SONG TẤU (2)
 

Máy bay chưa thể cất cánh vì trời lắm sương mù.

Sương giăng như những tấm lụa trắng đan xen nhau trên phi trường và cỏ ngả màu xanh thẫm khi đầm sương. Một cô gái bưng khay trà tới trịnh trọng đặt trước mặt Vũ:

- Mời thủ trưởng dùng trà ạ .Chắc còn lâu máy bay mới nổ máy được.

- Cảm ơn cô. Tháng này có mấy buổi phải hoãn chuyến bay ?

- Dạ, đã ba lần. Hôm nay là buổi sáng thứ tư.

- Thông thường, phải đợi bao nhiêu tiếng ?

- Tuỳ theo thời tiết từng ngày, nhưng trung bình cũng phải qua ngọ.

- Cô cũng biết câu tục ngữ ấy sao ?

- Dạ, các cụ dạy: " Mưa không qua ngọ, gió chẳng qua mùi"....Bà ngoại em bảo thế.

Nói rồi, cô gái lật chiếc tách úp trên đĩa, rót trà. Hương trà nhài bay lên khiến căn phòng bớt đi vẻ chểnh mảng và trống trải thường gặp nơi các quán trọ hay các nhà ga.

- Một giờ nữa căng-tin sẽ bán phở và bánh rán nhưng nếu thủ trưởng cần ngay bây giờ, em sẽ mang lên.

- Cảm ơn, tôi đã ăn sáng tại nhà.

Vũ đáp, rồi lại đổi ý tức khắc:

- Nhưng nếu tiện, cô có thể đem cho tôi ít bánh rán. Ở đây, căng-tin làm loại bánh gì ?

- Dạ, chúng em có cả ba loại: Bánh nhân mặn, nhân đậu xanh đường cát và bánh ngào mật.

- Cho tôi loại nhân đậu xanh đường cát.

- Dạ, em sẽ đem lên ngay.

Cô gái đáp, rồi xăng xái ra khỏi phòng. Ông đưa mắt nhìn theo, thầm nghĩ:

" Chắc con cái nhà ai mới được tuyển làm nhân viên sân bay..."

Tất thảy những cô gái đồng quê đang từ nơi chân lấm tay bùn được tuyển lên làm việc trong các cơ quan hay thành phố đều có cái vẻ hớn hở và tận tuỵ như thế. Thân thể căng đầy sức sống, gương mặt hồng hào rám nắng, sự hăng hái dư thừa của những người đang quay đảo trong nhịp điệu căng thẳng của sự lao động cật lực rơi vào cảnh sống an nhàn và đầy đủ tiện nghi hơn:

" Nhưng chỉ một thời gian sau, con người sẽ thay đổi...Từ hình tướng cho đến tính cách....Với tháng năm mọi sự sẽ thối rữa dần...."

Ông buồn rầu nghĩ và đưa tách trà lên nhắp.

Cô gái đã quay lại với đĩa bánh rán đầy ụ. Với đĩa bánh này, ông phải trẻ lại ba mươi nhăm tuổi mới có thể ăn hết. Hẳn khách ăn quen ở căng-tin phi trường toàn phi công với thợ máy trẻ, đang tuổi bụng cao dạ dốc hoặc các gã tân binh từ các miền quê đổ về.

Đặt đĩa bánh ngay ngắn lên bàn, cô gái lại lễ phép cúi chào ông lần nữa trước khi bước đi.

- Cảm ơn cô.

Vũ mỉm cười rồi cầm tấm bánh lên nhấm nháp. Bỗng nhiên, cùng với tách trà cảm giác ngon miệng trở lại khiến ông ăn hết liền hai tấm. Vũ uống tách trà tiếp theo với sự ngạc nhiên. Sáng nay, vợ ông chuẩn bị cho ông một bát mì như thường lệ. Bát mì đó cũng đầy đủ gia vị như mọi ngày nhưng ông không nuốt nổi hai thìa. Có lẽ, vì họ trải qua đêm trắng. Một đêm trắng lạnh lẽo đến tê cứng cả tâm can. Khi một người đàn ông và một người đàn bà cùng chia xẻ một chiếc giường nhưng không muốn hoặc không thể làm tình, cũng không muốn và cũng không còn chuyện tâm tình để nói, khi trái tim họ đã quay sang những chiều khác biệt, và óc não họ cũng nung nấu bởi những chuyện khác biệt. Mà họ buộc phải cùng thao thức ngần ấy thời gian. Điều đó thật kinh hoàng.

Buổi sáng, khi chuông báo thức vừa réo, ông ngồi dậy đi ra vườn tức khắc dẫu biết rằng làm như thế, có nguy cơ viêm phổi. Đi thơ thẩn một hồi dưới các vòm cây, ông quay vào nhà thay áo quần. Đoạn ông ngồi vào bàn ăn, trước bát mì bà đã để sẵn. Đột nhiên, ông nhìn thấy gương mặt sưng húp vì mất ngủ của Vân giống hệt mặt bà Tuyết Bông. Ông sững sờ nghĩ:

" Mình già rồi, nhìn gà hoá cuốc. Xưa nay, chưa có ai nói Vân giống mẹ. Người ta vẫn bảo cô ấy là bản sao của ông giáo Vương, cũng như cậu Tùng lợn là phiên bản của bà chủ đại lý nước mắm."

Rồi ông nhìn đi nhìn lại người đàn bà của ông, người hơn ba mươi năm chung chăn chung gối, người ông đã thuộc từ cách đánh răng đến cách chải đầu, từ màu sắc đến kiểu áo quần bà ưa chuộng, từ cách gắp thức ăn đến lối làm dáng làm duyên....Ông nhìn bà với nỗi hồ nghi, trong tâm trạng của kẻ không còn tin chắc ở các giác quan của chính mình....Bởi, ở một góc độ nào đấy, ông thấy vợ ông quả là có những nét của bà Tuyết Bông, chẳng phải gương mặt, đường sống mũi, dáng đi hay nét cười, nhưng ở một thứ dáng dấp vô hình khó diễn đạt bằng ngôn ngữ:

" Chẳng phải trí tưởng tượng, nhưng là sự mù mờ của óc phân tích...Hoặc thói hàm hồ của sự lãng quên. Ta đã từng chứng kiến cảnh Vân đứng chống nạnh tay cãi nhau với cậu cán bộ quản lý văn khố, một kiểu cách cong cớn lăng loàn giống hệt mẹ cô ấy. Chuyện đó diễn ra đã từ lâu. Mười sáu hay mười bẩy năm về trước.

Lần ấy, Vân vô cùng xấu hổ. Giờ đây, sự việc tái diễn. Và cô ấy không còn xấu hổ nữa. Với tháng năm, mọi sự thối rữa đi...."

- Thưa thủ trưởng, để em châm thêm nước vào ấm trà.

Cô gái đã quay lại, phích nước sôi trên tay. Định rót thêm nước vào ấm, nhưng rồi cô lại ngần ngừ dừng lại:

- Thủ trưởng có cần thay trà mới không ạ ?

Vũ ngẩng lên đáp:

- Cảm ơn. Trà còn đặc, cô cứ châm thêm nước cho tôi.

Ông rót tiếp chén trà mới còn nóng bỏng, nâng lên ngang cằm để làn hơi lan toả trên gương mặt trong lúc một tiếng nói thầm thì lặp đi lặp lại bên tai:

" Với năm tháng, mọi sự dần thối rữa đi...Với năm tháng...."

Không hiểu vì cớ gì, ý nghĩ đó cứ bám riết lấy óc ông, giống như loài đỉa đói bám chặt kẽ bẹn của con trâu khốn khổ. Nhà Vũ không có ruộng, nhưng cảnh sống nơi thôn trang thân thuộc với ông từ nhỏ, nhờ những kì nghỉ hè. Sau này, dấn thân vào cách mạng ông buộc phải làm quen với đồng ruộng. Trong suốt quãng thời gian ấy, hình ảnh khiến ông ghê sợ nhất, ghê sợ mà không dám thú nhận là hình ảnh loài đỉa trên những cánh đồng vùng chiêm trũng. Cứ mỗi lần hình dung lại cảnh những bầy đỉa ngoi đen mặt nước, đuổi theo con mồi, dù con mồi ấy là chính ông hay người khác, Vũ lại sởn gai ốc. Ông ghê sợ lũ đỉa không chỉ vì chúng hút máu người, bởi muỗi dĩn và vô số côn trùng khác cũng sống theo cách kí sinh ấy; nhưng điều khủng khiếp nhất chính là hình thù nhầy nhụa của chúng gợi nên một sự bất định, một thứ tai hoạ mềm dẻo co giãn, một mối đe doạ dai dẳng không thể đoán được nơi bắt đầu cũng như nơi kết thúc:

" Có những nỗi đau dai dẳng như loài đỉa đói bám chặt vào con tim chúng ta, nơi ngóc ngách thầm kín nhất và không bao giờ buông nhả con mồi. Loài đỉa thật sự không nguy hiểm đến thế, bởi người ta có thể để mặc chúng hút no máu trâu bò con nào con nấy tròn vo như những ngón chân cái. Khi no nê, tự chúng rụng xuống. Người ta gạt lũ đỉa lặc lè máu ấy vào hố vôi đang tôi, và đó sẽ là cuộc tàn sát hiệu nghiệm nhất đối với loài kí sinh này. Nhưng trước một nỗi đau dai dẳng, con người trở nên tê liệt, bởi họ không thể trục xuất nó khỏi trái tim chảy máu...."

Vũ không nhớ ông đã đọc đoạn văn trên trong cuốn sách nào....Nhưng nó bỗng nhiên quay về, như đám khói đốt rạ phất phơ bay trên cánh đồng kí ức.

Bỗng điệu cười lanh lảnh khiến ông quay đầu lại: Nơi khuôn cửa căng-tin dẫn sang nhà bếp, một tốp thiếu nữ xuất hiện. Bốn cô gái, cô nào cô nấy tròn vo, má đỏ ửng, mắt long lanh, gương mặt tràn đầy sung sướng . Hai cô đi trước khiêng một chiếc thúng đại, trong đó chất ngất các loại bánh rán. Hai cô đi sau vạm vỡ hơn, khiêng nồi quân dụng cỡ lớn nhất, hẳn là nồi nước phở. Sau bốn cô, đến một anh chàng đen như cột nhà cháy, mặt lẫn vai đều vuông như bánh chưng, khệ nệ bưng thúng bánh phở thái sẵn. Đã đến giờ căng-tin phục vụ bữa sáng cho lính phi trường. Vũ cúi xuống nhìn đồng hồ, cũng là lúc tiếng kẻng vang lên ròn rã.

Sau ba hồi kẻng dóng dả và hối hả, lính phi trường rộn rịp tiến vào, anh nào anh nấy đầu tóc bóng mượt, quần áo chỉnh tề, da dẻ hồng hào nhẵn nhụi, rõ ra là đám lính sang trọng nhất được cưng chiều nhất trong mọi binh chủng. Họ vừa đi vừa tiếp tục nô rỡn, trao đổi những câu chuyện và những cái nhìn đồng loã.

Vũ tò mò đưa mắt theo rõi họ:

" Rồi trong đám bạn hữu thân ái đó, ngày mai ai sẽ cầm dao đâm vào lưng ai ? Ai sẽ đổ thuốc độc vào chén nước của ai ? Và ai sẽ dụ ai bước vào bãi mìn gài sẵn ? "

Đám lính trẻ cũng đã nhìn thấy ông. Họ chựng lại thôi cười nói, giơ tay chào ông rồi theo nhau ngồi vào những dãy bàn bên tay phải căn phòng, khu vực dành cho bếp ăn trung táo.

Cùng một gian phòng, cùng một thứ bánh rán, cùng một nồi nước phở ; nhưng căng-tin vẫn phải ngăn đôi. Khu vực ông đang ngồi dành cho bếp tiểu táo, sàn nhà được tôn cao hơn hai gang tay nhờ một bục gỗ lớn đánh vec-ni kĩ lưỡng lên nước bóng như gương. Bàn ghế cũng thuần bằng gỗ tốt, mặt bàn phủ vải trắng. Tách chén, bát đĩa bằng sứ Tầu mỏng. Khu vực dành cho bếp trung táo bên tay phải, sàn nhà thấp hơn lát gạch , bàn ghế bằng gỗ mộc không vải phủ, đĩa tách bằng nhôm và bát ăn bằng sứ Hải dương loại thứ phẩm men nứt nẻ và dầy như ngói. Giữa hai khu vực, chừng như để tô đậm sự phân cách, người ta dựng lên một dãy dài cột gỗ tiện, trên đó giăng những tràng hoa giấy đủ màu.

Vũ đưa mắt nhìn những tràng hoa rực rỡ một cách trâng tráo lạc lõng, thầm nở nụ cười mỉa mai:

" Một bát phở cho bếp tiểu táo khác biệt ra sao bát phở cho bếp ăn trung táo ? Có lẽ loại thứ nhất được kèm theo mười hai miếng thịt còn loại thứ hai tám miếng hoặc sáu miếng. Có thể loại thứ nhất nhiều hành hơn loại thứ hai và nước dùng được gia thêm váng mỡ hay hạt tiêu ? Ồ, cái hiện thực này quả là xa vời với mộng

tưởng của những người dấn thân vào con đường cách mạng. Sau rất nhiều xương rơi và máu đổ, cuối cùng sự sống cũng rút lại bằng cách đếm những miếng thịt phủ lên một xuất phở hay đĩa cơm."

Ông cúi xuống, nuốt vội một ngụm nước nóng vì chợt nhận ra lối mòn dẫn đến ngục luyện tội. Những tràng giấy hoa sặc sỡ vẫn đập vào mắt ông. Ý nghĩ về sự phân chia đẳng cấp, về sức mạnh quyền lực, về sự mong manh bất khả thay đổi của kiếp người...những nỗi giằng xé thường trực ấy day dỉa con tim ông như loài đỉa đói.

Sáng hôm qua, khi ông vừa tới cơ quan, chưa kịp đặt chiếc cặp lên bàn, cậu thư kí đã hớt hải chạy vào báo tin văn phòng ban tổ chức trung ương đảng triệu tập ông đột xuất. Cậu thư kí này vốn gầy nhom, da xanh mét, tính lại cả lo nên gương mặt trông thật thảm hại:

- Mời thủ trưởng đi ngay, thủ trưởng Sáu đang đợi.

Vũ đặt chiếc cặp lên mặt bàn, thủng thẳng cất tiếng hỏi:

- Ai đưa lệnh đó ?

Cậu thư kí trợn tròn mắt lên, đồng thời hạ giọng như thì thầm:

- Dạ, đích thân thủ trưởng Sáu gọi điện trước đây mười phút. Không chỉ gọi một lần mà những hai lần.

- Gọi hai lần vì ông ấy thích luyện giọng.

Vũ đáp. Nhưng rồi thấy cậu thư kí đứng đần mặt ra, vừa bối rối vừa hoảng hốt, ông liền nói:

- Cậu chuẩn bị tài liệu cho tôi.

- Dạ, thủ trưởng Sáu dặn là công việc đặc biệt, không cần mang theo tài liệu như lệ thường.

- Thôi được.

Vũ bỏ chiếc cặp da vào tủ, đoạn cuốn mấy tờ báo mang theo. Ông định đọc cho qua thời gian ngồi trên xe. Nhưng rồi ở trên xe, cơn bồn chồn khiến ông phải ném mớ báo vào một góc:

" Có chuyện gì đặc biệt xảy ra hôm nay ? Đã lâu lắm y không gọi ta lên một cách đường đột như vầy, kể từ ngày mọi ván bài đã được lật ngửa ."

