cân. Con Mận phốp pháp hơn thì lại mắc bệnh xuyễn.

- Đã thế còn gây hấn với bố đẻ làm gì?

- Nghĩ như ông đã chả nên chuyện.

- Đúng thật. Nếu như ngày xưa, người ta sẽ bảo cậu Quý là kẻ bị "ma làm".

- "Ma làm" hay "Quỷ ốp" thì mọi sự cũng tự do mình mà ra. Các ông không nhìn thấy con mắt cậu ta hay sao? Hai con mắt tối như hũ nút, mà đôi khi cậu ta cười nói với mình nhưng con mắt lại nhìn vào ai đấy. Nom cứ rờn rợn...

Cái sự "rờn rợn" mà những người dân Xóm Tiều Phu vừa hồ nghi vừa sợ hãi nhưng không thể cắt nghĩa ấy sẽ được phanh phui không lâu. Vẻn vẹn hai tuần lễ sau ngày giỗ đầu của bà Quảng. Nói một cách chính xác hơn là sau mười hai ngày. Trước đó vài hôm, trời mưa tầm mưa tã. Người ta chẳng thể lên rừng, cũng không thể ra nương. Mọi người đành ngồi nhà bày ra chuyện rang cốm, nấu chè hoặc đánh bài ăn xu lẻ. Hết ba ngày mưa, buổi sớm ngày thứ tư, người ta nghe tiếng con ngựa nhà ông Quảng hí mừng rỡ từng hồi dài từ lúc tinh sương. Hẳn mấy ngày mưa bị giam trong chuồng tù cẳng nên con vật bồn chồn muốn chạy. Nếu người nào dạy sớm ắt thấy bếp nhà ông đỏ lửa từ lúc trời còn tối như mực: Cô Ngân thổi cơm rồi đồ xôi ém cho ông Quảng mang theo dọc đường. Họ ăn cơm cùng nhau ngay trong gian bếp. Sau đó, cô nàng áo xanh ôm lưng ông chồng ra tận bờ dậu, rồi lại đứng ở đó mà nhìn theo xe cho tới lúc nó khuất hẳn sau các rặng cây. Cái lối ôm eo, khoác lưng, bá vai bá cổ giữa đàn ông với đàn bà nơi thanh thiên bạch nhật ấy, người ta chỉ nhìn thấy trên phim ảnh Liên-xô. Nó thuộc về thế giới và phong tục của các ông tây, bà đầm. Nó không quen với mắt người dân Xóm Tiều Phu. Vì thế, nó kích thích một cách đáo để tâm trí láng giềng. Lòng tò mò của con người, dẫu là già hay trẻ cũng luôn luôn là thứ phong vũ biểu báo hiệu sự quan tâm tới đời sống, dù nó thể hiện ở khía cạnh xấu xa. Cô Ngân không hay biết, nhưng ông Quảng thì tin chắc rằng ẩn nấp phía sau các cánh cửa, khuất sau các góc tường, giấu giếm sau các bụi cây... có rất nhiều cặp mắt đang thầm lén theo rõi họ. Dẫu biết rõ tâm địa của mọi người, ông vẫn hành xử theo cách người xưa dạy:

" Ngũ thập, tri thiên mệnh
Lục thập, hành như nguyện..."

"Năm mươi tuổi, biết được số phận mà trời đã ước định cho mình;
Sáu mươi tuổi, ta hành động theo sở thích."

Dừng lại trước cổng, ông cúi xuống hôn cô nàng áo xanh, trước khi leo lên xe và ra roi cho ngựa chạy. Tiếng vó ngựa dập dồn, hung hãn khua động không gian êm ả của sơn thôn. Trong nhịp kiệu của con ngựa bị giam hãm bởi mưa gió, người ta cảm thấy sức mạnh bất khả kiểm soát lẫn sự bồn chồn nguy hiểm của một thứ tự do bị kìm nén, đầy đoạ.

