SONG TẤU
 

- Cha ơi, cha !... cha !...

Tiếng thét của một đứa bé khiến ông tỉnh giấc,và , dường như tức khắc, một cú đánh sau gáy khiến ông choáng váng mặt mày.

- Cha ơi !....Cha !...

Tiếng thét vọng từ dưới thung lên, âm vang láy vọng giữa các vách đá, lay động các vòm cây, tạo nên những đợt sóng vô hình làm xao động một không gian bao la lặng ngắt.

Sau một lát định thần, ông hiểu rằng tiếng thét ấy là của một đứa trẻ khác:

" Không phải nó, không phải thằng bé.... "

Ông tự nhủ. Cảm giác đau nhói phía sau gáy cũng như cơn khắc khoải nguôi dần. Chủ tịch đứng dậy, bước ra khỏi phòng, hỏi người lính gác:

- Có chuyện gì vậy ?

- Dạ....Có lẽ một tai nạn vừa xảy ra dưới thung lũng. Ai đó đã ngã từ ngọn cây hoặc mỏm đá rơi xuống vực.

Đúng lúc ấy, tiếng còi báo động rú lanh lảnh trong khu đồn trú của đại đội bảo vệ bên dưới. Trời lặng gió nên ông nghe rất rõ tiếng lao xao của đám lính đang tập hợp đi cứu hộ.

- Cha !...Cha ơi cha !...

- Cha ơi !....Có ai cứu cha tôi ?....Bớ làng nước ơi....Bớ làng nước ơi, cứu cha tôi ....

Lần này, ông nghe tiếng kêu thảm thiết của đứa bé. Tiếng kêu của một đứa con trai đang vào tuổi dậy thì. Tiếng kêu ấy chung chiêng giữa sự thơ ngây với cảm thức của lứa thiếu niên đã quay đầu về phía con đường của tuổi trưởng thành. Trong tiếng kêu ấy, ông đọc thấy sợi dây của tình huyết mạch rung lên biết bao nhiêu làn điệu khác biệt. Cùng một khoảnh khắc, hiện lên chiều sâu thăm thẳm của những năm tháng cộng sinh, tình yêu và những giằng trói vô hình, nỗi đớn đau trước cuộc biệt ly không trù tính, sự kinh hoàng trước một tương lai vô định ....Tất thảy những tình cảm ấy cùng phóng chiếu một lần, như những luồng ánh sáng khác chiều giao thoa trên một điểm. Cái tụ điểm ấy, ông hiểu rành rọt, là mắt xích cốt lõi nhất trong nhân thế, mối quan hệ có thể đi đến tột cùng sự thăng hoa cũng như chót điểm sự đồi bại, mối quan hệ làm đổ biết bao nhiêu mực trong lịch sử của con người. Đó chính là phức điệu của tình phụ tử, bản giao hưởng xa xưa nhất của thập loại chúng sinh. Thứ âm nhạc cổ lỗ mà ngọn triều thời gian đã huỷ diệt một cách hoài công.

" Có lẽ nó cũng xấp xỉ tuổi thằng bé. Cùng một lứa tuổi nhưng ít may mắn hơn. "

Ông thầm nghĩ, và hình dung gương mặt đứa con trai vào lúc này. Đứa con trai mà ông đã cố tình quên nhưng không khỏi nhớ. Đứa con trai mà ông đã tự ngăn cấm gần gụi suốt một thập kỉ nhưng giờ đây quay về ngự trị ngay giữa trái tim ông, nơi cư trú an toàn nhất cho nó và nơi mang lại sự bất toàn cho chính ông. Ở nơi ấy, hình ảnh của nó được thêu dệt mỗi ngày theo trí tưởng tượng cũng như theo nỗi sầu thương. Ở nơi ấy, sự hiện diện của nó đốt lên ngọn lửa hoả ngục, ngọn lửa ấy thiêu cháy ông mỗi ngày.

" Nó giống ai bây giờ nhỉ ? Nó giống nàng hay ta ? Hẳn là nó phải có một gương mặt tuấn tú ?"

Đã bao nhiêu lần, ông tự hỏi. Bấy nhiêu lần, sự câm lặng đáp lời.

Ông nhớ rõ rành khi mới lọt lòng đến sáu tháng tuổi, nó mang hình vóc người chị gái của ông, từ sống mũi , làn môi, nét đằm thắm khi cười, đặc biệt là những món tóc dày rậm phủ xuống hai bên thái dương và trước trán. Nhưng rồi từ tháng thứ bẩy cho đến một năm, mọi đường nét bỗng biến đổi và thằng bé trở nên giống mẹ nó một cách lạ lùng. Sự thay đổi này khiến tất cả mọi người đều ngạc nhiên, trước hết là ông, rồi đến nàng, và sau đó người chị lớn tuổi của nàng, Nàng Đông, thời niên thiếu đã nuôi em và đến tuổi ba mươi lại dang tay nuôi cháu .

" Ồ...Nó đã đến tuổi dậy thì. Năm tháng trôi đi như tên bắn... "

Bất giác ông buông tiếng thở dài, không để ý người cận vệ đã đứng sau lưng:

- Thưa chủ tịch, người có chỉ thị gì không ?

- Chỉ thị ?

Ông hỏi lại rồi chợt nhận ra vẻ xao nhãng của mình:

- Chú đã thấy anh em tập hợp bên dưới đi cứu hộ. Chỉ có tôi và chú đứng ở đây. Chúng ta là những người vô dụng.

- Dạ, thưa chủ tịch....

Người lính ấp úng, cổ anh ta đỏ ửng lên. Rồi khuôn mặt và hai bàn tay cũng rần rần đỏ nốt. Anh ta lùi lại, nhìn ông với cặp mắt nhớn nhác, hoang mang. Ông chợt nhận ra sự hớ hênh của mình:

- Ồ, tôi muốn nói rằng trong lúc này, chú và tôi là hai kẻ vô dụng vì chúng ta không thể chạy xuống thung lũng giúp đỡ nạn nhân. Nhưng ngoại trừ lúc này, chúng ta đều là những người hữu ích, ai gánh vác phận sự của người nấy....

- Dạ....

Anh lính cất tiếng thở phào. Gương mặt to béo vừa đỏ rực vừa bóng nhẫy mồ hôi. Chủ tịch vỗ vai chàng trai:

- Tôi nói thế để đùa chơi. Đừng coi làm trọng.

Đoạn ông mỉm cười chỉ sang bên chùa, nơi tiếng tụng kinh và tiếng gõ mõ vang lên không ngớt từ sáng sớm:

- Chẳng có việc gì lúc này. Chú sang bên chùa ngồi chơi cho đỡ mỏi.

Nói đoạn, ông quay lại phòng trong, gieo mình xuống gối. Ở phòng ngoài, chú lính béo cũng đã nhẹ nhàng đóng cửa rồi đi. Tiếng bước chân nện trên bậc tam cấp và trên sân chùa chìm dần trong nhịp gõ đều đặn của tiếng mõ. Tiếng mõ vang vọng giữa không gian, khiến ông nhớ lại tiếng nước nhỏ giọt trong một hang núi nhiều thạch nhũ. Ấy là tiếng trôi chảy của thời gian, thứ âm điệu vĩnh hằng. Sáng nay, từ lúc trời còn tối đen, ông đang nằm trên giường đã nghe tiếng thì thầm của sư nữ với hai chú lính gác ca đêm trước cửa:

- Hôm nay nhà chùa phải đọc kinh sớm vì có chuyện cần thiết. Không hiểu điều đó có khiến chủ tịch phiền lòng hay không ?

- Ồ không ! Dứt khoát là không. Phải để chủ tịch ngủ cho yên giấc.

- Các chú thông cảm. Một năm có ba trăm sáu mươi nhăm ngày, nhà chùa chỉ dám phiền chủ tịch, đọc kinh bất cập lệ sớm nay thôi...

Nghe tới đó, ông trở dậy khoác áo bông bước ra can thiệp:

- Các chú cử để nhà chùa tụng kinh. Tôi thức dậy lâu rồi.

- Mô phật, xin đa tạ từ tâm của người.

Sư nữ chắp tay hình búp sen, cúi đầu thật thấp để tạ ơn. Rồi chị ta lùi lại, cầm cây đèn hoa kì đặt sát chân tường, quay về chùa. Trời còn tối đen, sương vây như khói, vạt áo dài nâu của người đàn bà tu hành bay lật phật trong sương gợi nên một cảm giác lạ lùng. Và cây đèn dầu di động trong đêm cũng nhắc nhở một hình ảnh đã từ lâu vùi lấp trong dĩ vãng. Ông không còn muốn nằm tiếp nên bật đèn ngồi đọc sách. Nhưng chẳng một con chữ nào lọt vào óc khi tai ông dỏng lên nghe kinh và tiếng mõ. Ngồi như thế giờ lâu, trong trạng thái hoàn toàn trống rỗng, ông lật những trang sách một cách máy móc và nghe thứ âm nhạc buồn bã, tẻ nhạt của nhà chùa vẳng đến như dòng chảy của một con sông lặng lờ, hoặc của một dòng mương khe khẽ rì rào giữa hai bờ cỏ. Sau cùng, ông hiểu rằng hình ảnh mà ông khổ công tìm kiếm chính là hình ảnh của mẹ ông, thời xa xôi. Vào một đêm đông giá buốt, mù sương, bà cũng cầm cây đèn dầu như thế đi qua sân, vạt áo dài của bà cũng bay lật phật trong sương đêm như vậy. Bà đi xuống chuồng trâu để bỏ thêm trấu vào đống dấm. Những đêm rét dữ, nếu không giữ được ngọn lửa âm ỉ để sưởi ấm, trâu dễ chết hoặc bị cước chân và không thể cầy ruộng. Ngày đó, ông trạc bốn hay năm tuổi, đang rúc trong nách mẹ ngủ thấy bà bỏ đi liền nhỏm dậy, ngồi thu lu trong chăn thò cổ nhìn theo. Hình dáng mảnh dẻ của người đàn bà thôn dã, vạt áo dài nâu mềm mại cuốn bay, cánh tay ấm áp và mùi thơm sữa mẹ....Hương vị của một quá khứ xa lơ xa lắc bỗng quay về. Một nỗi nghẹn ngào câm lặng dâng lên trong ông. Cùng với nó, mối sầu thương không thể cắt nghĩa.