Xuống xe, ông đi qua đám lính gác. Một đám người bằng xương bằng thịt đứng trong tư thế cứng đơ của tượng gỗ, mặt nghếch lên đúng góc độ quy định, ngực ưỡn đúng tư thế đã được học, súng chọc thẳng lên trời....Tất thảy cái nghề nghiệp của họ là ở chỗ đó, một thứ hình thức biểu dương sức mạnh thế tục, một kiểu cách răn đe và hù doạ ngoại nhân. Cảnh tượng này đã quá quen thuộc với ông, sao bỗng nhiên gợi lên một cảm thức bất tường, vừa lạ lùng vừa thù nghịch ? Đã từ lâu, Vũ nhìn thấy trong cuộc triển lãm thường nhật này, một tấn tuồng nhàm chán. Nhưng hôm nay, ông chợt nhận ra rằng đó là cảnh tượng được dàn dựng cho riêng ông, nhằm đe doạ một mình ông. Những gương mặt vô cảm của đám người tượng gỗ kia che giấu mối hiểm nguy mà ông chưa dò nổi. Dường như có một thứ âm mưu nào đó chưa rõ hình thù len lỏi trong không gian. Dường như có những loại hơi ngạt, những thứ nọc rắn, những thứ thuốc độc....những cái chết vô hình đang nhiễm đầy khí quyển....Bất chợt, ông quay đầu lại nhìn đám lính gác cho dù ông đã tiến vào giữa khuôn viên. Rồi, ông cố gắng tự phân tích tâm trạng kì lạ của mình nhưng không tìm thấy cách lý giải nào thoả đáng. Cứ như thế, ông đi qua khuôn viên đang tưng bừng các loài hoa của mùa xuân, trong lúc trí tưởng mò mẫm giữa đường hầm tối tăm của sự hoang mang và ngờ vực. Trước khi trèo lên tam cấp, bất giác ngước mắt lên ông đã thấy Sáu đứng sẵn ở đó, chăm chú nhìn xuống sân. Y giơ tay vẫy ông. Mặt Vũ nóng lên khi nghĩ rằng y có thể chứng kiến cảnh ông quay đầu lại nhìn đám lính gác, và rất có thể y đoán được những ý nghĩ thầm kín nảy sinh trong óc não ông. Đám cận vệ đó là của y, do y tuyển chọn, do chính y cấp lương bổng, do chính y soạn thảo những đặc quyền và thực thi những biệt đãi. Đám người ấy chắc chắn sẽ hành động theo mệnh lệnh của y. Đấy là điều ai cũng biết.

Sáu đứng chờ ông ngoài hành lang để có thể cùng bước vào phòng vơí ông một lượt. Căn phòng rộng thênh thang, giống phòng chơi bi-da hay bóng bàn hơn là nơi tiếp khách. Ngoài mấy bộ sa-lông kê liền nhau còn một chiếc bàn kê sát bức tường phía trái, cũng rộng thênh thang một cách vô lý, trên đó sắp la liệt từng dãy dài những loại ly tách khác nhau, đến từ những xứ sở khác nhau, vừa để pha trà vừa để lọc cà-phê. Một gã trai đang loay hoay sửa soạn đồ uống ở đó.

Vừa bước vào phòng, Sáu ra lệnh:

- Thôi, để đấy.

Người hầu biến đi tức khắc như bóng ma. Lúc đó, y giơ tay chỉ cho ông chiếc ghế bành thấp:

- Ngồi xuống đi. Hôm nay tôi có việc bận bên bộ ngoại giao, không thể tiếp cậu lâu như thường lệ. Ta sẽ làm việc chóng vánh.

Đã ngồi xuống ghế, nghe tới đó Vũ liền đứng phắt dậy:

- Nếu anh bận, tôi về. Lúc khác sẽ gặp.

- Việc cần kíp mới phải kéo cậu lên đột xuất như thế này.

- Dẫu cần kíp, tôi cũng vẫn làm việc theo nguyên tắc chính quy. Tôi không muốn phiền hà người khác. Tôi không chấp nhận làm việc theo kiểu: giật gấu vá vai.

Y sững lại, chăm chú nhìn ông. Có vẻ như sững sờ. Có vẻ như từ quá lâu chưa có ai dám nói năng với y theo kiểu đó. Có vẻ như món này thật khó nuốt đối với y. Cũng có vẻ như y không hề chuẩn bị để đối phó lại tình thế này. Một khoảnh khắc sượng sùng trôi qua. Bỗng nhiên, y nhoẻn miệng cười:

- Sao bây giờ cậu dễ cáu bẳn thế ? Trước đây mọi người vẫn nói tính cậu mát như thạch...

- Ai sinh ra thế nào, chết như thế. Cổ nhân dạy rồi.

Y lắc đầu cười một cách hóm hỉnh:

- Không đúng đâu. Tính nết thay đổi với thời gian. Tôi cũng thay đổi, nhưng không cáu bẳn như cậu mà lại thích bông lơn. Còn điều này mới thật là thú vị...

Y cất tiếng cười to hơn, một tiếng cười vô cùng sảng khoái:

- Điều tôi sắp nói sẽ khó hiểu thậm chí phi lý đối với kiểu người có máu " nho nhe " đặc sệt như cậu. Nghe đây này....

Y tiến đến sát bên chiếc ghế bành của ông, cúi xuống lảy từng câu với một sự vui thú lẫn nghịch ngợm không che giấu:

- Về già bỗng dưng lại thèm ngắm gái đẹp. Món này hình như cũng giống như thuốc lá, thuốc lào, cai được hàng chục năm bỗng dưng nghiện lại...Chỉ vì công việc bó buộc, nếu không, sáng nào tôi cũng ra hồ Tây. Ở đó, cứ rạng mặt trời là đám thiếu nữ ra tập thể dục và bơi thuyền, toàn những đứa mười sáu mười bảy, đẹp như trong mộng.

Nói xong, y quay gót tiến về phía chiếc bàn kê áp tường, chuyên cà phê từ bình lọc vào hai chiếc tách đen. Vũ lặng lẽ nhìn những nếp nhăn tẽ chân chim nơi đuôi mắt y, nhận ra rằng y cũng già đi đáng kể cho dù y vốn dĩ cao to trắng trẻo, được trời phú cho một cái thân xác chuẩn mực mà y thường tự đánh giá một cách nửa đùa nửa thật trong các cuộc chuyện trò:

" Cái thân xác của tôi có sức chứa mười hai cuộc đời khác biệt, đủ sự dẻo dai để phục vụ một cách tận tụy ba mươi sáu người đàn bà, từ dậy thì cho đến hồi xuân. "

Sau những câu chuyện bông lơn của y, bao giờ cũng có ai đó chôn xác trong xó xỉnh của rừng sâu, trên một nẻo đường hẻo lánh hoặc nơi buồng tối nhà tù. Vũ nhìn cái gáy béo hồng của y nhô lên trên cổ áo sơ-mi đen và tự hỏi:

" Vào buổi sáng hôm nay, những câu tán tỉnh bông lơn của y liên quan đến ai đây ? "

Nhưng Sáu đã quay lại, hai tách cà-phê trên hai tay. Mùi cà-phê thơm nức lan khắp gian phòng. Y nheo mắt lại:

- Cậu có thấy thứ cà-phê này tuyệt diệu hay không ?

Vũ đáp:

- Tôi mới ngửi, chưa nếm. Còn phải chờ kiểm nghiệm.

- Ngốc, cà-phê chỉ cần ngửi là đủ biết chất lượng rồi. Cậu chưa phải kẻ sành sỏi.

- Tôi chưa từng nhận là kẻ sành sỏi trong bất cứ lãnh vực nào. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, có những thứ đồ ăn chỉ có thể ngửi chứ không thể ăn. Cá rán tẩm thuốc độc chẳng hạn. Hồi còn ở phố huyện, tôi chứng kiến gã hàng xóm nhà tôi đánh bả con chó nhà khác theo kiểu ấy.

- A ha ha.....

Y cất tiếng cười vang. Tiếng cười của y vang đầy căn phòng rồi vọng ra hành lang. Một cô gái thò đầu vào nhìn trộm rồi rụt ra tức khắc . Sáu đặt tách cà-phê trước mặt ông, nói:

- Uống đi....Cậu quả là người có tài biện báo....Lẽ ra tôi phải bố trí cậu sang đặc trách bộ ngoại giao mới đúng....

- Thế hả ?...

Vũ cũng cất tiếng cười theo:

- Vậy thì sửa sai đi, chưa quá muộn đâu ....

Rồi ông bắt đầu nhắp cà-phê.

Bên kia bàn, y cũng lặng lẽ uống. Ngón tay áp út của y đeo chiếc nhẫn vàng gộc lớn xấp xỉ chiếc bu-loong tà-vẹt, món đồ trang sức này phản chiếu lên lớp men sứ đen bóng của chiếc tách sứ ngoại nhập:

" Cà-phê đen chứa trong tách sứ đen. Quả là sành điệu ! Lẽ ra mày có thể làm nghề vẽ mẫu trang trí gia thất hoặc hoạ sĩ sân khấu. Như thế, sẽ bớt đi những người bị chết oan. "

Vũ thầm nghĩ khi nhìn ánh phản chiếu lấp lánh trên lớp men sứ. Trong lúc đó, Sáu đã đặt tách cà-phê xuống bàn, ngửa người tựa trên lưng chiếc ghế bành thấp chân. Cổ áo sơ-mi đen của y phanh ra làm nổi bật lớp da trắng hồng, tuy đã điểm vết mồi nhưng vẫn còn rực lên lửa dục. Y thích màu đen. Y có vài tá sơ-mi đen. Trong các buổi tiếp khách nước ngoài hoặc những lần ra mắt dân chúng, y buộc phải mặc sơ-mi trắng và com-plê nhưng vào tất cả các dịp được phép, y đều mặc áo đen. Một sở thích đáng lưu ý. Có thể đó là cách làm dáng, tôn tạo nước da mỡ màng, được chăm sóc kĩ lưỡng của y. Nhưng cũng có thể đó là cách gây ấn tượng, kiểu những băng cướp áo đen hay những môn phái võ áo đen trong lịch sử. Không ai dám bàn đến điều đó một cách công khai, trừ ông. Lần đó, chính ông khơi chuyện, chính ông tấn công:

- Anh quả thật là quyến rũ trong màu áo đen...Hiện đại và trẻ trung nữa...Trong màu áo đen, trông anh trẻ hơn đến mười tuổi....Như thế là ăn gian được mười năm trong đời...

Ông nói với y như vậy vào giờ nghỉ trưa một hội nghị, khi tất cả các đại biểu đang sà xuống các bàn ăn. Y có vẻ sững sờ như không tin vào những gì tai y vừa nghe được. Lúc đó, ông thong thả nói tiếp:

- Nhưng theo tôi, đây là cách anh chơi trội bằng màu sắc. Kiểu chơi này đã có từ những năm đầu thế kỉ, chẳng mới mẻ gì. Thêm nữa, những việc anh làm đã đủ gây ấn tượng quá nhiều. Guồng máy quyền lực anh nắm trong tay, quyền sinh quyền sát. Hà cớ chi phải khoác áo đen ?

- Cậu....cậu....

Y lắp bắp, mặt tái đi vì giận. Những người xung quanh cũng tái mặt đi vì sợ hãi. Còn ông, ông lặng lẽ nhìn y. Một tích tắc trôi qua, y mỉm cười. Đối lại nụ cười của y, ông cũng cười, nụ cười của kẻ chuẩn bị bước lên dàn treo cổ. Sau một khoảng khắc câm lặng và đông cứng thù nghịch, y lấy giọng xuề xoà, thân thiết:

- Cậu...bị ong đốt hay sao ? Tôi mặc áo đen hay áo trắng thì có ảnh hưởng gì đến kinh tế quốc dân ?

Ông cười mai mỉa:

- Có chứ ! Anh mặc áo đen thì tiết kiệm được một ít xà-phòng. Như thế, làm gương giáo dục thanh niên rất tốt. Chỉ có điều giá tiền mua mười cân xà-phòng không vượt qua giá một lọ nước hoa Pháp mà mỗi lần đi nước ngoài về, tôi thấy anh xách cả va-ly cho các phu nhân lớn nhỏ trong ngoài gia thất của anh.

- Tôi chịu thua cậu.

Y nhã nhặn đáp lời:

- Nhưng cũng cần thông cảm cho người khác. Không phải ai ai cũng chịu được cuộc sống thày tu như cậu. Đàn ông cũng như gà trống, nó phải biết khoe mào và vẫy đuôi.

Lúc đó, ông cười nhạt rồi bỏ đi. Trong khi các đại biểu khác lặng lẽ như tờ so đũa, chia bát....

Ba tuần sau, ông anh cả từ quê lên. Không kịp nghỉ sau những cuốc tàu xe, họ kéo nhau ra vườn hoa ven hồ Tây, nơi những kè đá ngập đầy rễ bèo với xác phù du. Ông anh nói ngay, chẳng cần rào đón:

- Có người vừa thuật lại cho tôi nghe mọi sự. Chú định chết hay sao ?

- Chính vì em không sợ y, mạng em mới còn. Nếu không giờ này mồ em đã xanh cỏ.

- Đó là hạng người tàn độc đặc biệt. Chẳng phải thời nào cũng xuất hiện. Chú đã quên bài học của gã Lê Đinh rồi sao ?

- Em không quên. Nhưng em chẳng ở vào vị thế của gã.

- Tôi lo cho chú quá. Nếu chú có mệnh hệ nào....

Vũ nắm tay người anh, nhìn gương mặt xiết bao gần gũi và tin cậy:

- Anh ơi, trong hoàn cảnh này chúng ta chỉ có thể trông cậy ở tình huyết mạch mà thôi. Chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể làm được. Còn thành hay bại là ở mệnh trời.

Người anh cả nghẹn ngào:

- Tôi chỉ lo cho chú thôi. Còn tôi sao cũng được. Trong gia đình ta, chú mới là kẻ có tóc. Còn tôi là thứ trọc đầu. Chúng nó chẳng thèm để mắt đến tôi.

- Em cũng như anh thôi. Chúng ta chẳng có đường lùi.

Họ nắm tay nhau nhưng không nói gì thêm vì lúc đó, phía đền Quan Thánh đã xuất hiện một cặp trai gái. Cặp này vượt qua đường Cổ Ngư rồi tiến thẳng về phía họ.

-Sao, giờ cậu có thể đánh giá được một cách chuẩn xác rồi chứ ?

Giọng Sáu vang lên đột ngột khiến ông giật mình. Vũ vội đặt tách cà-phê xuống và đáp:

- Ngon !...Quả là ngon.

Sáu ngả người hoàn toàn ra phía sau lưng ghế, trong dáng điệu vừa uể oải vừa oai vệ, hai cánh tay vắt một cách đối xứng lên hai ngai chiếc ghế bành:

- Cậu nghiện cà-phê hay nghiện trà ?...

- Tôi thích cả hai, nhưng không nghiện thứ nào hết. Giờ có chuyện gì anh nói đi.

- Ồ, đương nhiên là có chuyện.

Y ngừng lại, dường như chờ ông hỏi tiếp. Nhưng đã quá thuộc ngón nghề của Sáu nên ông lơ đãng nhìn ra ngoài khuôn cửa sổ, làm như đã quên chủ đề, hoặc chủ đề ấy là thứ vặt vãnh chẳng đáng quan tâm. Sau cùng, y cạn tách trước ông và lên tiếng:

- Văn phòng vừa báo cho tôi biết rằng ông cụ yêu cầu xuống núi thăm một người dân.

- Người dân nào ?

- Một gã tiều phu rơi xuống vực, chết ngay trên võng cáng về làng. Tôi mời cậu đến là để khuyên ông cụ bỏ ý định ấy đi. Vào lúc này, chúng ta đang có trăm ngàn công việc phải lo. Ông cụ chẳng nên làm rắc rối thêm mọi sự.

- Ông cụ là chủ tịch nước, đương kim chủ tịch. Cũng là người sáng lập đảng...Làm sao tôi có thể khuyên nhủ ông cụ. Ai đẻ ra cái ý nghĩ quái gở này ?

- Đấy không phải một ý nghĩ quái gở mà là một nhận định sáng suốt. Anh Ba quyết định điều này. Cũng chính anh Ba gợi ý rằng giờ đây cậu là người duy nhất có khả năng bảo được ông cụ.

- Bảo ông cụ ?

Vũ buông tách cà-phê, đứng bật lên. Một cơn uất giận cháy bùng bùng trong cơ thể ông, lan theo huyết mạch, co giật các cơ bắp, bóp nghẹt con tim. Ông đột nhiên run rẩy, tiếng nói của ông cũng run rẩy theo:

- Anh nói gì ?....Tôi bảo ông cụ ?...

- Không....Không....tôi xin lỗi....

Sáu cũng đứng lên theo, và y bỗng nhiên nói lắp vì bối rối:

- Tôi lỡ lời...Tôi quên mất ngôn từ chính xác. Tôi thành thật xin lỗi cậu. Nhưng anh Ba nói rằng lúc này cậu là người gần gũi nhất với ông cụ, có khả năng tác động đến ông cụ.