Rồi khi tan sương, mặt trời vọt lên rất nhanh, sáng chói một cách bất thường khiến cho không gian oi nồng, tràn đầy mùi đất ẩm, mùi lá mục, mùi những đống phân xanh chưa oải. Từng luồng hơi ngùn ngụt run rẩy bốc lên khắp các khu vườn ướt sũng, từ những liếp rạ mủn trải dọc các bờ dậu để trồng nấm rơm, từ những đống vỏ trấu dân quê tích trữ để quanh năm mồi lửa, nhóm bếp. Trên các mảnh sân cũ, những hạt thóc sót hoặc những hạt cỏ rơi trong các kẽ gạch đã long vôi vữa nhất loạt đâm chồi sau mấy ngày mưa. Chỉ qua vài đêm, hàng ngàn sợi lá xanh non dựng lên như những lưỡi gươm tí hon dưới ánh mặt trời. Muôn vàn sợi cỏ trong suốt như thuỷ tinh, óng ánh như nạm vàng, những lá cỏ non dường như không còn là cỏ mà là vật gì đó không thể gọi tên, lạ lùng, kì ảo, chỉ hiện lên trong khoảnh khắc làm biến đổi cái nhìn buồn chán của con người, và đem lại một thoáng ngạc nhiên thần thánh cho cõi đời buồn tẻ.

Có thể vì lý do nào đó ít tính thơ mộng hơn, hay chính vì bàng hoàng trước khung cảnh hoàn toàn thay đổi của thiên nhiên mà đa phần dân Xóm Tiều Phu ở lại nhà vào buổi sáng hôm ấy. Nhiều người đã í ới gọi nhau lên nương làm cỏ sắn, nhưng sau rốt người ta lại dùng dắng ở nhà, để giặt mớ quần áo sau mấy ngày mưa, để thu dọn lại những đám rơm vương rạ vãi, để lau dọn lại góc buồng, xó bếp, những nơi ít được dòm ngó vì mưa xuống nắng lên, ắt nhiều thứ phải đổ mốc. Vả chăng, sau mùa hái nấm, người ta cũng cảm thấy chùn chân khi nghĩ tới việc phải leo lên những nương sắn, chui vào những luống cây ngột ngạt hơi nóng mà nhặt cỏ, một công việc chẳng mấy hứa hẹn đền bù.

Khoảng non trưa, chính vào lúc các bà các cô chuẩn bị nấu cơm, bỗng có tiếng chân người chạy rầm rập ngoài đường thôn. Thoạt tiên, chỉ là đám nhi đồng bốn năm tuổi, sau đó là đám thiếu niên hiếu kì. Sau rốt, tuốt

tuột dân làng, đàn ông cũng như đàn bà bỏ mọi việc dở dang trong nhà cũng như trong bếp để đi xem "Cô Ngân bị bắt". Người ta chẳng ngại ngần, cũng không ngượng ngùng khi gọi nhau oang oang, từ sân nhà này vọng sang sân nhà kia, từ bờ dậu nhà này vói qua bờ dậu nhà khác:

- Này, biết chuyện gì chưa? Cô vợ trẻ của ông Quảng bị công an bắt rồi. Hãy đến xem sự tình ra sao.

- Này, dừng tay cái đã. Đã nghe thủng chuyện chưa: cô nàng áo xanh nhà ông Quảng bị tóm cổ.

- Làm sao mà đến nỗi như vậy?

- Có trát trên tỉnh dội về nói cô ta là gái làm tiền, chuyên đi lừa đảo những gia đình giàu có.

- Lừa ông Quảng? Đúng là chuyện tầm phào. Ông ấy chẳng lừa ai thì thôi, làm gì có sự trái khoáy như vậy?

- Ai chẳng biết ông ấy là kẻ khôn ngoan, lõi đời, ăn mòn bát cơm thiên hạ. Nhưng cái sự quan trọng là ông ấy đang bí bức. Gần một năm vợ ốm lại gần một năm vợ chết có rờ mó được ai đâu?

- Không tin được. Lão ấy đi bát ngát mênh mông như thế, thiếu gì đàn bà?

- Ông tưởng dễ lắm à? Ông cứ thử xem?

- Việc gì tôi phải thử, cơm nhà đồ vợ, muốn lúc nào tôi ngả ra lúc ấy. Chỉ sợ không đủ sức mà chơi.

- Bởi vậy ông mới dễ phét lác. Giờ nói dại, bà ấy mà thăng thiên, tôi đố ông dám mó vào con hến nhà láng giềng. Có mà dao rựa họ chém đứt phăng cổ.

- Thiếu gì lũ chưa chồng với goá chồng?...

