TRUYỆN XÓM TIỀU PHU
 

Đường vào Xóm Tiều Phu quanh co như ruột gà !

Xóm Tiều Phu, mọi người vẫn gọi là xóm Tiều Phu mà không biết rằng đó là một cái tên đã lỗi thời, hoặc nói cho đúng hơn, tên gọi đã sai lạc với nội dung. Bởi mang tên là Xóm nhưng thực chất Xóm Tiều Phu không còn là một xóm mà là một xã đất rộng, người đông. Có thời, những người lãnh đạo đã định đổi tên xã Xóm Tiều Phu thành xã Quyết thắng, nhưng ý đồ ấy không thành công vì dân sở tại đã quá quen tên cũ, và dân quanh vùng cũng vậy.

Tên Xóm Tiều Phu hình thành từ thuở sơ khai, không biết đã bao đời, ba gia đình mà gia trưởng là ba anh em ruột rời bỏ nơi chôn rau cắt rốn vốn là tỉnh Bắc ninh cũ lên đây sinh sống bằng nghề đốn củi. Lịch sử cuộc di dân này vốn huyền bí, càng ngày càng trở nên huyền bí hơn qua nhiều thế hệ khi từ một xóm trại vẻn vẹn hơn hai mươi người, Xóm Tiều Phu trở thành một xã rộng lớn gồm ba thôn, trên hai ngàn dân, không chỉ sinh sống bằng nghề đốn củi, bán than mà còn trồng lúa nương, lúa nước, các loại cây công nghiệp cũng như nuôi ong, làm miến, sao chè... Lịch sử được truyền tụng trong những đêm trăng, khi tiếng chày giã bột làm bánh vang lên khắp các sân nhà, những người đàn bà ngồi quanh bếp lửa vắt bánh trong khi đám đàn ông ngồi hút thuốc lào, uống nước chè chuyện vãn.

Lịch sử ấy gắn bó một cách huyền nhiệm với tên vùng đất cũ: Bắc Ninh.

Bắc ninh vốn là kinh đô thuở xa xưa. Đặc điểm dân cư của mọi thứ kinh đô là họ có nhu cầu hưởng thụ cao hơn dân chúng nơi khác. Cỗ cổ truyền ở Bắc Ninh thường được định danh bằng chữ tầng: Tầng ; giống như người ta gọi một toà nhà hai tầng, ba tầng, năm tầng.... Cỗ Bắc Ninh chia thành nhiều thứ hạng:cỗ hai tầng, cỗ ba tầng, cỗ năm tầng, thường không mấy khi thấy cỗ bốn tầng. Tầng có nghĩa là giới hạn đồ ăn được bầy kín mặt chiếc mâm đồng. Cỗ hai tầng có nghĩa là đồ ăn phải xếp thành hai tầng mới hết. Cứ theo đúng nghĩa đó mà hình dung cỗ ba tầng, hoặc năm tầng. Chắc chắn không có thứ dạ dầy nào chứa nổi những mâm cỗ ba tầng, năm tầng nhưng cách trưng bày những mâm cỗ như vậy được xem xét trên hai khía cạnh: Sự tôn trọng khách mời, và sự khoe của, hiểu một cách thông tục hay tế nhị cũng thế thôi. Một đặc điểm thứ hai của dân kinh đô là họ thường hoạt khẩu. Họ thích nói, thích diễn giảng chuyện đời và khả năng diễn đạt của họ xuất sắc hơn dân nơi khác. Đôi khi, khả năng này phát triển một cách thái quá và dẫn họ đến thói quen thêu dệt mọi chuyện. Bất luận người dân nào cũng có thể là một nhà văn tài tử hoặc một thi sĩ lỡ tàu. Nhu cầu sáng tạo chỉ được phóng chiếu qua một khuôn cửa duy nhất: lịch sử các tiền nhân. Thế nên, người ta có thể tìm thấy rất nhiều huyền sử khác nhau về ba gia đình đã khởi sự lập nghiệp nơi Xóm Tiều Phu, biến vùng núi non hoang vắng này thành nơi rậm rịch bước chân người, eo óc tiếng gà và véo von tiếng hát. Cũng chính những cư dân Xóm Tiều Phu là những người đã xây dựng ngôi chùa Lan Vu cùng hai chùa khác ở tầng núi dưới, bởi vùng Kinh Bắc vốn nổi tiếng là nơi nhiều chùa chiền, đền miếu. Nhu cầu vãn cảnh chùa là một trong những niềm hoài nhớ đất cố đô xưa.

Xóm Tiều Phu gồm ba thôn:Thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ. Thôn Thượng nằm ngay trên chân rặng núi, ấy là nơi ba gia đình đầu tiên khởi nghiệp, dựng làng. Nhiều thế hệ trôi qua, lứa trai trẻ dựng vợ gả chồng chiêu tập những nàng dâu và những chàng rể từ muôn phương tới, họ lập trại, dựng nhà lan xuống những miền đồi xung quanh, hình thành thôn Trung rồi tới thôn Hạ. Cư dân hai thôn ấy trồng cả lúa nương lẫn lúa nước, trồng sắn lẫn chè trên các ngọn đồi, cũng như trồng khoai môn và súp-lơ su hào nơi đất thấp hơn. Những gia đình sinh sống ở thôn Thượng là những gia đình được coi là rường cột của làng xã, được nghiễm nhiên tôn trọng theo bộ luật xa xưa của phong tục mà không ai biết một cách chính xác nó được hình thành từ lúc nào, và do ai khởi xướng... Như thế, ông Quảng, người tiều phu xấu số chính là một trong những nhân vật luôn luôn được ngồi chiếu trên, luôn luôn được liệt kê hàng đầu trong danh sách những người có uy lực nhất Xóm Tiều Phu, người mà tất thảy những ông chủ tịch xã cũng như bí thư đảng uỷ phải hỏi ý kiến, phải tìm sự đồng thuận khi muốn làm bất cứ điều gì. Mười lăm năm trước, vào thời xảy ra câu chuyện này, con trai trưởng của ông đang giữ chức chủ tịch xã. Ông, vừa là bậc lão trượng trong xã, vừa là cha đẻ của con người quyền uy.

Mùa thu năm ấy, vợ ông ngã bệnh. Lúc đó, bà đã xấp xỉ lục tuần, sinh đẻ cả thảy tám lần, sức lực nếu chưa cùng kiệt thì cũng đã hao tán như ngọn đèn dầu sắp cạn. Vào dịp Tết trung thu, bà bỗng nhiên thay tính đổi nết , trở nên phàm ăn một cách dị thường. Xưa nay, vốn là người khảnh ăn khảnh uống, bữa cơm bà và hai bát chiếu lệ, khi có cỗ bàn, bà xuống đũa cho vui lòng chồng con. Đột nhiên, vào đêm rằm tháng tám, khi đám trẻ trong làng phá cỗ, mọi người bỗng thấy bà sà xuống mâm bánh nướng bánh dẻo nhặt một đĩa đầy tú ụ rồi ngồi ra một góc ăn thẳng một hơi hết nhẵn không cần chiêu một ngụm nước chè. Ai cũng biết rằng những thứ bánh dành cho con trẻ vào ngày Trung Thu thường ngọt sắt họng, cho dù người hảo ngọt mấy cũng chỉ có thể ăn được hai tấm và kèm theo hai tấm bánh đó ít nhất cũng phải uống một ấm chè mạn cho xuôi. Thế nhưng bà đã ăn hết cả một đĩa đầy tú ụ, có nghĩa là sáu tấm bánh lớn, thứ bánh trước đây bà không thể ăn nổi một góc mà không lắc đầu ngao ngán. Cái sự kiện ấy lan truyền trong xã như một cơn động đất. Láng giềng dấm dúi bình phẩm sau lưng bà. Nhưng cũng thật lạ lùng khi bà không thèm để ý tới tất thảy những ánh mắt tò mò xung quanh, bà có vẻ như người đãng trí. Bà chỉ có một mối quan tâm thực sự, ấy là những món ăn mà bỗng dưng bà thèm muốn một cách điên rồ, và sự thèm ăn của bà dần dần trở nên mối bí ẩn kinh hoàng đối với tất thảy mọi người, trước hết là lũ con. Bà thèm ăn mật ong, ong non. Mỗi sáng, bà rót đầy bát chiết yêu mật ong, ngồi ăn lem lém với một chồng hàng chục bánh đa vừng hoặc nửa rổ khoai môn luộc. Bà thèm ăn thịt lợn, thịt bò, rồi gà vịt, tôm cá. Bữa trưa, bà có thể ăn cả một chiếc chân giò hay một con gà trống thiến luộc. Bữa tối, bà tiếp tục ăn tám chín bát cơm với cá kho mặn hoặc lạc rang mắm tép và một rổ rau muống hay rau cải xào. Một bữa, khi đàn gà hàng trăm con sắp tuyệt diệt, chỉ còn lại những con gà chíp và hai mái già đang đẻ, bà vào ổ lấy ra hơn hai tá trứng đúc thịt lợn với hai đĩa xôi, ăn ngấu nghiến như hùm như hổ. Sức ăn như thế là gấp ba một gã lực điền Nam hà chuyên nghề đào đất, gấp năm lần ông chồng và gấp hai mươi lần chính bà cách đó vài tháng. Gia đình vốn khá giả, ông Quảng lại chiều vợ nên toàn thể gia đình đều tìm mọi cách làm thoả mãn mọi yêu cầu bất thường đó. Nhưng những đứa con của bà sợ hãi. Và người làng thì thầm một cách vụng lén sau lưng họ:

- Không phải bà ấy đâu, ma đói nhập vào đấy. Cứ để ý mà xem, mắt bà ấy đờ đẫn như mắt kẻ mất hồn, mà khi bà ấy ăn, bà ấy không nhìn vào mặt ai hết. Các cụ dạy: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Người khôn ăn uống phải liếc ngang liếc dọc trước khi xuống đũa. Chỉ có kẻ bị ma đói ốp mới cúi đầu ăn sùng sục như vịt dũi ốc, như lợn xốc cám không thèm nhìn xem người bên cạnh có gắp được miếng hay chưa ?

- Ôi dào, người bên cạnh là chồng với con, có khi bà ấy không thèm để ý.

- Thế đêm rằm tháng tám, nào phải chồng con mà bà ấy hốt cả đĩa bánh ra góc phản ăn một mình ? Chỉ có người tàng tàng mới dám làm như thế.

- Ờ, cũng kì dị thật... Nhưng tôi không tin có ma. Dù là ma cà rồng hay ma đói.

- Không có ma thì có quỷ !... Chỉ có bị quỷ đói ốp mới thành ra phàm ăn đến thế. Người bình thường ăn chừng đó chỉ có chướng bụng lên mà chết thôi.

- Đúng thật. Ăn như thế mà tiêu nổi cũng là sự kinh dị. Bữa trước bọn trẻ luộc trứng rồi bỏ đi ăn liên hoan chi đoàn thanh niên. Tôi tiếc của ăn cố đến quả thứ ba mà bụng ấm ách đến nửa đêm, ngủ không được phải ngồi dậy làm mấy chén rượu với một nắm mứt gừng.

- Bà ấy không ăn để sống mà ăn để chết. Đời nào cũng có những người như vậy.

- Tôi lại ngờ bà ấy sống rất dai. Nhưng ăn như thế núi của cũng tiêu tán. Không hiểu rồi ông Quảng sẽ xoay sở cách nào ?

- Miệng ăn núi lở ! Người thường cứ ăn không làm còn cào lở núi huống chi người bị ma đói nhập hồn.

- Đừng tin nhảm, chẳng có ma quỷ nào hết, nhưng đó là một thứ bệnh mà cho đến tận bây giờ các thầy thuốc vẫn bó tay.

Ông Quảng không nói năng gì. Ông lẳng lặng lên rừng tìm mật ong khi chum mật trong nhà đã cạn, những đõ ong nuôi chưa kịp giàn đủ mật để chắt. Ông cũng rút tiền tiết kiệm về để mua thịt lợn thịt bò cho vợ khi đàn gà trên trăm con đã hết sạch, cả ngan lẫn ngỗng non trăm con nữa cũng không kịp đẻ trứng gây lứa mới. Khắp vùng, bất cứ nhà ai ngả trâu què, nghé hư hay bò già bò ốm đếu cho người đến gọi ông, bởi chắc chắn ông sẽ là vị khách xộp nhất Xóm Củi. Không ai dám tiêu xài như ông. Ông bảo đám con:

- Mặc người làng nói gì thì nói, mẹ các con đã bóp mồm bóp miệng cả đời để nuôi nấng các con, giờ là lúc bà ấy cần bồi dưỡng.

- Mọi việc trong nhà do cha định đoạt.