- Ồ, phi lý !

Ông bật tiếng kêu. Đoạn cất cuốn sách đi, ông tìm đống báo để đọc tin tức. Nhưng tin tức ngày nào cũng giống ngày nào, ông biết từ lâu như vậy. Có nghĩa lý gì khi tiếp tục ăn một món ăn được xào nấu từ bàn tay một đầu bếp năm này qua tháng khác ? Sự ngao ngán xâm chiếm cả óc não lẫn chân tay ông. Hình ảnh người đàn bà áo nâu lại quay về, để khêu gợi tuổi thơ xa xôi của ông. Rồi cái đứa bé năm tuổi ngồi trong giường nhìn theo mẹ lại kéo theo nỗi nhớ một thằng bé khác...Cứ như thế, ông quanh quẩn trong hoả ngục của trái tim mình. Khoảng chín giờ, ông cảm thấy như ngạt thở. Chờ cho cậu lính béo thu dọn ấm trà sáng, ông bảo:

- Tôi muốn vào rừng dạo chơi một lát. Chú chuẩn bị trong mươi phút rồi ta đi.

- Dạ , không được !

Cậu lính hốt hoảng kêu lên tức khắc. Rồi nhìn vẻ mặt bất bình của ông, cậu ta hạ giọng phân trần:

- Thưa chủ tịch, hôm nay không thể vào rừng được. Xin người thông cảm.

Ông đáp lời, cố ngăn lại cảm giác bực dọc:

- Trời tuy lạnh nhưng tạnh ráo. Tôi mặc áo bông là đủ.

- Thưa chủ tịch, hôm nay là ngày hắc đạo. Chiều qua sư nữ bảo con như vậy. Ngày hôm nay là ngày xấu nhất trong cả năm. Sáng nay nhà chùa tụng kinh sớm là vì vậy.

- Ra thế. Nhưng chú còn trai trẻ mà cũng tin mấy chuyện ấy sao ?

- Dạ ....

Chàng lính ấp úng như gà mắc tóc, rồi sau một lát ngắc ngứ cậu ta bỗng nhiên trả lời một cách quyết liệt:

- Con tin. Con không sợ cho con nhưng con có nhiệm vụ phải bảo vệ người. Chúng ta không thể vào rừng được.

Lần đầu, ông thấy gã trai hiền lành này có một vẻ cương quyết dị thường như vậy. Ông mỉm cười im lặng. Sự im lặng do vì nể. Muốn hay không ông cũng phải thầm công nhận rằng gã trai béo tốt này là món quà hậu hĩnh trời cho. Tuy nhiên, ông không ngờ là những lo sợ phỏng chừng của anh ta lại trở thành sự thật: Kể từ ngày ông đến chùa Lan Vu, đã mười tám tháng tròn, hôm nay là lần đầu tai nạn xảy ra. Tai nạn của người cha. Và tiếng kêu khóc của đứa con dẫn ông quay lại địa ngục của mình: Nỗi thiếu vắng đứa con trai dội lên như cơn đau ác tính của chứng ung thư, hành hạ ông không thương tiếc. Tim ông giống như con chim non đỏ hỏn trần trụi rơi xuống bụi gai dầy. Nằm trên giường, ông lấy hai tay che mắt và thầm hỏi:

" Liệu mai đây, nó có khóc thương ta vào ngày ta chết ? Nó có cất tiếng kêu thảm thiết như đứa bé dưới thung lũng kia ? "

Một giọng khinh bạc cất lên tự nơi nào đó trong sâu thẳm tâm hồn, như giáng một cái tát tàn nhẫn vào giữa mặt:

" Thôi đi, nào ai cho nó biết cha nó là ai ?....Làm sao nó có thể dò tìm được tung tích của mình, khi chính người cha xoá đi mọi dấu vết trên con đường tìm kiếm ?..."

Ông cất tiếng nói với gã quan toà vô hình vô dạng kia, tự thấy yếu hèn trước mặt gã:

" Nhưng cùng thời gian. Tôi hy vọng rằng...với thời gian."

Gã quay lưng đi, ném vào ông sự im lặng đầy khinh bỉ. Bất giác, chủ tịch thốt tiếng rên và cảm thấy gương mặt mình đang biến dạng vì tủi nhục. Ông vội vàng úp mặt xuống gối, e ngại có kẻ bất đồ bước vào. Những cơn co thắt bỗng dồn dập kéo đến khiến ngực ông đau nhói từng hồi như bị nhào bóp bởi một bàn tay sắt. Và, bỗng nhiên, ông thèm muốn khóc. Một thứ khát vọng ông chưa từng biết từ thuở lớn khôn cho đến tận lúc này. Một thứ ước muốn lạ lùng nhưng thôi thúc dữ dội, si mê và đau đớn. Ước gì ông có thể khóc thật to, khóc giữa thanh thiên bạch nhật. Ước gì ông có thể khóc hả hê, khóc sầu thảm thống thiết, khóc thênh thang giữa trời thẳm đất dày, khóc miên man hờn tủi như một người đàn bà hay một đứa bé. Ước gì ông có thể thét lên giữa rừng giữa núi như đứa con trai kẻ xấu số vừa ngã xuống vực. Nhưng thay vì gọi: Cha ơi, ông sẽ gọi: Con ơi:

- Con ơi ! Con trai của cha ơi !

- Con ơi ! Giọt máu của ta, kẻ nối dõi tông đường của ta, khúc ruột của ta. Trái cây lạc mùa của mối tình đau đớn giữa ta với nàng....

Nhưng ông thể khóc vì đã có tiếng gõ cửa và tức khắc đội trưởng đội cận vệ Lễ bước vào:

- Thưa chủ tịch, người không được khoẻ ?

- Tôi bị một cơn nhức đầu dữ dội.

Ông đáp mà không thay đổi tư thế nằm. Giọng Lễ đều đều như tiếng nước nhỏ từ một chiếc vòi bị hở vang lên trong phòng, ông có cảm tưởng mỗi lời của anh ta như một nhát búa gõ vào gáy ông:

- Thưa chủ tịch, trà đã pha. Mời người dùng cho nóng.

- Chú cứ để đấy cho tôi.

- Thưa chủ tịch, xin người cho phép gọi bác sĩ ?

- Không cần. Ai cũng có lúc phải đau đầu. Tôi biết rõ là không có triệu chứng huyết áp.

- Thưa chủ tịch, người đang ở trong thời kì điều trị.

- Tôi đã ngừng hai tuần rồi.

- Thưa chủ tịch....

Ông buộc lòng phải quay đầu lại, rồi ngồi dậy. Đội trưởng đội cận vệ không hề tỏ ra nao núng, anh ta vẫn đứng sừng sững giữa nhà, khay trà trên tay. Ngày một lần, hoặc sáng hoặc chiều, đội trưởng đội cận vệ trực tiếp phục vụ ông để kiểm tra tình hình sức khoẻ hoặc giám sát các nhân viên dưới quyền mình. Một sự mẫn cán lạ lùng. Một sự chú tâm băng giá. Gương mặt anh ta tầm thường với những nốt tàn nhang to quá cỡ và nhiều cũng quá cỡ khiến màu da anh ta ngả sang nâu đậm khiến người ta lầm tưởng anh ta có gốc tích Ấn độ hay Ả Rập.

- Thưa chủ tịch, tuần trà có kèm theo cao Linh-Chi và thuốc tim mạch. Bác sĩ dặn nhất thiết uống khi đang nóng. Vì lẽ đó chúng tôi phải ủ trà trong ấm đặc biệt.

- Được rồi. Đặt xuống bàn cho tôi.

Ông đáp và thầm nghĩ:

" Khốn khổ cho thân ta ; không có một thời khắc nào tránh được những ánh mắt theo rõi... "

Đội trưởng Lễ đặt khay trà lên bàn và nhắc lại:

- Mời người dùng trà cho nóng.

- Cảm ơn. Tôi vừa nghe tiếng thét của cháu bé nào đó dưới thung lũng. Những tai nạn như vầy xẩy ra có nhiều không?...

- Không nhiều, nhưng dường như năm nào cũng có, theo như dân quanh vùng nói lại. Chủ tịch chẳng cần băn khoăn nhiều quá, bất lợi cho sức khoẻ. Tôi đã điều đại đội phó dẫn quân xuống núi cứu hộ rồi.

- Chính quyền không làm được điều gì hữu ích để ngăn chặn những tai nạn kiểu này hay sao ?...

- Dạ...Nhưng....

Đội trưởng đội cận vệ đáp, vẻ ngạc nhiên. Rồi mắt anh ta ánh lên một thứ ánh sáng vừa ranh ma vừa xấc xược. Một lần nữa, ông hiểu rằng ông vừa buông ra một câu hỏi dại dột:

- Tôi biết rằng thiên tai hay vận mệnh đều vượt quá sức người. Nhưng dẫu sao, chính quyền cũng nên làm điều gì đó. Ít ra là ....

- Có chứ ạ !

Lễ ngắt lời ông:

- Chính quyền chắc chắn sẽ cử người tới giúp cáng bệnh nhân vào viện, bởi từ đây xuống huyện rất xa. Gia đình neo đơn không thể kham nổi. Rồi chính quyền sẽ giúp việc tang ma nếu người bị nạn không qua khỏi. Trước hết là đoàn thanh niên, rồi đảng uỷ xã. Sau đó là các đoàn thể khác.