- Chưa chồng, như con Vui đấy, xin mời ông thử sức! Goá chồng, như con mẹ Hưởng rỗ với con Lan toét thôn Hạ, ông có chơi tôi xin đãi thêm ba bữa rượu tăm với gà sống thiến hấp xôi. Nào, dám chơi không?

- Ừ, ngữ ấy thì xin chịu.

- Thế là sự đời. Cao chẳng tới thấp không xong. Chỗ ông thích, không được. Chỗ giường kê, chiếu trải sẵn sàng, con củ lại không giương lên nổi. Cho nên mới thành ra bí bức. Khi bí bức có đứa xinh đẹp như tiên nó tiến đến, nó ngả sẵn bàn đèn, có mà khôn ngoan như thánh như thần cũng đổ huống chi ông Quảng?

- Nhưng tôi nom mặt mũi cô ta chẳng giống quân lừa đảo.

- Biết sao được cái tổ con chuồn chuồn? Những con đàn bà làm điên đảo quốc gia hoặc làm khuynh gia bại sản kẻ khác xưa cũng như nay đều phải xinh đẹp. Xoàng xoàng như vợ ông hay lặc lè cục mịch như vợ tôi có mà ăn cám. Muốn đi lừa cũng chẳng xong.

- Ông chỉ quen nghĩ chuyện bậy bạ.

- Tôi ăn cơm muối, sờ đầu gối nói thật. Tôi không quen hoa hoè hoa sói, nói vòng vèo.

- Nhưng tôi vẫn không thể tin rằng ông Quảng bị lừa. Chuyện đó giống như sự gà bốn cựa, ngựa bốn hồng mao.

- Ông Quảng khôn ngoan thật, nhưng xét trên gốc rễ ông ấy cũng chỉ là thằng nông dân chân đất như cánh ta thôi... Chẳng qua ông ấy giỏi bang giao, lại suốt đời kiếm cơm nơi đất khách thành ra lọc lõi... Nhưng lọc lõi đến đâu cũng có lúc phải mê mụ đầu óc vì khuất phục cái bộ sậu lủng lẳng trong đũng quần... Ông có biết cái câu người ta vẫn dùng để chể riễu kẻ sĩ hay không?

- Kẻ sĩ là gì?

- Là đám áo dài xúng xính, tay trắng chân trắng, ngược với chúng ta dân cày cuốc hay tiều phu, cánh áo ngắn chân đen. Thời xưa nói: "Nhất sĩ nhì nông". Kẻ sĩ bao gồm đám văn nhân, quân tử, bao gồm cả các bậc quan lớn quan nhỏ, cả đám nha lại lo việc triều chính từ kinh đô cho tới làng thôn... Vậy mà có câu rằng:

"Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần l... ám ảnh cũng mê mẩn hồn."

- Thế à! Tôi không biết...

- Không biết thì phải lắng nghe rồi hãy nói. Cớ sao ông cứ khẳng định rằng ông Quảng chẳng thể bị lừa? Sự đời đâu có đơn giản như ông tưởng?

- Ờ, có thể...

Có thể hay không thể... đinh ninh chắc chắn hay nửa tin nửa ngờ, sau rốt người ta cũng vẫn nghĩ rằng có sự chi hợp lý, có một duyên cớ nào đó chính đáng dẫn tới sự bắt cô Ngân. Dân làng đổ ra đứng dọc đường để nhìn cô vợ trẻ của ông Quảng bị trói giật cánh khuỷu, dẫn độ bởi nhóm du kích xã, đi đầu là công an trưởng. Ứơc tính tất cả là mười hai người đàn ông, súng ống trên vai, vẻ mặt cứng như đá vỉa. Cuộc diễu võ dương oai không được hoành tráng cho lắm bởi kẻ thù vẻn vẹn có đúng một người đàn bà trẻ, chẳng tấc sắt trong tay, hơn nữa nước mắt lại ràn rụa trên gương mặt tái nhợt vì hốt hoảng nhưng vẫn còn muôn phần xinh đẹp. Đi sau họ, có đến trên ba chục thanh thiếu niên hiếu kì làm thành một đám khán giả tự nguyện và hết sức chú tâm. Thi thoảng, một cậu du kích muốn chứng tỏ uy lực của chính quyền quay lại quát nhặng xị:

- Giải tán! Lũ ranh này, giải tán!

- Về nhà đi học, đây không phải phận sự của chúng mày.

- Về!Tao đã bảo về nhà!