Người con cả, tức chủ tịch xã đáp lại. Anh ta đã xấp xỉ bốn mươi, đã có vợ và ba con, ở nhà riêng nhưng không ngày nào không qua nhà bố mẹ đẻ. Dưới anh ta, hai người em trai nhập ngũ, chỉ còn lại đứa em trai út, chưa đầy mười sáu tuổi là chính thức chung sống với bố mẹ .Vợ chồng ông Quảng sinh nở cả thảy tám lần nhưng chỉ đậu lại bốn đứa con trai. Tất cả đều đặt tên theo vần Q của bố. Chủ tịch xã tên là Quý. Tiếp đó là hai cậu sinh đôi cùng nhập ngũ một ngày, họ có tên Quyết và Quyến. Còn cậu út tên Quỳnh, đẹp trai nhất trong bốn anh em và dường như cũng là đứa lẳng lơ nhất, mười bốn tuổi đầu đã đuổi gái mê mệt khiến nhiều lần bà mẹ lồng lên chạy tìm con hết thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ cho tới những xã cách Xóm Tiều Phu nửa ngày đường. Trong bốn anh em, bà cưng chiều cậu út hơn cả. Từ đồ ăn thức uống cho đến quần áo, bút sách, Quỳnh được chăm chút đầy đủ đến mức đám chúng bạn phát ghen. Cậu ta giống mẹ hơn cả. Cách nói năng cũng thủ thỉ như con gái. Có thể vì vậy mà cậu út được bà mẹ cưng chiều. Người làng bảo bà không có tay nuôi con gái, đứa nào lọt lòng mẹ được vài tháng cũng chết, không trụ qua một tuổi.

Mùa đông năm ấy rét đau rét đớn, bếp nhà nào cũng đỏ lửa cả ngày lẫn đêm. Những người già không dám bước chân qua cửa bếp. Đêm họ ngủ quanh đống lửa như dân Mán, dân Sán dìu. Sương mù từ trên núi phả xuống giăng màn trắng quanh vườn, tụ thành khối lơ lửng trên những mái nhà và các ngọn cây. Nhiều ngày sương tụ đến tận non trưa, chưa kịp tan thì chiều đã tới kéo theo đợt sương mới. Rồi tiếp theo những ngày mù sương là những ngày mưa dãi dề cùng gió bấc. Các vườn cây vặn mình xao xác dưới những lằn roi quất của mưa đông. Gió hun hút trườn qua các khe vực rú rít âm thầm rồi ào xuống xóm thôn mang theo những thở than truyền kiếp. Rét đến độ nếu ai đứt tay chưa kịp dịt thuốc máu đã đông ngay , nhưng sau đó vết nứt không thể khép miệng vì da co lại. Vào thời gian ấy, dân xóm Tiều Phu tụ tập quanh những bếp lửa của các đại gia, những gia đình sung túc nhất đủ củi dự trữ cho vài mùa đông, đủ thóc nếp lẫn đường mật đãi khách mà không phải nhíu mày cau trán hoặc bấm bụng rên la vì tiếc của.

Những mùa đông trước, bếp lửa nhà ông Quảng bao giờ cũng đầy lèn khách khứa, người ta nói ông vừa rộng cửa vừa rộng lòng. Cửa rộng, nhà cao, thóc nếp thóc tẻ, chum đường chum mật mía, chum mật ong... chất ngồn ngộn năm gian nhà ngang bên hữu. Đỗ lạc, đỗ xanh, vừng đen, vừng trắng phải quây trong cót. Chủ nhân lại là người hào phóng, hiếu khách. Những ngày mưa dãi gió dề, trời xám mây giăng, cảnh ngoài trời càng buồn thì trong nhà ông càng vui như tết. Xóm giềng không thể lên nương, xuống ruộng hay trèo núi đốt than hái củi , đều tụ tập tại căn bếp và ba gian chính ngôi nhà trên. Ở đấy, lò sưởi tí tách, than hồng rực. Đàn ông sẵn thuốc lào, thuốc lá, nước chè, chuyện nổ như pháo. Dưới bếp, đàn bà giã bột làm bánh, hoặc thổi xôi nấu chè tuỳ theo hứng. Cánh cửa nhà dưới mở là thể nào cũng có đôi ba bà nạ dòng khệ nệ bưng ra thúng thóc hay liễn mật, liễn mỡ. Bánh trôi, bánh chay, bánh rán mặn nhân thịt, bánh rán ngọt nhân đỗ ngào đường, bọc mật.... Xôi lạc, xôi đỗ, xôi gà hấp, xôi gà nướng.... Đủ trò. Có thể gọi là sơn hào hải vị của vua chúa cũng chưa hẳn đã mang lại sự khoái khẩu và niềm vui như những ngày đông lạnh, khi dân làng tụ tập quanh bếp lửa nhà ông. Từ trên nhà xuống dưới bếp, tiếng cười ran như pháo nổ. Khách cười một, chủ cười hai. Ông Quảng vốn có tiếng cười hào sảng mà bất cứ ai cũng thầm ao ước. Những người biết xem tướng đều nói ông giàu sang nhờ ở tiếng cười. Dầu là dân thôn dã, ông biết đủ nghề, hiểu đủ cách kiếm tiền của thiên hạ. Vừa thoắt lên rừng kiếm củi đốt than, đã thấy ông tay thước tay dao dẫn đám thợ mộc, thợ nề xuống thành phố làm thuê cho công trường của tỉnh . Vừa ráo tay cày ruộng, đã thấy ông đánh xe ngựa chở chè mạn hay sắn khô xuống chợ huyện. Rồi từ chợ huyện, xe ngựa của ông lại chở đủ thứ hàng dưới xuôi lên bán cho các hợp tác xã của người Dao, người Sán Dìu, Sán Chỉ bên Lục Nam, Lục Ngạn láng giềng. Từ núi xuống đồng bằng, từ đồng bằng tạt xuống mạn biển nhặt cá khô, mực khô, và các loại mắm, ông lại rong ruổi dọc các huyện vùng cao, nơi chỉ có núi đồi và dã thảo. Giống như loài ngựa thảo nguyên, ông không dừng lại lâu ở bất cứ nơi nào. Bởi thế, tuy gốc gác tiều phu, nhưng từ thuở trai tráng ông đã ăn cơm tứ xứ và vẻ phong sương ngạo nghễ khiến con người ông toát lên một sức hấp dẫn mãnh liệt mà những người khác vừa thèm muốn vừa sợ hãi. Hơn thế nữa, cách cư xử của ông làm cho dân làng thán phục. Sự hào phóng chắc chắn là thứ tính chất hiếm hoi nơi những người bị trói chặt vào đất với rừng. Lòng tốt thường khó kiếm, hoặc nếu có cũng không thể đem lại hiệu quả khi cuộc sống vật chất quá bạc bẽo. Những mùa đông khắc nghiệt nhất, bao nhiêu mẹ goá con côi trong xã chỉ có thể trông chờ vào sự giúp đỡ của ông, bởi ngay quỹ tương trợ của hợp tác nhiều nhất cũng chỉ có thể cho đến năm mươi cân thóc. Ông Quảng không bao giờ cho thóc. Ông không muốn làm mếch lòng ai. Một khi hợp tác đã cho thóc, ông cho củi sưởi, cho gạo cho mắm cho đường cho mỡ và cho tiền.... Như thế, tiện cho cả người nhận lẫn người cho. Quá nhiều kẻ hàm ơn ông. Nhưng ông không trói buộc gì họ. Dường như không còn nhớ ông đã từng giúp họ. Như thế, có vẻ kì dị nhưng khiến cho cả ông lẫn những người mang ơn ông được nhẹ lòng. Và ngôi nhà sừng sững của ông có vẻ giống như một thứ đình làng thu nhỏ, nơi mọi người có thể tìm được hơi ấm của cộng đồng cùng những thời khắc sung sướng nhàn hạ ; một thứ hơi hướng của hội hè, rọi sáng cuộc sống vất vả và buồn tẻ dằng dặc nơi sơn khuê.

Mùa đông năm ấy, với những cơn mưa thấu xương thấu tuỷ, những cơn gió bấc dãi dề, người ta vẫn hướng nhìn về phía ngôi nhà ông theo thói quen, nhưng nó không còn đỏ lửa. Không ai bảo ai, nhưng tất thảy mọi người đều không dám đến nhà ông . Họ biết ông đã tay dao tay thước ra đi từ non một tháng nay, sau khi đã giao tiền nong cửa nhà cho cậu con trai út. Ông phải xuống thành phố làm việc vì của cải trong gia đình cạn kiệt. Không ai dám chia buồn hay an ủi ông. Không ai dám động chạm tới căn bệnh khó hiểu của bà. Căn bệnh ấy, đối với những kẻ chất phác quê mùa, quen sống cần kiệm là một tai hoạ. Nó cũng tương tự như căn bệnh thương hàn, lao phổi hay kiết lỵ thời xưa. Mất đi nơi chốn quen thuộc, dân làng đành chuyển đến một gia đình mới nổi lên giàu có ở thôn Trung: nhà cô Vui, bí thư chi đoàn.
 

***
 

Cô Vui, ba mươi hai tuổi, chưa một lần lấy chồng, hình như cũng chưa từng phải lòng ai, hoặc nói cho chính xác hơn là chưa ai từng phải lòng cô. Không phải vì cô xấu nết hay xấu người, nhưng vì cô cao đến một mét tám mươi bảy phân trong khi đám đàn ông trong làng, to con nhất như ông Quảng cũng chỉ già mét bẩy. Cao như thế, cô lại có đôi vai ngang như đòn gánh với những bắp thịt nảy nở quá mức rắn chắc như sành. Đôi vai cô có thể sánh với vai các võ sĩ quyền anh thượng thặng. Một tay cô có thể vật đổ gã trai bằng tuổi như chơi. Cô chính là hình ảnh của cha cô:ông đô Vàng, một thời nổi danh vô địch khắp ba tỉnh phía đông bắc châu thổ sông Hồng, kiếm không ít tiền trong những lần tranh giải vật toàn xứ bắc. Dân xã đồng lòng cho rằng cô giống ông đến mức nếu cô cạo đầu, cởi trần đóng khố thì cô có thể bước vào xới vật và làm run sợ mọi địch thủ như cha cô thời vang danh nức tiếng. Ông đô Vàng có một mụn ruồi lớn hơn hạt đỗ đen mọc ngay giữa cổ. Trên mụn ruồi ấy, lúc nào cũng đâm tua tủa những lông, mỗi sợi dài đến ba đốt ngón tay. Cô Vui cũng có một mụn ruồi y hệt như thế, nhưng nó mọc dưới cằm, và hàng ngày cô phải soi gương cắt túm lông đi. Nếu đôi khi cô mải việc, quên chăm chút nhan sắc là những sợi lông lập tức mọc dài ra, quăn queo một cách kì cục. Có lẽ vì ngần ấy dị biệt khiến cô không thể có được một tấm chồng như những người đàn bà khác. Cô làm nhụt chí mọi đấng nam nhi. Hình hài cũng như sức khoẻ của cô là đề tài mặn mòi nhất cuốn hút cánh đàn ông trong làng dù khi họ đang làm cỏ sắn dưới cái nắng chang chang tháng sáu hoặc khi họ ngồi hút thuốc lào vặt ngày mưa. Có một ngàn cách khơi mào những chuyện tiếu lâm nhưng riêng về cô, thường thường là một câu hỏi, một nỗi băn khoăn chung của cả đàn ông lẫn đàn bà Xóm Núi:

- Hôm qua tôi thấy con Vui chuyển đõ ong lên đồi. Chân nó đi có vẻ khang khác.

- Khang khác thế nào ?

- Hai chân nó chạng sang hai bên, giống như có gì vương vướng bên trong.

- Cái chó gì vướng được ở giữa hai bẹn nó, trừ khi nó buộc vào đấy một con cu-ly hay một con chồn ?

- Cái lão điên này, đúng là thánh sư nói láo... Tôi cho rằng hình như có người vừa khơi thông lạch đào nguyên.

- Đào nguyên mới chả thiên thai, toàn dân cu đen lại còn sính chữ !... Cứ nói huỵch toẹt ra rằng đã có thằng nào nhảy lên bụng nó cho rồi. Nhưng thằng nào dám liều mạng thế nhỉ ? Hay là chính ông đấy ? Tôi thấy mặt ông có vẻ gian gian ?

- Tôi ấy à ? Thế thì vinh dự quá ! Nhiều phen tôi cũng định thử, nhưng mới nhìn thấy nó con cu tôi đã xun lại như chim thằng bé lên ba. Thôi, tôi xin nhường cho ông.

- Đội ơn ông, gan tôi chưa đủ lớn ! Tôi sợ tôi tắt nghỉn nửa chừng. Mà đám con tôi còn trứng gà trứng vịt chẳng ai nuôi. Tôi xin nhường cho ông nào mạnh vía hơn.

- Bây giờ chúng ta đánh cuộc, ai dám sờ vào cái hang hùm của con Vui sẽ được chiêu đãi liền trong cả tháng. Các khổ chủ sẽ luân phiên gánh chịu phí tổn rượu ngon gà béo.

- Ôi chao, rượu với gà của các ông đáng giá gì .

- Thế thì một con bò tơ vậy.

- Bò cũng không đáng bằng sự hao tổn nửa mạng sống.

- Thế thì ba bò vậy.

- Ba bò chứ mười bò, lại các thêm ba lá vàng Kim Thành tôi cũng xin kiếu.