- Tôi muốn đến thăm gia đình người bị nạn.

Ông nói. Và chính ông cũng kinh ngạc vì ý tưởng đột ngột của mình. Lễ đứng sững hồi lâu rồi cố gắng nở nụ cười, từ tốn đáp:

- Thưa chủ tịch, người vừa qua giai đoạn điều trị, đang còn ở tình trạng phải theo dõi nghiêm nhặt diễn tiến của sức khoẻ. Đến thăm một đám tang vào lúc này là vô cùng bất lợi. Thêm nữa, từ đỉnh núi xuống thung trên ngàn mét. Lính trẻ đi cũng thấm mệt, huống chi...

- Các chú đã đưa tôi lên đỉnh núi được ? Hà cớ gì thoái thác đưa tôi xuống núi ?

Ông nhắc lại một cách lạnh lùng.

Một lần nữa, đội trưởng đội cận vệ sững sờ vì phản ứng bất thường của chủ tịch. Anh ta đần mặt ra một lát rồi hắng giọng:

- Báo cáo chủ tịch, khi đưa người lên núi phải huy động máy bay quân đội. Vào lúc này, mọi phi đội đều bị điều ra mặt trận để chở thương binh.

- Sao ?

Ông cao giọng vặn lại Lễ, với sự tức giận không che giấu:

- Tuần nào tôi cũng nhận báo cáo từ văn phòng trung ương đảng. Báo cáo nào cũng tràn ngập tin chiến thắng. Chú định nói gì với tôi ?

- Dạ...

Lễ cúi đầu xuống. Khó mà đọc được những gì diễn ra phía sau vầng trán ngắn nhưng vuông và dựng thẳng lên như một vách đá, vầng trán nổi tiếng vì được coi là giống hệt trán Stalin. Lễ thường khoe khoang và răn đe đồng cấp:

" Đừng động vào tao. Đã thấy vầng trán này đích thị kiểu trán Stalin vĩ đại hay chưa ?... "

Lúc này, đội trưởng đội cận vệ đang cúi gằm mặt xuống suy gẫm. Rồi sau một lát, anh ta khom lưng thật thấp mà nói:

- Thưa chủ tịch, nếu người đã quyết, tôi sẽ báo cáo về Hà nội.

Chủ tịch đứng lên, bước ra vườn, biết rằng gã đàn ông da nâu đã len lén lui ra. Bây giờ, cơn tức giận bóp nghẹt trái tim ông. Những con sóng nghẹn ngào trào lên họng, và đồng thời trong phổi ông dâng lên những luồng hơi nóng dồn dập.

" Sao mà giống những làn hơi phả ra từ lò than của một con tầu. ?... "

Con tầu đưa ông rời xứ ra đi. Con tầu đưa ông trở lại. Cũng thứ lửa của con tầu ấy bây giờ thiêu đốt tâm can.

Một cành mai đâm vào thái dương khiến ông vội vàng nhắm mắt lại. Chính khoảnh khắc ấy, tiếng khóc của đứa bé dưới thung sâu lại vẳng lên. Lần này, thằng bé đã thôi gào thét, tiếng khóc của nó chỉ còn là tiếng ỉ eo hoà cùng tiếng gió. Ông nghĩ:

" Chắc đội cứu hộ đã tới rồi ... "

Ra khỏi vườn, ông nhằm phía cửa tam quan mà bước. Gió đã nổi lên bốn bề. Sau một khoảng thời gian ngưng lặng, gió ào ạt trườn qua các vách núi, dồn đuổi những làn mây sang một góc trời để vén lên một khoảng xanh lơ ngọt ngào trong suốt. Nhờ trời quang, chủ tịch nhìn thấy các cụm rừng bên dưới, khoảng trống giữa các cụm thông , khu nhà của đại đội cận vệ giống những bao diêm xếp thành hàng phía dưới các sườn đá lởm chởm và sát đó, trạm khí tượng xây bằng đá hộc từ thời thuộc Pháp. Thấp hơn nữa là những con đường ngoằn ngoèo dẫn xuống thung sâu, nơi tốp lính cứu hộ cùng dân sở tại đang võng người bị nạn trở về làng. Đoàn người nối nhau đi hàng một, nhỏ như những con kiến. Từ trên cao nhìn xuống, chủ tịch có cảm tưởng như trông thấy một đàn kiến cắn đuôi nhau bò trên ngọn cỏ lau.

- Cha ơi cha !

Gió đổi chiều, thốc từ dưới thung lũng lên tận đỉnh núi. Tiếng khóc của đứa trẻ xoáy lên theo, vang dội:

" Nó khóc không ngừng...Có lẽ người cha không qua khỏi. Tội nghiệp cho kẻ xấu số và tội nghiệp cho cả đứa bé sắp phải trải qua kiếp mồ côi.... "

Ông thầm nghĩ và bất giác nhắm mắt lại. Gió reo trong các rừng thông vi vút rồi ném thứ âm nhạc mênh mông của nó vào không gian mênh mông. Chủ tịch cảm thấy hơi gió tạt ngang qua mặt ông hơi ẩm lạnh của mùa xuân, của rừng già và của những loài hoa dại trên sườn núi....

- Cha ơi cha !...

Đột nhiên, ông mở choàng mắt vì một câu hỏi ập tới:

" Nếu ta chết, liệu thằng bé có khóc không ? Liệu nó có thương ta như đứa con trai người tiều phu khóc thương cha nó ?"

Ý nghĩ đó khiến ông đứng sững như chôn chân trước tam quan, tựa hồ bị đập đầu vào tường đá hay bị trúng gió độc. Người lính trẻ vâng lời ông sang ngồi bên cửa chùa nhưng không rời mắt theo rõi chủ tịch. Cậu ta nhận ra vẻ mặt nhợt nhạt của ông, liền chạy bổ tới:

- Thưa chủ tịch, mời người trở lại phòng. Ở đây dễ trúng gió độc mà cũng dễ trơn ngã. Từ sang đến giờ đất vẫn vẫn chưa thật khô.

Đoạn, cậu ta ôm chặt vai ông, dìu vào nhà. Chủ tịch muốn hất tay cậu lính ra nhưng tay chàng trai ấm nóng. Tấm thân đẫy đà của cậu ta cũng ấm nóng và khi áp vào ông, làn hơi nóng truyền sang cơ thể ông cùng một lần ngọn lửa của sinh lực và sự nồng ấm của tâm hồn. Chỉ cần đứng bên cạnh con người này, là đủ cảm nhận được điều đó:

" Một gã trai tốt lành "

Ông thầm nghĩ và ưng thuận theo cậu ta vào phòng. Ở đó, trà đã bắt đầu nguội. Ông ngồi uống trà với niềm tin cay đắng:

" Nó sẽ không bao giờ khóc ta cả. Bởi nó không thể biết nó là con ai. Mãi mãi không biết được sự thật ai là cha đẻ của mình. "

Rồi ông tự riễu ông hàm hồ khi nghĩ rằng người tiều phu kia là kẻ xấu số:

" Nào biết ai xấu số hơn ai ? "

Giờ, ông hiểu vì sao ông bỗng nhiên nảy ra ý định xuống núi thăm người bị nạn. Một niềm khao khát cay độc xen lẫn một sự tò mò bất khả cưỡng chế đã nảy sinh trong thâm tâm: Ông muốn tham dự lễ an táng người tiều phu kia bởi ông muốn biết tường tận đám tang của một người cha. Một người cha theo đúng nghĩa.
 

*
* * *
 

Trà Linh Chi cũng không làm nguôi dịu lò hơi ngột ngạt trong lồng ngực ông. Chủ tịch thấy ngộp thở dù căn phòng thênh thang và ông đã mở toang cửa sổ để làn hơi mát lạnh của núi non, cây cối ùa vào. Ở cuối giường ông, người ta đặt một lò sưởi điện, vừa ấm vừa không có khói than. So với thời xưa, tiện nghi đã đủ cho con người thoả mãn:

" Nếu không gọi là có đôi chút xa xỉ ... "

Ông nghĩ vậy, vì nhớ đến những gộc tre và những cành khô mà hai người đàn bà tu hành bên chùa thường nhóm sưởi.

Trên khuôn lò sưởi điện của ông, có hình nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn nhảy nhót bên đống lửa. Những ngọn lửa nhấp nháy còn các chú lùn nắm tay nhau quay không ngừng xung quanh cô gái tóc vàng xinh đẹp. Chủ tịch nhìn hồi lâu những nhân vật trong câu chuyện thần tiên ấy với cặp mắt vô cảm rồi đột nhiên đứng dậy, bước ra đầu hồi. Bây giờ, gió đã lồng lộng thổi qua các sườn non, reo hát trong các cánh rừng mà ông đã từng thăm thú. Những cánh rừng già đan chéo các cánh rừng thông, trải khắp tầng núi cao ngay dưới chân ngôi chùa Lan Vu rồi lan đến chân trời phía bắc. Thấp hơn nữa, trên tầng núi thứ hai là các rừng trúc. Các loại trúc vàng, trúc vỏ chanh, trúc gai mọc chen nhau, ấy là vương quốc của khúc nhạc bất tận đêm hè. Những rừng trúc trùm phủ các sườn non, lan đến tận các xóm tiều phu, tràn đến tận tầng núi cuối cùng, tầng núi thấp nhất, ăn liền với các giải đồi trồng chè và các nương sắn. Kế đó, là ruộng bậc thang rồi đến cánh đồng, không thẳng cánh cò bay như những cánh đồng vùng châu thổ mà cắt xén như những mảnh áo xanh nõn, xen với làng mạc đồi nương, rồi trải dài xuống chân trời phía nam. Trước kia, dân chúng quanh vùng vẫn leo qua ba tầng núi để lên lễ chùa Lan Vu, ít nhất một năm một lần vào tiết tháng giêng, khi các vườn mai quanh chùa nở rộ, hoa trắng mênh mông như mây trắng, và khi mận dại cũng trổ đầy hoa dọc các lối mòn. Những kẻ chân lấm tay bùn quanh năm cầy cuốc, đầu tắt mặt tối, chờ đợi cuộc hành hương mùa xuân như chờ đợi khoảnh khắc thiêng liêng nhất trong năm, khoảnh khắc làm loé lên những ước mộng thần kín, khoảnh khắc làm nguôi dịu những buồn đau mất mát của quãng đời đã qua và nuôi dưỡng hơi thở lẫn hy vọng cho con người đi tiếp quãng đường phía trước. Phải chăng màu trắng trinh bạch của hoa mai, màu trắng mong manh của hoa mận, sương mù của tiết xuân, mây trắng trên đỉnh non và những làn hơi nước trắng dập dờn từ các khe vực bay lên đã tạo nên một cảnh tượng kì ảo, một bản giao hưởng trắng miên man và thuần khiết khiến con người cảm nhận được sức mạnh của sự thanh lọc và tái sinh ?...