Nhưng mọi sự doạ nạt đều như nước đổ lá khoai. Đám trẻ con hiếu kì chạy nhông nhông theo họ cho tới tận uỷ ban xã, giống một đám rước thiếu kèn thiếu trống. Tại trụ sở uỷ ban, chúng chạy dạt sang hai bên nếu bị xua đuổi, nhưng khi đám du kích sao nhãng, chúng lại lập tức chui lủi, len lỏi bằng mọi cách để chứng kiến "cô Ngân nhà ông Quảng" bị trói, cái cảnh mà từ năm cải cách tới giờ không còn diễn lại nơi Xóm Tiều Phu. Rồi khi cô tiếp tục bị áp tải đến nơi tạm giam theo lệnh chính quyền, chúng lại rều rễu chạy theo cho đến tận kho chứa đồ của xã, cách trụ sở uỷ ban chỉ một đoạn đường, đi bộ chưa đầy năm phút. Ấy là một gian nhà gạch nhỏ, kín mít như cái hộp, chỉ vẻn vẹn một cửa ra vào cánh gỗ lim, lại khoá bằng chiếc khoá đại to hơn bàn tay đứa trẻ lên bốn. Còn lại bốn bề tường gạch đôi, chẳng một lỗ thông hơi, không một khuôn cửa sổ. Ngôi nhà đó xưa kia vốn là kho chứa chè của ông chánh tổng. Sau, đến thời cải cách, chính quyền cách mạng trưng dụng để nhốt đám địa chủ cường hào. Có giai đoạn hơn một chục con người bị giam cầm trong cái không gian kín bưng bít, rộng mười tám thước, một góc đổ tro để đại tiểu tiện, và góc đối diện là một cái chum vỡ đựng nước uống cho các tù nhân. Sau ngày sửa sai, lệnh của huyện là phải đập vỡ gian nhà ấy đi, nhưng chủ tịch xã tiếc rẻ giữ lại... vì còn hữu ích. Tất nhiên, ông ta đã cho người đến quét dọn, sửa sang, quét vôi mới trắng lốp để màu vôi bôi xoá đi những kỉ niệm cay đắng và tẩy uế xú khí còn lưu lại. Từ đấy, gian nhà này được dùng làm nhà kho của xã, nơi xếp các thứ bàn ghế, xoong nồi, mâm chậu, bát đĩa, tách chén... những vật dụng cần thiết cho những dịp liên hoan hoặc tiếp đãi khách của chính quyền. Ban văn thể xã, hoạt động theo mùa cũng xếp vào đấy những tấm băng-rôn, khẩu hiệu, những bộ kèn trống mua vội vã trong những cơn bốc đồng của đám cán bộ lãnh đạo. Lủng củng một góc nào những chiếc trống đã long tang hoặc đã bị thủng, hai cây kèn rỉ nhoét, một cây ghi-ta và hai cây măng-đô-lin trơ trọi không dây, một mớ cờ gián nhấm mà chưa nỡ ném đi.

Khi tay trưởng công an xã đích thị mở khoá, cả một lũ chuột nhảy phóc ra, chui qua chân anh ta bổ ra bên ngoài rồi nhanh chóng biến mất trong các bờ dậu bên kia đường. Cùng lúc đó không khí tù hãm bốc lên như luồng hơi phà vào mặt mọi người mùi nước đái chuột lẫn mùi ẩm mốc.

- Nhà chị vào đây.

Cậu du kích dẫn cô Ngân tới cửa rồi bắt đầu cởi trói. Lúc ấy mọi người mới nhìn thấy tấm áo của cô bị rách một vệt dài dưới nách. Hẳn là khi bị bắt, cô đã chống trả và xảy ra sự giằng co xô xát giữa tội nhân với những người thi hành công vụ. Cũng hẳn là cô đã khóc quá nhiều nên lúc được cởi trói, cô có vẻ uể oải đờ đẫn đến nỗi chẳng buồn nhúc nhắc cánh tay. Chính cậu du kích áp tải cô phải lần mở từng vòng dây cho đến nút thắt cuối cùng:

- Nhà chị vào trong kia! Điếc hay sao mà đứng đần ra thế hả?

Cô Ngân thẫn thờ đứng im, dường như không nghe thấy tiếng quát của kẻ áp giải mình. Đôi mắt đầm đìa lệ như mờ đi vì sợ hãi và kiệt sức.