- Đừng đùa, ba lạng vàng là đủ cất lên năm gian nhà ngói.

- Thế thì ông thử đi.

- Không chơi trò thách suông, các ông cứ chồng đủ tiền mua ba cây vàng, tôi khắc liều mạng ngay.

- Cái mặt ông có liều mạng cũng chẳng ai tin. Con vợ ông cao chưa đầy một thước rưỡi, nặng có bốn mươi lăm cân mà nó còn bĩu môi bảo mọi người rằng ông là thằng vô tích sự, nhoai được ba nhát đã tụt xuống giường, chưa kịp đi đến cửa chợ đã rơi sạch tiền. Vậy mà ông còn nói phét.

- Đừng tin miệng lưỡi đàn bà. Ông có ở trên giường với tôi đâu mà biết ?

- A, thế thì hôm nào ta mở cuộc thi. Gọi ban quản trị hợp tác làm trọng tài, mượn cái đồng hồ quả quýt của ông Quảng đem ra bấm.Vợ chồng ông bên tả, vợ chồng tôi bên hữu, thằng nào thua cuộc phải mất con bò. Tôi cũng không ăn con bò ấy một mình mà sẽ đem thui khao cả xóm. Nào, dám chơi không ?

- Tiên nhân đồ khôn vặt. Tôi hai thứ tóc trên đầu, chẳng dại gì mất con bò với cái quân máu dê như ông. Thôi được, tôi chịu thua. Nhưng nếu ông cậy có con củ bằng sắt, sao ông không thử tài với con Vui một lần. Nhà nó phải có đến trăm cây vàng chứ chẳng phải ba cây. Ai cũng bảo rằng từ ngày ông đô Vàng chết, nó hái ra tiền. Chắc ông lão thương con nên đêm ngày phù trợ. Ông mà leo được lên giường với nó là đời ông lên hương tức khắc. Không phải chuột sa chĩnh gạo mà là chuột sa vào chum tiền.

- Ồ không, chum tiền chứ chum vàng chum ngọc tôi cũng chịu. Tôi chỉ dám trèo lên bụng con vợ tôi hay loại đàn bà ngang ngửa như nó thôi. Còn con Vui, nói trộm vong hồn ông đô Vàng, tôi mà thử sức với nó dám chắc tôi tắt thở ngay giữa cuộc. Hoạ may chỉ có chui đầu vào cái hang hùm ấy mà ngoi hay thượng cẳng chân vào trong đó mà đạp.

Những cuộc chuyện vãn như vậy kéo liên miên không bao giờ chán. Có lẽ công việc nặng nhọc và buồn tẻ nơi sơn thôn bắt con người phải tìm cách giải trí như vậy, mặc dù đôi khi họ sực nhớ ra rằng cách mua vui kiểu đó làm tổn hại danh dự người khác và có phần độc ác. Về phía cô Vui, chắc chắn cô không thèm để tâm tới những gì người ta bàn tán sau lưng. Cô sống hiên ngang như đấng nam nhi, làm tất thảy những việc mà

thông thường chỉ đàn ông mới đảm đương nổi. Trông cô chẳng có chút đau buồn hay hiu hắt như những người đàn bà khác thường mường tượng với nỗi hả hê. Bởi vì họ, có chồng và có con, hạnh phúc thì ít nhưng gánh nặng chồng chất trên vai thì nhiều. Đôi khi, thấy cô đi trên đường với dáng vẻ hùng dũng, với vẻ mặt tự tin mà ngay cả những người đàn ông thành công nhất vùng cũng thèm khát, họ cảm thấy một sự thương tổn không thể cắt nghĩa, một sức mạnh vô hình đè họ bẹp dúm như con chồn lạc bị xe ngựa chẹt ngang lưng. Nhất là từ ngày ông đô Vàng chết, cô Vui mó tay vào đâu, ở đấy nảy ra tiền. Ngay từ khi cha cô còn sống, ông đã xây nhà dựng cửa cho con gái, đoán biết rằng cô không thể có được một cuộc sống bình thường. Ông dạy cô nghề mộc, nghề nuôi ong, nghề sao chè, nghề làm miến... tất thảy những gì có thể làm nảy ra những tờ giấy tiêu được và khêu gợi thèm muốn của mọi người . Cô Vui vốn thông minh, lại có sức khoẻ phi thường, nghề nào cô cũng học được đến nơi đến chốn. Mẹ cô chết vì hậu sản, người nuôi cô thuở nhỏ chính là bà nội, rồi sau này khi bà nội chết, ông đô thôi giang hồ tứ xứ quay về Xóm Tiều Phu với đứa con gái duy nhất của mình. Người ta không hiểu vì sao ông chẳng tái hôn để có người tề gia, nội trợ, để có người đẻ ra cho ông những đứa con trai. Trước những băn khoăn của láng giếng, ông chỉ trả lời vắn tắt:

- Xưa nay có mấy khi mẹ ghẻ con chồng được cơm lành canh ngọt ?

Còn gặp khi đám anh em con chú con bác tò mò lục vấn chuyện riêng ông đáp thẳng thừng:

- Chuyện đực cái là lẽ thường tình, tôi muốn lúc nào mà chẳng được. Đàn bà lén lút tìm tôi trước khi tôi tìm họ. Nhưng đó là việc chốc nhát giải khuây cho thân xác. Còn tái giá lại là vấn đề hoàn toàn khác. Tôi không thể làm khổ con Vui. Vì đẻ nó mà vợ tôi phải chết. Tôi cũng không nỡ lòng để bà ấy ngậm ngùi nơi chín suối.

Một người chồng tình nghĩa như vậy quả là không dễ kiếm, một người cha thương con đến như thế cũng là chuyện hiếm trên đời. Khi ông đô Vàng chết, cô Vui làm ma cho bố ba ngày liền, dù cô là bí thư chi đoàn và chính quyền vốn ngăn cấm dân chúng tiêu xài lãng phí trong những dịp lễ lạt hay ma chay. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng dành cho một số người quyền ngoại lệ. Bởi vì ngoài lề luật của thế tục, bao giờ cũng có những thứ lề luật mà con người tự hiểu với nhau, không cần đến giấy trắng mực đen. Như vậy là ba ngày liền, kèn trống vang vọng khắp xóm cùng thôn, tiếng hát đưa vong miên man như suối chảy. Ba ngày liền, hết bò lại gà lợn bị vật chết trong mảnh sân lát gạch thênh thang. Dân làng, từ già đến trẻ, từ chức sắc đến cùng đinh cứ việc thoả sức đánh chén. Thành ra cái chết của ông đô Vàng từa tựa như một dịp hội hè tuy người ta không tiện nói ra. Chẳng cứ dân Xóm Tiều Phu, dân quê ở bất cứ nơi nào cũng vậy, trong một cuộc sống chật vật và buồn tẻ, người ta khó từ chối những dịp được nâng chén rượu lên hạ chén rượu xuống, và được ăn thoả sức những thứ vốn ít ỏi trong những bữa cơm thường.

Cô Vui, từ sau đám ma bố, bỗng nhiên có một thứ quyền lực không định danh. Trước đây, là bí thư chi đoàn, cô chỉ là xếp sòng của đám thanh niên và con nít. Sau cái thời điểm mà người ta chứng kiến lòng hiếu thảo tận tuỵ của cô, cũng như sự hào phóng chưa từng thấy nơi một người đàn bà, cái nhìn của dân làng hướng về cô hoàn toàn thay đổi. Thế là, từ một cô gái lỡ thì, đề tài vô tận cho các cuộc kháo chuyện tục tĩu của cánh đàn ông, cô đã trở nên một chức sắc tự phong, điềm nhiên tham gia vào mọi sự việc trọng đại trong làng, với vai trò của một bậc nam nhi hơn là của một trang nữ tú. Người ta không mời cô khi có một cặp vợ chồng cãi cọ, vì đấy là việc của mấy bà cán bộ phụ nữ trong tổ hoà giải, nhưng họ mời cô khi mưa lũ làm sụt lở đường, khi xảy ra chuyện tranh chấp nương vườn với xã bên, khi cần phải xây trường học và nhà hộ sinh cho xã, khi cần phải khiếu kiện với cấp huyện về vấn đề phân phối máy xay máy sát và lương thực. Tóm lại, thuần những việc trọng đại thiết cốt tới đời sống và tương lai của dân chúng. Mùa đông năm ấy, lần đầu tiên, gian bếp nhà cô Vui thay thế gian bếp lạnh của vợ chồng ông Quảng.

Dân làng, nhất là những người đàn bà làm quen rất nhanh với những gian nhà kho của cô. Bởi cô không có đến mười gian nhà ngang rộng rãi như ông Quảng. Giàu có đã lâu nên cơ ngơi nhà ông gây dựng theo hình mẫu cổ, ba toà nhà châu tụ hình chữ môn quanh mảnh sân vuông lát đá, tòa nào cũng năm gian thênh thang, ngói dày, tường cao, gỗ cửa bóng lọng như gương. Năm nhà ngang bên trái ông dự định dành cho cậu út Quỳnh sau này lấy vợ và sinh con. Năm gian nhà ngang bên phải là nơi chứa lương thực, thực phẩm và mọi thứ đồ nghề. Nếu ai có hỏi phần của cậu Quyết cậu Quyến ở đâu thì ông bảo:

" Hai thằng này có số đi ở rể. Bảy lượt đi xem tướng các thầy đều bảo thế. "

Cô Vui không chồng không con nên ngôi nhà năm gian ông đô Vàng xây đã là quá rộng. Vì thế, cô chủ trương biến ba gian thành kho chứa đồ theo kiểu dân thành phố. Trong ba gian nhà kho của cô, mọi thứ xếp thành hàng thành lối , đều tăm tắp như các đội quân, dù là dụng cụ làm vườn, đồ nghề làm mộc, sao chè, đổ miến hay các đõ ong, các thùng lương thực... tất thảy đều đánh số, ngăn nắp và sạch sẽ một cách đáng thán phục. Nhưng vì thói quen sạch sẽ thái quá của người không chồng, cô Vui chỉ định cho các vị khách những món ăn mà theo cô, không gây ra quá nhiều thứ rườm rà. Thành thử, dân làng chỉ có thể được cô thết một vài món chủ yếu là xôi đậu, bánh chè lam, ngũ vị hoặc bánh rán nhân mặn. Đừng mơ tưởng tới xôi gà hấp, xôi gà nướng hoặc những món cầu kì khác. Cô vốn sợ lông gà và lòng gà vương vãi trên mảnh sân gạch bóng lộn của mình. Trừ những ngày lễ tết, ma chay, thường ít khi cô thịt gà mà chỉ ăn trứng. Còn thịt lợn, thịt bò cô mua nơi nhà khác. Trong sân nhà cô, gà không được thả rông mà quây trong khu rào thép mắt cáo. Bờ dậu quanh vườn cũng chắn thép mắt cáo sát đất để ngăn gà vịt, ngan ngỗng láng giềng đột nhập. Sống nơi thôn dã mà sạch sẽ đến như thế kể cũng là chuyện lạ kì. Nhưng tục ngữ đã dạy:

" Đáo giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục. "

Dân làng chấp thuận rất nhanh những điều luật trong ngôi nhà của cô chủ không chồng... Dù trong tâm can, họ có nuối tiếc gian bếp tưng bừng niềm nở nhà ông Quảng như một thiên đường đã mất thì con mắt thực tế buộc họ phải coi bếp lửa nhà cô Vui như một quán trọ đẹp mắt đối với kẻ lữ hành mỏi gối chân chồn. Mùi thơm của chè lam ngũ vị dẫu không hấp dẫn như món xôi gà nhưng cũng đủ làm rạo rực dạ dầy trong những ngày giá rét. Mà năm ấy rét thật hãi hùng. Chưa ai chứng kiến một mùa đông rét ghê rét gớm như vậy. Người ta nói không ngoa: Rét quắt cả tai. Rét buốt đến tận óc. Rét đến nỗi hơi thở đặc quánh trong hai lỗ mũi. Tháng mười, tháng một rồi cho đến tháng chạp, những cơn rét kéo không nguôi. Dường như không có lấy một ngày trời hửng nắng. Nhìn lên đỉnh Lan Vu chẳng thấy một đốm xanh của cây rừng hoặc mỏm đá. Không phải tuyết nhưng những cánh đồng mây chồng chất tầng tầng lớp lớp tạo thành một cõi trời mênh mông trắng buốt và mỗi khi gió nổi, những cánh đồng mây trắng đó xô đuổi nhau, xao động, bồng bềnh hắt lên những luồng sáng bạc lạnh lẽo. Hiếm hoi lắm, mặt trời mới trồi lên, nhợt nhạt héo hon như trái cam bị sâu đục, rồi một hai giờ sau, lại biến đi vô tăm tích. Năm ấy, nói một cách chính xác không còn là một mùa đông mà là hai mùa đông tiếp nối, không đứt quãng. Cái Tết Nguyên Đán qua đi vội vàng, cũng gần như không ai nhớ vì mưa rét. Chẳng ai dám trẩy hội. Không có trống chèo, cũng không có trống hội vật. Không có cảnh đáo cù, cờ bãi. Không có chọi gà chọi trâu. Cũng không cả trò thi thả chim, thả cá. Không ai cho trẻ con ra đường. Mọi hoạt động chỉ còn thu lại quanh bếp lửa. Quanh bếp lửa, người ta gói bánh chưng, bánh nếp, làm các loại chè lam ngũ vị. Quanh bếp, người ta nấu nướng, ăn uống rồi sau đó, những người già ngủ ngay quanh đống lửa còn trẻ con và người lớn phải đem chăn hơ cho nóng trước khi lên giường. Sau tết, trời lại đổ mưa. Lại tiếp tục rét. Như thế là mùa đông tiếp nối mùa đông !