- Chẳng phải riêng tôi mà cả dân tộc này gần gũi với ông cụ. Điều ấy là sự thật hiển nhiên. Nếu các anh có quên, tôi xin nhắc cho các anh nhớ lại.

- Tôi biết ! Tôi biết !

Y đáp và làn môi y bỗng trắng nhợt đi khiến giọt cà-phê còn rớt trên đó hằn lên một vết nâu rõ rệt:

- Xin lỗi, tôi dùng nhầm danh từ. Điều này đôi khi cũng xảy ra với nhiều người khác, bởi chúng ta chỉ là những cán bộ của đảng. Chúng ta không phải các nhà tư tưởng cũng chẳng phải các nhà văn.

" Các nhà tư tưởng với các nhà văn thì ăn nhằm gì trong câu chuyện này ? Họ chỉ là đám hề múa may theo kịch bản chúng mày viết sẵn."

Ông muốn khạc vào mặt y câu nói đó, nhưng linh cảm về sự chừng mực cần thiết của tấn trò đời khiến ông ngừng lại được. Vờ như không chú ý đến những lời lẽ của y, ông lại nâng tách cà-phê lên nhấm nháp cho đến giọt cuối cùng. Lúc đó, như đã lấy lại được thăng bằng, y hắng giọng nói tiếp:

- Thật sự là đôi khi tôi cũng rối trí vì quá bận. Cứ nghĩ rằng ông cụ đang trong thời kì dưỡng bệnh nên tốt nhất là nên nghỉ ngơi. Vả chăng, lúc này mọi phi đội trực thăng đều bị huy động ra chiến trường. Ông cụ cũng nên thông cảm với chúng ta. Đất nước đang có chiến tranh.

Ông nhìn thẳng vào mặt y:

- Anh nghĩ một cách thật sự rằng tôi có thể nói lại với ông cụ những gì anh vừa nói ? Anh tin rằng điều đó là khả thể ?

- Ồ không ! Tôi không muốn nói rằng cậu phải trần thuật lại những ý tưởng trần trụi như vậy, nhưng bằng cách thức khác và với những ngôn từ khác.

- Những lời lẽ đường mật hơn, văn vẻ hơn ? Phải chăng ý anh muốn nói vậy ? Nhưng tôi cũng như các anh đâu phải nhà văn ?

- Nói với cậu khó bỏ mẹ. Cậu cứ cố tình không chịu hiểu người ta. Chẳng làm văn chương nhưng rõ ràng cậu được ông cụ tin yêu hơn bọn mình. Khi đã tin yêu nhau, người ta dễ bề thông cảm. Chiến tranh đang gay cấn, chúng ta cần phải động viên toàn quân cũng như toàn dân. Ông cụ nên nghỉ ngơi, giữ gìn sức khoẻ để còn đón tiếp các đoàn anh hùng chiến sĩ sắp từ chiến trường trở về. Ngoài ông cụ ra, chẳng ai có thể làm điều ấy.

- Tôi không rõ tôi có vinh hạnh được ông cụ tin yêu như anh nói hay không, nhưng cái sự thực là ngoài ông cụ ra, chẳng ai làm được điều ấy là chân lý hiển nhiên, người mù cũng biết.

Vũ buông từng tiếng và đọc những ý nghĩ lộ liễu đang chạy qua cặp mắt của y:

" Nếu điều ấy không hiển nhiên thì mồ mày đã xanh cỏ. Và không chỉ mình mày. "

Ông cười thầm trong bụng:

" Đôi khi mày cũng là kẻ thật thà. Hoặc nếu không phải thật sự thật thà thì mày là thằng kép hát loại hai."

Đưa chiếc tách cà-phê đã cạn sạch lên ngó nghiêng một hồi, ông thong thả nói tiếp:

- Anh là người cầm đầu guồng máy tổ chức của đảng, lý lịch của từng người anh thuộc như bàn tay, vậy anh phải biết rõ rằng trước khi đi theo cách mạng tôi đã được ăn học tử tế. Tổ tiên tôi dạy rằng phàm khi ai đã thật sự yêu thương ta thì ta phải lấy sự tín cẩn nghiêm kính và lòng trung thành đáp lại. Nếu ông cụ đã yêu thương tôi thì tôi chẳng thể đối đãi lại như một thứ "mẹ mìn" hay quân phản tặc.

Y lại cười, dẫu tiếng cười nhợt nhạt:

- Ồ, cậu đúng là dân sính chữ nghĩa.

Nói xong, y đứng phắt dậy như bị bọ cạp chích dưới mông rồi y bắt đầu sải những bước dài trong phòng. Cái bóng cao lớn, phương phi của y in xuống nền đá lát sáng choang như gương. Đôi giầy của y đánh xi bóng loáng. Ông có cảm tưởng rằng vừa đi y vừa lắng nghe tiếng gót giày nện xuống sàn, thậm chí có thể y còn đếm cả những bước chân....Một người bạn đồng cấp đã kể cho Vũ nghe rằng trong một cuộc gặp tay đôi, y đã bắt ông ta ngồi chết dí trên ghế suốt nửa tiếng đồng hồ trong khi y lượn vòng không mệt mỏi, hệt như một gã chào hàng giới thiệu kiểu giầy mới .

Vũ thầm nghĩ:

" Mày chưa đủ sáng suốt để hiểu rằng mẹo nào dùng mãi cũng nhàm. Các ngón hù doạ thế nhân cũng như văn chương nghệ thuật, cần thay đổi."

Đưa mắt ngắm y một cách tò mò từ đầu xuống chân, ông nói:

- Xem ra anh vẫn dẻo dai lắm. Còn phục vụ chị em được lâu dài...

Y nhìn đôi mắt cười cợt của ông, hiểu rằng mình vừa đi sai nước cờ. Mặt y thoáng đanh lại nhưng rồi y lại mỉm cười và ngồi xuống trước mặt ông, vươn hai cánh tay ra phía sau chiếc ghế bành khua khoắng, làm như cuộc diễu hành của y vừa rồi đơn thuần chỉ là một thứ thể dục buổi sớm, một thứ thói quen để khởi động ngày làm việc của đám người mài đũng quần trên ghế văn phòng:

- Cảm ơn cậu, nhờ trời máy móc của tôi còn tốt. Đấy là chưa gia tăng sâm nhung quế phụ.

Rồi, như để tránh một cú móc hàm của ông, y vội kêu lên như chợt nhớ ra một điều quan trọng:

- Chết thật, dạo này bận bù đầu, tôi quên không gọi điện cho ông cụ. Còn cậu ?

- Ông cụ cũng chẳng gọi điện cho tôi, đã từ lâu.

Ông đáp lạnh lùng.

Y vồn vã:

- Nếu vậy, tôi sẽ bố trí để cậu lên thăm ông cụ. Lâu lâu quay lại thăm thú núi non cũng hay.

- Tuỳ anh.

Ông trả lời vắn tắt và đứng lên.

Ngay tức khắc y đứng lên theo, nhanh như một con mèo, giơ tay nắm chặt cánh tay ông:

- Để tôi gọi điện bảo chúng nó lo. Ngày mai cậu có thể lên đường được.

Thế là ông có mặt ở đây, sân bay nội bộ dành riêng cho không quân vào lúc đứng bảy giờ sáng.

Bây giờ, ông ngồi uống trà và ngắm sương mù bồng bềnh phía bên kia con hồ Định Công. Chờ đợi.
 

*
* * *
 

Từ lúc thức giấc, chủ tịch đăm đăm nhìn về phương đông, ngóng mặt trời lên. Nhưng bốn bề bít bùng mây trắng.

Mây ngàn như dòng lũ dìm các đỉnh núi trong biển trắng mịt mùng. Từ các khe lạch, trườn theo các vực sâu, hơi nước cuồn cuộn bốc lên như khói, một thứ khói ướt lạnh tẩm mùi hăng ngái của cây rừng và hương những loài hoa dại. Những luồng hơi nước khổng lồ di động, tựa hồ một lũ rồng bị chọc mù, rờ rẫm trong một hành trình vô định. Lũ rồng ấy khi trườn theo các dãy núi vươn dài những khúc thân kinh dị của chúng, khi dồn tụ nhào trộn chồng chất trong thung lũng tạo nên hình ảnh các loài thuỷ quái giao tranh. Không còn chân trời, cũng chẳng thấy những giải rừng cao thấp nhấp nhô trên ba tầng núi. Ngay khu vườn nhà chùa cũng nhù nhoà trong sương. Sương trắng chập chờn ngay bên ngoài tấm kính che cửa sổ phòng ông.

Ngồi nhìn biển sương, chủ tịch đặt một ngón tay lên mạch, tự đếm....Chín mươi lăm, chín mươi sáu, chín mươi bảy...Con số nhảy không ngừng. Vào tuổi này, khó mà làm chủ được thân xác. Chủ tịch biết ông đang ngóng đợi một người, và nỗi hồi hộp cứ đến dù ông không mong muốn.

" Sao bỗng dưng ta rơi vào tình trạng oái oăm này ? Trước đây vài năm, tất thảy còn khác biệt .... "

Ông tự hỏi và hiểu rằng ông không thể trả lời.

Trước đây dăm sáu năm, ông những tưởng mọi sự đã an bài. Cuộc cờ đã xong. Xiêm áo cũ chẳng còn trong rương mà đem đốt rụi. Những tấm ảnh cũng đã bị huỷ thành tro để tan hoà cùng bụi đất. Vậy mà giờ đây, tim ông lại đổ hồi.

" Thôi, bề nào cũng không còn cứu vãn được. Một khi lối đi đã rấp rào gai bồ kết, giếng thơi đã bị lấp chẳng còn bóng nước để soi tìm hình bóng người xưa... "

Ông tự nhủ.

Nhưng đột nhiên, tiếng nói của kẻ đối nghịch vang lên trong tâm hồn ông:

" Đó là một ván cờ sai. Đó là cuộc chiến bại nhục nhã nhất trong đời người, trước hết một người đàn ông. "

Chủ tịch thở dài:

" Ta chẳng có cách lựa chọn nào khác. "

Tiếng nói kia đáp lại:

" Không phải là không có những con đường khác. Nhưng vấn đề là ngươi không đủ can đảm để lựa chọn một con đường khác. "

Ông lặp lại:

" Bây giờ, mọi cánh cửa đã khép lại rồi. Cái gì đã trôi qua là hết. "

Kẻ đối nghịch bí ẩn kia cất tiếng cười vang một cách khinh miệt:

" Mọi sự chưa hẳn đã xong như ngươi lầm tưởng. Thất bại nào cũng kéo theo những hệ luỵ mà kẻ thua trận chẳng bao giờ lường hết. Đó là điều ta cảnh báo ngươi ! "

Mây vẫn chưa tan.

" Sao mà lắm sương mù đến thế trong buổi sáng này ? "

Chủ tịch đứng dậy vì không còn chịu nổi trạng thái nửa tê dại nửa nôn nao như đang ngồi trên lửa. Nhưng ông vừa đặt chân xuống bậc thềm, chàng lính béo từ phía hiên bên chùa chính đã bổ nhào đến, chặn lại:

- Sương mù độc lắm, xin chủ tịch ngồi trong phòng cho.

- Tôi ngồi từ sáng đến giờ rồi.

- Xin người chờ cho chút nữa, tan sương rồi người hãy ra hiên.

- Chú nhìn thấy sư cụ và sư nữ chứ ?...Một người hơn tôi bảy tuổi, người kia là đàn bà chân yếu tay mềm. Cả hai đã ra sân từ mờ sáng, họ có chờ mặt trời lên núi đâu ?

- Dạ, nhưng...

- Để tôi ra đây một lúc cho thoáng. Ở trong phòng nhiều quá không ngạt thở vì buồn thì cũng tê bại chân tay.

- Thưa...

Nhưng ông đã gạt cậu ta sang một bên, cương quyết bước xuống sân. Ở đó, ông đứng lặng bên vườn mai như hoá đá. Sương mù phả vào mặt ông ướt lạnh, đượm mùi tươi ngái của núi non. Bên chùa chính, ánh nến bập bùng, tiếng mõ lẫn tiếng tụng kinh vang lên đều đặn thứ âm nhạc đối với ông đã bắt đầu trở nên quen thuộc. Thi thoảng, tiếng đọc kinh ngừng lại, nghe rõ tiếng rơi thánh thót của sương trên mái ngói. Mái ngói rêu phong, ngả màu đen. Những khuôn cửa gỗ cũng ngả màu gụ sẫm cùng năm tháng. Trong khung cảnh âm u thiền mặc, ánh nến lung linh hơn, rực rỡ hơn...

" Ồ, ánh lửa....sao mà giống ánh lửa ? "

Tim ông thốt lên một tiếng kêu ngây dại. Ánh lửa nến của nhà chùa gợi cho ông một ánh lửa khác, trong rừng sâu Việt bắc năm xưa...Ngọn lửa xa vời của chiến khu....Những ngọn lửa nhảy nhót, nổ tí tách và bắn tung những đốm hoa cà hoa cải. Một ngôi nhà mênh mông , những tràng hoa giấy đủ màu cắt bằng những bàn tay vụng dại của lũ trẻ giăng trên các cây cột. Lác đác chen vào các tràng hoa là những mảnh giấy trang kim lấp lánh. Ông biết chắc chắn rằng để có được những mảnh lá nhấp nhánh ấy, cậu phụ trách thiếu niên đã phải gom nhặt và cất giữ suốt một năm trời những vỏ bao thuốc của ông, thứ xa xỉ phẩm duy nhất mà ông tự cho phép....

Ông nhớ gần như tất cả những gương mặt trẻ thơ được soi rọi trong ánh lửa đêm ấy, những gương mặt rực nguồn sáng hạnh phúc...

" Nhưng năm ấy là năm nào nhỉ ? Không thể là năm Bính Tuất được, bởi lúc ấy cuộc kháng chiến đã đi vào khuôn khổ, mọi cơ sở vật chất đã tương đối ổn định, kể cả nhà máy in tiền Con trâu xanh cũng hoạt động rồi. Năm ấy chắc chắn là năm Đinh Hợi. Đúng vậy, năm Đinh Hợi. "

Một chiều, có lẽ khoảng ba giờ rưỡi hoặc non bốn giờ, chiểu theo độ xiên của các tia nắng lọt qua kẽ lá. Ông đang chúi đầu xuống đọc tài liệu chợt nghe tiếng hắng giọng liên tục. Khi ông ngẩng lên, chánh văn phòng đang ngoác miệng cười:

- Thưa chủ tịch, lát nữa mời người sang dự liên hoan với các cháu.

- Nhân dịp gì vậy ?

- Người quên rằng hôm nay vẫn còn trong dịp tết thiếu nhi ?

Ông ngẩn ngơ trong giây lát rồi nói:

- Tôi tưởng rằng tôi đã vui chơi và phát kẹo cho các cháu ?

- Thưa chủ tịch, người đã vui chơi và phát kẹo cho các cháu khối nhi đồng, nghĩa là đám trẻ từ hai đến mười tuổi. Nhưng hôm nay đến lượt khối thiếu niên, các cháu từ mười đến mười lăm, đặc biệt là các thiếu sinh quân từ mười lăm đến mười bẩy, đang tập trung học tập để chuẩn bị lên đường sang nước bạn.

- A....Ra thế...

Ông đáp, nhưng rồi nghĩ đến hai chồng tài liệu dày cộp đang chờ ông trên kệ gỗ:

- Tôi còn nhiều việc lắm...

- Báo cáo chủ tịch, các cháu thiếu niên đang háo hức chờ người. Các em tập rượt chương trình văn nghệ cả tháng nay để đón chào ngày lễ. Nếu người từ chối e rằng...

- Tại sao các chú không tổ chức gộp vào một buổi ?

- Dạ, nếu thế quá đông, hội trường không đủ sức chứa. Vấn đề thứ hai là bữa trước, ban tổ chức không có đủ bánh kẹo. Thế nên, đành phải chia làm hai keo.

Nói xong, anh ta ngoác mồm cười khoe hai hàm răng vừa khấp khênh vừa ám khói thuốc lào nhôm nhoam màu đất. Ông nhìn anh ta, bất giác bật cười:

- Thôi được. Tôi tranh thủ làm việc một lát nữa. Lúc nào đi chú sang đón tôi.

Đoạn, ông cúi xuống tiếp tục đọc tài liệu, hoàn toàn thản nhiên. Ông không biết rằng định mệnh đang đứng chờ ông dưới chân cây cột nhà sàn.

" Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau...."

Câu hát quen thuộc của chàng bác sĩ lại vang lên trong tâm tưởng. Tựa ngọn roi điện quất xuống trái tim ông. Cơn đau lan toả khắp thân xác. Ông có cảm tưởng rằng không chỉ trái tim ông bầm nát mà những tế bào trong cơ thể ông cũng bầm nát theo.

Rồi ông bỗng nghĩ đến hình ảnh thần Cu-pi-đông, hài nhi có cánh hai mắt bị bịt kín. Hình ảnh ấy khiến ông sởn gai ốc, rùng mình:

" Nào ai biết được trên cõi đời rồi đây ai sẽ là người yêu dấu ? Nào ai biết rằng khoảnh khắc nào búa rìu của thần định mệnh sẽ bửa nát con tim ?"

Buổi tối hôm ấy, khi anh chàng chánh văn phòng quay lại đón ông, ông còn cố đánh nốt trang bản thảo. Cất gọn mớ tài liệu rồi ông đi ra cửa. Nhưng đã đặt chân xuống cầu thang, ông lại quay lên lấy mảnh vải trùm chiếc máy chữ vì sợ bụi mọt hay côn trùng từ trên mái tranh rơi xuống làm hư hại công cụ làm việc của mình. Không một chút vội vàng trong cử chỉ. Chẳng mảy may xao động trong tâm can. Ông thực hiện mọi động tác với một sự chú tâm cần thiết cũng như sự bình thản cần thiết trong vai trò của ông, lãnh tụ cuộc chiến tranh.

Anh chàng chánh văn phòng đứng chờ ông dưới chân cầu thang để đưa ông sang khu doanh trại chung của các đoàn thể. Phụ nữ đoàn, thanh niên đoàn, thiếu nhi cứu quốc, đảng dân chủ, đảng xã hội, nông hội....Tất thảy đều quây thành một khối. Khu gia đình cũng nằm kế ngay bên, nơi bầu đoàn thê tử của các cán bộ cao cấp vừa tham gia kháng chiến vừa lo việc nhà. Khu doanh trại cách nhà sàn của ông một thung sâu, một con suối. Khi

chủ tịch cùng người dẫn đường xuống thung lũng, trời đã tối đen. Cậu chánh văn phòng ve vẩy cây đèn pin bọc vải dày, chỉ hở ra một đốm sáng bằng con đom đóm. Thung lũng thiếu bóng cây cao. Những loài cây mọc dọc lối đi chỉ là loài tùng thảo hay diệp chi không đủ sức che con mắt dòm ngó của máy bay do thám. Nhưng bù lại, có rất nhiều đom đóm rừng và những mảnh gỗ mục sáng rực lân tinh tựa hồ lửa soi đường của Sơn thần hay dạ đăng của các Lâm chúa.

Họ phải nương nhờ thứ ánh sáng ấy mà đi. Khoảng nửa giờ sau, mới đến bờ suối. Qua suối, chỉ còn một con dốc ngắn là tới khu doanh trại. Ông hỏi chàng chánh văn phòng:

- Lần trước, tôi dặn chú khi qua suối phải làm gì chú có nhớ không ?

- Dạ, chủ tịch nói...rằng....rằng...

Anh ta nhai câu nói giữa hai hàm răng khiến ông phì cười:

- Tôi dặn chú trước khi qua suối nhớ đái vào hai bàn chân. Đấy là cách phòng bệnh thấp khớp cổ truyền mà tôi học được. Các chú còn trẻ nên chưa biết sợ luật trời, coi thường sức khoẻ. Nhưng sức khoẻ là thứ tài sản lớn nhất mà con người cần phải gìn giữ...

- Thưa chủ tịch, tại đầu óc tối mò mò nên học trước quên sau...

- Ồ, đây không phải vấn đề chữ nghĩa: Chẳng phải thiếu thông minh mà là thiếu ý thức tiên liệu...

Chánh văn phòng cười hì hì rồi lùi lại ngay sau lưng ông, thực hành bài học ông vừa giảng. Chủ tịch nghe tiếng nước tiểu rót ồ ồ, thầm nghĩ:

" Cu cậu khoẻ thật....Tuổi trẻ đúng là thiên đường...."

Họ phải mò mẫm qua suối khá lâu vì lòng suối rất trơn, dù nước không sâu lắm. Bãi đá không ghồ ghề nhưng lại xen những tảng đá đầy rêu nhớt, chỉ cần lạng chân lên đó trong tích tắc, ngã như chơi. Phải vào bệnh viện thì phiền toái lắm, nhất là bệnh viện nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu mọi phương tiện lẫn thuốc men. Nỗi lo thiết thực khiến ông luôn luôn phải tự nhắc bản thân cũng như tất thảy mọi người:

" Cuộc chiến tranh đang trong giai đoan vô cùng khó khăn. Chúng ta phải cố gắng giữ sức khoẻ. Nói cách khác chúng ta không được quyền ốm. Bệnh viện và thuốc men nên dành cho thương binh. Giữ sức khoẻ trong khả năng tối đa, đó là kỉ luật, đó là tinh thần trách nhiệm trước tổ quốc cũng như đối với chính bản thân mình."

Giữa lòng suối, chánh văn phòng đột nhiên túm lấy ông:

- Đoạn này trơn lắm, xin người để tôi dắt.

- Cảm ơn, nhưng tôi đã vượt qua khúc nguy hiểm nhất rồi.

- Người thấy nước suối có lạnh quá không ạ ?

- Lạnh hay không chúng ta cũng sắp đến bờ.

Ông cười, và nói tiếp:

- Lần sau, nếu có lòng tốt muốn cõng tôi thì phải hỏi trước khi đặt chân xuống nước.

- Ô ...ô...ô...

Anh ta không có cách nào đối đáp nữa nên đành cất tiếng kêu như một con bê vậy. Trong bóng đêm, cả một đám người đã láo nháo hiện ra:

- Chủ tịch....Chủ tịch đã đến...

- Chủ tịch đến rồi ạ ?.

Ông cất tiếng đáp:

- Tôi đây!

Đám người cất tiếng reo rồi chạy tràn xuống suối, lúc ấy làn nước chỉ còn già gang tay. Nước bắn tung toé lên cả quần áo chủ tịch. Những ánh đèn ve vẩy loang loáng trên mặt nước, rồi những cánh tay túm lấy vai ông, lưng ông. Kẻ rờ áo, người rờ vai. Chủ tịch nhận ra đám người quen bởi mùi mồ hôi, hơi thở.

- Chủ tịch có mệt không ạ ?

- Mệt chứ. Nhưng chưa mệt đến mức phải yêu cầu các chú cõng lên doanh trại.

Ông đáp, đoạn xăng xái leo lên dốc. Từ đây, rừng già rậm rịt. Ai nấy đều lột vải bọc đèn pin. Những vệt ánh sáng từ hai bên đường đan chéo nhau loang loáng phía trước mặt ông. Chủ tịch thấy sảng khoái. Ông nghĩ tới niềm vui đang đón đợi. Những cuộc gặp lũ trẻ là khoảnh khắc thư giãn đối với ông, gần như giờ ra chơi đối với bọn học sinh tiểu học.

Phía trước, khu nhà sáng rực ánh lửa. Các khuôn cửa có màu cam chín, thứ màu lộng lẫy trong đêm. Tiếng trẻ đồng ca vang lên theo nhịp vỗ tay. Khi ông bước vào, tất cả bọn chúng đứng dậy, cất tiếng hát rộn ràng theo nhịp vỗ tay, thay lời chào đón:

" Non sông ta hằng nhớ ơn người đời đời,
Chúng ta lắng nghe tiếng người vang rền sông núi,
Nào cùng đi, tiến bước trên con đường giải phóng,
Nào cùng đi, nghe hồn thiêng nước Nam vẫy gọi...."

Tất cả những gương mặt tươi non ấy, tất thảy những đôi mắt long lanh ấy, và ngọn lửa đêm rực rỡ ấy...; ông nhớ rành rọt tới tận giờ....Phải chăng vì chúng được ghi khắc cùng một lần với một gương mặt, một cặp

mắt, một nụ cười như son tô, một mái tóc đen óng ả ?...Phải chăng vì chúng được hiện diện cùng một lần với hình ảnh của nàng ?...

Ồ không, không!

Có lẽ thời gian khiến mọi vật đều nhiễm bóng mây huyễn tưởng. Đúng ra, sau buổi tối hôm ấy, ông chẳng còn vấn vương gì. Nói cho thật chính xác, trước khi giấc ngủ ập đến, ông nhớ lại đêm liên hoan với niềm vui lâng lâng, nhẹ nhàng: Dàn đồng ca. Ngọn lửa. Điệu múa xoè. Những chiếc váy dán giấy trang kim nhóng nhánh. Một đứa bé trai cỡ mười hai tuổi hát bài "Sơn nữ ca" với giọng tê-no tuyệt vời. Và sau rốt, một đôi mắt nâu trong vắt nhìn ông chăm chăm bên kia đám lửa.

" Ôi, đôi mắt bồ câu! Mắt bồ câu!..."

Con tim ông vang lên tiếng trầm trồ, thán phục:

" Sao lại có một cặp mắt đẹp đến như vậy! Ta chưa từng bắt gặp một đôi mắt nào giống đôi mắt đó. Quả là vưu vật của Tạo hoá !Trời đất mới diệu kì sao ?"

Đúng như vậy.

Chính xác là như vậy.

Sau đó, ông chẳng còn nhớ được gì bởi công việc dồn xuống đôi vai ông. Chiến dịch rồi lại chiến dịch. Mặt trận co lại phía đông và mở rộng về phía tây. Công tác hậu cần đang báo động. Công tác phản gián có vấn đề. Một mạng lưới điệp viên vừa bị đốt, nửa số người sa lưới đã nằm trong nhà tù, nửa còn lại bị vô hiệu hoá đang tẩu tán khắp nơi hoặc thu mình trong bóng tối. Tình hình nội bộ cũng đã nẩy sinh những vấn đề cần chấn chỉnh. Nhà nước thiếu nghiêm trọng những cán bộ có đủ trình độ văn hoá để phục vụ cho công tác binh vận và ngoại giao.

Đúng là ông không còn nhớ gì nữa.

Và năm tháng trôi đi......

Trôi đi tháng năm.

Trôi đi những khúc nhôi khác biệt của cuộc đời. Đời người nào khác chi dòng sông bất trắc, nào ai đoán trước được những khúc thẳng khúc queo, những sụt lở hay đắp bồi, nơi đâu nước chảy êm đềm và nơi đâu là ghềnh thác. Phải chăng tất cả chúng ta đều nằm trong tấm lưới rộng dài của số phận ?...Phải chăng những múa may quay cuồng của mỗi người cũng giống như vài lớp diễn trò của chú Tễu mà thôi ?...

Giá như có cách chi đoán biết được số phận hẳn cuộc sống của ông sẽ xoay theo chiều khác....Giá như có cách chi đoán biết được số phận hẳn ông đã thoát được lưới trời...

Nhưng mọi sự: Giá như , chỉ là tiếng thở dài chung cục. Chúng giống như những vọng âm của đá lở, người ta chỉ nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển khi những tảng đá đã sắp rơi xuống đáy vực. Nào ai có thể giơ tay chặn được một tảng đá khi nó đang rơi từ đỉnh núi xuống vực sâu ?...Ai ?...

Câu hỏi ấy có vẻ như yếm thế, và ông không muốn tin rằng ông đã mềm lòng. Tinh thần cương cường của người cách mạng cũng như sự kiêu ngạo của chủ nghĩa duy vật ngăn cản ông tin vào định mệnh. Tuy nhiên, cơn khắc khoải triền miên của ông vẫn chờ đợi một câu trả lời. Nhưng lời giải đáp còn chìm trong sương mù của chân trời phía trước. Và như thế, muốn hay không ông vẫn phải nhớ một con số, một cái mốc thời gian mà bỗng nhiên, con tim già nua của ông bị trúng thương.

Ấy là một ngày hè định mệnh.

Trưa hôm ấy, tướng Long mời ông sang duyệt lịch trình cho chiến dịch sắp tới: Thu-đông năm 1951. Ông hài lòng, kể từ lúc bắt đầu cuộc kháng chiến đến giây phút ấy ông mới có thể thở một hơi nhẹ nhõm:

" Bánh xe bắt đầu quay rồi đây. Ta đã vượt qua giai đoạn chập chững của cuộc chiến tranh, giai đoạn muôn ngàn gian khó...Mùa hè này mở đầu cho một thời kì mới.... "

Mùa hè ấy có tên là Tân Mão.

Tân Mão cũng chính là tuổi của ông.

Một mùa hè tới muộn nhưng không quá oi nồng. Ông định mặc bộ quần áo ta màu gụ ra đi song ngẫm nghĩ một vài giây, ông liền thay quân phục. Ông biết rằng khi mặc quân phục ông trẻ đẹp ra. Dáng người dong dỏng của ông vô cùng thích hợp với âu phục hay binh phục. Trong lối trang phục ấy, ông dễ dàng lấy được vẻ duyên dáng, quyến rũ. Trong lối trang phục ấy, nét mặt ông dường như cũng tươi tắn hơn dịu dàng hơn và trong tâm hồn ông những bài ca thời thanh xuân ào ạt trở về. Những lời ca ấy ngân nga một cách thầm kín và đem cho ông niềm sảng khoái mà chỉ mình ông hay biết. Thay quân phục xong, ông báo cho cảnh vệ biết rằng ông sẽ sang hầm tướng Long một mình, đoạn đường quá ngắn và quá quen thuộc, vả chăng ông thích đòi lại trong khoảnh khắc một thứ tự do đã bị tịch thu. Đường rừng, chim kêu vượn hót lá reo...nhưng trước hết, một mình đi, một mình suy tưởng, một mình nhìn ngắm cảnh quan....đó thực sự cũng là một hạnh phúc khi cuộc sống con người bị ràng buộc quá chặt chẽ vào tập thể...

Trong tâm trạng hoàn toàn mãn nguyện ông săm săm bước, hầu như không để ý đến xung quanh. Được nửa đường, bất chợt những tiếng kêu hốt hoảng cất lên:

- Xin dừng lại ! Xin chủ tịch dừng lại !

- Đừng đi ! Xin chủ tịch đừng đi !

Ngẩng lên, ông thấy hai cô gái nghễu nghện cưỡi trên một cành cây lớn chĩa ngang qua lối mòn. Các cô đang loay hoay tìm đường tụt xuống, cô nào cô nấy mặt đỏ gay, miệng lấm lem ruột vả. Ông biết ngay rằng họ đang chia nhau chùm vả chín, vì mải ăn họ không nhìn thấy kẻ bộ hành đột nhiên xâm phạm biên thuỳ của họ, phá tán bữa quà ngon lành hiếm hoi. Rồi khi chợt nhận ra ông, họ không còn đủ thời gian để tụt xuống nên đành rối rít kêu lên để chặn ông dừng lại. Bây giờ, hai cô đang cuống cuồng tìm cách giải thoát.

- Cẩn thận, cẩn thận không ngã.

Đến lượt ông kêu to vì sợ hãi khi nhìn thấy hai cô nối nhau ôm thân cây, tụt một lèo như hai con khỉ nhỏ.

- Cẩn thận.

Ông tiếp tục kêu nhưng không tránh được một nụ cười:

- Sao các cô không xuống từ từ ? Làm như thế vừa dễ ngã vừa rách quần áo ?

Lúc ấy hai cô mới cúi xuống nhìn trang phục xốc xếch của họ:

- Thưa chủ tịch !

Một cô cất tiếng và ngước nhìn ông.

Chủ tịch choáng váng: Chính là đôi mắt ấy ! Đôi mắt bồ câu. Nỗi ám ảnh sau cùng của đêm liên hoan bốn năm về trước. Ông nhận ra tức khắc cô bé năm xưa nhìn ông đăm đăm qua ngọn lửa. Phút chốc, những ảnh hình, những màu sắc, những âm thanh, những kỉ niệm trong chuyến đi đêm xưa với cậu chánh văn phòng sống lại. Nguyên vẹn. Tươi mới. Tro tàn lãng quên của bốn năm đột nhiên bị gió cuốn sạch trơn:

" Tết thiếu nhi muộn màng. Đêm liên hoan vào ngày mồng bốn tháng sáu. "

Ý nghĩ đó vụt qua như tia chớp. Cùng lúc, một chuỗi sấm nổ rền khiến óc não ông như muốn bật tung lên:

" Năm xưa cô bé mười lăm ! Và giờ đây, nàng mười chín tuổi ! "

Vâng, đó chính là nàng !...