- Đã nghe lệnh tạm giam rồi sao không thực hiện?

Trưởng công an xã quát. Sau đó, thấy kẻ tội đồ chẳng nghe cũng chẳng có phản ứng gì, anh ta giơ tay đẩy vào lưng người đàn bà:

- Vào trong kia!

Giơ tay chỉ gian nhà lủng củng những thứ đồ tầm tầm và bốc mùi hôi mốc, anh ta dằn giọng:

- Đi vào! Chỗ của nhà chị bây giờ là trong đấy.

Cô Ngân bị đẩy đi như một bao tải đựng trấu, rồi cô cũng ngã kềnh như bao tải trấu lên những sọt đựng xoong nồi, bát đĩa của uỷ ban. Trưởng công an xã kéo hai cánh cửa, khoá lại rồi nói trống không:

- Từ giờ đến tối sẽ có người đem cơm cho nhà chị.

Sau đó, quay lại đám du kích tuỳ tùng, anh ta cũng lại buông một cái lệnh trống không:

- Liệu mà phân công người sắp cơm cho y thị. Ngày mai, chính quyền sẽ phân xử.

Sau đó, trưởng công an xã tiến lên vài bước về phía đám trẻ con lẫn dân chúng hiếu kì, đưa mắt oai vệ nhìn khắp lượt. Đám người lặng im như thóc, giương mắt nhìn vị đại diện của quyền lực. Một nỗi sợ hãi đã từ lâu yên ngủ bỗng nhiên bừng thức dậy khiến họ nhút nhát và bối rối. Chờ cho khoảnh khắc im lặng trôi qua, trưởng công an xã hắng giọng như diễn viên chuẩn bị ra sân khấu, trong lúc thầm chuẩn bị một diễn văn mà bắt buộc anh ta phải công bố cho tương xứng với chức trách cá nhân cũng như tầm quan trọng của tình huống vừa xảy ra:

- Bà con hãy lắng nghe cho rõ. Nhiệm vụ của mọi người dân là lao động. Và lao động là vinh quang. Vì vậy tôi yêu cầu bà con quay về với công việc. Chúng ta không nên lãng phí thời gian sản xuất. Còn những tệ nạn xã hội, chúng tôi, đại diện của chính quyền, có nhiệm vụ giải quyết. Trước hết, cá nhân tôi, trưởng công an xã, xin hứa trước toàn thể bà con là sự việc sẽ được giải quyết một cách triệt để. Chúng ta sẽ tiêu trừ tận gốc rễ mọi nguy cơ độc hại để bảo vệ đời sống chung của cộng đồng cũng như hạnh phúc dưới mỗi mái nhà. Nào, bà con có ý kiến gì nữa không?

Nhà hùng biện dừng lời đưa mắt nhìn mọi người.

- Hoan hô!

Một người lên tiếng, chắc chắn đó là kẻ đang cần xin nhà chức trách áp con triện vào bản lý lịch cho con em được "thoát li". Nhưng đám đông im lặng. Có lẽ vì bài diễn văn hay ho kia chưa kịp thấm vào cân não họ. Cũng có lẽ vì cảnh một người đàn bà bị trói giật cánh khuỷu khiến họ nhớ lại thời cải cách ruộng đất, và những nỗi hãi hùng quay lại khiến con người hoang mang. Điều cuối cùng là trong đám đông hiếu kì ấy, không ít kẻ đã chịu ơn hoặc là thực khách thường xuyên nhà ông Quảng. Dẫu sao chăng nữa... cũng đã từng có lúc chén chú chén anh, chén tôi chén bác. Đã là giống người ắt phải hiểu câu: chẳng nỡ hoặc, nỡ lòng nào...

Người cất tiếng hoan hô không thấy ai hưởng ứng thì bẽ bàng lẩn ra phía sau. Còn trưởng công an xã thấy bài diễn văn hùng hồn của mình rơi vào im lặng thì bẽ bàng tức tối, liền đổi giọng quát:

- Không ai có ý kiến thì nữa thì giải tán.