...Vào một ngày cuối tháng hai, lẽ ra đã là thời khắc cây cối đâm chồi nảy lộc nhưng vì rét muộn nên các cành cây vẫn hoàn toàn trơ trụi, dân làng tụ tập trong gian bếp nhà cô Vui. Hôm ấy, chủ nhân đem ra sáu quả gấc nếp với hai cân đường đãi khách. Mấy ngày Tết, có một mình nên cô không muốn làm xôi gấc mà giàn gấc trên bể nước lại lần lượt chín đỏ như son. Hơn nữa, trong bếp cô còn hai liễn mỡ gà, thứ mỡ tuyệt hảo chỉ dành riêng để làm các loại xôi ngọt như xôi dừa, xôi vừng, xôi gấc. Ý định của cô được mọi người hoan hỉ đón nhận. Ngay tức khắc, các bà nhộn nhạo bắt tay vào hông đỗ, vớt gạo ngâm, rửa chõ đồ xôi dưới bếp trong khi ở gian nhà trên đám đàn ông ngồi hút thuốc, nhấm nhá bánh ngũ vị quanh lò than. Ngoài sân, trời vẫn không ngừng mưa. Thứ mưa nặng hạt như mưa giông lại kèm theo gió bấc. Thứ mưa đó buốt tới xương, thứ mưa đó ngăn người ra đi còn còn mạnh hơn cả dây quấn của những cánh tay ân ái. Vậy mà khi các chõ xôi gấc vừa lên hơi thơm nức, người ta thấy bà Quảng lù lù khoác áo mưa tiến vào giữa sân. Thoạt tiên, mọi người chưa kịp nhận ra mặt khách. Đường từ thôn Thượng xuống thôn Trung phải qua mấy lượt đồi. Trời lại mưa gió dầm dề, rét như cắn da cắn thịt. Không ai nghĩ một bà lão sáu mươi tuổi vượt qua quãng đường như thế để đến nơi đây. Nhưng khi bà Quảng gỡ nón, cởi chiếc áo mưa bằng ni-lông xanh nhạt, người ta chợt hiểu ra bà tìm đến căn bếp đỏ lửa này vì căn bếp nhà bà đã trở nên hoang lạnh. Một thằng bé mười sáu tuổi không thể nào nấu nướng săn sóc chu đáo một con bệnh đói như bà, nhất là khi nó vốn quen ăn sẵn.

Chủ nhân, chính là người đầu tiên nhận ra vị khách không mời. Cô Vui đang nói chuyện với đám đàn ông trên nhà, vội vàng vớ chiếc mũ của ông khách nào đó che đầu, rồi chạy xuống sân đón bà Quảng. Cô niềm nở vồn vã mời bà lên nhà trên, sự niềm nở có vẻ đặc biệt vì cô ý thức được rằng mới mùa đông năm trước, bà còn là chủ của bếp lửa lớn nhất xã, rằng thực khách nhà bà rải khắp ba thôn và đã hơn ba thập kỉ tên vợ chồng ông Quảng lừng danh khắp huyện vì sự giàu sang và lòng hiếu khách.

Bà Quảng chào tất thảy mọi người một cách chậm rãi, một cái chào chung vì bà không gọi tên bất cứ ai. Rồi bà ngồi xuống góc phản mà cô Vui vừa sửa soạn cho mình, đưa mắt nhìn ra ngoài sân, nơi những cơn mưa xiên xiên không ngừng táp.

Cô Vui, sau khi rót nước mời vị khách mới, chạy xuống bếp báo động. Người ta phải mở kho tức khắc, đong gạo nếp tức khắc để nấu thêm một nồi cơm nếp ăn với thịt lợn kho. Dân làng kháo nhau rằng càng ngày bà Quảng càng ăn mặn. Bữa cơm nào cũng phải có thịt có cá. Bà không thể vừa lòng với các loại xôi ngọt như mọi người. Cả chủ nhân lẫn đám đàn bà thôn Trung chuẩn bị mọi sự với một nỗi háo hức không che giấu. Đây là cơ hội hiếm hoi để họ có thể quan sát một căn bệnh thần bí mà cả vùng nghi nghi hoặc hoặc bởi từ sau ngày rằm tháng tám, bà Quảng không còn đặt chân ra ngõ. Cùng với căn bệnh ma đói, bà mất thói quen làm việc cũng như mất khả năng giao tiếp bình thường với xóm giềng. Bà không nhúc nhắc chân tay, không đụng chạm tới bất cứ một thứ gì, dẫu là săn sóc vườn cây, chăm nuôi gà lợn hay quét tước sân ngõ. Bà chỉ làm những món ăn cho riêng mình. Bà quên cả những quan tâm thông thường nhất đối với chồng con. Bà cũng chẳng còn nhớ rành mạch tên tuổi những người cùng chòm xóm. Như thế, căn bệnh quái quỷ này kèm theo cả chứng mất trí nhớ. Và như thế, từ lâu bà Quảng sống gần như cách biệt với mọi người. Hai cánh cổng gỗ to đùng luôn gài chặt. Người ta chỉ loáng thoáng nhìn thấy bà đi qua sân khi cậu út Quỳnh trở về nhà lo cơm nước cho mẹ hoặc di chuyển các đõ ong. Dân làng nhìn bà với con mắt tò mò thầm lén như người ta nhìn một con bệnh tâm thần đặc biệt. Vì vậy, chẳng có gì đáng kinh ngạc khi thấy đám đông xúm lại quanh bà hỏi han, chuyện trò, ngay từ lúc bà vừa ghé mông ngồi xuống tấm phản lim mênh mông nhà cô Vui. Đàn ông cũng như đàn bà, không che giấu nổi cơn tò mò ngứa ngáy. Nhưng dường như bà Quảng không nhớ rằng bà đang ngồi ở đâu, ai hỏi bà cũng chỉ ừ hữ cho qua rồi bà ngoảnh mặt nhìn ra sân, cười một nụ cười đờ dại. Cho đến khi người ta bê lên một mâm đầy, nào cơm nếp trắng với thịt kho, nào xôi gấc, nào xôi vừng với mật... bà điềm nhiên cầm đũa, nói:

- Mời các ông các bà.

Nói xong, không đợi ai trả lời, bà bắt đầu ăn mải mốt. Người ta tản ra các mâm khác, nhưng vừa ăn, vừa theo rõi bà. Chủ nhân chạy lên, chạy xuống, lúc ở trên nhà khi ngồi dưới bếp, rõ ra vẻ quán xuyến, nhưng con mắt không lúc nào ngừng quan sát người bệnh . Thành ra mọi cuộc chuyện trò, mọi cuộc đối thoại diễn ra giống như màn kịch chỉ để lừa một người là bà Quảng, trong khi chính bà không mảy may ý thức về điều ấy. Bà ăn hết hai đĩa cơm nếp đầy ụ với thịt kho mà những người xung quanh chẳng dám xen đũa. Rồi bà tiếp tục kéo đĩa xôi vừng về phía mình. Những người đàn ông khác cúi mặt làm ra vẻ không để ý, nhưng những ánh mắt hãi hùng của họ thầm lén giao nhau. Cứ như thế, bà lại vét gọn đĩa xôi vừng, đoạn đưa mắt nhìn sang đĩa xôi gấc đang còn quá nửa ở góc bên kia mâm. Cô Vui đứng sau lưng bà, hốt hoảng gọi:

- Nhà bếp cho xin đĩa xôi gấc mới.

- Có ngay đây.

Các bà dạ ran bên dưới, rồi một người nhanh chân chạy lên hai tay bê hai đĩa xôi đỏ như son:

- Mời bà !Hai đĩa chứ không phải một đĩa.

Không ai bảo ai nhưng mọi người đều hiểu rằng khi bà đã đụng đũa vào đĩa nào, đĩa ấy coi như chứa một thứ vi trùng còn nguy hiểm hơn vi trùng thương hàn hay kiết lị. Sẽ không một ai dám thò đũa vào nữa. Những người buộc phải ngồi chung mâm với bà vừa rón rén ăn vừa run. Một nỗi sợ không cắt nghĩa được hù doạ họ. Dù rằng, cùng với nỗi sợ ấy là một sự bù đắp thoả đáng: họ được hoàn toàn thoả mãn cơn tò mò.

Khi bốn người đàn ông cùng mâm chia nhau những miếng cuối cùng trên đĩa xôi của họ, cũng là lúc bà Quảng vét gọn cả hai đĩa xôi gấc phần bà. Như thế là một mình bà táng hết năm đĩa xôi với một bát tộ thịt kho. Bốn vị khách nam nhi vội vã rút khỏi chiến trường tìm nơi hút thuốc. Họ run sợ ra mặt. Họ sợ bị lây căn bệnh quái quỷ của bà. Chủ nhân cũng không chạy trốn được nỗi sợ hãi ấy, cô nói thầm vào tai đứa cháu:

- Bưng cái mâm này ra sau vườn rồi đem chôn, càng sâu càng tốt.

Trong khi đó, bà Quảng đã đứng lên, nói bâng quơ giữa nhà:

- Cảm ơn cô chủ nhá. Chào các ông các bà ở lại, tôi về.

Không chờ chủ nhân, bà tự khoác áo mưa, đội nón ra sân. Khi cô Vui từ trong bếp chạy ra định tiễn bà thì bà đã đi khuất ngõ. Chỉ còn thấy vạt áo mưa xanh nhạt lấp ló sau góc tường nhà bếp mà thôi.
 

***
 

Hai mươi bốn giờ sau, cả Xóm tiều phu nghe loan tin bà chết.

Bà chết ngay trên đường trở về, ở đoạn rừng trúc giữa thôn Trung và thôn Thượng. Bà ngồi ở vệ đường, lưng tựa vào tảng đá, nón úp xuống mặt. Rủi ro là đêm hôm ấy, cậu con út sang nhà bạn chơi, vui chuyện ngủ lại xã bên.Trời mưa rét lại xế chiều chẳng còn ai đi lại. Vì thế, phải đến non trưa hôm sau, mới có người qua đường, nhìn thấy một bà lão ngủ ngồi dưới mưa rét, sinh nghi bước tới lật nón lên xem. Bà đã cứng ngắc như đá. Bà lại là mẹ chủ tịch xã nên chẳng thiếu người ba chân bốn cẳng chạy tới uỷ ban đóng ở thôn Thượng thông báo. Quý tức tốc cho người xuống tỉnh gọi ông Quảng. Còn anh ta với các chức sắc xã lo việc tang điếu .

Thời nào cũng thế, là bậc mẫu nghi của kẻ có quyền có chức đương nhiên phải được hưởng phần lễ tiết sang trọng hơn hẳn thứ dân. Dẫu sao, con trai bà cũng là chủ tịch xã. Chưa có ai pha nước, têm trầu, mua thuốc lào thuốc lá, đội kèn trống đã tức khắc đến nhà và tiếng nhạc đưa vong cất lên vang dội khắp xóm cùng thôn. Nếu chẳng phải là mẹ ông chủ tịch xã, gia chủ phải lo đủ cỗ bàn, trầu thuốc lẫn tiền phong bao rồi mới dám lên tiếng mời đội kèn trống nhà đám. Bởi khắp huyện, chỉ có một đội nhạc tang. Mà lại toàn những người có nghề từ nhiều đời tụ tập lại. Từ tay kèn, tay nhị cho đến tay đánh trống hát đưa vong... thuần là những người theo đuổi nghề nghiệp từ thuở thò lò mũi xanh, mà cũng kiên trì giữ nghề sau bao nhiêu đợt càn đi quét lại của chính quyền cách mạng. Đã có những năm tháng dài họ phải cất giấu nhạc cụ, vờ vĩnh giải thể. Ai nấy cắm cúi sắm vai kẻ tuỳ thời, một lòng một dạ tuân theo các chỉ thị của huyện uỷ lẫn xã uỷ:

" Toàn đảng toàn dân đồng lòng thực hiện chủ trương xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa . "

Theo tiêu chuẩn này, đám cưới chỉ được quyền uống nước chè xanh và ăn bánh kẹo. Để tiết kiệm, người ta thay pháo nổ bằng những tràng vỗ tay. Còn đám ma thì tuyệt đối cấm kèn trống cũng không cỗ bàn, không xe đòn, không cả đám rước cờ rước phướn. Lại càng không được mời sư sãi tụng kinh.Vì tất thảy những cổ tục đó là phản cách mạng, đồi truỵ hoá tư tưởng dân chúng và gây tổn hại tinh thần cho xã hội....