Hoặc là, tiếng chuông chùa và những bài kinh Phật là chất cam lồ huyền diệu an ủi cho kiếp nhân sinh nhọc nhằn tăm tối ?

Dù lý do nào chăng nữa ông cũng tự cảm thấy mình là kẻ tội đồ vì từ ngày ông lên đây chính quyền đã ra lệnh cấm dân trong vùng lễ chùa Lan Vu. Với lý do bảo vệ sự an toàn cho chủ tịch, họ đã tước đi của người dân niềm vui ít ỏi, tước đi những giây phút thơ mộng thiêng liêng gần như duy nhất trong cuộc sống hiu quạnh chốn này. Chùa Lan Vu trước đây có mười hai sư sãi. Chính quyền ra lệnh dồn tất cả xuống hai ngôi chùa phụ trong đám rừng trúc. Ông phải phản đối vô cùng quyết liệt họ mới cho phép sư cụ chủ trì và một sư nữ được ở lại. Hai người đàn bà, một già một trẻ, suốt ngày chăm bón vườn cây, dọn dẹp ngôi chùa và tụng kinh gõ mõ. Dường như không lúc nào họ ngồi nghỉ trừ giấc ngủ đêm và hai bữa ăn chóng vánh. Một sự ngại ngần khiến chủ tịch không bao giờ bước qua mảnh sân lát gạch lá nem cổ. Mảnh sân ấy là cõi biên thuỳ phân định vùng đất của ông với thế giới của kẻ tu hành. Nhưng, trong bờ cõi của mình, đôi khi ông kín đáo liếc sang bên kia và thấy hai nhà sư ngồi đối diện nhau trên hai chiếc tràng kỉ tre cũ. Giữa họ là mâm cơm đặt ngay ngắn trên chiếc bàn cũng ghép bằng tre. Từ xa, ông cũng biết bữa ăn của họ đạm bạc đến nhường nào...

Một nỗi tò mò không vơi cạn ám ảnh chủ tịch:

" Phải chăng họ không biết đến buồn đau, sợ hãi ?

Phải chăng họ hoàn toàn xa lạ với các trạng thái tình cảm bình thường của con người ? Họ không ham muốn, tức giận; không yêu đương hay thù hận cũng chẳng hân hoan hay chán nản ? Họ không khắc khoải chờ mong, cũng không vui sướng hay tuyệt vọng. Cuộc sống trôi như một dòng kênh, không thác ghềnh, không sóng gió. Nếu quả thực cuộc sống như vậy thì sự tẻ nhạt sẽ là một gánh nặng không thể hình dung ! "

Mỗi lần nhìn gương mặt bình lặng như nước hồ trong núi của hai người đàn bà bên chùa, những câu hỏi ấy quay lại như một điệp khúc. Như con toán nợ vì chưa tìm ra lời giải.

- Thưa chủ tịch, người không nên đứng ở đầu hồi quá lâu. Ở đây cả gió.

Cậu lính béo vừa quét dọn xong hai gian phòng, đã bước tới đứng sau lưng ông. Chủ tịch đáp lời:

- Không sao đâu. Tôi đứng một lát cho thoáng.

Đoạn ông nhìn chiếc xô đầy xác phù du trong tay cậu ta, buông tiếng kêu:

- Ồ, quá nhiều bướm đêm.

- Vâng. Vì trời rất ẩm...

Bỗng nhiên, gió ngưng lặng. Rồi, như một sự trùng điệp ngẫu nhiên, tiếng mõ và tiếng đọc kinh cũng ngưng lặng theo. Những cành mai không còn bị gió lắc, im lìm như bị bỏ bùa mê. Sau đó một tích tắc, nhà sư già bước ra khỏi cửa chùa, theo sau là sư nữ. Chủ tịch lên tiếng:

- Bạch sư cụ, hôm nay ngài đọc kinh qua ngọ ?

Bao giờ gặp mặt nhà sư chủ trì, ông cũng lên tiếng chào trước. Từ hồi ông còn nhỏ tí ti, mẹ ông đã dạy ông là phải kính trọng người cao tuổi hơn mình. Sư cụ bát tuần có lẻ, chính xác ra là hơn ông bảy tuổi. Tuy nhỏ bé, nhưng bà cụ rắn rỏi và còn hoàn toàn minh mẫn. Sư cụ tiến lại phía chủ tịch, đáp lời:

- Thưa ngài, sớm nay bấm quẻ, biết có sự rủi ro cho dân cư trong vùng nên chúng tôi phải đọc cho đủ kinh cứu nạn.

- Bạch sư cụ, như vậy hẳn người xấu số sẽ được cứu thoát ?

- Thưa ngài, chúng tôi không dám trả lời câu hỏi ấy. Người bị nạn có sống được hay không hoàn toàn tuỳ thuộc vào số kiếp, nhân duyên của họ. Chúng tôi đọc kinh là để chư phật hoá giải phần nào kiếp nạn cho khổ chủ. Nếu duyên nghiệp của họ với cõi trần còn nặng, chúng tôi cầu xin cho họ mau lành lặn để trở về mái ấm, chia xẻ cuộc sống trần tục với vợ con. Nếu duyên nợ ba sinh đã dứt, chúng tôi cầu cho họ được mau mắn giải thoát, lìa bỏ cõi trần mà không phải trải qua những dày vò đau đớn, để vợ con thân quyến được cất gánh nhẹ lòng, và khổ chủ được thọ ân đức để mau chóng đầu thai sang kiếp khác.

Ông im lặng, nhưng trong lòng thầm nghĩ:

" Nếu như vậy thì cầu nguyện cũng chẳng làm gì được nhiều lắm cho thế gian. "

Dường như biết được ý nghĩ thầm kím của ông, sư cụ nói tiếp:

- Thưa chủ tịch, ngài là bậc anh hùng kinh bang tế thế, ngài là người cha vĩ đại của non sông. Là người Việt nam, chúng tôi vô cùng kính trọng và biết ơn ngài. Nhưng ở bản diện khác, chúng tôi là những kẻ tu hành, chúng tôi sống trong những cõi mà các ngài không sống, chúng tôi tin ở những điều các ngài không biết cũng không tin. Thế nên, xin ngài cho phép chúng tôi được lặng im trước những câu hỏi không thể giải đáp.

- Bạch sư cụ, xin ngài chớ phiền lòng. Tôi chẳng có thắc mắc gì đáng kể, chỉ có điều là tôi tha thiết được hiểu thấu đáo kinh nhà Phật.

- Thưa ngài, ngài sẽ ngộ nếu ngài có nhân duyên.

- Nhưng nếu tôi...

Ông buột miệng buông ra một câu hỏi mà ông không kịp đắn đo cũng chẳng thể ghìm giữ:

- Nhưng nếu tôi không có nhân duyên ?

Nhà sư già điềm nhiên mỉm cười, không chút mếch lòng trước câu hỏi giống như sự khiêu khích:

- Thưa ngài, nếu không có nhân duyên ngài sẽ chẳng bao giờ ngộ, cho dù ngài đọc thiên kinh vạn quyển, hoặc cho dù cả ngàn lần ngài ngồi nghe các cao tăng thuyết pháp.

Nói rồi, bà cụ giơ tay chỉ xuống thung lũng phía tây, nơi có một giải núi chạy thẳng góc với hướng nhìn của họ:

- Ngài hãy nhìn dãy núi trước mắt chúng ta:dân trong vùng gọi nó là dãy núi Kiếm vì hình dạng của nó giống hệt lưỡi gươm. Bây giờ ngài hãy chú ý đến những con đường mòn chạy dọc theo sườn núi . Hai con đường chạy dọc theo hai sườn núi đối diện sẽ không bao giờ gặp nhau. Điều này cũng giống như những ngả đường khác nhau của con người trần thế. Nếu không có nhân duyên, người ta sẽ mãi mãi đi theo con đường của một bên sườn núi mà thôi.

Dứt lời, bà cụ lùi lại một bước, cúi đầu chào:

- Mô Phật, chúng tăng không dám quấy quả ngài.

Sư nữ đứng sau, luôn luôn đứng sau, cúi đầu chào theo. Rồi cả hai quay về chùa bên kia sân.