Nói xong, anh ta bỏ đi tức khắc. Đội du kích lục tục theo. Còn đám đông hiếu kì dừng lại nhìn ổ khoá to tướng một cách bần thần, chẳng ai nói với ai một lời. Riêng lũ trẻ tò mò chạy tới, dán mắt vào khe cửa hòng nhìn được "tù nhân" nhưng sau một hồi loay hoay đành thất vọng bỏ đi vì hai cánh cửa lim của "ông chánh tổng thời xưa" kín như bưng không một lỗ thủng bằng đầu đinh, cũng không một kẽ hở mảnh như cọng tăm dù đã qua bao nhiêu năm tháng.

Lúc ấy, mặt trời vừa đứng bóng. Những kẻ hiếu kì nhất cũng phải quay về vì kiến bò bụng. Người ta nấu cơm vội vàng, hò hét con cái cũng vội vàng, ăn cơm cũng vội vàng để sau đó đi đến nhà ông Quảng xem sự tình ra sao. Ở đấy, hai cánh cổng mở toang hoang, nhưng chớ ai hòng chôm chỉa vật gì vì bà Tư móm đã ngồi chồm chỗm ngay trên bậc cửa chính. Từ bậc cửa ấy, bà có thể nhận diện ra từng người khi họ bước vào cổng. Và bà cất tiếng đon đả như không có chuyện gì xảy ra trên đời:

- Mời các ông bà vào uống nước. Hôm nay được dịp nghỉ ngơi cho đỡ nắng. Trời này chui vào nương sắn cũng như chui vào hoả lò.

- Thế mà có người vẫn lên nương đấy.

- Thiếu gì kẻ ngu trên đời. Mà trong lũ ngu ấy có tôi đây. Nếu không sáng nay tôi đã ở nhà để chứng kiến cho tỏ tường mọi sự.

- Vậy bà vừa mới đến?

- Cũng được ngót nghét một giờ. Tôi đang làm cỏ sắn thì thằng cháu chạy lên báo. Hai cô cháu chạy thốc chạy tháo về được đến nơi thì mợ Ngân đã bị mang đi rồi. Chỉ còn vợ con thằng Quý đang đứng ngoài sân. Chúng nó được phái đến để giữ nhà cho ông nội. Tôi đuổi tuốt tuột cả lũ về.

- Sao bà dám làm thế?

- Sao tôi lại không dám nhỉ? Thằng Quý là chủ tịch xã nhưng cũng còn là em tôi. Mẹ nó đẻ nó ra hết sài lại đẹn, một tay tôi chăm bẵm. Cái đận bẩy tuổi, nó mắc bệnh ghẻ suốt mùa xuân qua đến mùa hè, tôi cúi xuống lấy cái ghẻ cho nó đau sụn cả lưng, mờ cả mắt. Rồi cũng lại tôi đun nước lá tắm, xức thuốc cho nó lành. Mẹ nó vụng thối vụng nát có làm được gì đâu? Từ khi lên ghế chủ tịch đến nay, xem ra chiều vểnh râu vênh mặt. Bọn du kích và trưởng công an xã dám ra tay như thế này ắt hẳn phải có lệnh của nó. Con mà đã bỉ mặt bố đẻ đến mức ấy thì chẳng còn là người.

- Nhưng nghe đâu đó là lệnh của tỉnh.

- Nếu là lệnh của tỉnh thì phải có công an tỉnh, không phải mấy cái mặt phèn phẹt ở xã này. Trong số mười thằng du kích vào nhà này trói mợ Ngân có sáu thằng chui từ háng mẹ nó ra là tay tôi cắt rốn, tay tôi tắm rửa. Rồi tôi sẽ đến nhà từng thằng đập váy vào mặt chúng nó. Để xem chúng nó dám làm gì tôi?

- Chẳng qua chúng nó cũng chỉ là lũ tốt đen. Trên bảo gì thì phải cúi đầu làm nấy.

- Thời cải cách chẳng thiếu gì kẻ trên bảo tố bố tố mẹ là sẵn sàng nhổ vào mặt bố mẹ hoặc gọi bố mẹ là quân phản động, là đồ Việt gian. Những hạng người ấy rồi có ra gì đâu?

- Đúng là lũ ấy rồi cũng chẳng ra hồn người, nhưng khi bị sai bảo chúng làm sao dám chống lại?

- Lửa thử vàng. Người tử tế quân bất lương khác nhau ở lúc gian nan. Bình thường trơn lông đỏ da ai chẳng há miệng cười. Lúc vui vẻ, ai chẳng giơ tay vỗ.