Hình như ông đã im lặng khá lâu khiến hai cô gái bối rối. Các cô hết đưa mắt nhìn nhau, lại nhìn lên cây, rồi nhìn xuống đất:

- Chúng em xin lỗi chủ tịch ạ.

- Chúng em không nhìn thấy người ạ .

- Chúng em...

Ông không hiểu những tiếng lúng búng của nàng. Ông chỉ thấy đôi mắt bồ câu trong vắt của nàng vừa như hồ thẳm vừa như giọt sương treo cuống lá, hai hàng mi cong như cánh nhạn chớp liên hồi. Ông chỉ nhìn rõ cặp môi tươi thắm chín mọng của nàng lấm lem ruột vả khiến hai hàm răng hạt bắp càng nổi bật, lóng lánh như ngọc trai. Ông thấy gương mặt nàng vừa mang vẻ thơ ngây của đứa trẻ vừa có nét quyến rũ đặc biệt của những người đàn bà, mà trời sinh ra họ dưới cái biệt danh: Nghiêng nước nghiêng thành....

Ông cũng không còn nhớ rằng ông đã trấn an hai cô gái ra sao?... Ông cũng chẳng nhớ các cô đã chào ông rồi ra đi theo cách nào. Ông cũng không nhớ ông đã nói gì với nàng vào phút cuối...Tâm hồn ông chao đảo. Tim ông đập thình thình như đang còn tuổi hai mươi. Cùng với cơn ba động ấy, tiếng reo bốn bề vang lên tựa một dàn đồng ca khổng lồ đang đứng quanh ông, ca hát. Tiếng hát của một đám đông vô hình vô dạng. Phải chăng đó là ma rừng hay thần núi, là tiếng reo hoan hỉ của các lâm chúa hay tiếng reo hò nham hiểm của đám phù thuỷ già ?...Một thoáng ngờ vực sợ hãi khiến ông đứng lặng. Ông cứ tiếp tục đứng như thế hồi lâu, khi hai cô gái đã đi xa. Ông lắng nghe tiếng hát của dàn đồng ca huyền bí kia, thấy không gian rung rinh chao đảo, thấy những lượn sóng khổng lồ vô hình dập dờn uốn lượn. Không gian nhiệm màu là một đại dương và ông là con tầu bị ném xuống trùng dương đó ngoài mọi ý muốn, mọi đoán định, mọi dè chừng...

- A....a...a....

- A...a...a....

Ông nghe tiếng reo lan toả khắp bốn phía rừng già, tiếng reo đuổi theo ông như những con sóng đuổi theo một con tầu, dồi lắc xô đẩy nó trong một cuộc phiêu lưu, trò đùa giỡn cay nghiệt của số phận.

Đêm hôm ấy, ông ghi vào tờ lịch túi: Năm Tân Mão.

Tháng Mão.

Giờ ngọ. Ta đã......

Những kẻ tò mò thông minh nhất quả đất cũng không đoán được dòng chữ dang dở.....

- Thưa chủ tịch, xin người vào dùng bữa.

Anh lính béo đã đứng phía sau lưng ông tự lúc nào. Ông cất tiếng:

- Các chú dùng bữa đã lâu chưa ?

- Dạ, thưa người bếp đại đội đang chuẩn bị bữa trưa.

- À ra thế..

Ông lẩm bẩm. Dạo này ông ăn uống thất thường, ngày không còn đủ ba bữa .Nhiều khi ông quên rằng phải ăn và phải ăn cho ngon lành để dân chúng được yên tâm về tình hình sức khoẻ của ông. Sự đãng trí là bạn đồng hành của tuổi già, người ta muốn ruồng rẫy nó cũng không nổi. Ông quay vào phòng, ngồi xuổng trước khay đồ ăn sáng. Một chiếc bát sứ loe thành có vung úp kín bên trên. Ông lật chiếc vung còn bỏng rẫy, đầm đìa hơi nước:

- À, ra hôm nay nhà bếp cho ăn cháo ...

Mùi hành hoa và tía tô xông lên ngào ngạt. Mùi hương quen thuộc của những căn bếp cổ truyền. Cháo hành tía tô vừa là món ăn nhẹ vừa là thứ thuốc giải cảm cúm. Ông đã quen mùi hương này từ thời ấu thơ.

- Xin người dùng bữa kẻo nguội.

Anh cận vệ béo nhắc nhở, mắt không rời đôi tay ông.

Ông cúi xuống, nhìn những sợi hành thái đều tăm tắp cùng những lá tía tô xắt mảnh như sợi miến tầu, chợt nhớ tới một lần nào đấy ông bị ốm và nàng trổ tài nấu cháo cho ông. Bát cháo vụng dại nàng nấu còn nguyên những hạt gạo và hành lẫn rau thơm còn nguyên cọng:

" Em là sơn nữ !...
Sơn nữ ơi, em là giấc mơ của ta, của riêng ta ... "

- Thưa chủ tịch ...

Cậu lính reo lên đột ngột, đoạn nghiêng đầu lắng nghe tiếng rì rầm nào đó một lúc rồi kêu:

- Máy bay lên rồi, chủ tịch có nghe thấy không ?

- Tôi chưa nghe thấy gì . Tai người ngoại bẩy mươi hẳn là khác tai chàng trai mười tám.

Ông đáp với nụ cười và đưa mắt nhìn về phương đông. Mặt trời đã mọc từ lúc nào chẳng rõ. Hoàn toàn không giống mặt trời của ngày thường; bởi nó hệt như một trái cam chín muộn treo lủng lẳng giữa không trung. Một mặt trời dịu êm không chang chói. Một mặt trời còn dùng dằng trong cơn mộng mị. Một mặt trời ngái ngủ như thế chẳng mảy may gợi nên ý niệm thường hằng về trái cầu lửa hay cỗ xe hung dữ mang lửa đi thiêu cháy các miền đất bị nguyền rủa trên hành tinh. Mây trắng vẫn xôn xao như biển quanh các đỉnh núi. Nhưng xung quanh vầng dương là một khoảng xanh lơ giống như chiếc tán tròn. Một màu lơ trong suốt tươi thắm lạ lùng.

Màu lơ ấy là màu của mùa hè vĩnh cửu. Cớ chi nó hiển hiện lên hôm nay ?

Trong lúc ông còn đang đắm chìm nhìn chân trời phía đông, chuông điện thoại nơi góc phòng bỗng reo inh ỏi. Cậu lính béo chạy vào nghe đoạn quay ra:

- Thưa chủ tịch, trực thăng đã tới. Văn phòng mời Người xuống sân bay.

- Thủ trưởng Vũ không lên đây ?

- Dạ, thủ trưởng Vũ sẽ tháp tùng người cùng với đội cảnh vệ tới dự tang lễ của dân xóm Tiều Phu. Sau đó thủ trưởng Vũ sẽ theo người trở lại chùa. Chương trình đã được duyệt.

- Tôi đi thay quần áo.

- Thưa, người cần phải ăn hết bát cháo vì trời rất lạnh. Tiểu đội cận vệ Một sẽ lên đây để tháp tùng người xuống sân bay.

- Phải chuẩn bị quần áo đã.

- Thưa chủ tịch, tất cả đã sẵn sàng.
 

*
* * *
 

Đường xóm núi quanh co uốn khúc ruột gà. Nghe tiếng nhạc tưởng chừng gần, nhưng đường đi vòng hoá xa ngái. Hai bên lối đi, tre trúc rùm roà ngăn bước kẻ bộ hành. Mà tiếng nhạc đưa vong thì da diết não nề không dứt. Thoạt tiên là tiếng kèn bầu, sau đó là tiếng sáo hoà cùng tiếng nhị. Khi khúc dạo đầu kết thúc, tiếng hát của một người đàn ông cất lên, trầm đục:

" ...Vong hỡi vong, xin chớ quay đầu lại,

Vong hỡi vong, xin đừng nuối tiếc nẻo trần ai,

Như chồi non nảy nở tiết xuân, lá tươi thắm trong nắng hè, rồi úa vàng vào ngày thu tàn hay đông giá, cõi nhân gian cùng trong tay Tạo hoá, nào ai thoát được trò chơi ? ...

Từ hư không, cha mẹ cho ta kiếp làm người, ta khóc tiếng khóc chào đời, ta cười tiếng cười trẻ thơ, ta cất bước lên đường, nhấc gánh tang bồng tuổi tráng niên, rồi đặt gánh khi hơi tàn sức kiệt.

Nước chảy xuôi và tóc thay màu.

Lưới ông Tạo giăng khắp cùng bốn biển

Đời phu du như cánh bướm qua mau ... "

Ông lắng nghe tiếng hát đưa vong, thầm kinh ngạc vì lần đầu ông mới nghe những câu ca như thế, vậy mà ông sống ở xứ sở của ông đã bao nhiêu năm trời:

" Vì sao đến bây giờ ta mới biết những câu hát dân dã ? Phải chăng chúng lướt qua như gió thổi mà ta không để tâm hay trong bao nhiêu năm trời, chính quyền đã cấm dân chúng hát những khúc hát bi luỵ ? Nhưng cõi đời vốn có sinh có tử, sự bi luỵ là anh em song sinh với niềm vui. "

- Thưa chủ tịch, xin người để tôi mang áo khoác.

Một cận vệ dấn bước đỡ chiếc áo khoác ông vừa cởi ra. Ông đưa chiếc áo cho anh ta , chợt thấy một cơn đau chạy rần rật theo sống lưng. Mồ hôi ướt trán, ông lấy khăn tay thấm khô nhưng không đi chậm lại. Giờ đưa vong sắp tới, ông đã nảy ra ý muốn đến thăm gia đình kẻ xấu số, ông không có quyền bắt họ phải chờ đợi. Vả chăng, bao nhiêu người đã phải tháp tùng ông. Trước mặt ông tiểu đội thứ nhất đi cùng với chủ tịch xã, một phụ nữ cao lừng lững như hộ pháp, vai ngang hình chữ thập với những cơ bắp cuồn cuộn mà bất cứ bậc mày râu nào nhìn thấy cũng khiếp vía kinh hồn. Chị ta bận bộ đồ cổ truyền, áo vải phin xanh, quần sa-tanh đen lánh , nhưng lại đi giầy vải đế cao-su buộc dây trắng ; kiểu giầy của vận động viên thể thao. Khuôn mặt rộng, cặp mày xếch với đôi quai hàm bạnh sang hai bên, cổ to như cây cột lại đỏ au, vẻ lực lưỡng lẫn cứng cáp còn hơn cả mười người đàn ông cộng lại. Sau lưng ông, tiểu đội thứ hai đi cùng với phó chủ tịch và công an xã, hai người đàn ông thấp bé ngang nhau, ngang nhau cả cỡ tuổi lẫn cách trang phục, anh nào anh nấy đều ngoại tứ tuần, áo đại cán, quần kaki Sĩ Lâm, riêng trưởng công an xã có thêm một chiếc thắt lưng da to bản đeo súng ngắn. Hai tốp người đó làm thành một đội quân nhỏ sắp hàng bốn. Con đường hẹp, nhưng bên tay trái ông là Vũ cùng cậu bác sĩ, bên tay phải là đội trưởng đội cận vệ Lễ. Đi sau họ chừng ba mươi thước là một trung đội vũ trang chống bắt cóc bằng máy bay.

- Thưa chủ tịch, xin người uống thuốc trước khi tới dự đám tang.

Tới lượt bác sĩ đề nghị. Ông dừng lại, uống một nắm thuốc với chén nước gừng ủ trong phích mà anh ta đã chuẩn bị một cách lặng lẽ. Rồi họ tiếp tục đi. Đoạn đường này gập ghềnh hơn. Hai bên, trúc không còn rủ la đà mà ken dày đặc như tường thành. Cành lá đan xen tạo nên tấm mái che xanh biếc. Đã đúng ngọ, bởi tiếng gà eo óc gáy từ xóm đông qua xóm tây, từ thôn thượng qua thôn hạ. Tiếng gà gáy cũng như tiếng nhạc đưa vong rền rĩ không ngưng nghỉ dường như chẳng thể khuấy động một im lặng vô hình đang ngự trị trong không gian mà làm cho nó ngưng kết hơn. Sự im lặng này trong suốt như thuỷ tinh và rắn chắc hơn kim loại. Một im lặng mênh mông. Dường như nó đang che chắn cánh rừng nào đó bên kia đường chân trời:

" Vong hỡi vong, hãy nhìn về phía trước
Để bụi trần lắng đọng sau lưng "

Tiếng hát nghe đã gần lắm rồi, nhưng họ vẫn phải vượt qua một cua đường lượn vòng thúng mới tới nơi. Đám đông đã tụ tập ngay trên lối vào ngõ, chờ ông. Thiếu niên cầm cờ hoa, đồng phục gọn gàng, vai khoác dù nguỵ trang xếp thành hai hàng danh dự. Sau lưng chúng là tất thảy cư dân xóm Tiều Phu, đàn ông lẫn đàn bà, đều cỡ trung tuần trở lên. Không còn thanh niên ở lại làng, họ đã đăng lính hoặc tập hợp trong các đội thanh niên xung phong phục vụ mặt trận.

" Thế này chính là cảnh chiến tranh. Khi trai tráng ra đi, chỉ còn lại những người đàn bà giặt quần áo bên sông hoặc cầy cấy trên cánh đồng. Và nhà thơ viết Chinh phu ngâm trong tiêu điều, quạnh hiu xóm vắng ... "

Ý nghĩ của ông đứt đoạn vì đám đông đã nhận ra ông:

- Chủ tịch muôn năm, muôn muôn năm !

- Chủ tịch sống đời đời với non sông !

- Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam muôn năm !

- Chủ tịch muôn năm !

Ông chợt nhận ra tiếng nhạc đưa vong đã im bặt, bởi các nhạc công tay kèn tay nhị đều đã đứng hết lên trên ghế để nhìn ông cho rõ. Đám người quấn khăn tang cũng ào ra chào đón khách quý, mắt ai nấy còn sưng:

" Họ đã bỏ người chết nằm một mình trong nhà. Cuộc viếng thăm của ta hoá ra gây tác hại cho gia chủ. "

Những tiếng hoan hô thoạt tiên còn ngượng ngùng, e ngại nhưng mỗi lúc mỗi trở nên nồng nhiệt. Dường như mọi người đã quên khuấy tình cảnh của tang gia. Điều đó khiến ông cảm thấy sự hiện diện của mình trở thành lố bịch. Chờ cho đám đông bớt cuồng nhiệt, ông giơ tay phác một cử chỉ để lấy lại sự im lặng. Tức khắc, đám đông im phăng phắc. Một thoáng run rẩy lướt qua tim khi ông nhận ra khả năng chinh phục và quyền uy của mình. Sức mạnh ấy chưa mất đi cùng với tháng năm:

- Thưa bà con ,

Ông cất tiếng và quan sát những ánh mắt của dân chúng. Trong những ánh mắt ấy có một vẻ ngưỡng mộ cuồng si một sự phục tòng vô điều kiện mà ông đã quá quen thuộc. Giờ đây cái vẻ quen thuộc ấy chẳng còn khiến ông thích thú:

" Tại sao người ta không thể yêu một cách khác đi ? Tại sao người ta không thể vừa yêu kính vừa bình đẳng với một ai đó ? "

Ông thầm nghĩ trong khi tiếp tục nói với họ:

- Thưa bà con, tôi xin chân thành cảm tạ sự nồng nhiệt mà bà con đã dành cho tôi. Nhưng chớ quên rằng chúng ta đến đây là để dự đám tang chứ không phải mít- tinh hay hội họp. Tôi cũng chỉ là một người khách viếng vong bình thường như bất cứ ai trong đám chúng ta. Tôi đề nghị bà con im lặng, ai trở về vị trí nấy để tang sự diễn ra được hoàn hảo.