Chủ tịch nhìn theo họ một cách không chủ định. Hai người đàn bà ăn vận nâu xồng. Không xinh đẹp cũng không duyên dáng. Nói một cách công bằng, thời son trẻ ắt họ cũng là những cô gái bắt mắt ưa nhìn, nhưng chắc chắn chẳng ai dám coi họ là các mỹ nhân. Nếu với đa số, sắc đẹp là sức mạnh, hẳn họ không thể tự tin ở quyền năng của mình. Sự thông tuệ, một thứ quyền năng nữa, họ cũng không vượt qua nhiều người khác. Nhưng có một thứ sức mạnh nào đó tồn tại vững bền trong họ khiến họ không mảy may run sợ trước quyền uy thế tục. Bởi ông biết rõ có rất nhiều người uyên bác, được đào tạo kĩ lưỡng ở nước ngoài, có năng lực thật sự và được coi như bộ não của các ngành khoa học nhưng sẵn sàng làm tất thảy những điều nhảm nhí mà không mảy may hổ thẹn. Quyền lực thế tục bẻ gẫy lương tâm cũng như lòng tự trọng của con người. Dưới chỉ thị của đảng, các tiến sĩ dễ dàng chứng minh rằng lợn ăn phân trâu tốt hơn ăn cám, rằng rau muống có lợi cho sức khoẻ hơn thịt bò, rằng trẻ em không nên ăn quá hai lạng thịt trong một tháng để tránh nguy cơ nhiễm bệnh....Những bài viết của họ khiến ông đỏ mặt nhưng ông không thể can ngăn. Một khi guồng máy đã quay....Vả chăng, cái guồng máy này mang dấu ấn của chính bàn tay ông.

Ông lại thở dài, một thói quen mới nhiễm mấy năm gần đây. Đã nhiều lần ông chú tâm loại bỏ nhưng không thành công.

Cậu lính trẻ tiến đến trước mặt ông, rập gót chào:

- Báo cáo chủ tịch, con xin phép xuống núi.

Ông hỏi:

- Ồ, đã tời giờ đổi gác rồi sao ?

- Dạ, còn kém ba phút mười giây. Nhưng tốp thay ca đã lên.

Cậu lính đáp, giơ chiếc đồng hồ đeo tay lên xem giờ một cách chăm chú và hãnh diện. Chắc chắn đó là món đồ đáng giá nhất trong gia tài của cậu, món đồ được nhà nước cấp phát với lý do phụ tùng nghề nghiệp.

- Ồ, đã năm giờ.

Ông nói, như nói với chính mình và đưa mắt nhìn ra ngoài tam quan: Hai người lính gác ca đêm đã lên thay chàng lính béo. Tiếng chân họ đạp lạo xạo trên đá sỏi. Vì gió lặng, những tiếng động đó vang lên trong cô tịch của núi non. Họ cùng tiến đến một lần, đứng nghiêm chào trước mặt ông. Chủ tịch phác một cử chỉ nhẹ nhàng quen thuộc của nghi lễ, cho phép họ được thi hành phận sự một cách an nhiên. Trong lúc đó, cậu lính béo rời sân chùa, rẽ xuống lối mòn. Vì thân hình nặng nề, tiếng chân bước của cậu ta còn khua động ầm ĩ hơn cả hai đồng nghiệp. Ông nghe rõ tiếng những hòn đá nhỏ bắn khỏi lề đường, lăn lông lốc, va đập trên sườn núi.

Chủ tịch quay vào nhà vừa đúng lúc tổ cấp dưỡng đang sắp đặt bữa cơm tối. Vì không tiện nấu nướng trong gian bếp sơ sài của nhà chùa, người ta chuẩn bị các bữa ăn cho ông trong cùng một bếp với nhà ăn trung táo của đại đội cận vệ rồi cử người mang lên . Bác sĩ cũng ăn tại đó, để kiểm tra định lượng và chất lượng bữa ăn của ông. Rồi buổi tối, anh ta sẽ ngủ trong một gian thuộc ba gian chùa bên tả. Khi chủ tịch bước vào phòng cũng là lúc bếp trưởng tiến ra:

- Mời chủ tịch dùng bữa cho nóng.

Ông nhìn bữa ăn sắp sẵn trên bàn, bảo anh ta:

- Chú vất vả suốt ngày, còn leo lên đây làm gì cho mệt ? Cứ để anh em mang cơm cho tôi là đủ.

- Thưa chủ tịch, tôi muốn trực tiếp xem người ăn có được ngon miệng hay không ... Nếu có vấn đề, tôi cần phải thay đổi thực đơn cho thoả đáng.

- Chú biết rõ tôi chẳng phải người quá kén chọn món ăn.

- Dạ, tôi biết rõ là người chẳng muốn làm phiền bất cứ ai. Nhưng sức khoẻ của người là tài sản quốc gia. Chúng tôi được hân hạnh khi phục vụ và bảo vệ người.

Ông im lặng ngồi vào bàn, không thể nói gì thêm. Người lính phụ bếp đặt chiếc lò điện ủ cơm cho ông lên mặt bàn rồi cùng bếp trưởng lui ra. Tuy nhiên, ông biết rõ họ kín đáo theo rõi ông từ ngoài cửa. Vì họ tôn kính ông một cách thành thực, lo lắng cho sức khoẻ của ông một cách thành thực nên ông buộc phải làm như ăn một cách ngon lành dù thực tình, chẳng cảm nhận được mảy may mùi vị những thứ ông đang nhai và đang nuốt. Rồi ông tiếp tục chờ họ thu dọn bàn ăn, buông vài tiếng trầm trồ trước bát chè long nhãn tráng miệng, sau đó chờ tiếp những lời chào cung kính của họ trước khi họ quay xuống khu vực đóng quân. Ngồi lại một mình, ông lắng nghe tiếng chân của tốp người vang lên trong đêm, xen lẫn tiếng cười đùa. Tắt bớt một ngọn đèn, ông lặng lẽ nhìn qua khoảng trống nơi khuôn cửa. Trong khung trời tối đen, những cành cây đột nhiên mang dáng hình kì lạ. Ánh điện rọi lên các tầng lá muôn ngàn con mắt kì bí, và mỗi cơn gió lắc, những con mắt ấy nhấp nháy một tia nhìn, khi cười cợt, khi nham hiểm.

Lúc này, con tim ông đã ngừng cơn khắc khoải. Những làn hơi nóng trong lồng ngực cũng đã tiêu tan. Chỉ còn lại một sự trống rỗng rợn hồn. Trái tim ông giờ giống như ngôi nhà hoang, nơi gió tung hoành ghẹo cợt, xua đuổi những bóng ma cư ngụ. Trái tim ông giờ là đảo vắng, nơi bầy chim di trú đã rời xa, chỉ còn lại đám lông xơ xác trên bãi cỏ.

Ông ngồi đờ đẫn hồi lâu, không còn biết mình nghĩ gì. Nhưng đột nhiên, những cơn rùng mình ớn lạnh chạy ngang qua da thịt. Toàn thân ông dựng gai ốc. Có tiếng ai đó kêu ú ớ ngay sau lưng ông. Chủ tịch quay lại. Tiếng ú ớ vang lên không ngừng. Nhưng khi ông quay sang bên phải, tiếng kêu ấy thoát ra từ bức tường bên trái, và khi ông quay sang trái, tiếng kêu lại đổi chiều, tựa hồ trò chơi trốn tìm của trẻ nhỏ. Ông đứng lên quay nhìn bốn phía nhưng không thấy gì khác lạ ngoài bộ tứ bình sơn mài: " Xuân, hạ, thu, đông ". Lúc ấy, tiếng kêu ú ở lại phát ra ngay trên đỉnh đầu ông, lửng lơ, đứt nối, chập chờn....

" Phải chăng đó là tiếng kêu của chính ta, tiếng gào thét câm lặng của chính ta ở bên kia chân trời, hay tiếng kêu tận số của nàng, người yêu dấu ? "

Ông tự hỏi.

Nhưng không muốn tìm lời giải đáp.

Tiếng kêu đau đớn thật sự của nàng hay tiếng thét gào câm nín của chính ông, đâu có gì quan trọng ? Đã từ lâu, từ rất lâu, ông có thói quen dìm nén những ý nghĩ của ông trong câm lặng. Những ý tưởng của ông giống như những con tầu bị đánh chìm, chồng chất dưới đáy đại dương, vùi lấp giữa bùn nơi rong rêu và các loài san hô ngự trị. Đã từ lâu, ngôn từ của ông bị tàn sát như những đoàn thuỷ thủ xấu số bị bọn cướp biển chặt đầu, ném xác, thân chôn dưới đáy biển ; và những con sóng miệt mài như những nấm mồ di động, gào thét không ngưng nghỉ, rì rào không ngưng nghỉ để mãi mãi các thây ma yên vị trong lòng biển tối.

Biển lặng câm.

Cũng đã từ lâu, ông có thói quen nhìn vào những ý nghĩ của chính ông như một kẻ đứng ngoài hành lang dòm vào căn phòng hàng xóm qua lỗ khoá với nỗi tò mò và hổ thẹn vì chính nỗi tò mò ấy. Trong ghẻ lạnh và

thù ghét, những ý nghĩ của ông tự chui lủi như những con chim giẽ run trên cánh đồng, nơi tiếng reo hò săn đuổi của con người khiến chúng khiếp sợ phải chúi xuống dưới luống cày hoặc trong các bụi gai. Trong đàn áp và dồn nén, những ý nghĩ của ông lặn chìm như các loài rầy bọ ở đầm lầy. Và cùng năm tháng, những ý nghĩ ấy suy tàn tựa những đứa bé sơ sinh bị nhốt trong lồng kính không còn đủ ô-xy , từ từ lịm chết.

Vậy mà giờ đây, sự bất ổn đang xảy ra.

Có điều gì đó tựa hồ như động đất, hoặc những dấu hiệu báo trước của một cơn sóng thần,hoặc một trận phun lửa cuồng điên của những hoả diệm sơn tưởng chừng đã tắt. Ông thấy rõ những ý nghĩ đã xa xôi, đã lụi tàn, như muôn ngàn mảnh rách tả tơi của một tấm áo bỗng nhiên dồn tụ lại, giằng nối, chắp vá nhau, tìm lại dáng hình đã mất. Những đứa trẻ sơ sinh tưởng đã chết bỗng nhiên mở mắt khóc oe oe trong lồng kính. Những năm tháng xưa bỗng cuồn cuộn trở về. Phép màu của các đấng linh thiêng hay bùa chú của loài phù thuỷ ?