Bà Tư móm kết thúc đột ngột cuộc đối thoại như vậy và chuyển làn nhanh như chớp:

- Nhà này có đường phèn thượng hạng, ông bà nào thích uống trà ướp cúc với đường phèn tôi mời?

- Cúc vạn thọ ấy a?

- Bà chị chẳng hiểu gì hết. Cúc vạn thọ không ướp được trà. Mà có ướp cũng phải đổ trà đi vì nó rất hắc. Người ta chỉ ướp bạch cúc hoặc tiểu hoàng cúc tức là loại cúc vàng nhỏ như khuy áo thôi.

- Nào ai sành chè ướp như nhà bà mà biết được?

- Trời mới nắng lên uống trà cúc cho thanh giọng. Nào, xin mời các ông các bà.

Cái cách cắt chuyện và chuyển khúc của bà Tư móm xem ra còn giỏi hơn các nhà dàn cảnh sân khấu. Dân làng tuy mót chuyện nhưng cũng không dám hỏi thêm. Khi mùi trà cúc thơm ngào ngạt toả hương, khi bình đường phèn lấp lánh như những cục thuỷ tinh nhỏ được bày lên mặt bàn thì người ta quay sang xì xụp uống trà ngọt. Vị ngọt thanh tao của đường phèn khiến cho hương cúc có một vẻ lâng lâng trong suốt như khi con người đứng giữa một nỗi buồn đã trôi xa và một niềm vui đang còn chờ đợi. Câu chuyện xoay sang những cách thức ướp trà, cách sao trà và đóng gói trà từ thời ông chánh tổng. Người Xóm Tiều Phu hấp háy nhìn lên đỉnh Lan Vu để mơ tưởng ngày nào đó, một vị cao nhân mặc áo thụng thêu chỉ vàng lộng lẫy sẽ bước tới góc núi hẻo lánh này bày cho họ cách trồng và sao cất loại trà thượng hảo hạng như trà: Trảm mã... Bởi nghe đâu, giá bán một cân trà Trảm mã đủ xây một toà lâu đài bốn tầng, với mười sáu căn buồng thênh thang, cửa kính cửa chớp sáng loáng như buồng của những khách sạn sang trọng ở thủ đô Hà nội.

Tuần trà kết thúc,mặt trời đã ngả qua phía tây. Bóng nắng đổ xuống một phần ba mảnh sân gạch. Đồng hồ treo tường nhà ông Quảng thong thả gõ ba tiếng. Khách chào chủ ra về. Người ta không thể ngồi thêm vì đã qua mấy tuần trà, dạ dày chẳng còn chỗ chứa mà những điều tò mò lại không được phép hỏi. Vào giờ này, chẳng ai còn lòng dạ nào lên nương xuống ruộng. Ai nấy quay về nhà, thu dọn đồ đạc, người lật giở tấm chăn manh chiếu cho khô ròn, kẻ ra sau vườn nhà tỉa cành, rẫy cỏ, toàn những công việc nhung nhăng cho hết buổi chiều để chờ sau bữa cơm sẽ có cơ tụ họp.

Bởi mong mãi, mặt trời cũng rơi xuống để bữa cơm tối được dọn lên trên những mảnh sân mà bên dưới, gạch còn ấm nóng, nhưng bên trên gió núi đã ùa xuống phà làn hơi mát rượi như những nụ hôn ẩm ướt của sương mù. Người ta ăn vội ăn vàng, đàn ông không uống rượu, đàn bà không nghê nga cắn thóc rang hay nhâm nhi bỏng ngào mật sau bữa cơm để mau mau lên đường. Tất cả đều phải chuẩn bị đèn, đuốc bởi nơi đây, trời tối một cách mau lẹ. Mươi phút trước còn nhìn rõ bàn tay, mươi phút sau cảnh vật đã đen như mực. Từ thôn Thượng, thôn Trung tới thôn Hạ, mọi ngả đường đều lập loè ánh lửa. Một địa chỉ không ai bảo ai nhưng mọi người đều hướng tới: nhà cô Vui. Thế là không hẹn mà nên, dân xã dồn tới trước cửa nhà cô bí thư đoàn. Cả một đám đông, người cầm đèn pin, người xách đèn bão, kẻ mang đuốc dầu hoả cháy đùng đùng. Nhưng cửa ngõ nhà cô Vui đã khoá lại bằng một ổ khoá Tầu to tướng. Nhìn vào trong, sân lẫn nhà đều tối om:

- Quái lạ, nhà cô này đi đâu nhỉ?