Nhưng rồi năm tháng qua. Dần dà nỗi tiếc thương những người nằm xuống khiến dân chúng không còn quá sợ hãi chính quyền. Ai cũng tự đặt câu hỏi:

- Ngộ dưới âm phủ không có chính quyền xã hội chủ nghĩa thì sao?... Không cúng bái đầy đủ tổ tiên chúng ta sẽ trở thành ma đói... Người nơi chín suối là ma đói thì kẻ sống nơi dương gian làm sao mở mặt mở mày ra được?...

- Không kèn không trống, không nghe câu hát đưa vong, người chết làm sao biết đường biết lối mà đi về cõi trời ?...Không vào được cõi trời, chỉ có cách sa xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ... Như thế hoá ra con cháu lại chính là những kẻ làm hại cha ông, xô đẩy người máu mủ ruột rà vào nơi hang hùm, miệng rắn.

- Chao ôi, cách mạng mới có mấy chục năm, còn tổ tiên chúng ta đã sống mấy ngàn năm có lẻ... Nào ai biết đâu là nẻo đường xuôi, đâu là con đường ngược... Vậy muốn cho chắc ăn, cứ làm theo cách của các cụ từ xưa....

Những cuộc chuyện trò thầm lén như thế thoạt tiên chỉ ủ ấp trong mỗi căn nhà, dấu giếm sau những bức tường và các khuôn cửa đóng im ỉm, nhưng dần dần chúng lan đến những buổi tụ tập quanh ấm chè, mâm rượu , và sau cùng, chúng theo đám dân cày cuốc lên nương, xuống vườn, thổi một ngọn lửa nóng bỏng trong lòng thôn ấp.

Thế rồi, việc gì đến, sẽ phải đến. Một đợt phản công dữ dội của dân làng bùng nổ khi công an xã đến trấn áp gia đình đầu tiên dám kêu gọi đội kèn đám quay lại nghề cũ. Gia chủ đã trả một món tiền phong bao đặc biệt, vượt qua mọi mơ ước của các nhạc công khiến họ đủ gan liều mạng. Tuy nhiên, ông ta cũng không dám đơn thương độc mã đương đầu với chính quyền. Ngay từ khi ông bố già còn đang nằm trên giường hấp hối, ông ta đã thầm lén đến từng nhà, kêu gọi mọi người cùng đứng lên hành động. Bởi nhà nào cũng có cha già mẹ yếu, mối lo tang sự là mối lo rường cột của tất thảy các gia đình nên mọi người đồng lòng hưởng ứng. Cuộc vận động diễn ra êm ả trong bóng tối. Chính quyền xã hoàn toàn không hay biết nên đã ập đến gia đình tang chủ một cách hống hách, kiêu căng. Không ngờ dân chúng chuẩn bị ứng phó. Vừa thấy chủ tịch và công an xã bước qua cổng nhà đám, người ta liền nổi trống ầm ầm. Các bô lão nghe hiệu lệnh kéo tới quây kín sân. Gần bốn trăm mái đầu hoa râm lẫn đầu bạc. Thêm nữa, đàn bà trẻ con đứng vòng trong vòng ngoài như đội quân ứng chiến. Tình thế lạ lùng khiến các chức sắc run chân. Họ đành xuống giọng:

- Nếu các ông các bà muốn quay lại hủ tục, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chúng tôi đến đây chỉ để nhắc nhở mọi người.

- Chúng tôi không coi việc tang ma là hủ tục. Chúng tôi coi đây là việc hiếu nghĩa. Các anh nói hủ tục nghĩa là từ ngàn xưa đến nay cha ông chúng ta toàn phường ngu dốt, chuyên làm những việc xằng bậy hay sao ?

- Chúng tôi không định nói thế.

- Hủ tục ? Vậy các anh muốn nói gì. Yêu cầu trả lời rành mạch trước toàn thể dân chúng. Ở đây, sớm hay muộn, muốn hay không, mọi gia đình đều phải lo việc hiếu việc hỷ. Không ai tránh được sự bắt buộc của kiếp làm người.

- Chỉ thị của cấp trên đã nói rõ: việc kèn trống theo lối cũ là hủ tục. Chúng tôi chỉ có phận sự thi hành. Chúng tôi không thể giải đáp.

- Thế ngày mai huyện uỷ ra lệnh cho các anh đào mồ đào mả tổ tiên lên các anh cũng cứ nhắm mắt làm, không cần hiểu đúng hay sai.

- Các ông đừng quá lời, đảng không thể ra lệnh làm những điều phi lý, phi nhân như vậy.

- Có đấy !.... các anh quên nhưng chúng tôi chưa quên: Năm con gà, cấp trên của các anh đã ra lệnh triệt hạ chùa Lan Vu và biến hai ngôi chùa dưới núi thành lớp bình dân học vụ. Các lão làng phải kéo lên tỉnh uỷ kêu cầu ông Lợi Đen, họ mới tha cho. May là ông Lợi Đen đã từng ăn nhờ ở đậu ; bốc cơm nguội, húp nước dưa nhà chúng tôi nhẵn miệng trong những năm đen tối.

Chính lúc ấy, trưởng công an xã xuống giọng trước:

- Thôi được, nếu các ông các bà thích tuân theo cổ tục thì cứ lẳng lặng mà làm. Chỉ có điều chúng tôi hoàn toàn đứng bên ngoài sự việc...

Nói xong, anh ta bấm chủ tịch xã chuồn. Hai người vừa ra khỏi ngõ, tiếng kèn trống lập tức nổi lên ầm ĩ, nửa như thị uy, nửa như khiêu khích. Công an xã ghé tai chủ tịch, nói thầm:

- Đừng có lơ mơ. Người xưa đã bảo rằng:

" Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết "...

Chủ tịch xã lòng dạ hoang mang không biết nói năng sao vì thấy gã đàn ông nổi tiếng sắt đá hung dữ bỗng nhiên tòng phục đám đông một cách dễ dàng như vậy... Ba tháng sau, ông bố già của xã trưởng công an chết, đội kèn trống được mời đến ngay tức khắc. Đích danh anh ta mang trầu thuốc lẫn tiền phong bao ra biếu các nhạc công....

Từ ngày ấy đến nay, bao nhiêu đời chủ tịch và xã trưởng công an thay đổi. Nhưng việc hiếu hỷ ở Xóm Tiều Phu không ai còn bàn. Người ta tuân theo phong tục của tổ tiên như một sự nghiễm nhiên. Chính quyền cấp tỉnh lẫn cấp huyện giả đò như không nghe, không thấy.

Nhờ vậy cái chết của bà Quảng được hưởng đủ mọi lễ nghi. Kèn trống, xe tang, cờ phướn, hương hoa linh đình. Nhà cửa sạch banh sau hai mùa bị tàn phá bởi căn bệnh ma đói nhưng ông Quảng đã vay ba con bò, năm tạ thịt lợn để làm ma cho vợ. Thiên hạ rùng mình:

- Nợ đến thế trả bao giờ cho xong ?

Người độc miệng hơn thì bảo:

- Bà này đúng là quỷ đói. Chết rồi vẫn còn đòi mâm cao, cỗ đầy. Chắc ông chồng phải lo cho đủ vì sợ bà ấy quay về ám...

Nhưng dẫu sao thì cả Xóm Núi cũng phải cúi đầu kính nể một ông chồng như thế.

Ông Quảng ở lại nhà đúng bẩy tuần lễ. Ông mời sư về đọc kinh cho vợ vào ngày cúng trả vong, tên gọi thông thường để chỉ ngày thứ bốn mươi chín sau cái chết. Lần này, thay vì tiếng nhạc là tiếng tụng kinh gõ mõ suốt đêm trường. Ông ngả ba mươi mâm cỗ chiêu đãi bà con, láng giềng rồi sớm hôm sau, đánh xe ngựa xuống tỉnh từ lúc trời còn tối đen như mực. Láng giềng nghe tiếng ngựa gõ móng trên sân và thấy ngọn đèn bão nhà ông treo lúc lắc nơi càng xe rọi sáng đám sương mù:

- Ông ấy đang làm cai cho công trường tỉnh sao lại còn đánh xe ngựa theo ?... Chẳng lẽ vừa xây nhà vừa buôn đường dài ?

- Có trời mà biết. Người lắm bạn nhiều bè như ông ấy làm gì chẳng nổi. Bây giờ nợ nần ngập đầu ngập cổ, ông ấy phải lo cách kiếm tiền chứ.

- Đúng là chữ tài đi với chữ tai... trời cho cách kiếm tiền, trời lại bắt cõng một con vợ nhập hồn quỷ đói.

- Nói phỉ thui chứ giá như quỷ đói mà rơi vào nhà chúng ta chắc chỉ có cách đem chôn sống.

- Cái ông này nói ghê cả tai. Nhưng của đáng tội, đúng là kinh hồn táng đởm . Từ thuở sơ sinh tới giờ chưa nhìn từng thấy cảnh như thế. Chỉ nghĩ đến thôi, đã đủ sởn da gà...

Láng giềng bàn tán, và sau mỗi lần bàn tán như vậy, họ cảm thấy hài lòng với mái nhà mình, với cái hạnh phúc nhỏ bé vừa tầm tay của mình, với những gì số phận đã an bài cho họ . Họ theo rõi ông từ xa, từ nơi Xóm Tiều Phu heo hút ấy, vừa tò mò vừa khắc khoải...

Mùa xuân lạnh lẽo năm ấy qua đi như cơn ác mộng. Tiếp đến mùa hè oi nồng đột ngột và chứa chất giông bão, thứ giông bão của mùa thu đến sớm. Những cơn mưa lũ tháng sáu tháng bẩy dồn lên ngay giữa tháng tư khiến các con suối cuốn ào ào làm nhiều đoạn đường sụt lở. Việc dọn lũ, đắp đường tiêu phí biết bao tiền của lẫn nhân công. Ve đẻ như sung vào cuối hè, tiếng ve kêu inh ỏi cả ngày lẫn đêm khiến những người già không ngủ được. Trẻ con bị hết dịch cúm lại đến sốt bạch hầu. Tiếng trẻ khóc như xé vải khiến không gian càng nhôi nhoai, ngột ngạt. Thời tiết thay đổi bất thường, cuộc sống cũng đảo lộn một cách bất thường. Những nỗi lo âu xưa cổ lại quay về , kêu ra rả như tiếng ve trong tâm hồn phập phồng hoang mang của người dân. Mặc cho chính quyền lẫn các đoàn thể hội họp, răn đe, dân làng quyết định mời các nhà sư trên chùa Lan Vu lẫn hai ngôi chùa dưới chân núi đọc kinh giải hạn trong ngày lễ ra hè. Thông thường, lễ ra hè chỉ làm trong một ngày, nhưng năm ấy, do quá nhiều sự bất thường trong trời đất cũng như trong cuộc sống, người ta làm lễ ba ngày liền, cờ phướn treo rợp sân chùa, dân làng từ già tới trẻ ngồi sùng kính đọc kinh, hy vọng cơn giận dữ của các bậc quỷ thần sẽ nguôi dịu....
 

***
 

Ông Quảng trở về làng vào ngày cuối cùng của dịp lễ. Chiếc xe ngựa của ông là chiếc xe duy nhất trong Xóm Tiều Phu có mui che, thế nên người ta nhận biết được ngay. Ông có vẻ gầy hơn xưa, đuôi mắt hằn thêm vài nếp nhăn nhưng tiếng cười ngạo nghễ không thay đổi. Một nửa mùa xuân với một mùa hè, ông đã trả đủ nợ, cả gốc lẫn lãi, lại biếu thêm mỗi chủ nợ mươi thước vải làm quà. Xóm giềng nhìn ông như nhìn người lạc từ cung trăng xuống. Người ta thì thầm kháo nhau về mọi cách kiếm tiền của ông. Nhưng những câu hỏi luôn luôn còn là những câu hỏi. Không ai kiểm soát hay dò tìm được đường đi lối lại của con người này. Cuộc sống của ông nằm ngoài trí tưởng tượng của thôn dân. Ông không chỉ dẫn người Xóm Tiều Phu mà còn tuyển dân của các huyện láng giềng xuống làm nề làm mộc nơi công trường thành phố. Một khi đã sắp xếp công việc cho các toán thợ, giao quyền cho đàn em thân tín, ông biến ngay cùng cỗ xe ngựa. Vài tuần sau, ông quay lại kiểm soát chất lượng thi công, bàn bạc, thoả thuận công xá với thượng cấp cũng như với hạ cấp, rồi sau bữa cơm rượu đãi thợ, nâng chén lên hạ chén xuống với mọi người, cười ha hả khi nghe đủ thứ chuyện tiếu lâm, ông lại mất tăm như người làm trò ảo thuật. Không ai có thể theo rõi ông, nhưng ông lại có biệt tài theo rõi tất thảy mọi người, ngay cả khi ông vắng mặt. Đừng hy vọng lừa đảo ông. Tất nhiên ông cũng chưa từng lừa đảo hay gian dối với ai nhưng đám dân đã theo ông xuống tỉnh kiếm cơm đều biết luật lệ của trò chơi và không kẻ nào dám mạo hiểm vượt mặt con người lõi đời ấy.