Ông không biết. Ông không thể biết. Nhưng biển lặng câm đã nổi sóng. Ông hiểu rằng người xưa đã quay về....

Có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ thoạt đầu rời rạc nhưng sau đó dồn dập hơn. Ông giật mình vì nhớ rằng đã đến giờ làm việc của bác sĩ. Anh ta sẽ thăm mạch cho ông trước khi lui sang căn buồng bên ngôi chùa đối diện.

- Hôm nay, tôi muốn đi ngủ sớm.

Ông cất tiếng trước khi bác sĩ xuất hiện trên khuôn cửa:

- Chú cứ ngủ cho ngon giấc, nếu cần tôi sẽ gọi điện. Điện thoại bên phòng chú chạy tốt rồi chứ ?

- Dạ, thợ đã sửa hoàn chỉnh. Bây giờ chuông đổ ròn rã....Nhưng dù sao, xin chủ tịch cứ cho phép tôi được kiểm tra ...

- Không cần, chú vừa kiểm tra rất kĩ tối qua. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ không thể đốn ngã một mạng người. Đi ngủ đi, và tôi báo trước rằng tôi sẽ hút một hoặc hai điếu thuốc.

- Thưa....

- Đã ba tuần liền tôi không động tới hộp thuốc. Nhưng tối nay, tôi sẽ hút. Thi thoảng người ta cũng nên nhân nhượng thói quen.

- Thưa chủ tịch, nhưng ...

Bác sĩ ngần ngừ. Dường như anh ta muốn nói điều gì đó nhưng lại thôi. Có lẽ anh ta định nói rằng thuốc lá giờ đây là kẻ thù của ông ; rằng ông cần đoạn tuyệt càng sớm càng tốt với kẻ đồng hành độc ác này, rằng nhiệm vụ của anh ta là phải ngăn chặn lại những cơn thèm muốn tái phát....Những bài bản thuộc như cháo chảy cho cả người nói lẫn người nghe. Vào phút đó, anh ta cảm thấy những lời lẽ của mình sẽ hoàn toàn vô dụng đối với chủ tịch...Sau vài phút ngần ngừ, bác sĩ cúi đầu chào:

- Thưa chủ tịch, chúc người ngủ ngon.

- Tôi cũng chúc chú ngủ ngon.

Bác sĩ biến mất trong bóng tối.

Vài phút sau, ánh đèn bật sáng trong căn phòng bên kia sân chùa. Và một giọng nam trung cất lên:

" Người yêu dấu,
Biết bao giờ lại trông thấy nhau ? "

Chủ tịch nghiêng đầu lắng nghe. Đã lâu lắm, người đàn ông này mới lại hát khúc ca tình ái. Bác sĩ vốn thích hát nhưng có lẽ vì ngại ngùng khi sống sát bên ông nên anh ta thường chỉ hát hành khúc hoặc dân ca. Phải chăng vì hôm nay ông tự cho phép ông hút thuốc nên anh ta cũng tự cho phép mình hát tình ca ?

" Người yêu dấu,
Giờ đây em ở phương nào ? "

Lời nối lời, những âm thanh nhẹ nhàng bay lên như những cánh diều óng ánh chao lượn trong khung trời mùa hạ. Mùa hạ xa vời....Mùa hạ ấy gió Lào thổi qua những giải núi phía tây, lồng lộn hú gào trên những cánh đồng khô nẻ, nơi đất nứt toác thành những kẽ khổng lồ ngoằn ngoèo như những đường vân tay của một sơn thần có số phận gian truân. Lũ chim khát nước thôi ca hát nhưng bù lại, muôn cánh diều lũ lượt bay lên. Những cánh diều trắng màu cỏ lau, những cánh diều xanh màu lá, những cánh diều vàng màu vàng của lũ bướm xuân...Những cánh diều ấy chen chúc nhau múa lượn giữa khung trời, như những giấc mơ đan xen, như những ngọn lửa tinh thần bùng cháy vào khoảnh khắc cuối cùng của một đấng mày râu ngã xuống nơi trận tuyến.

" Người yêu dấu... "

Giọng hát mượt mà dẫn ông về một mùa hè khác, nơi mát rượi bóng cây, nơi âm u tiếng suối. Và những hoàng hôn chiến khu rọi lên song cửa ngôi nhà sàn....

" Giờ đây em ở phương nao,
Tình ta cách xa, nhưng lòng ta không nguôi nhớ .... "

Đêm tĩnh lặng vì gió không còn thổi nữa. Không có trăng. Cũng không một ngôi sao. Chỉ một màu đen thần bí. Núi non, khe suối, rừng cây, vườn tược, những làng tiều phu dưới kia và cả những cánh đồng xa hơn nữa đều chìm trong im lặng của đêm dày. Một không gian đen mênh mông nín thở. Trong không gian ngưng đọng ấy, mỗi lời ca ngân lên như cả một dàn chuông.

Chủ tịch châm một điếu thuốc để có thể nghe rõ hơn khúc hát:

" Người yêu dấu....
Biết bao giờ lại trông thấy nhau.... "

Bây giờ, ông nghe tiếng nức nở ngay sau gáy mình. Tiếng nức nở quen thuộc ấy khiến ông ngồi chết cứng. Ông không dám quay lưng lại. Ông rít liền ba hơi thuốc thật sâu vì tin rằng thuốc lá làm tỉnh táo và sự tỉnh táo ấy sẽ xua đuổi những ảo mộng hay huyễn ảnh. Nhưng ông nhầm. Tiếng nức nở không biến mất mà vang lên rõ rệt bên tai ông đến mức ông nghe cả hơi thở hổn hển kèm theo. Một gương mặt đầm đìa nước mắt áp sát vào má ông. Lệ đầm đìa, những giọt lệ lạnh buốt. Ông châm điếu thuốc thứ hai, rồi thứ ba, nhả khói liên hồi, nhưng má ông vẫn buốt lạnh vì nước mắt.

" Người yêu dấu ơi... "

Tiếng hát vẫn vang lên. Ồ, chẳng còn là tiếng hát mà là tiếng gọi của chính ông. Nhưng ông không dám cất thành lời nên chúng mãi mãi chỉ là những tiếng gọi câm nín:

" Xin em hãy tha thứ cho tôi....Xin em..."

Mắt ông cay xè. Thoáng mơ hồ, một chút hơi nóng lướt qua bờ mi. Những vòng khói chập chờn bay toả. Khói cuộn như mây lúc hoàng hôn giông gió. Khói nhạt nhoà như sương mù lan toả trên đầm nước mùa xuân. Cuộc đời ông phải chăng cũng chỉ là những vùng khói sương hư ảo, những ba động của mây trôi, gió cuốn ? Quyền năng của ông phải chăng cũng chỉ là thứ bùa phép phù du của ánh đèn trong rạp hát tuồng ?

" Xin em hãy tha thứ cho tôi."

Ông cúi đầu lẩm nhẩm mà không biết rằng bác sĩ đã đứng trong khuôn cửa:

- Thưa chủ tịch....

Ông ngước lên và phải qua một tích tắc mới kịp định thần:

- Sao chú không hát nữa ?...Tôi rất thích nghe chú hát. Chú có một giọng nam trung tuyệt vời. Lẽ ra chú có thể trở thành ca sĩ chuyên nghiệp.

- Thưa chủ tịch, người quá khen.

- Tôi không làm ngoại giao với chú.

- Cảm ơn chủ tịch.

- Tại sao chú quay lại đây ?

- Thưa chủ tịch, cận vệ báo rằng người không chỉ hút một hai điếu mà hút rất nhiều...Như thế, vô cùng nguy hiểm cho sức khoẻ....

Ông cúi xuống nhìn bao thuốc trên bàn và nhận ra rằng ông đã hút quá nửa. Khói còn ngưng mù mịt trong phòng. Bác sĩ dán mắt vào mặt ông. Có lẽ anh ta đang thăm dò những ngấn nước mắt. Chủ tịch rút khăn tay lau mặt, hắng giọng:

- Quả là tôi cũng có hút hơi nhiều. Khói cay xè cả mắt.

- Thưa chủ tịch...

- Không sao cả. Tôi tắt thuốc ngay đây.

Ông di điếu thuốc đang hút dở vào gạt tàn, ngay trước mắt bác sĩ. Đoạn đứng lên, ông vươn vai, giơ tay che miệng ngáp vờ:

- Giờ, tôi phải tập khí công mới hòng ngủ được.
 

*
* * *
 

Vũ trở lại nhà vào đúng ngọ.

Ông những chỉ muốn nhúng đầu vào chậu nước cho đỡ nóng rồi lăn ra ngủ. Trời lạnh, nhưng máu căm hờn sôi sùng sục khiến mặt ông nóng như bị lửa rang. Dù uống hết hai ấm chè, lại thêm tách cà-phê buổi sáng nhưng ông hoàn toàn không thấy đói. Ông chăm chăm nghĩ đến chiếc giường kê ở góc phòng, sau tấm ri-đô hoa xanh nhạt. Chỉ vài phút nữa thông, ông sẽ được lăn xuống đó, nhắm mắt lại để không phải nhìn thấy ai, để không phải nghe ai nói, để những sợi dây căng tột độ trong óc não có cơ chùng xuống. Chính lúc ấy, ông chợt nhận ra rằng ông đã gắn bó biết bao với căn phòng của mình. Chiếc giường kiểu cổ và tấm màn hoa cũ. Rất nhiều lần vợ ông muốn thay tấm ri-đô đã phai màu và trơ lõi vải ấy bằng một tấm rèm đăng-ten sang trọng nhưng ông nhất quyết phản đối. Có lẽ, phàm là người ai cũng có những sở thích riêng đôi khi lạ lùng, kì quặc thậm chí là phi lý. Trong ngôi nhà thênh thang của ông, mọi vật đều đã đổi thay. Từ màu vôi quét tường đến bàn ghế giường tủ, từ áo quần đồ ăn thức đựng tới các chậu cảnh, tranh ảnh trên tường, giá mắc quần áo, hộp bày huân chương....Duy chỉ tấm ri-đô cũ còn tồn tại, tồn tại một cách lạc lõng trong khung cảnh mới. Đấy là một tấm màn bằng vải thô, loại rẻ tiền, năm tháng đã mài các sợi vải đến tận lõi và màu phai đến mức những bông hoa li ti kiểu hoa cỏ dại chỉ còn là những chấm xanh mu mơ chen chúc nhau. Nhưng Vũ thích tấm màn ấy. Sự hiện diện của nó giống như niềm an ủi. Màu xanh phai tàn của nó đem lại cho ông cảm giác bình an. Ông không thể giải thích với vợ, ông chỉ nói vắn tắt rằng:

- Tấm màn này xấu thật nhưng nó được treo vào ngày kỉ niệm lần thứ ba cuộc hôn nhân của chúng ta. Em không nhớ rằng chú liên lạc mang tấm màn này lên chiến khu đã hy sinh trong mùa đông năm ấy, trên đường quay về Hà nội lấy tin ?