- Sáng nay có người còn thấy cô ta ra cửa hàng mua vải mà.

- Hay cô ta ở nhà tay Quý? Lúc bắt cô Ngân chỉ có xã trưởng công an với đội du kích, chẳng thấy tay Quý đâu.

- Tay Quý kí lệnh cho trưởng công an thực hiện. Anh ta tránh mặt, đương nhiên là như thế. Ai đời con trai trưởng dẫn quân đi tom cổ mẹ kế bao giờ? Hoạ có là đồ tể.

- Thế cô Vui can cớ gì mà cũng phải tránh mặt?

- Ông quên rằng chính cô ta nhận lệnh của Quý về tận làng Khoai điều tra lý lịch cô Ngân lẫn chuyện ông Quảng xây nhà tầng cho bố vợ hay sao? Cả xã này cô ấy là người duy nhất truy đến tận cái tổ con chuồn chuồn.

- Như thế, không là cánh tay phải thì cũng là cánh tay trái của ông chủ tịch.

- Thể nào, tôi thấy họ thậm thụt với nhau, ra vẻ đặc biệt thân tình.

- Ối chao, bắc thang mà hỏi ông trời. Tình đời ấm lạnh là chuyện thường. Họ từ mặt nhau rồi.

- Sao ông biết?

- Bữa tôi kéo mấy bao than về ngang qua nhà cô Vui, thấy tay Quý hầm hầm bước ra mặt thâm như l... trâu vậy. Mấy hôm sau gặp cô Vui, tôi giả tảng hỏi thăm Quý thấy mặt cô ta cũng sưng lên như cái lệnh vỡ, đáp chủng chẳng: Tôi không biết, tôi chẳng liên quan gì tới ông Quý.

- A, ông này chết nhá... Sao dám ví mặt chủ tịch thâm như âm hộ con trâu? Tôi mà mách thì ông chết toi.

- Tôi thách ông mách đấy... "Thâm như l... trâu" là câu ví tự xửa xưa. Tôi cứ theo thế mà nói.

- Đùa tí thôi, nhưng tôi không ngờ họ lại bỏ nhau nhanh như vậy.

- Ôi chao, người với người giằng néo nhau cũng như cái nút lạt: cởi ra rồi lại buộc vào, buộc vào rồi lại cởi ra như bỡn. Trên đời này có cái gì bền đâu?

- Nhưng cậu Quý là chủ tịch. Chẳng nhẽ bí thư đoàn lại dám qua mặt cấp trên?

- Cái đó thì chỉ có trời mới biết. Thôi, về ngủ, sáng mai còn làm cỏ sắn. Mai không làm để dăm hôm nữa nó ăn xuống gốc có mà hà hết củ. Bao nhiêu công trồng trọt, chăm bẵm mất toi.

- Ông nói chí phải. Đành là sắn chẳng ra mấy tiền nhưng cũng đủ cho ta thứ nuôi lợn và hạt bột dành những ngày cơ nhỡ. Chẳng nên bỏ phí của trời. Về!...

Thế là người ta lục tục kéo nhau về, bởi mất cả ngày để theo rõi một tấn tuồng như vậy kể cũng đã là đủ. Rồi mai đây, sự gì đến sẽ phải đến. Còn họ, những nương sắn đang đợi chờ.

Ánh lửa lại lập loè tản ra trên những ngả đường ngoằn ngoèo lượn qua các miệt vườn và các giải núi. Tiếng trò chuyện tan loãng trong khung cảnh bao la huyền tịch của trời đêm.

Trên đỉnh Lan Vu, chợt một vệt lửa phóng qua như pháo thăng thiên. Ai đó cất tiếng:

- Ô, sao chổi. Sao lại có sao chổi vào tiết xuân?

- Không phải sao chổi đâu, đấy là sao rụng. Khi sao rụng là có người vừa tạ thế.

- Chim cú kêu hoặc chim lợn kêu là có người khuất núi. Chứ sao rụng là điềm báo rằng có một ông thánh hết hạn lưu đày dưới trần gian bay trở về cõi Thiên đình.

- Thật vậy sao? Trời đất thật lạ lùng...
 

Coi tiếp: Truyện Xóm Tiều Phu (5)
 

www.geocities.ws/xoathantuong