Sau khi trả hết nợ nần, ăn một bữa cơm với con cháu, chiếc xe ngựa của ông lại gõ móng lên đường vào một sáng tinh sương. Lần này, người ta nghe tiếng nhạc cất lên từ chiếc đài Sương Mao ông đeo bên mình. Cái thứ máy móc giống như cục gạch đen mà có thể phát ra đủ thứ bài hát, lẫn những giọng nói véo von đang còn là đồ vật huyền bí trước mắt dân quê. Ngay các quan chức huyện cũng chưa thể có được một vật lạ kì như thế. Láng giềng mở cửa, đứng nhìn theo chiếc xe ngựa, và lắng nghe tiếng nhạc xa dần.

- Lão này oách thật !...

Người ta bình phẩm.

- Không oách đã không phải lão Quảng. Có nhà ai dám làm đến ba mươi mâm cỗ vào bốn mươi chín ngày vợ chết đâu. Mà đấy còn là quỷ đói đã ăn tàn phá hại gia tài.

- Nếu bà ấy là người bình thường hiền thảo cho tới phút nhảy vào trong hòm chắc ông ta phải làm đến ba trăm mâm cỗ ?...

- Chả phải nói !...

- Ông ấy bao nhiêu tuổi mà trông còn chắc như cua gạch thế nhỉ ?

- Bà ấy sáu mươi, ông ấy sáu mươi mốt. Họ lấy nhau theo công thức:Gái hơn hai, trai hơn một.

- A ! Sáu mươi rồi thì không còn phải nghĩ đến chuyện tái hôn. Từ nay về sau, ông ấy chỉ còn việc nhặt tiền bỏ vào túi !

Đó là ý nghĩ phổ biến của dân Xóm Tiều Phu. Họ muốn rằng một người chồng tận tình tận nghĩa như ông ắt hẳn sẽ ở goá đến cuối đời để hoàn thiện hình ảnh của một lý tưởng đạo đức. Bởi con người luôn luôn có nhu cầu hướng về một lý tưởng đạo đức, miễn là cái lý tưởng ấy đừng hoá thân vào chính họ. Thế mà cuối mùa đông năm ấy, nói cho thật chính xác là ngày hai mươi lăm tháng chạp ông Quảng lại đùng đùng dẫn về một cô vợ trẻ. Một cô gái mẩy da mẩy thịt, cặp mắt lúng liếng sắc như dao cau, đôi mày dài qua thái dương quết đến tận chân tóc. Ngày đầu, cô ngồi trên càng xe đi qua đường làng, vừa trò chuyện với ông vừa đong đưa đôi chân và cười như nắc nẻ, nhiều người tưởng lầm là con gái nhà Quý:

- Ủa con cái Mơ sao bỗng nhiên nảy da nảy thịt nhanh thế nhỉ ?

- Chắc mắt ông có nhài, con Mơ nào mà to lớn đến thế được ? Nó chỉ nặng một xách tay chứ mấy.

- Chẳng lẽ lại là con Mận ? Con bé mới mười lăm. Nghe giọng cười lạ hoắc, rắn đanh. Tôi chắc không phải nó.

Họ không cần chờ đợi lâu. Ngay tối hôm ấy, sân nhà ông đã chộn rộn láng giềng. Đèn măng-xông treo giữa sân, soi sáng đến tận vườn trước, vườn sau. Người ta uống nước chè, ăn đủ loại bánh kẹo và nghe ông giới thiệu một cách vắn tắt:

- Đây là cô vợ mới của tôi. Cô ấy tên là Ngân.

Mọi người chưa kịp nói câu nào, cô gái đã tiến lên, nhoẻn miệng cười:

- Em chào các bác. Cảm ơn các bác tới mừng cho chúng em. Ngày mốt ngày hai chúng ta sẽ là những láng giềng.

Dân làng gần như á khẩu. Giấc mơ về người chồng lý tưởng sập đổ, tan như vôi vữa một ngôi nhà bị vùi trong cơn núi lở. Hơn thế nữa, cô dâu trẻ quá, lại đẹp quá, đến nỗi mọi người muốn tắc thở. Cô ấy mặc chiếc áo cánh lụa xanh, cặp vú nảy cồn cộn, ngon lành như hai bát xôi nén nặng tay. Cặp mông cong lượn một đường ngoạn mục dưới lớp sa-tanh đen nhánh. Bộ đùi cũng vậy, chúng hằn lên mỗi khi cô bước, đặc biệt gợi bao nhiêu điều háo hức cho cánh đàn ông khi gió thổi ngược chiều. Mắt cô cũng đen nhánh như sa-tanh, nhưng lại bắn ra những tia lửa lúng liếng khiến tim người loạn nhịp.

Chắc chắn ông Quảng đã hiểu thấu gan ruột của đám đàn ông, nên cao giọng nửa đùa nửa thật:

- Ở thành phố toàn những người đẹp như vợ tôi trở lên, ông nào muốn, tôi giới thiệu cho tức khắc; Cánh đàn ông như được rút lưỡi, nhao nhao:

- Muốn thì cũng muốn, nhưng túi không xu, gái nào thèm.

- Lòng vả cũng như lòng sung, tôi cũng đang mót lắm đây... Ông mà kéo được cho tôi một cô đẹp bằng nửa vợ ông, tôi xin làm quản gia, coi sóc nương vườn không công cho ông cho đến chết.

- Đừng tin mồm mép lão ấy, cái quân chuyên vay lường mướn quỵt. Xưa nay những người cho lão vay nợ chưa ai đòi được một hào. Có giúp thì giúp tôi đây.

- Các ông các bà thấy chưa ? Bạn nối khố đấy ! Động đến gái là chẳng còn tình nghĩa gì.

Câu chuyện râm ran trong khi cô Ngân đã rút xuống bếp để nấu nước chuyên chè và bày tiếp bánh kẹo ra đĩa đãi khách. Người ta ngồi đến quá nửa đêm. Đã hai năm căn nhà thênh thang của ông tối lửa tắt đèn, giờ mới lấy được không khí nồng ấm cũ. Tuy nhiên, dẫu chuyện trò như pháo nổ, láng giềng vẫn đảo mắt tìm những đứa con trai. Quý không thấy mặt. Cả cậu út Quỳnh cũng không. Giá như địa vị người khác thế nào cũng bị dăm ba câu hỏi đểu. Kiểu như:

- Cậu cả cậu út đi đâu chưa về ?

Hoặc là:

- Nhà có thêm nhân khẩu mới mà mọi người lại bỏ đi chơi đâu vậy ?

Hoặc là:

- Hôm nay là ngày nhận diện mẹ kế, đáng lẽ các cậu con trai phải bưng trà bóc thuốc mời dân làng mới phải đạo !...

Đại loại là như thế. Dân quê vốn không thiếu lối cạnh khoé ngoắt ngoéo như vậy. Nhưng có lẽ tại vía ông Quảng lớn, nói trắng ra rằng ông ấy sang cả, đường ăn lối ở đều trên can mọi người, dân nghèo trong thôn mang ơn ông ấy phải tính đến cả trăm chứ không phải đôi ba chục cho nên người ta đành nén những loại lời lẽ ngâm cả dấm lẫn ớt chỉ thiên trong họng.

Đêm ấy, trên đường trở về nhà, họ kháo nhau:

- Thằng cả không thèm đến, thằng út bỏ đi. Nhà này loạn đến nơi.

- Loạn làm sao được với ông Quảng. Cứ nhìn vẻ mặt ông ấy thì biết. Người như thế có cháy nhà cũng không chớp mắt.

- Nói phét !...Có là lòng gang dạ sắt con cái hỗn loạn cũng chẳng và nổi bát cơm.

- Để rồi xem ai có lý !... Chẳng cần phải chờ lâu, không mai thì mốt, con tốt phải xuất đầu. Ai cá cược với tôi ?

Không cần cá cược thì sáng hôm sau , mọi người đã thấy chủ tịch Quý đến thăm bố. Anh ta gõ cửa ầm ầm. Ông Quảng gắt giọng hỏi với ra:

- Ai làm rộn lên đấy ?

- Con đây.

- Về đi, tao còn đang ngủ.

- Bố mở cửa, con có chuyện cần nói.

- Chuyện gì cũng không nói lúc bảnh mắt này. Tao mới đi xa về, đang còn muốn nằm cho giãn lưng.

- Bố dậy đi. Con có nhời...

- Đây là nhà tao, tao muốn ngủ đến lúc nào tuỳ ý.

- Nhưng con còn phải lên xã làm việc.

- Lên xã là việc của mày, ngủ là việc của tao.

Chủ tịch Quý đứng hồi lâu trước khuôn cửa gỗ đóng im ỉm, mặt đỏ dừ. Nhưng rồi, anh ta cũng phải bỏ đi.

Láng giềng nín thở nghe cuộc đối thoại giữa hai cha con, không sót nửa câu, nửa chữ. Đàn ông cũng như đàn bà, xồn xồn nạ dòng cũng như năm mươi, sáu mươi, tóc trên đầu trộn cả tiêu lẫn muối, không ai không chú tâm theo rõi cái màn kịch hiếm hoi nơi thôn dã. Cái màn kịch, mà họ biết chắc chắn sẽ còn đi qua rất nhiều lớp lang.

Ngày hôm ấy, láng giềng quanh quẩn làm cỏ vườn, hoặc nhặt đậu, nhặt lạc, sàng ngô... bất cứ thứ công việc tủn mủn nào, cho phép họ theo rõi được mọi tiếng động xảy ra trong ngôi nhà ông Quảng. Họ nhìn thấy hai cánh cửa mở ra thật trễ tràng: Chín giờ rưỡi, mười giờ hay non trưa ?...Chắc cũng phải tầm ấy.:

- Lão Quảng bây giờ đã ra dân đô thị... Người thôn quê không ai dám ngủ muộn thế...

- Thôn quê hay đô thị cũng chỉ có một đầu hai tay, hai chân với cái chân thứ ba lủng lẳng dưới đám lông đái. Dù khoẻ như hùm cũng đã chính lục tuần. Cặp mông cô vợ trẻ thây lẩy như vậy, rập xong một quắn phải ngủ mười tiếng mới lại hơi.

- Này bà Tám, nghe thằng chồng dê xồm của bà tán chuyện hay chưa kìa ?...

- Chẳng cứ lão nhà tôi, ông nào nhìn thấy cô Ngân chả nhỏ nước dãi... Chỉ có điều các ông không thể bì với ông Quảng. Các ông chỉ là phường đũa mốc thôi... Đã đũa mốc đừng có chòi mâm son.

- Cái nhà bà này. Bà nói thế có nghĩa là bà tự nhận là mâm gỗ mốc à ?

- Tôi nhận quá đi chứ !Tôi không là thứ mâm gỗ mốc đời nào tôi phải chịu suốt đời hứng cái thứ đũa mốc kia.

- Con mụ trời đánh thánh vật ! Đêm nay thì mày biết tay ông !...

Đấy là câu chuyện trong bữa ăn đúng ngọ, khi những người láng giềng vừa xới cơm vừa đưa mắt liếc qua sân nhà bên kia xem ông chủ tịch Quý đã quay lại chưa... Nhưng ông ta chưa quay lại. Chỉ nghe tiếng gà kêu quang quác, rồi sau đấy là tiếng cười của cô Ngân. Giọng cười đến là lạ, vừa sành sỏi vừa thơ trẻ. Có cái gì đó tươi hơn hớn như hoa mùa xuân trong giọng cười của người đàn bà mới mười tám tuổi này. Rồi tiếng ông Quảng nói trong bếp. Chắc là cả hai đang làm cơm. Chỉ có hai người thôi vì cậu út Quỳnh đã bỏ về nhà bà ngoại dưới thôn Hạ. Chừng nửa tiếng sau thấy cô Ngân bưng mâm đi trước, ông Quảng cầm chai rượu thuốc theo sau , rõ ra là cảnh tuần trăng mật. Họ ăn cơm ở nhà trên chứ không ăn dưới bếp như mọi người. Phú quý sinh lễ nghĩa là thế. Láng giềng phải kiên nhẫn chờ cho tới sát bữa cơm chiều, mới thấy Quý quay về. Lúc ấy, ông Quảng và cô Ngân đang thu dọn năm gian nhà ngang được dùng chứa đồ gia dụng và lương thực. Hai người hì hục khuân ra sân hàng đống bao tải để lựa những chiếc còn có thể đựng thóc ngựa hay cỏ khô. Quý đi ngang sân, mặt hằm hằm:

- Con muốn nói chuyện với bố.

Ông Quảng nhìn con trai, gằn giọng:

- Muốn nói chuyện thì phải vào nhà. Muốn vào nhà phải chào chủ nhân rồi mới được bước qua bậc cửa. Anh là chủ tịch, đứng đầu một xã mà phép ăn phép ở tối thiểu cũng không thông suốt. Anh lãnh đạo ai ?