Lời của ông bao giờ cũng là mệnh lệnh, một thứ mệnh lệnh đầy ma lực hay thần lực, chính ông cũng không biết rõ. Dân chúng lặng lẽ tản ra, lặng lẽ đến mức ông nghe thấy cả hơi mình thở. Thân quyến gia chủ trở lại đứng quanh quan tài. Dàn nhạc cất lên khúc não nề của cuộc tiễn đưa vĩnh cửu:

" ...Từ cát bụi lại trở về cát bụi
Cuộc xoay vần cũng đến thế mà thôi ... "

Đội cận vệ đã dừng lại bên ngoài. Chủ tịch xã và Lễ tháp tùng ông vào viếng gia chủ. Họ phải đi qua một mảnh sân thênh thang, không lát gạch mà lát thuần một thứ đá xanh, bề nào cũng dư bốn tấc. Những thớt đá xếp đều tăm tắp khiến sân nhà tang chủ giống sân đình sân chùa thời thịnh vượng hơn là sân nhà của một thôn dân. Khu nhà xây kiểu chữ môn, toà nhà chính ở giữa , năm gian thênh thang lát thuần ngói cổ. Hai bên hai dãy nhà ngang cũng không kém phần đồ sộ, dãy nào cũng năm gian có hàng hiên rộng chạy quanh. Vừa đưa mắt lướt qua, ông đã nghĩ:

" Cửa cao nhà rộng đến thế này rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. "

Và bất giác ông buông tiếng thở dài.

Từ phía sau, Lễ tiến lên đưa cho ông một chiếc phong bì:

" Thưa chủ tịch, đây là tiền viếng ; "

Ông cầm chiếc phong bì một cách máy móc mà không nghĩ tiền viếng là thứ tiền gì và cần bao nhiêu cho đủ. Những kỉ niệm mờ nhạt về phong tục hiếu hỉ của dân quê, những hình ảnh về ma chay, cưới hỏi thời con trẻ không để lại mảy may dấu vết. Còn trong cuộc sống hiện tại, ông hoàn toàn không đụng chạm tới tiền bạc và những vật khả dĩ có giá trị. Thật sự, ông chưa từng có trong tay một đồng tiền dù người ta in hình ông trên tất thảy những loại tiền của xứ sở. Nhưng ông thấy mắt những người dân trong xóm kín đáo nhìn vào chiếc phong bì trong tay ông, và lần đầu tiên trong đời ông băn khoăn về giá trị thực của những tờ giấy tiêu được. Một ngờ vực khiến ông sợ hãi:

" Không hiểu họ đặt vào trong đó bao nhiêu đồng ? Nó có khiến cho những người dân kia thất vọng ? "

Cuộc sống thật sự đòi hỏi những giá trị cụ thể. Mà những giá trị ấy, người ta chỉ hiểu khi đã quá muộn màng:

" Toujours après coup ! "

Lại một tiếng thở dài thầm kín thốt lên trong trái tim ông.

- Xin chủ tịch tới bàn thờ trước.

Nữ chủ tịch xã hướng dẫn. Chị ta đi trước, ông theo sau. Người đàn bà cao lừng lững, đôi vai rộng như vai võ sĩ quyền anh có vẻ như một nữ vệ sĩ chuyên nghiệp:

" Tại sao bộ nội vụ không tuyển chị ta vào đội vệ sĩ nhỉ ? Thật là uổng phí một tài năng ! ".

Ông thầm nghĩ trong khi bước tới trước bàn thờ. Đó là một chiếc tủ đa dụng, nửa để thờ bên trên, nửa chứa đồ bên dưới. Chiếc tủ rất lớn, được đóng bằng gỗ tứ thiết, chạm trổ long, ly, quy, phượng và khảm trai, ra dáng một thứ tài sản hơn là vật gia dụng. Tủ kê chính giữa bức tường đối diện với cửa lớn. Một bát hương bằng đồng đang bốc khói. Hai cây nến cháy trong đôi giá đỡ cũng bằng đồng . Hai bình hoa cắm đầy mào gà lẫn mẫu đơn và các loại hoa rừng. Ông đặt phong bì viếng vong lên chiếc đĩa lớn bằng sứ cổ, màu men ngọc lộng lẫy, trên đó đã chất đầy những phong bì tự chế bằng các loại giấy tạp nham.

- Con xin đội ơn chủ tịch ạ.

- Con xin cảm tạ người .

Cùng lúc, một người đàn bà trẻ và một đứa bé trai tiến đến trước mặt ông, quỳ sụp xuống lễ. Ông lúng túng bởi người ta chỉ quỳ lễ theo kiểu ấy trước thần linh hay bàn thờ của gia tiên:

- Thôi, thôi ...xin mời gia đình đứng dậy.

Ông đỡ đứa bé lên, nhận ra điều ông đoán ngày hôm qua là chính xác: Nó cỡ mười hai hoặc mười ba. Bộ quần áo tang rộng thùng thình khiến thân hình nó càng thêm bé nhỏ. Chiếc mũ tang sụp tới mũi thằng bé, nhưng khi nó ngẩng lên, ông nhận ra một gương mặt khả ái với đôi mày dài như vẽ và cặp mắt đầy tính nam nhi:

" Thằng bé khôi ngô quá, nó sẽ rất đẹp trai khi khôn lớn . Cầu cho nó được may mắn trưởng thành. "

Hôm qua, khi nghe đứa bé khóc gọi cha, ông không hình dung nổi gương mặt của nó. Với ông, nó chỉ là một đứa bé vô danh gợi cho ông những liên tưởng tới một đứa bé khác. Giờ đây, gương mặt sáng ngời của nó khiến trái tim ông thổn thức. Gương mặt ấy triệu hồi một gương mặt xa cách. Một gương mặt thiếu vắng ...Cổ họng ông bỗng dưng se lại. Ông xoa đầu thằng bé, định nói điều gì đó nhưng không tìm được ngôn từ. Hình như ông đã khóc vì lúc đó, Vũ tiến sát đến và đưa cho ông chiếc khăn tay.

- Chúng con xin đội ơn người.

Tiếng một người đàn bà trẻ cất lên bên tai khiến ông giật mình ngẩng đầu lên ...

Goá phụ tiến đến trước mặt ông, cảm tạ. Ông nhìn thấy một gương mặt đầm đìa lệ bó trong chiếc mũ khâu bằng vải xô. Gương mặt ấy trẻ trung, khả ái. Chị ta chỉ khoảng ba mươi tuổi, khó có thể hơn. Nỗi mất mát vừa ập tới chưa làm suy xuyển nhan sắc lẫn sinh lực của người đàn bà đang độ xuân thì. Goá phụ có gương mặt mơn mởn của một người tràn trề hạnh phúc. Một gương mặt vô cùng khó kiếm trong xứ sở chiến tranh. Nước da chị ta trắng hồng, không một nốt tàn nhang hay vết rám như đa phần những thôn dân, những kẻ suốt ngày dầm mưa dãi nắng trên sườn non hay ngoài cánh đồng. Một đôi mắt đen, đầy vẻ táo tợn với đôi mày dài chấm thái dương, chắc chắn là thứ tài sản đã được chia xẻ cho đứa con trai. Đôi mắt ấy cũng không thường gặp nơi những người phụ nữ làng quê, bởi nó không phản chiếu một chút cỏn con nào sự nhẫn nhịn, vốn là thứ phẩm chất thường gặp nhất ở những người đàn bà đất Việt. Đôi mắt ấy chiếu thẳng vào mặt ông, không chút e dè, không mảy may sợ hãi:

" Với đôi mắt này, cô ta có thể làm bất cứ điều gì cô ta muốn. "

Ông thoáng nghĩ và tìm vài từ thích hợp để đáp lễ:

- Chúng tôi xin chia buồn với gia đình. Hy vọng cô và cháu sẽ vượt qua được giai đoạn khó khăn một cách nhanh chóng. Cố gắng cho cháu được học hành đến nơi đến chốn

- Dạ, chúng con xin thực hiện lời người.

Goá phụ đáp lại tức khắc, dường như câu trả lời đã được chuẩn bị sẵn .

Lúc đó, chủ tịch xã mời ông quay lại viếng người xấu số. Ông đi theo chị ta một cách máy móc vì không hiểu thủ tục của một đám tang bình thường diễn ra theo cách nào. Suốt cuộc đời ông, đây là lần đầu ông có cơ hội và cũng chủ tâm quan sát đám tang của thứ dân. Đột nhiên, sau một khoảnh khắc ngắn ngủi, những tiếng gào nhất loạt cất lên sau lưng chủ tịch:

- Ôi cha, cha ơi cha, sao nỡ bỏ chúng con ?

Lúc ấy ông mới nhận ra rằng còn gần hai chục người nữa mặc áo xô, trừ dăm ba người cỡ tam tuần, tứ tuần, còn lại thuần một đám thiếu niên lẫn con nít. Tất cả chen chúc, túm tụm với nhau làm thành một đội quân bề thế có khả năng lấn át mẹ con người đàn bà kia. Tất cả hợp thành một dàn đồng ca, cất lên tiếng kêu than như những điệp khúc, đệm theo bài hát của đội nhạc. Họ đứng bên trái cỗ quan tài còn mẹ con người đàn bà trẻ đứng bên tay phải.

" Hai thứ quân, hai thứ con, điều này có vẻ như chắc chắn.. ; "

Ông thầm nghĩ và đưa mắt tìm kiếm tấm ảnh tang. Gần như tức khắc, ông nhìn thấy một chiếc ghế tựa chạm trổ cầu kì kê sát đầu cỗ quan tài, trên đó đặt bức ảnh lớn lồng khung kính và trùm vải đen:

" A ...Ông ta đây ! Không phải một ông bố ngoại tam tuần hay sát tứ tuần như hôm qua ta phỏng đoán. "

Người làm chủ hai đội quân tả hữu quan tài đã ngoại ngũ tuần nếu không hơn. Chỉ có điều gương mặt ông ta không phản ánh chút nào sự mệt mỏi, sự an hoà, sự trầm mặc, sự nhẫn nại như gương mặt những người đàn ông khác ở vào độ tuổi ấy. Một gương mặt chữ điền, vừa hằn lên những nét phong sương vừa phóng chiếu niềm kiêu hãnh và sự dồi dào sinh lực. Đôi mắt ông ta nhìn thẳng về phía trước với cái nhìn ngạo nghễ, thách thức xen lẫn đôi phần ranh mãnh. Sống mũi lớn, thẳng như ống tre. Khuôn miệng đẹp, nét môi đều đặn, được bao bọc bởi bộ râu quai nón dài rậm, loăn xoăn như râu người phương tây nhưng còn đen nhánh:

" Gương mặt ấy biện minh cho tất cả những gì xảy ra xung quanh kẻ xấu số, ngay chính trong gian nhà này. "

Ông bàng hoàng. Những ức đoán, những liên tưởng, những ngậm ngùi tràn đến như đoàn thuyền bập bềnh trên dòng nước. Ý thức đàn áp xưa cũ cũng tức khắc ập đến tựa dòng thác ào ạt xối xả dìm đắm những con thuyền. Một chất nước cay xộc lên trong sống mũi ông. Một làn khói chập chờn trước mắt ông, vừa có màu xám của mây giông vừa có màu tím phiêu du của hoa anh túc.

- Thưa anh cả, chúng ta phải về thôi !

Vũ cất tiếng sau lưng ông. Ông thấy một bàn tay khẽ chạm vào tay mình, chợt hiểu đã đến lúc ông phải thức tỉnh. Quay sang đám người trắng xoá khăn áo xô bên trái cỗ quan tài, ông nói:

- Tôi xin chia buồn cùng với gia đình. Tôi cũng hy vọng gia đình ta vượt qua nỗi đau buồn này và nhanh chóng ổn định được cuộc sống.

Tới lượt đám người này đáp lễ ông với tất cả sự thống thiết oan khiên mà họ tích trữ trong tim não. Ông kiên nhẫn chờ đợi cơn thống thiết kêu gào của họ nguôi dịu xuống để rút lui. Nhưng dường như lời an ủi của ông là cái cớ để tất cả những nguồn cơn tàng trữ phía sau nỗi mất mát này được dịp phát lộ. Những tiếng khóc tiếng than hờ của hai mươi con người rền rĩ vang lên .

- Ôi cha ơi cha, sao cha nỡ bỏ chúng con vào giữa lúc nước sôi lửa bỏng này ?...Cha ơi, cha ra đi mà bao nhiêu nông nỗi chưa được giãi bày, bao nhiêu oan khiên chưa kịp bày tỏ ?

- Cha hỡi cha, xin quay lại lắng nghe...Này con này cháu, bao nhiêu ruột rà máu mủ của cha đây...

Lúc này chính nữ chủ tịch xã đã cứu ông thoát khỏi cơn rối ren một cách nhanh chóng:

- Thôi !

Chị ta ngẩng lên quát một cách bất ngờ khi màn khóc lóc có nguy cơ kéo dài và tăng cường độ:

- Thôi, đau thương nào cũng phải có giới hạn. Vả lại, chủ tịch cần phải giữ sức khoẻ để lo việc quốc gia. Đề nghị gia chủ giãn ra để chúng tôi đưa người về nghỉ.

Nói xong, chị ta giơ hai cánh tay lực lưỡng gạt đám người sang hai bên, với tất cả sức mạnh và sự chuẩn xác của lưỡi ben máy xúc. Ông chưa kịp hiểu ra mọi chuyện thì đã thấy mình đang đi qua mảnh sân lát đá để ra cửa. Mấy cậu cận vệ cũng đã bám sát lưng ông. Cả bốn người trong dàn nhạc đồng quê đứng lên, và họ chơi quốc thiều để tiễn biệt:

Tiếng nhạc quen thuộc cất lên.

Chủ tịch buộc phải dừng lại giữa sân cùng với đoàn tuỳ tòng, thoáng thấy vị nữ chủ tịch đưa mắt nhìn đội nhạc tang, không hiểu để ban khen hay để hăm doạ. Bề nào họ cũng phải chờ quốc thiều kết thúc.

Quốc thiều, quốc thiều !

Ông sững sờ như lần đầu nghe thấy nó, cái giai điệu đã từng ghi khắc vào trí nhớ của ông những nét sâu đậm từ bao năm nay. Phải chăng vì âm hưởng của đám tang hay vì tâm trạng của chính ông đã đổi thay cùng năm tháng ? Hoặc những nhạc cụ dân tộc đã đem lại một màu sắc lạ lùng cho bản nhạc vốn dĩ quen thuộc này ? Ông chẳng thể cắt nghĩa một cách minh bạch, nhưng nỗi kinh hoàng xâm chiếm tâm hồn ông khi nghe bản quốc thiều diễn đạt bởi kèn bầu, sáo và nhị. Cớ sao giai điệu buồn đến thế ? Hành khúc của một dân tộc mà vương vấn thê lương, ai oán. Dường như trong nhịp điệu hùng hồn kia ẩn chứa tiếng chuông chiều thả bóng lẫn tiếng cú rúc đêm trường . Dường như tiếng hát sôi sục kia gợi nên những hình ảnh không một chút tương đồng với nó: những chân trời mịt mù sương khói, những dòng sông lạnh lẽo chẳng bóng người, những bến bờ ngập tràn rác rến, những nghĩa địa chạy dài vô tận, rợp cánh quạ đen bay.

" Phải chăng vì tuổi già khiến ta dễ sầu thương, hay vì những loại nhạc cụ kia đem lại cho quốc thiều một nỗi bi hoài mà nó không vốn có ? Bởi dàn nhạc đưa vong chỉ có thể thích hợp với những giai điệu cổ như Làn thảm, Sa lệch chênh, Sẩm soan, ? "

Ông không tìm được lời giải đáp. Một cơn nhức nhối vặn xoáy tim ông. Ông ngước mắt nhìn khoảng trời xanh bên trên vòm tre trúc, cố xua đuổi những ý nghĩ ảm đạm đang lởn vởn nhưng không thành công.

" Hãy chỉ cho tôi biết bạn của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Cũng như thế, có thể nói rằng: Hãy cho tôi nghe tiếng hát của một dân tộc, tôi sẽ chỉ cho anh biết số phận của dân tộc ấy ! Phải chăng định mệnh của một dân tộc đã vĩnh định trong các làn dân ca, trong những giai điệu xưa cổ nhất, những giai điệu theo đuổi một dân tộc như kẻ đồng hành mãn kiếp, như hình với bóng như hai nửa đực cái của loài cá lưỡng dục ? Liệu con người có thể đổi thay định mệnh được hay không, và trong cuộc sống, phần nỗ lực của họ sẽ mang tới bao nhiêu phần trăm trên tổng số những gì được gặt hái trong suốt cuộc sinh tồn ? "

- Mời chủ tịch đi tiếp.

Anh chàng béo đã đứng áp sát lưng ông, thì thào.