- Em nhớ. Nhưng đồ vật nào cũng chỉ tồn tại một thời gian. Người ta vẫn bảo: Một đời ta muôn vạn đời vật.

- Nếu đồ vật đem lại sự thoải mái cho người dùng thì nó nên được tồn tại. Chúng ta không nhất thiết phải chạy theo thiên hạ. Đừng quan tâm thái quá đến đồ đạc. Bởi em được học hành, không phải con mẹ Tư.

- Anh ví em với con mẹ Tư hàng cá hay sao ?

Vợ ông kêu lên phẫn nộ. Và ông, chỉ chờ có thế để nói lời cuối cùng:

- Anh không ví em với hạng người ấy. Nhưng đừng quên rằng chỉ hạng người như thế mới quá chăm chú đến đồ vật. Họ không biết làm gì ngoài cách khoe giầu.

Vợ ông im lặng, mặt đỏ nhừ. Từ đó, bà để cho ông yên thân. Có thể vì tự ái nhiều hơn là thấu hiểu giá trị kỉ niệm của đồ vật. Nhưng dẫu sao, ông cũng đã thắng cuộc: tấm ri-đô cũ vẫn còn nguyên đó. Với ông, nó không chỉ đơn thuần là kỉ niệm mà gần giống như thứ bùa bảo mạng. Nó đem lại cho ông sự bình tĩnh vào những phút nguy nan. Nó trả lại ông sự sáng suốt cần thiết khi rối trí. Nó làm êm dịu tâm hồn. Mỗi khi buồn nản, đau đớn, ông thường khoá chặt cửa phòng, nằm lăn xuống giường, kéo tấm ri-đô đến giáp tường để che đi tất thảy mọi đồ vật khác, để chỉ còn lại trước mắt một xanh êm dịu. Nó là thứ màu phai nhạt, nhưng đó là màu của thời trai trẻ. Nó là tiếng vọng của những năm tháng đã qua, nhưng những hồi âm ấy chứa đựng một sức mạnh có thể làm tươi trẻ tâm hồn mòn mỏi của ông. Nó là dấu vết của một mùa đã khép lại. Là dấu vết, nhưng nó đủ sức khơi gợi muôn ngàn lối mòn trong khu rừng cũ. Như thế, nó khiến ông tìm lại bóng dáng của chính mình, hình dung lại sức mạnh ông từng có, sự can đảm và những chiến thắng ông từng tự hào, những hạnh phúc lẫn gian nguy ông từng nếm trải.

Nhiều năm, Vũ tìm thấy một liên tưởng vô cùng sít sao giữa tấm màn xanh này với bài hát " tủ"thời ông còn là học sinh trung học. Bài ca:

" Trở lại mái nhà xưa "

Bài hát Ý được nhập khẩu từ các trường Tây lan sang các trường phổ thông bình dân khác, trở thành nỗi đam mê của các chàng trai các trai cô gái thời áo trắng học trò. Bài ca ấy chỉ cho ông một cách mơ hồ rằng con người cần phải thả neo ở một bến bờ nào đấy, nơi họ có thể băng rịt những vết thương, làm lên da non trên những vết loét và chờ đợi các vết sẹo lành....Nơi ấy, họ có thể tìm lại được nguồn sống. Nơi ấy, họ có thể tái sinh. Nơi ấy, gọi là mái nhà xưa....

Đối với ông, mái nhà xưa giờ đây chỉ còn là vẻn vẹn vài thước vải bạc màu. Ông không còn gì ngoài màu xanh phai nhạt ấy. Ông tự nhủ:

" Vài phút nữa, ta sẽ lăn xuống giường, trong cái góc thân quen ấy. Tấm màn xanh sẽ che chở ta, và ta sẽ tìm được lối thoát."

Chiếc Volga phanh kít lại khiến ông giật mình:

- Thưa thủ trưởng, đã tới nhà.

- Cảm ơn.

- Ngày mai, em đón thủ trưởng lúc mấy giờ thì tiện ạ ?

- Mai, tôi phải đi sớm hơn thường lệ. Có lẽ khoảng sáu giờ mười lăm là hợp lý.

- Thủ trưởng ăn sáng tại nhà ?

- Chính xác. Tôi sẽ ăn sáng tại nhà cho tiện.

Ông xuống xe, đi như chạy vào nhà, hối hả trèo lên gác, hối hả trút bỏ quần áo ngoài để khoác bộ pi-ja-ma lên mình rồi lăn xuống giường với động tác của một con bệnh lên cơn động kinh nằm vật xuống bất kì vỉa hè hay bờ bụi nào đó. Cảm giác quen thuộc, màu xanh êm dịu khiến ông lấy lại được nhịp thở bình thường. Vũ nhắm mắt, chờ đợi sự thư thái quay trở lại tâm hồn như gã nông phu chờ nghe tiếng mưa rơi trong mùa hạn hán. Những sợi dây căng thẳng trong đầu ông bắt đầu chùng xuống. Nhưng niềm hạnh phúc ấy kéo dài không lâu. Dưới nhà, có tiếng quăng ném bát đĩa, tiếng xô đẩy bàn ghế và sau đó, tiếng thét của Vân, vợ ông:

- Làm sao thế ?

- .....

- Tôi hỏi: Anh nào làm vỡ đĩa thịt luộc của tôi ?

- Thằng Trung.

- Ném hết thức ăn thì trong vòng ba hôm cứ việc bốc muối....Ai cho phép anh tác oai tác quái trong nhà này ?

- ......

- Tôi hỏi, ai cho phép anh được quyền phá phách dưới mái nhà tôi ?

Giọng Vân rít lên, giống tiếng dao cạo nứa. Chưa bao giờ ông nghe thấy giọng người đàn bà của mình ghê rợn như hôm nay:

" Sao giọng cô ấy bỗng nhiên đổi thay lạ lùng như vậy ?"

- Trả lời tôi, anh Trung ?

Ông nghe tiếng đứa bé nấc lên rất to. Và tiếng nấc ấy bị ghìm nén trở thành tiếng ngạt mũi. Ông đành chống tay ngồi dậy. Dưới nhà, vợ ông lại tiếp tục hét lên:

- Anh có nghe tôi nói hay không ? Trả lời tôi, anh Trung ?

Tới đây, thằng bé oà khóc. Không còn là tiếng nấc ngạt mà là tiếng khóc ồ ồ của đứa con trai đang thời vỡ giọng. Vũ mở cửa phòng, xuống tầng dưới. Trong phòng ăn, vợ ông đang đứng chống nạnh tay, cái tư thế mà ông khinh ghét nhất nơi người đàn bà. Cái tư thế mà ông cho là xấu xí nhất, cả về phương diện thẩm mỹ lẫn đạo đức. Trong cái tư thế ấy, dù là hoa hậu cũng chẳng thể gợi được thiện cảm nơi người đàn ông, trước hết là những người đàn ông được giáo dục tử tế. Đã từ lâu, vợ ông không bao giờ dám tự thể hiện trong tư thế này, cái tư thế mà ông thường gọi một cách khinh bỉ là " Kiểu cách con mẹ Tư hàng cá ". Đã từ lâu, vợ ông hiểu rằng bản tính ông thầm lặng, nhún nhường, nhưng một khi, ông đã căm ghét hay giận dữ thì đó sẽ là thảm hoạ cho gia đình vì sự đổ vỡ sẽ không tránh khỏi. Đã từ lâu, bà thuộc lòng những điều bất khả xâm phạm mà ông đã đề ra một cách chính thức, biết rằng đó chính là bãi mìn sát thương khủng khiếp nhất nếu bà sa chân bước vào...

Vậy mà hôm nay, không hiểu thần điên loạn đã bước chân vào nhà hoặc là chứng lú lẫn đến sớm đã khiến bà hoàn toàn đánh mất trí nhớ ?

Ông đến đứng ngay bên cạnh vợ, cất tiếng:

- Có chuyện gì vậy ?

Lúc ấy, Vân mới giật mình quay lại. Bà giơ tay chỉ xuống góc nhà:

- Anh hãy nhìn kia kìa....Thằng Trung đã chán thịt nên ném cả đĩa xuống sàn. Còn thằng Vinh chưa được miếng nào....Từ hôm nay đến tuần sau, tôi cho chúng nó ăn cơm với muối.

- Thôi được.

Ông nói nhẹ nhàng, rồi hạ từng lời, kiểu như học trò vỡ lòng đánh vần từng chữ:

- Trong vòng ba năm, tôi sẽ không đụng đũa tới một miếng thịt trên mâm. Như vậy, sẽ chẳng một ai phải thiệt miếng....Và như thế, em hài lòng chưa ?

- A....