- Con chào bố rồi.

- Trong nhà này, ngoài tôi ra còn có vợ tôi. Trước đây mẹ anh là vợ tôi. Bây giờ bà ấy mất tôi lấy cô Ngân. Cô ấy là chủ nhà này.

- Con không có thứ mẹ ranh như vậy.

- A... Anh không muốn thứ mẹ ranh nhưng tôi lại muốn. Tôi lấy vợ cho tôi chứ tôi không lấy cho anh.

- Bố lấy ai cũng được nhưng phải nhìn ngược nhìn xuôi chứ. Đầu bố hai thứ tóc rồi.

- Tôi không cần anh dạy tôi. Tôi làm điều gì tôi thích .

- Nhưng con là con trưởng.

- Con trưởng hay con thứ trong gia đình này cũng vậy thôi. Tất cả đều tay tôi gây dựng. Tôi chưa nhờ vả được đứa nào. Kể từ ngày chúng tôi cưới vợ, dựng nhà cho anh đến lúc mẹ anh mắc bệnh, ăn lở núi lở đồi, là con trưởng anh đã đỡ đần tôi được một đùi bò hay nửa tạ lợn chưa ?

-....

- Không một đấu gạo, không một đồng xu, không một manh vải... Đến một viên kẹo mút cũng không ?... Tôi nói sự thật hay tôi đặt điều cho anh ?.... Tất cả đều tự tay tôi mà ra. Sự tồn tại của mái nhà này là do tôi đổ mồ hôi sôi nước mắt... Anh chưa báo hiếu nuôi mẹ anh được bữa nào, anh chưa ghé vai đỡ đần tôi được cân thóc nào thì chớ nên vênh mặt lên nhận con trưởng... Hãy giương mắt nhìn thiên hạ, có thứ con trưởng nào chỉ đào ăn như anh hay không ?

-.....

- Anh cấm khẩu, cứng họng không dám cãi. Vì xưa nay chỉ có chúng tôi bù trì, gieo vãi, chăm lo cho vợ chồng anh còn chưa từng xảy ra chuyện ngược lại. Vậy anh là thứ người chỉ há mồm ra chứ không bao giờ úp tay xuống. Đã thế thì hãy biết thân biết phận. Đừng đem cái thứ trưởng hão ra mà hù doạ tôi. Tốt nhất là bước đi cho khuất mắt !

Cuộc đối thoại xảy ra ngay giữa sân. Ông Quảng đã không hề hạ giọng mà lại còn nói toáng lên cho hả cơn giận dữ. Có người cho rằng ông cố tình nói oang oang để láng giềng nghe thủng ; để từ nay ai có mồm thì cắp có nắp thì đậy, đừng ngứa lưỡi dây vào việc của ông. Người ta cũng lại nghĩ rằng ông đánh gục đứa con trai như thế là để nó phải nhục nhã mà ghi khắc tận gan tận ruột là trong ngôi nhà này, chưa kẻ nào được phép vượt qua mặt ông. Và để nó quên đi giấc mơ thừa tự. Bởi đã từ lâu, ngôi nhà thênh thang này là giấc mơ ban đêm lẫn ban ngày của đứa con trai trưởng. Sau khi vợ xón ra hai ả Tố Nga, Quý đã quyết đẻ bằng được đứa con trai dù phải chịu kỉ luật đảng hai năm, và chức chủ tịch cũng phải treo hai năm mới bổ nhiệm. Nhà ngang, nhà dọc, nương vườn, những đàn ong, những của chìm của nổi mà người trong nhà cũng như ngoài ngõ luôn luôn dòm ngó là cạm bẫy mà chắc chắn ông Quảng đã biết từ lâu. Người ta cho rằng cũng đã từ lâu ông đắn đo mọi sự và một ngày nào đó, ông sẽ ngả xuống mặt bàn tất thảy những quân bài, những phép tính đã đủ thời gian cộng trừ nhân chia trong óc. Cuộc hôn nhân này là dịp để những con tính ấy được bộc lộ ra.

Thế nên, xóm giềng nín thở theo dõi cuộc đối thoại .

Ngay tối hôm đó, mọi người kéo tuốt tuột từ thôn Thượng xuống thôn Trung, tụ tập ở nhà cô Vui. Người ta kể lại không thiếu một dấu phẩy, dấu chấm cuộc đối thoại giữa hai cha con. Sau cuộc đối thoại ấy, Quý đứng chôn chân giữa sân hồi lâu . Ông Quảng và cô Ngân tiếp tục giũ những chồng bao tải làm bụi bay mù. Không ai nói thêm nửa lời. Trong sự im lặng đó, ông chủ tịch xã rút lui âm thầm:

- Một cuộc rút lui không kèn không trống.

Ai đó lên tiếng bình phẩm.

- Mất keo này, bày keo khác. Thằng Quý không chịu thua đâu.

Người khác phản hồi.

- Còn keo với cú gì nữa ? Tôi không bênh ông Quảng vì uống rượu ăn cơm nhà ông ấy, nhưng tôi biết mười điều ông ấy nói đúng cả mười. Kể từ ngày dựng vợ gả chồng cho cậu Quý, có bao giờ họ được gắp một miếng nem miếng chạo của nó đem cho ?

- Vì nó ỷ là ông ấy hái ra tiền. Con không ỷ vào bố thì ỷ vào ai ?

- Làm người chớ nên ỷ vào người khác, dù là con cái hay bố mẹ. Còn đã ỷ lại vào người khác tức là chấp nhận phận ăn bám, thì chớ lên mặt dạy dỗ ai, chớ nên đòi hỏi cái gì ngoài phận sự của mình.

- Nói nghe dễ, nhưng con gái nó mười chín, bây giờ ông Quảng lại rước một đứa mười tám về làm mẹ ghẻ thì nó chịu sao nổi ?

- Con cái Mơ đã mười chín rồi à ? Nghe mà giật cả mình !

- Ông ngủ mê hay sao ? Cậu Quý năm nay bốn mươi mốt rồi còn ít ỏi gì ? Ông bà Quảng lấy nhau khi bà ấy mười tám, năm sau đẻ liền con trai.

- Kể ra thì cũng bất tiện. Vợ thằng Quý hoá ra đẻ được cô Ngân.

- Cơm ai người nấy ăn, giường ai người nấy ngủ. Cuộc sống thời bây giờ đổi khác.

- Đổi đến mấy thì những người có liên quan máu mủ vẫn phải ngồi cùng một mâm, nằm dưới một mái ngói. Do đó, khi có sự bất tiện, không tránh được việc nảy sinh mâu thuẫn .

- Theo ông thế nào là bất tiện ?

- Bất tiện là sự nghịch mắt, trái với lẽ thường ở đời. Các ông thử hình dung vợ thằng Quý đứng cạnh cô Ngân. Một bên đúng mẹ nái xề, cần cổ trơ xương, vú chảy tới rốn. Bên kia ngồn ngộn như mâm cỗ đầy, ức phẳng như ức chim câu, bắp tay lẳn như bắp ngô, da trắng như trứng gà bóc. Thế mà bắt con mẹ nái xề kia phải gọi mẹ Ngân ơi... thì quá nực cười !...

- Tôi nghĩ rằng con mắt ông xục xạo dòm ngó một cách thái quá. Người ta gọi những kẻ như ông là loại dê xồm.

- Được là dê xồm càng tốt, tôi không từ chối lời ban khen của ông. Nhưng trở lại chuyện nhà ông Quảng, tôi cho rằng thằng cha Quý ghen với bố. Đời thuở nhà ai bố cắn miếng thịt ngọt sớt, con lại phải gặm xương ống, xương đùi ? Chính cái nghịch cảnh ấy thiêu đốt tâm can ông chủ tịch.

- Chuyện tầm phào ! Cái ngọn lửa thiêu đốt tâm can đứa con trai trưởng chính là gia tài mà nó đinh ninh là kẻ thừa tự. Các ông các bà có thấy từ sau khi đẻ thằng Phú ông chủ tịch nở mặt nở mày từng giờ từng khắc hay không. Cái cú liều chịu kỉ luật đảng hoá ra lại là canh bạc thắng lớn. Bố là Quý con đặt tên là Phú giấc mơ sang giàu không chệch đi đâu được. Bố là con trai trưởng, con là cháu nội đích tôn, bề nào khi ông Quảng khuất núi của nả cũng rơi vào túi nhà nó. Dù bây giờ theo luật trên giấy trắng mực đen thì con cái bình đẳng, bình quyền nhưng thói thường người ta vẫn cứ theo cái luật thời xưa. Nay có một bà mẹ ghẻ mười tám, giấc mơ tiêu thành khói . Chắc chắn là những đứa con khác sẽ ra đời. Cô Ngân có thể đẻ mười hai đứa con trai to như cối đá lỗ. Còn ông Quảng, tuy đã sáu mươi nhưng sức vóc ấy cũng phải cho ra lò dăm sáu đứa rồi mới chịu quy tiên... Hoá ra công liều đẻ đứa con trai của chủ tịch Quý bỗng thành công cốc.

- Ông nói ngang bỏ mẹ ! Cô Ngân có đẻ mười thằng con trai nữa thì anh Quý vẫn là con trưởng. Con trai anh ta vẫn cứ là cháu đích tôn.

- A, mọi người bé cái nhầm. Từ thời xửa thời xưa, luật phép cũng đã quay đảo. Đã có luật thì cũng có cái chống luật. Ngay đến ngai vua cũng còn có chuyện truất thái tử lập thế tử huống chi gia sản của thần dân ? Luật nào cũng nảy sinh trong bộ óc của con người. Óc liền với tim. Tim đập theo chiều nào, óc quay theo chiều ấy.

- Ờ... ờ... Có lý !

- Tôi chẳng tin ! Nói gì thì nói, ai cũng phải nhìn làng nhìn nước mà hành xử. Phép vua thua lệ làng. Từ ngàn năm xưa tổ tiên đã dạy .

- Đời nào cũng có kẻ vừa nhìn làng nhìn nước vừa ngoảnh mặt nhìn ra thiên hạ. Bình thường họ xử theo mọi người, nhưng khi cần thiết họ có thể đạp lên những lời đàm tiếu. Các ông các bà không nhận ra rằng ông Quảng chính là thứ người như vậy hay sao ?

- Ờ ờ, ông nói chí phải...

- Bây giờ, còn ai nghi ngờ nữa không ? Ai nghi ngờ giơ tay lên cho tiện đếm.

- Hôm nay đâu phải là ngày họp bầu tổ trưởng sản xuất hay kế toán hợp tác mà đòi giơ tay biểu quyết ?

- Tôi hỏi lại, có ai nghi ngờ những điều tôi phỏng đoán hay không ?

Không ai nghi ngờ, nhưng người ta vẫn ấm ức vì một lẽ gì đó chưa nói ra được. Một thứ cảm tưởng vô cùng khó diễn đạt. Có biết bao ý nghĩ, có biết bao cảm giác lẩn khuất một cách xảo quyệt khiến họ không thể hiểu tường tận , lại càng không đủ khả năng cắt nghĩa . Chỉ một cách là đợi chờ. Câu trả lời sẽ là của thời gian !

Sáng hôm sau, một thiếu niên từ thôn Hạ lên gặp ông Quảng, nói rằng cậu Quỳnh nhờ nó đến lấy quần áo, sách vở, rằng từ nay Quỳnh sẽ sống dưới thôn Hạ với bà ngoại và hai cậu ruột . Láng giềng nghe thấy cô Ngân gọi chồng ra tiếp khách. Câu trả lời của ông Quảng khá sỗ sàng:

- Tôi không biết cậu là con cái nhà ai, lâu nay tôi kiếm ăn dưới tỉnh nên không có dịp qua lại các thôn khác. Vì thế, tôi không thể giao tài sản cho người lạ mặt... Cậu về nói với thằng Quỳnh rằng quần áo, bút sách, đồ đạc riêng tư của nó đều mua bằng tiền trong túi tôi. Nếu nó muốn có những thứ đó thì phải đem đầu đến gặp tôi chứ không nhờ được ai khác.

Đương nhiên là anh chàng thiếu niên kia phải rút lui, không kèn và không trống, theo như lời mô tả của hàng xóm. Buổi chiều hôm ấy, hai người em trai bà Quảng đến gõ cửa nhà anh rể. Có lẽ trong thâm tâm họ run sợ trước ông nên phải hè nhau cùng đi một lượt, hy vọng cái câu ca:

" Hai thằng đánh một chẳng chột cũng què ! "

bao giờ cũng chính xác. Lúc đó là giờ bữa cơm chiều nên xóm giềng mượn cách xin muối, xin mỡ đến hóng chuyện nhà ông. Chủ nhân không những niềm nở cho đủ thứ mà còn pha trà mới và chèo kéo khách:

- Nhân tiện có hai cậu em vợ tôi tới chơi, các ông ở lại ăn cơm cho vui.

Lẽ ra chúng tôi đã làm vài chục mâm mời làng mời nước nhưng theo phong tục, phải đợi qua ngày giỗ đầu của mẹ thằng Quý. Cũng chỉ còn già một tháng thôi.