Ông quay lại, giơ tay vẫy chào đội nhạc rồi ra cổng. Ở đó, hai tiểu đội cận vệ đã sẵn sàng.

Họ trở lại đội hình cũ để quay lại nơi máy bay trực thăng chờ đợi.
 

*
* * *
 

- Bạch sư cụ, chúng tôi phiền nhiễu ngài nhiều quá.

- Thưa chủ tịch, chúng tôi hân hạnh được phục vụ ngài.

- Bạch sư sụ, có thể cuộc trò chuyện của chúng tôi sẽ kéo dài hết buổi chiều, như thế phần đọc kinh chiều của ngài sẽ bị gián đoạn.

- Thưa chủ tịch, người tu hành chúng tôi đọc kinh suốt cả cuộc đời. Khi cần thiết phải ngừng là ngừng. Phật tính tồn tại ngay trong im lặng.

- Bạch sư cụ, ngài không sợ bị các đấng tối cao quở trách ?

Ông hỏi, với nụ cười đa nghĩa mà thiên hạ thường coi là nửa đùa nửa thật.

- Thưa ngài, phật mà chấp thì không còn là phật.

Sư cụ đáp, cũng với nụ cười , một nụ cười nhẹ nhàng, đoạn bước ra khỏi cửa.

Ông và Vũ đứng dẹp sang một bên khi nhà tu hành đi qua. Mùi bồ kết phảng phất trong không gian bởi áo của các nhà sư được giặt bằng bồ kết. Góc vườn chùa có ba cây bồ kết già, tươi tốt um tùm, quanh năm chi chít quả. Ông thường thấy sư nữ ra vườn kéo về từng thúng đầy, rồi đem xếp thành từng lượt trên chiếc dàn bằng sắt thanh gần giống một chiếc vỉ nướng cá khổng lồ để sấy khô. Những chiều mưa dầm, hơi nước từ các khe vực nghi ngút bốc lên hoà cùng mây trắng, hai người đàn bà ngồi sấy bồ kết trong im lặng, sự im lặng này kéo dài cho tới tận bữa cơm tối khi sư nữ thắp nến trên các bệ thờ và khêu ngọn đèn dầu đặt trên chiếc bàn tre cũ.

" Họ nghĩ gì trong sự im lặng triền miên ấy ? Hay họ không nghĩ gì cả ? Nhưng ta không tin rằng họ là những con người đơn giản, thô sơ đến mức không có gì để mà suy nghĩ ...Bởi người không có suy nghĩ thì không thể hành động với lòng can đảm như vậy ! "

Đã nhiều lần, ông thầm đặt câu hỏi cho mình. Chưa bao giờ tìm được câu trả lời thoả đáng. Ông nhớ ngày đầu tới chùa khi nhìn tất thảy các khuôn cửa đều bị khoá chốt như những kho chứa hàng ông đã triệu tập Lễ cùng văn phòng lên hỏi chuyện. Sau khi biết sự thật, ông tức tốc ra lệnh cho họ phải để sư cụ chủ trì và ít nhất một hai đệ tử được quay lại, coi đó như điều kiện tiên quyết để ông chấp nhận an dưỡng ở nơi đây. Hai ngày sau, cận vệ dẫn một đoàn người leo lên dốc núi. Ông biết rằng họ đã thực hiện mệnh lệnh của ông nhưng không hiểu vì sao lại có cả một đám đông:

" Không lẽ họ ưng thuận cho cả mười hai vị sư trở lại chùa ? "

Ông thoáng nghĩ nhưng rồi gạt đi tức khắc giả thuyết ấy vì nó bất khả. Ông lui vào căn phòng của mình, theo rõi. Quả là cả mười hai vị sư đều hiện diện cùng lúc trên sân chùa, nhưng không phải vì họ được phép trở lại mà vì họ tháp tùng bậc trưởng thượng quay về chốn cũ . Theo lề thói xa xưa, đó là phương cách mà học trò có thể biểu lộ lòng tôn kính bậc thầy . Ông nhìn thấy mười nhà sư cao lớn, tràn đầy sinh lực ; bởi chỉ có những con người đầy đủ sức mạnh vật thể và tâm thể mới có thể thực hiện thiền định ở vùng núi xa xôi này. Mười người đàn ông vạm vỡ ấy đứng xúm quanh một bà già bé nhỏ, cao không quá một mét rưỡi, có gương mặt điềm tĩnh với những đường nét rất bình thường của một người đàn bà Việt bình thường. Bà cụ cầm trong tay một cây gậy trúc:

" Chính với cây gậy này, bà cụ đã xuống núi khi bị chính quyền bắt buộc rời chùa, và bây giờ, chính với cây gậy ấy bà cụ leo trở lại đỉnh núi cao trên ngàn thước, không nhờ bất cứ ai cõng. Vậy mà bà già bé nhỏ kia đã ngoại tám mươi ! "

Ông cảm thấy cùng lúc, sự áy náy ngượng ngùng lẫn với nỗi buồn. Vì nhà tu hành kia đã hơn ông bảy tuổi ? Vì cái chính thể bắt buộc bà cụ phải lưu đày là chính thể của ông, và ông là người đại diện cho nó một cách danh chính ngôn thuận ? Ông không tìm được duyên cớ chính xác. Trong khi đó, ngoài sân, sư cụ đã leo lên bậc tam cấp ra lệnh cho đệ tử:

- Mô phật, chúng ta đã lại đứng trên đất nhà. Các con hãy mở tất cả các cửa, lau dọn các ban bệ rồi lên hương, thắp nến. Còn con, sư nữ, phận sự của con là sửa soạn các bình hoa. Chúng ta sẽ đọc kinh để đón rước các đấng tôn kính về chốn cũ.

- Mô phật, chúng con xin thực thi lời người.

Ông nhận thấy vẻ cung kính của tất thảy mười nhà sư kia trước vị sư già bé nhỏ và bất chợt một ý nghĩ chua chát len lỏi trong óc não:

" Ngày mai, liệu trong những đệ tử sùng kính kia, ai là kẻ sẽ đẩy bà cụ xuống vực sâu để trở thành kẻ chủ trì ngôi chùa này ? Ai là kẻ sẽ bỏ thạch tín vào món đậu phụ om tương hay canh rau cải ? "

Nhưng bên kia sân, tiếng chuông đã gióng giả vang lên. Rồi tiếp đó là tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh của cả mười hai nhà tu hành. Không gian thoang thoảng mùi nhang khói. Ông lắng nghe tiếng đọc kinh đều đều không ngớt , biết rằng có một thứ quyền năng khác ngự trị trong cõi nhân sinh, thứ quyền năng vô hình, thứ quyền năng bất khả diễn đạt bằng những con số như quyền năng thế tục.

Những kỉ niệm ấy vụt trở lại khiến ông đứng trầm ngâm trong khoảnh khắc. Rồi chợt nhớ rằng Vũ đang chờ, ông nói:

- Sư cụ đã cho phép, chúng ta có thể vào chùa.

- Anh Cả chưa từng bước chân vào đây ?

- Chưa từng. Tôi không dám xâm phạm vào cõi đất của người tu hành. Riêng việc chúng ta dồn mười nhà sư kia xuống tầng núi dưới đã khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao họ không chọn một địa điểm khác ?

- Em cũng không rõ kẻ nào chọn địa điểm này. Nhưng chắc chắn đây là nơi tốt nhất để chúng ngăn cản mọi người tới gặp anh.

- Về phương diện này, họ là những người thông minh kiệt xuất.

Ông mỉm cười đáp, hình dung rằng bất cứ ai muốn trèo lên đỉnh Lan Vu cũng phải xuất hiện trước ống nhòm của đại đội cận vệ không chỉ trong vài giây, vài phút mà là nửa ngày trời cho dù họ là vận động viên điền kinh hay chuyên gia leo núi. Trong điều kiện như thế, chỉ loài thỏ rừng hay chồn sóc mới hy vọng thoát khỏi sự kiểm soát. Những đồng chí thù địch của ông quả đã suy tính kĩ càng khi chọn đỉnh Lan Vu thay vì một hầm tối " un oubliette" theo kiểu châu Âu xưa. Ở đây, ngay trên đỉnh núi thơ mộng này, ông cũng không thể trò chuyện với người đáng tin cẩn trong phòng của ông hoặc căn phòng của bác sĩ. Tất cả các bức tường đều gắn rệp. Mỗi lần Lễ dẫn một nhân viên kĩ thuật lên "thay rệp", ông đều biết bởi lần nào họ cũng phải cõng bình phun thuốc muỗi trên lưng. Lễ mời ông "dạo chơi quanh rừng cho đôi chân khỏi tù đọng " trong khi y "phun thuốc muỗi". Phải chờ đợi vài tiếng sau cho mùi thuốc đã bay hết, ông mới có thể quay lại phòng mình. Vì ông không bao giờ vượt qua mảnh sân gạch để bước sang bên chùa chính nên các tượng phật trong ngôi nhà này đã may mắn không phải thưởng thức mùi thuốc sát trùng. Và hôm nay, họ có thể nương nhờ cửa phật trong phút chốc để trò chuyện với nhau.

- Anh tin chắc rằng chúng ta sẽ an toàn khi nói chuyện ở đây ;

Vũ hỏi lại lần cuối, cho thêm phần chắc chắn.

- Chú cứ tin đi.Tôi già nhưng chưa lẫn.

Ông đáp, nhìn thẳng vào mắt người đàn em, người duy nhất còn lại với ông, cùng ông trong cuộc sinh tồn này.

- Em xin lỗi ...Nhưng ...

- Tôi hiểu.

Họ im lặng phút chốc vì những hồi ức quay trở lại trong mỗi lời, mỗi ý. Rồi Vũ run run hỏi:

- Anh Cả có ho nhiều không ?

- Chú cứ an tâm, tôi đỡ nhiều rồi. Vấn đề còn lại là tim mạch. Nhưng thất thập cổ lai hi, tôi cũng đã sống khá dài.

- Anh Cả cần bảo trọng.

- Chú cũng vậy. Nhưng xét cho cùng, chúng ta cũng chẳng có cách nào bảo trọng nổi chúng ta. Mọi sự trên đời giống như canh bạc.

- Vâng, đúng là cuộc đỏ đen.

- Dù muốn hay không cũng phải chấp nhận rằng cuộc đời hạn hữu, sức người cũng vậy .Tôi không thể làm gì hơn vào lúc này, nhưng tôi vẫn muốn biết thật sự những gì đang diễn ra trên đất nước ?

- Nhưng ...

- Cứ nói cho tôi biết. Chúng ta đã cùng chịu đựng những giây phút tột cùng hiểm nguy. Hẳn là chú chưa quên điều ấy ?

"Nhưng anh yếu lắm rồi, anh cả. Chúng ta, những kẻ phàm trần, không thể chống lại sức tàn phá của thời gian"

"Nhưng tôi vẫn chưa mù, chưa điếc, chưa bại liệt óc não. Tôi vẫn muốn biết sự gì đang diễn ra ở ngoài kia, bên ngoài những bức tường mây trắng, bên ngoài chốn ngục tù thơ mộng này."

" Em không đủ can đảm, xin tha lỗi cho em."

" Chính tôi mới cần xin lỗi chú. Tôi là kẻ chịu ơn chú. Tôi đã chất lên vai chú quá nhiều nỗi nhọc nhằn. "

" Xin anh đừng nói như vậy. Cả dân tộc này chịu ơn anh. Em có làm hơn thế nữa cũng không thấm tháp gì."

Trên các bệ thờ, những pho tượng gỗ sơn son thếp vàng đang chăm chú nhìn họ. Ông tưởng chừng cuộc đối thoại thầm kín của họ cũng không lọt khỏi những đôi mắt gỗ, những đôi tai gỗ kia. Mùi hương chầm chậm dâng lên và lần đầu tiên ông cảm thấy mình đang bước lên một cõi đất mới, nhập vào một không gian mới. Bỗng dưng, ông bật lên tiếng thở dài.

- Anh Cả làm sao vậy ?

- Không sao. Chú hãy nói cho tôi biết rõ sự gì đang xảy ra trên đất nước chúng ta ?

- Nhưng ...

- Đừng ngại ngần. Tôi có thể chịu đựng.

- Tình hình đang rất xấu. Sức chưa đủ nhưng họ đã quyết định tổng tấn công. Tướng Hãn gặp em thông báo rằng trận đánh Nậm Phai, toàn bộ ban chỉ huy bị nghiền nát, riêng tướng Hãn đang ở Hà Tĩnh nên thoát. Xác lính ngập đầy khe, nước suối không chảy nổi.

- Tôi cũng đoán như thế, khi họ thúc hối tôi phải làm thơ động viên dân.

- Điều khủng khiếp không phải chỉ có vậy. Hãn quay trở lại mặt trận được hai ngày thì gia đình nhận được giấy báo tử.

- Chú ấy bị hại trên đường, chắc chắn tại tỉnh Thanh.

- Em cũng ngờ như vậy.

- Đất tỉnh Thanh biến thành hang ổ lục lâm từ đã lâu.

- Vâng, nhiều người đều biết điều đó.

- Tội nghiệp cho gia đình chú ấy.

- Vâng, con nhỏ của nó chưa đầy mười tuổi, mà vợ nó lại đau khớp nặng ba bốn năm nay.

- Liệu còn lý do gì khác nữa ? Hay chỉ vì giữ liên lạc với chúng ta ?

- Chắc chắn. Báo, đài chỉ loan tin thắng trận. Lính đào ngũ bị chặn lại trên các ngả đường rừng từ Quảng Trị ra Hà tĩnh và bị đưa vào các trại cải tạo đào binh. Không một ai ngoài miền bắc biết được tin tức thật của mặt trận. Nhưng em nghĩ Hãn bị thủ tiêu còn vì một cớ khác.

- Tôi hiểu.

Ông đáp và bỗng nhiên thấy một cơn gió lạnh buốt chạy dọc sống lưng:

- Có quá nhiều người bị hại vì liên quan đến tôi.

- Anh không thể nói như vậy ...

- Đúng thế!

- ...

- Cả tôi nữa, tôi cũng bị hại bởi chính tôi. Đấy là sự thật.

- Anh Cả, đừng tự dằn vặt mình.

- Chú cũng thấy là tôi chưa mù chưa điếc, chưa bại liệt tâm thần. Tôi vẫn phải chịu trách nhiệm trước dân tộc.

Vũ nhìn ông giận dữ:

- Anh không thể làm gì hơn nữa cho cái dân tộc này. Dân tộc của anh cũng phải chịu trách nhiệm về chính nó.

- Dân tộc ấy không phải là của chú hay sao ?

- Nó cũng là của em.

Vũ cất tiếng thở dài:

- Nó cũng là của em, đúng vậy. Nhưng nhiều khi em thấy nản lòng. Bởi người ta không thể thay đổi nòi giống như thay quần thay áo.

- Nhưng đó là dân tộc của chúng ta. Có muốn chối từ cũng không được.

- Vì không thể từ chối nên con người mới đau khổ.

- Trên hành tinh này chắc chắn có nhiều giống người đáng phải đau khổ như chúng ta. Nhưng đa phần con người không ý thức được là họ cần phải đau khổ vì một điều gì đó , một hiện thực nào đó. Khi họ chưa hiểu được là có những sự thật đáng để cho con người đau khổ thì sự đau khổ ấy không tồn tại.

Ông buông một câu rất đỗi mơ hồ khiến Vũ đưa mắt nhìn ông dò hỏi. Nhưng dường như ông đang theo đuổi điều gì đó trong tâm trí, mắt thờ thẫn nhìn ra sân chùa. Vũ chờ đợi vài giây rồi đằng hắng:

- Anh nói rằng ...

- Tôi muốn nói rằng mọi dân tộc đều có mặt ưu thế và mặt khiếm khuyết. Nhưng để chấp nhận và dám nhìn thẳng vào những khiếm khuyết của bản thể là điều quá khó khăn.