- Ôi, chúng tôi không dám phiền nhiễu thế .

- Chẳng phải các ông phiền nhiễu mà là chính tôi muốn có dịp cùng nâng chén lên hạ chén xuống với nhau. Tiếng là láng giềng liền vườn liền ngõ nhưng quanh năm tôi đi vắng, chỉ mùa đông mới có dịp tụ tập với người cùng xóm trong thôn.

- Vâng, thôi thì ông đã có nhời !...

Người ta chỉ đợi đến lúc ấy để kết thúc màn xã giao muôn thuở, muôn thuở sáo mép và giả dối nhưng không ai dám bỏ đi. Chủ nhân gọi với xuống bếp:

- Dưới nhà vặt thêm cặp gà nữa nhé.

- Dạ, em nghe thấy rồi !

Cô Ngân tức khắc trả lời. Dưới bếp, ngoài cô còn có bà Tư móm, đang tay nem tay chạo xào nấu đồ ăn. Bà là cháu gọi ông Quảng là cậu ruột, năm nay năm mươi chín nhưng vẫn còn trinh. Mẹ bà chết vì thương hàn khi bà tròn mười tuổi. Cha bà nuôi con được hai năm sau cũng chết do lũ cuốn. Mười hai tuổi bà đã nhất quyết ở riêng, không sợ cô đơn, không sợ ma quỷ, không lấy chồng. Làng nước khiếp hãi vì một đứa con gái mới ngần ấy tuổi đã nhất quyết giữ tiền đường để thờ cha cúng mẹ. Người ta bảo bà có số tu tại gia. Dòng họ nội nhà bà cũng đã từng có nhiều người đàn bà sống độc thân theo kiểu ấy, người thì làm chủ miếu, người mở phủ nhảy đồng, người là hộ lý trong những nhà thương làm phúc cho đến chết. Không nghe ai nói về chuyện tình duyên thời son trẻ của bà. Quả thực, bà không phải người có duyên có sắc. Thân hình nhỏ bé, rắn rỏi, gương mặt bình thường nhưng cằm lẹm và miệng hơi móm. Chính mẹ bà gọi yêu là con móm, sau đó thành tên. Bà Tư móm không đẹp nhưng cũng chẳng xấu gái. Môi bà đỏ và mắt sáng như nước, long lanh. Ối kẻ trong làng kém bà dăm bẩy điểm mà vẫn có chồng có con đàng hoàng. Còn bà phải chấp thuận cả một đời hiu quạnh. Phải chăng kiếp trước bà là kẻ đa đoan, lắm chồng nhiều vợ nên kiếp này bà phải trả quả ? Hay vong linh các tiền nhân bắt bà phải là gái già để giữ bàn thờ cho dòng tộc, tổ tiên? Không ai tìm được lời giải đáp cuối cùng nhưng trong thâm tâm, họ nể trọng bà. Về phần ông Quảng, ông thương bà một cách đặc biệt. Tuy không nói ra miệng nhưng tất thảy những gì bà Tư có trong tay, từ đồ đạc, vườn tược, bò ngựa cho đến quần áo, kim xuyến đều do ông Quảng tu tạo. Hai người vừa là cậu cháu vừa là bạn thời ấu nhi, rồi sau đó lại cũng là bạn đồng môn. Người ta kể rằng lần đầu xuống tỉnh làm ăn, ông Quảng chỉ mua cho vợ chiếc nhẫn một đồng cân nhưng lại mua cho cháu đôi bông tai hai đồng cân rưỡi. Bà Quảng không dám thở hơi ghen. Biết rõ trong tim ông, cô cháu thiếu nhan sắc kia mới chính là người được tin cẩn và xót xa nhất trên cõi trần, bởi họ bị giằng trói trong một mối liên kết ngoại lệ vừa là tình cốt nhục thâm sâu vừa là sự tương đồng bằng hữu.

Buổi tối đầu tiên ông Quảng dẫn cô Ngân về làng, trong khi tất thảy họ hàng làng nước còn đang tắc họng vì không biết ăn nói xưng hô ra sao, bà Tư móm đã đon đả mời:

- Xin các ông các bà dùng trà xơi bánh. Hôm nay là tiệc ngọt cho mợ Ngân tôi ra mắt láng giềng !...

Rồi bà cao giọng gọi cô Ngân:

- Mợ Ngân hãy dừng tay ra chào hàng xóm . Cứ bỏ đấy cho cháu. Rồi mọi việc khắc xong.

Rõ ràng, thái độ của bà là một sự định danh chính thức, một thứ khẳng định chính thức mà không ai có quyền bắt bẻ. Họ đành tặc lưỡi bảo nhau:

- Ờ, trẻ thì trẻ nhưng theo thứ bậc họ hàng, nó được ngồi chiếu trên.

- Con mẹ Tư móm trung thành với cậu nó thật !

Rút cuộc chẳng còn cách nào hơn là phải chấp nhận người đàn bà lạ hoắc, mới mười tám tuổi ranh kia là cô, là dì, là mợ, là bà trẻ, thậm chí là cụ trẻ theo thứ bậc họ hàng tuy trong bụng chứa đầy ấm ức.

Bữa cơm chiều nay, không hiểu do trời xui hay đất khiến mà bà Tư móm lại đến giúp cô Ngân nấu nướng. Trên nhà chưa cạn ấm trà, bà đã bưng lên một mâm cỗ đầy ngồn ngộn:

- Mời các vị vào chiếu. Mợ cháu tôi dở nồi chè đỗ xanh, ngồi ăn dưới bếp cho tiện.

- Ấy chết, bà xử thế chúng tôi nuốt làm sao nổi... Thời nay dân chủ, bình đẳng bình quyền, đàn bà đàn ông phải ngồi cùng mâm cho vui.

- Cảm ơn các ông, không phải khách khí làm vậy. Hai mợ cháu tôi ở dưới bếp cũng đủ rượu, đủ thịt, đủ món xào món nấu như các ông đây, không thiệt miếng nào.

Nói xong bà te tái xuống bếp, để các thực khách được tự do.

Rồi bữa ăn bắt đầu. Cả sáu người đều im lặng bởi rượu ngon , đồ ăn còn ngon hơn nữa. Quả tình những câu chuyện khó nói không thể nào hoà nhập với một bữa ăn ngon. Chúng phải chờ đến khi tiệc sắp tàn. Khi xương lợn, xương gà, xương cá đã đầy lè quanh mâm, khi rượu ngon đã thấm vào huyết quản khiến con người trở nên hăng hái, hoặc mầu nhiệm hơn nữa, là nhập vào những cơn bốc đồng, lưỡi của họ mới trở nên mềm dẻo, ngôn từ, lý lẽ mới từ các hang hốc trong sọ chui ra. Dường như là hai người em rể của ông Quảng đã chờ rượu ngấm để bắt đầu cuộc sinh sự, cái việc họ cho là trách nhiệm tối cao trước vong linh bà chị vừa chết chưa trọn một năm:

- Cảm ơn bác đã cho chúng em được cơm no rượu say...

Ông thứ nhất bắt đầu:

- Bây giờ, việc ẩm thực đã xong, chúng em xin được cất nhời.

Ông thứ hai hắng giọng nói tiếp.

Chủ nhân cười:

- Các cậu cứ tự nhiên, cổ nhân đã dạy: rượu vào lời ra ! Người xưa đã nói vậy, không ít thì nhiều, phải có lý.

- Cháu Quỳnh đang ở nhà bà ngoại, tâm tư đau buồn, bối rối. Không nói bác cũng hiểu nó ra đi vì sao...

- Cậu nhầm, tôi không hiểu. Những thằng trẻ ranh bỏ nhà trốn học có cả trăm lý do, làm sao tôi có thời gian mà lần mò những chuyện trong túi chúng nó.

- Bác là người ăn cơm thiên hạ đã mòn bát mòn đũa mấy chục năm nay. Còn chúng em chỉ là bọn thôn dân quẩn quanh nơi góc vườn, xó núi. Không dám, mà có dám cũng không đủ tài đấu lý với bác. Nhưng quả thực tình cảnh cháu Quỳnh hiện nay làm tất cả gia tộc phải điên đầu.

- Tất cả gia tộc phải điên đầu ? Cậu nói thực hay bỡn ? Mà gia tộc nhà cậu hay gia tộc bên tôi ? Điều đó phải rõ ràng.

- Gia tộc bên ngoại. Trước tiên là bà ngoại. Rồi đến chúng em đây. Người ta vẫn nói:chết cha còn chú, xẩy mẹ bú dì.

- Tôi hiểu rồi !

Ông Quảng cắt lời rồi cất tiếng cười ha hả. Tiếng cười của ông vang khắp năm gian nhà, vọng cả xuống bếp khiến bà Tư móm lẫn cô Ngân phải thò cổ ra nghe:

- Vì xẩy mẹ bú dì mà mẹ thằng Quý, thằng Quỳnh lại không có em gái nên bây giờ các cậu phải đóng thay vai trò đó... Tốt quá, xưa nay tôi chưa từng thấy thứ tình cảm mặn nồng ấy được bộc lộ... Giờ các cậu đã có tâm, xin các cậu cứ việc lo cho cháu... Như thế là các cậu thương tôi, cất đỡ gánh nặng trên vai tôi. Vậy là cháu của các cậu có phúc, bên nội lẫn bên ngoài đều là chỗ tựa. Con người ta mà được cả hai bề, tả phù hữu bật thì số sẽ đỏ như xôi gấc, mạng chắc tựa thành trì. Các cậu càng lo cho cháu được đầy đủ gia đình bên ngoại càng nức tiếng thơm... Tôi nuôi nó ngần ấy năm, xét ra cũng không còn phải ân hận . Giờ, mười sáu tuổi, nó muốn ăn cơm hưởng lộc nhà ngoại cũng là lẽ thường tình. Ai sống trên đời cũng phải có cả cha lẫn mẹ, chẳng bên nào trọng, chẳng bên nào khinh.

Nói đoạn ông quay lại ba vị khách láng giềng:

- Tiện dịp có láng giềng chứng kiến, tôi nhường toàn quyền huynh trưởng cho hai cậu. Kể từ nay, việc học hành, cơm áo, rồi việc dựng vợ gả chồng cho cháu trong tương lai, bà ngoại và hai cậu sẽ đảm đương. Như thế, hẳn thằng Quỳnh sẽ ưng thuận. Mà mẹ nó dưới suối vàng cũng mát ruột mát gan.

Hai ông em rể chưa đối đáp được lời nào, ông đã gọi với xuống bếp:

- Chúng tôi xong bữa rồi, dưới nhà có chè có cháo thì mang lên.

- Có ngay đây cậu.

Bà Tư móm trả lời. Chưa đầy phút sau, mâm chè được bưng lên . Sáu người tiếp tục ăn tráng miệng. Ba ông khách vừa ăn vừa ngóng đòn đánh trả của hai người em vợ với nỗi tò mò xen lẫn cơn tuyệt vọng. Còn hai ông kia cúi mặt húp chè, không dám ngẩng lên. Hẳn món chè không còn ngọt mà đắng ngắt trong họng. Rồi khi món chè chưa kết thúc, ông Quảng đã gọi vợ mới gói bánh kẹo đem về biếu mẹ vợ cũ, vẻ tươi cười thản nhiên đến mức hai người em vợ chỉ có cách cầm gói quà mà chạy cun cút ra khỏi ngõ, không thể bật nổi một câu chào.

Còn lại ba ông láng giềng với chủ nhân, vừa uống nước xỉa răng vừa chuyện vãn. Ở chốn thâm sơn, buổi tối bao giờ cũng tĩnh lặng hơn dưới đồng bằng . Ông Quảng mở chiếc đài Sương mao cho các vị láng giềng nghe ca nhạc. Chừng nửa giờ sau, các bà các cô đã nhộn nhạo tiến vào sân, người vẩy đèn pin, người cầm đuốc:

- Ông Quảng bật cái đài to lên cho chúng tôi nghe nhờ với...

- Nào, bánh kẹo thành phố hết hay còn ? Chúng tôi đến kiếm miếng cho ngọt giọng chuyện gẫu đêm nay.

- Bà chủ mới đâu , thắp ngọn đèn lên cho thôn xóm được vui.

Đèn măng-xông lại được treo giữa sân , sáng tưng bừng khắp trên nhà lẫn dưới bếp. Bà Tư móm bưng nồi chè đỗ xanh to như nồi cháo lá đa ngày rằm tháng bẩy ra đãi khách, theo kiểu những bếp ăn tập thể: Một thúng bát lẫn thìa sạch bong đặt ngay trên bàn, ai nấy tự động múc ăn. Khi nồi chè cạn, cô Ngân lại tiếp tục mở những thùng bánh và những hộp kẹo mới. Chốn thôn dã, việc ăn uống vẫn là thủ tục không thể thiếu, dẫu người ta thường dáo dác một cách khinh bỉ:

" Miếng ăn quá khẩu thành tàn... ".
 

Coi tiếp: Truyện Xóm Tiều Phu (2)
 

www.geocities.ws/xoathantuong