Hai người im lặng. Vũ nhìn ông với cái nhìn khắc khoải:

" Anh đã quá già và quá nhiều đau khổ để còn nghĩ tới những vấn đề như thế. Đời người hữu hạn mà, hãy để cho dòng nước chảy xuôi. "

Còn ông, ông trầm ngâm nhớ tới một ngày xuân trên chiến khu Việt bắc. Lần ấy, đúng dịp Tết Nguyên Đán, cả cơ quan hè nhau làm những món ăn cổ truyền. Trong các món cổ truyền, đứng đầu bảng là tiết canh, lòng lợn. Không những chỉ riêng nhà bếp mà dường như toàn thể nhân viên cơ quan tham gia vào chuẩn bị cuộc ẩm thực quan trọng này. Buổi trưa, văn phòng mang lên cho ông một khay tiết canh lòng lợn. Thời chiến tranh, một miếng thịt cũng đã coi như bữa tiệc, bởi có những thời gian dài, cả cơ quan ăn sắn trừ cơm. Năm trước đó, bên đại đội báo vụ có một chiến sĩ phát điên vì phải ăn sắn liên tục sáu tháng. Cậu ta vốn con nhà khá giả chưa từng chịu đựng sự thiếu thốn. Sáu tháng trời không có một hạt cơm, một miếng thịt hay cá vào bụng, ngày nào cũng sắn, hết luộc lại nướng, hết nướng lại nấu canh xuông với muối và rau rừng, người trai đô thị này đâm ốm, da xanh bủng, bụng trướng như đàn bà có thai. Một sáng, khi nhìn thấy anh nuôi bưng lên mấy rổ lặc lè sắn luộc, chàng trai bỗng nhảy dựng như choi choi giữa sân, la thét inh ỏi tựa hồ bị quỷ ám rồi sau đó anh ta cởi bỏ hết áo quần, ôm đầu chạy tuốt vào rừng ...Sự việc ấy ám ảnh ông. Bởi vậy, ông ý thức được những nhu cầu của sự sống. Tuy thế, ông không thể nào ăn được cái món ăn bổ dưỡng cổ truyền kia. Ông nhìn

bát tiết đặt trên khay một cách chỉn chu. Một bát chiết yêu đầy tràn tiết đỏ, đông cứng như thạch, bề mặt rải đều lạc rang lẫn rau thơm thái vụn. Thêm vào đó là chiếc chén nhỏ xíu đựng ớt tươi. Cần vụ bưng khay thức ăn cung kính đặt trước mặt ông rồi chần chừ đứng lại dường như muốn xem ông ăn có ngon lành hay không, bởi vì đối với tất thảy mọi người đây hiển nhiên là bữa tiệc long trọng nhất trong năm.

- Để đấy cho tôi. Chú xuống nhà ăn trước với anh em ...

Ông đáp vồn vã để cho anh lính yên tâm đi ra. Còn lại ông với bát tiết canh, ông nghĩ kế thủ tiêu nó một cách kín đáo. Ông vốn sợ mùi máu từ nhỏ, cho dù nó được nguỵ trang bởi các loại mùi thơm khác nhau của gia vị, nào húng chó húng thơm rau răm rau mùi, nào hành hoa hành củ, nào lạc rang, ớt tươi giã nhỏ. Mỗi lần gia đình chọc tiết lợn, ông lỉnh ngay ra ngoài đồng. Không ai ép được ông ăn cái món ăn khủng khiếp ấy, cái món ăn mà người ta cho rằng đáng được ao ước nhất khi ngả thịt một con lợn, cái món mà các lão ông , lão bà đánh giá là " bổ cả âm lẫn dương ". Người ta riễu ông:

" Thằng này học khôn nhưng ăn thì ngu hạng nhất ".

Ông cũng không rõ vì cớ gì ông dị ứng với cái món ăn cổ truyền này đến thế. Rồi lúc thành niên, sống ở Paris, lần nào đó ông xem một cuốn phim phong tục châu Phi, nhìn thấy dân bản xứ chọc tiết bò rồi vục đầu xuống chậu, uống máu tươi còn nóng hổi, da ông bỗng sởn gai ốc, mồ hôi vã ướt sống lưng. Mặt ông hết nóng bừng rồi lạnh ngắt. Ông tưởng chừng những người xung quanh đang nhìn ông, phát hiện ra trạng thái tinh thần kì dị của ông, đoán được những ý tưởng thầm kín trong óc não ông ... Ông ngồi chết cứng trong rạp, cho đến khi buổi chiếu kết thúc, chờ những người khác đi vãn mới đứng lên. Bên ngoài, trời rét cóng. Mồ hôi trong lưng áo ông ướt lạnh khiến toàn thân run cầm cập. Ông phải quay vào phòng vệ sinh, lấy nhật báo lót cả trước ngực lẫn sau lưng rồi mới về nhà. Ban đêm, giấc mơ của ông đỏ nhoè máu. Những con vật bị chọc tiết, máu toé thành vòi, kêu thét, co giật, rãy giụa một cách điên cuồng và tuyệt vọng. Những cái miệng nhoe nhoét máu tươi. Những nụ cười cũng nhoe nhoét máu tươi ...Tất cả cùng đồng hiện, chồng chéo, quay đảo, khoan xoáy tâm trí ông. Lần đầu tiên ông hiểu nguyên do nỗi sợ hãi của mình từ thời thơ ấu. Giống như lần đầu tiên ông cầm đèn rọi sáng một căn hầm mà bóng tối kinh niên hù doạ con người. Nhờ cuốn phim phong tục châu Phi kia, ông tìm được một so sánh, một phóng chiếu. Ông biết rằng sự cảm nhận những khuyết tật của giống nòi cũng tựa hồ như cơn sốt. Phải chịu đựng nó trước khi có thể chữa khỏi.

Đêm ấy, không thể nhắm mắt ông đành ngồi dậy đọc sách cho tới sáng, khi những ngọn đèn đường trở nên trắng nhợt trong ánh dương.

Rồi bão tố cách mạng cuốn ông vào vòng xoáy. Nhiều năm, ông tưởng chừng không còn băn khoăn về những thứ mà ông coi là " khuyết tật của dân tộc ". Ông có quá nhiều việc phải toan tính. Cuộc đấu tranh giữa dân tộc của ông với những kẻ ngoại xâm luôn luôn là cuộc đấu không cân sức, mà cán cân bao giờ cũng ngả về phía ngoại bang. Trong tình thế ấy, ông không thể để tâm tới những tiểu tiết. Ông phải tập hợp dân chúng, bởi đoàn kết là sức mạnh duy nhất, nguồn năng lực duy nhất đem lại khả năng chiến thắng trong cuộc đọ sức chênh lệch này ...Vì đoàn kết, ông phải chiều theo cả những thứ trong thâm tâm, ông coi là " khuyết tật " ... Vì đoàn kết, ông phải giả mù nhiều phen trước những hành vi lỗ mãng những cách ứng xử hèn mọn mà ông biết chắc chắn đó là thói quen của sự phản văn minh .Vì đoàn kết, ông phải thoả hiệp với những kẻ mỉa mai sau lưng ông là " người trong máu có rượu Booc-đô ... "

Vào ngày tết trên chiến khu năm ấy, ông đã trút bát tiết canh vào chiếc ống tre vẫn dùng đựng nước, chờ đến chiều tà khi mọi người ra sân chơi bóng chuyền, mới đem ra nhà vệ sinh ...

- Anh làm sao vậy ?

Vũ cất tiếng hỏi đột ngột. Ông hiểu rằng ông vừa đưa tay lên ngực để chặn một cơn nhói trong tim:

- Thi thoảng, những cơn co thắt lại xuất hiện.

Ông đáp, và mỉm cười:

- Với tuổi già, mọi thứ đều khả thể, ngay cả cái chết. Cho nên, khôn ngoan hơn cả là phải biết chung sống với bệnh tật. Và những thất vọng ...

- Trước hết là những thất vọng.

Họ im lặng. Một khoảnh khắc chông chênh lướt qua không gian mùa xuân, thời khắc mà hơi ẩm đan xen ánh nắng tạo thành lớp bọt biển trong suốt. Họ cùng nghe tiếng véo von của một cặp sơn ca đâu đó vẳng lại. Rồi anh chàng cận vệ béo xuất hiện trước trước cửa chùa:

- Thưa chủ tịch, văn phòng vừa điện lên mời thủ trưởng Vũ xuống sân bay.

- Mấy giờ máy bay phải cất cánh ?

Vũ hỏi.

- Dạ, văn phòng không nói rõ.

- Chú quay lại gọi điện hỏi chính xác giờ bay .

Chú lính quay đi tức khắc.

Ngoài sân, nắng trải vàng như mật ong, màu vàng vắng lặng và ngưng đọng của đỉnh non. Cùng với màu vàng ấy, chẳng phải thứ không gian oi ả thường gặp nơi đồng bằng miền Bắc nhưng là làn hơi mát thanh cao êm ả, thứ khí hậu của mùa thu châu Âu. Ông bất giác nhắm mắt lại vì tưởng như đang còn lang thang dọc sông Seine vào mùa lá thay màu, những rặng cây hai bờ điệp vàng hay đỏ thắm, hắt lên khung trời ngọn lửa rực rỡ và mong manh. Những cây cầu trắng hiện lên trong sương mù dường như không thực bởi chúng chẳng dành cho những kẻ bộ hành mà chỉ được dựng nên cho các hoạ sĩ và thi sĩ. Ông thấy lại những sườn dốc xanh rờn vùng đồi Monmartre. Những ngọn đèn dọc phố và những mũi tên chỉ quán rượu bên đường. Châu Âu, một phần đời ông đã trải qua nơi ấy. Ông nhận biết nó bằng những cảm xúc đã ghi khắc đã vĩnh định trong da thịt, bằng vị rượu chát rẻ tiền trên lưỡi và tiếng ồn ã phố phường trong tai, bằng nỗi nhớ nhung màu nắng, màu trời. Những kỉ niệm tươi thắm của tuổi xuân kèm theo nỗi buồn xa xứ. Khi sống ở phương trời ấy, ông đã nhớ quê hương, ông đã thiếu vắng tổ quốc như si dại như điên rồ. Còn bây giờ, không biết vì đâu ông lại nhớ phương trời xa xôi đó ? Điều khó hiểu là lúc này nó lại trở nên một vùng thiếu vắng trong ông...Nỗi nhớ ấy càng ngày càng da diết, càng ngày càng khiến tim ông thổn thức. Buồn ơi, se sắt là buồn !...Nhớ ơi, cồn cào đau đớn nhớ ! Châu Âu ! Châu Âu ! Phải chăng đối với ông, châu Âu chỉ là cái cớ, bởi nó gợi cho ông tuổi trẻ đã qua. Phải chăng ông nhớ châu Âu vì ông nhớ những giấc mơ chưa thành, những con đường dang dở. Phải chăng châu Âu là vùng trời vừa thù nghịch vừa thân thiết và vì thế, nó sẽ là kẻ đồng hành thầm kín và dai dẳng cho đến phút xuống mồ ? Ông đã gắn bó với một miền đất vừa xiết bao gần gũi vừa vĩnh viễn không thuộc về ông ? Đây là bi kịch của riêng ông hay là nỗi khổ đau truyền kiếp của con người ?

- Thưa thủ trưởng, văn phòng nói máy bay cất cánh lúc bốn giờ đúng.

Chú lính đã quay lại báo cáo.

Vũ đáp một cách cộc lốc:

- Bảo văn phòng rằng bốn giờ tôi quay xuống, năm giờ bay cũng chưa muộn.

- Dạ.

Ông chờ cho cậu lính quay đi, bảo Vũ:

- Chú căng với họ làm gì ? Thời nào mà chẳng có nha lại ?

- Đôi khi cũng phải vả vào mặt họ một cái, để họ nhớ rằng chúng ta

là chúng ta. Không phải ai cũng biến thành đầy tớ của chúng nó.

- Lỗi không phải ở những con người nhỏ bé như vậy.

- Anh quên rằng mọi ngai vàng đều bị các đội cấm quân lật nhào, và những kẻ nhỏ bé không có nghĩa là chúng không nuôi những giấc mơ to lớn. Anh đã quên Quốc Tuỳ là ai ? Xuất sứ y chính là gã móc túi nhà nghề chợ Sắt. Bị đòn thập tử nhất sinh vì không chịu nộp tô cho trưởng băng một đêm y đã lén đâm chết đại ca khi gã này đang nằm trong giường nhà thổ. Rồi y trốn khỏi thành phố quê hương lang bạt vào Nam kì làm phu đồn điền. Ở đấy, y được giác ngộ đi theo cách mạng và trở thành thủ hạ của Sáu từ khi hai người cùng ở một xà-lim nhà tù Sơn la.

- Tôi tưởng y nhỏ tuổi hơn Sáu nhiều ?

- Chính xác như vậy. Chúng nó hơn nhau cả một giáp. Thế nên trong nhà tù, Sáu biến thành đại ca ruột của Quốc Tuỳ. Chúng cũng hành xử với nhau theo kiểu như vậy. Quốc Tuỳ thường đổ bô, giặt quần áo, và cả gãi lưng cho Sáu. Thế nên sau này Sáu mới bổ nhiệm y làm bộ trưởng bộ nội vụ. Đó là bộ quan trọng nhất, nhiều quyền lực nhất, ai cũng biết. Lúc đó, nhiều đồng chí thấy được nguy cơ đã phản ứng, nhưng Sáu thẳng tay đàn áp. Sức mạnh của y chính là ở chỗ y biết sử dụng những kẻ mà anh gọi là nhỏ bé . Rồi đến lượt những kẻ nhỏ bé này lại sử dụng những kẻ nhỏ bé hơn. Lý lịch tối ưu là phải thất học và đã từng là tội phạm. Sau thứ tối ưu này là phải thật sự nghèo khổ và ngu dốt, chồng con mẹ Tư hàng cá là ví dụ điển hình. Hai loại người này đều trở thành rường cột của Sáu. Chúng có thể làm bất cứ điều gì mà y muốn. Anh đã quên bản tổng kết của anh Lê Liêm ?

- Mọi sự đều quá muộn.

- Vâng ! Quá muộn !...

Ông nghe tiếng người đàn em nuốt nước bọt, dường như đang nuốt cục hận trong họng. Ông muốn nói điều gì đó để an ủi Vũ nhưng không tìm ra lời. Ông có thể làm gì cho Vũ và Vũ có thể làm gì được cho ông trong tình cảnh này ? Mọi bài toán đều bất khả. Nhưng ít nhất khi ngồi bên nhau họ cũng có được niềm an ủi thầm kín làm nguôi dịu nỗi đau. Ngoài sân, một cơn gió đi qua khiến cây vườn xao xác. Tiếng chim rừng hót dội từ bên kia vực hoà với tiếng lảnh lót của hoạ mi trong vườn chùa làm thành dàn giao hưởng êm đềm và hoang dã của núi non. Cớ chi non nước tươi đẹp như vầy mà lòng người đớn đau đến thế ? Từ khoảnh khắc nào ông biến thành kẻ phạm tội với chính ông, và những người ràng buộc với ông ? Ồ, câu hỏi này chưa ngừng hành hạ con tim già nua của ông, và có lẽ nó sẽ còn hành hạ ông tới lúc chết.

Một cơn gió nữa đi ngang bầu trời. Đám lá vàng bị gió cuốn bay lào xào qua sân. Dường như trời có vẻ lạnh hơn hay hơi nước từ các đám mây bao quanh chùa khiến ông rùng mình. Nắng trên sân đã ngả sang màu vàng nhạt. Rất có thể một cơn mưa xuân sẽ ào tới trong vài phút nữa:

- Có lẽ chú phải xuống núi ; tôi e trời mưa.

- Vâng, em cũng phải về vì còn nhiều việc chờ đợi. Vả lại, máy bay chỉ đăng kí nội trong ngày.

Nói đoạn Vũ nhìn vào mắt ông:

- Anh Cả yên tâm tĩnh dưỡng. Mọi sự vẫn như thường. Dù thường xuyên sống ở nơi sơ tán, thằng bé vẫn học rất giỏi. Nó vừa giật giải toán Marie Quyri trong kì thi khối trường trung học toàn thành phố.

- Cảm ơn chú.

- Có điều này nữa, em cũng phải nói thật với anh.

- Tôi nghe.

- Trung đã đến tuổi biết suy nghĩ, động tâm về mọi chuyện. Để tránh cho cháu những đau buồn, em phải nói với nó rằng nó chính là con của em, con ngoại hôn.

- Chú làm như vậy là rất đúng. Con ngoại hôn còn sung sướng ngàn lần hơn đứa trẻ không mẹ cũng không cha.

Họ cùng đứng dậy, một người cúi đầu nhìn xuống những viên gạch cũ kĩ lát nền chùa, một người nhìn ra ngoài trời, nơi những vẩn mây tê tê đang tụ lại thành bức tường mây trắng.
 

Coi tiếp Song Tấu... (3)
 

www.geocities.ws/xoathantuong