Vợ ông buông xuôi tay, nhìn nụ cười trên môi ông. Mặt bà đang đỏ gay bỗng ngả sang tím chàm rồi trắng bệch. Sống với ông hơn ba mươi năm bà biết rõ: Những nụ cười nhợt nhạt như vậy ông chỉ dành cho kẻ thù. Bà lùi lại, há miệng định nói điều gì đó nhưng không cất thành lời. Đột nhiên, bà quay phắt đi trong một vẻ đanh đá cong cớn bất thường. Rời khỏi phòng ăn bà bước thẳng ra sân, nơi những chậu cây Bút ngọc đang chờ tỉa lá.

Vũ đứng lại, hỏi đứa con trai:

- Có chuyện gì xảy ra giữa các con ?

- Không....Không có gì xảy ra cả ...

Vinh, đứa con trai của ông đáp lúng búng. Rồi nó chạy vụt khỏi phòng ăn ra sân. Chẳng cần nhìn theo, Vũ cũng hiểu rằng nó đi tìm mẹ. Đó là thành trì duy nhất của nó trong ngôi nhà này, nơi nó có thể an nhiên ẩn nấp để trốn tránh mọi thứ tội lỗi. Chờ cho Vinh đi khuất hẳn, ông cúi xuống hỏi Trung:

- Nó làm gì con ?

Đứa con trai nuôi oà lên trong cơn nức nở. Hẳn nó đã cố ghìm nén tiếng khóc, nhưng lúc này, con lũ đã vượt tràn qua đê, và nó khóc ngằn ngặt, khóc ngôi ngả như một đứa bé lên ba, với cái giọng vỡ rè của tuổi dậy thì. Vũ chờ cho nó khóc hết cơn, kéo đứa bé vào lòng:

- Con với Vinh cùng tuổi nhưng con hơn em mười tháng. Người xưa có câu: Trước một ngày cũng được gọi là anh. Con phải xử sự như một người anh chứ ?

- Vâng. Con vẫn nhớ lời ba. Nhưng hôm nay em Vinh chửi con.

- Nó chửi thế nào ?

- Em bảo con là đồ con hoang, là kẻ ăn chực.

- Bỗng nhiên nó nói thế sao ?

- Chúng con ngồi ăn cơm bởi mẹ nói rằng còn lâu ba mới về. Thoạt tiên, không có chuyện gì. Nhưng khi con định gắp thịt, em liền chặn đũa lại và quát: Mày là kẻ ăn chực, thứ con hoang. Phận của mày chỉ được phép ăn rau ăn lạc, không được phép ăn thịt ăn cá. Cho mày ngồi ăn cơm chung đã là vinh dự rồi.

Vũ lặng đi. Mặt ông lạnh toát và con tim ông cũng lạnh toát. Ông có cảm giác như nó ngừng đập trong khoảnh khắc. Một ý nghĩ chạy ngang qua óc não, buốt rát như kẻ nào đó cầm miếng sắt nung đỏ, di ngang qua da thịt da ông:

" Nó không thể tự nghĩ ra những điều này. Nó là một kẻ phàm phu nhưng ngu ngốc. Những lời lẽ độc ác này hẳn là tự mẹ nó truyền sang. Người đàn bà của ta ? Cớ sao cô ta hạ cấp đến như vậy ?"

Hồi lâu, ông cố trấn tĩnh và cất lời:

- Con chẳng nên chấp Vinh. Nó chỉ là thứ người tham ăn và chuyên nói láo. Con mới chính là con của ta. Mẹ con không tên là Vân nhưng máu chảy trong huyết mạch con chính là máu của ta. Da thịt trên thân xác con chính là da thịt của ta. Nếu mẹ Vân và em Vinh không chấp nhận con, ta sẽ rời xa họ và sống riêng với con. Chỉ riêng con thôi. Con có hiểu không ?

- A...

Thằng bé há miệng và cặp mắt nó cũng trố ra, nhìn ông. Trong trạng thái sửng sốt tận cùng của nó, ông đọc thấy cùng một lần sự hồ nghi lẫn nỗi sợ hãi khi đối diện với một hạnh phúc quá lớn. Ông hiểu rằng những lời ông vừa nói đã vượt qua mọi sự mong đợi của đứa bé, và đấy chính là giấc mơ tận cùng của mọi giấc mơ:

- Con chính là con đẻ của ta. Con đã hiểu điều đó hay chưa ?

Vũ lặp lại.

Trung vẫn đứng sững sờ. Mặt nó tái xanh và cặp môi nó ngả sang trắng nhợt. Ông nhìn thấy rõ những cơn sóng xúc động nối nhau chạy ngang đôi mắt đẹp của nó. Nỗi chua xót dâng trong lòng ông:

" Chao ôi...Nó mơ tưởng một người cha ! Có một người cha thật sự là hiện thực tầm thường với muôn triệu đứa bé khác nhưng lại là giấc mơ tột đỉnh hoặc một huyễn tưởng đối với chính nó. Tội nghiệp thay cậu hoàng tử mồ côi này. "

Ông nhìn sâu vào cặp mắt nâu trong suốt của nó, mắt loài bồ câu. Vẻ đẹp lộng lẫy nhưng đầy nữ tính. Phải chăng vì vẻ đẹp trớ trêu này mà nó phải cam chịu một số phận gian truân ?...Ý nghĩ mơ hồ ấy lướt qua như hơi gió thoảng. Vũ nắm chặt bàn tay đứa con nuôi và láy lại từng lời:

- Con chính là con đẻ của ta. Bấy lâu ta không muốn tuyên bố vì e ngại nhiều điều. Nhưng giờ đây, ta cần phải cho con biết sự thật. Bởi con cũng đã đến tuổi khôn lớn.

- Ba. !...

Thằng bé ôm chầm lấy ông, sự sung sướng đột ngột làm vỡ oà tiếng khóc. Nó gục đầu vào ngực ông. Nước mắt ngập tràn gương mặt, đầm đìa như dòng lũ. Vũ im lặng ghì xiết lấy đứa bé. Cùng một lần, nỗi dịu dàng lẫn sự chua chát trào lên làm tắc nghẹn họng ông.
 

*
* * *
 

Đồng hồ treo tường thong thả điểm mười hai tiếng, Vũ vẫn ngồi đọc sách, điềm nhiên như không có sự gì xảy ra. Vợ ông bước đến sau lưng ông, giơ tay gấp cuốn sách lại:

- Anh đi ngủ đi, muộn rồi.

Vũ mở lại đúng trang cũ, đáp:

- Em cứ ngủ trước. Anh cần đọc.

- Em xin lỗi....

- Em không có lỗi gì....Nói đúng ra, lỗi chính là ở sự ghép đôi của chúng ta. Anh rất tiếc...

- Anh muốn nói là ...

Vân cao giọng, bà bắt đầu nóng mặt vì những lời lẽ ôn tồn nhưng đau đớn của ông. Bà muốn tranh luận, muốn thuyết phục, muốn bày tỏ thiện chí....Nhưng Vũ đã quay lại và đưa tay chỉ bốn bức tường xung quanh.Vân nhớ ra rằng họ không thể nói chuyện ở đây, nơi những con rệp được cài đặt tứ phía, từ trong nhà đến các cây cổ thụ ngoài sân. Bà tìm tờ giấy trắng, viết:

" Ngày mai, chúng ta sẽ nói chuyện này. "

Ông viết câu trả lời, ngay dòng dưới:

" Ngày mai, anh phải đi từ sáu giờ sáng. "

" Vậy khi nào em mới có thể nói chuyện với anh ?"

" Khi anh quay về. "

" Chúc anh ngủ ngon. "

" Chúc em ngủ ngon. "

Vân vo tờ giấy, đoạn châm lửa đốt, thói quen họ đã có từ lâu. Rồi bà lên giường trước.

Còn ông, ngồi lại trước bàn, lật giở những trang giấy nhưng không hề nhớ một dòng chữ nào. Trên ngực ông, nước mắt đứa con nuôi vẫn còn ấm nóng. Bên tai ông, vang lên tiếng nức nở. Ông đoán được cơn bão nào đã đi qua tâm hồn đứa bé vào buổi trưa hôm nay:

" Tội nghiệp thằng bé....Bao nhiêu năm trời, nó vẫn thầm lén kiếm tìm dấu vết người cha. Dù ta thương yêu nó đến đâu chăng nữa, dù ta cố gắng sắm vai của kẻ làm cha thành thực, tận tuỵ và nồng nhiệt, sự thiếu hụt kia vẫn là hố sâu không thể lấp đầy. Tình huyết mạch là sợi dây vô hình giằng trói kiếp nhân sinh.....

Con chính là con đẻ của ta. Máu chảy trong huyết quản của con chính là máu của ta. Da thịt trên thân xác con chính là da thịt của ta !....

Sao bỗng dưng ta cất nên câu nói ấy ? Đó là cảm hứng của thần linh hay sự xui khiến của ma quỷ ?

Dầu sao, lời nói đã qua cửa miệng rồi. Một lời nói bốn ngựa đuổi theo không giữ kịp. Từ nay, thân phận của thằng bé sẽ gắn với thân phận của ta bởi mối liên kết thầm kín này. Sự bí ẩn của số phận đã nảy sinh để che giấu một bí ẩn khác. Ta không hiểu rằng ta hành động đúng hay sai ? "

Quả tình ông không biết ông đã hành động đúng hay sai khi ông nói với Trung rằng nó chính là con đẻ của ông, một đứa con ngoại hôn, nếu hiểu theo đúng nghĩa. Nhưng vào buổi trưa nay, ông không còn cơ hội để suy tính, cũng chẳng còn thời gian để đắn đo. Ông đã hành động theo kiểu một nhà thơ ngẫu hứng dù ông vốn chẳng phải thi nhân, cũng không quen hành động theo ngẫu hứng. Nhưng ông biết làm gì đây khi chính vợ ông và đứa con trai đẻ của ông đã xô đẩy đứa con nuôi vào trạng thái uất hận tuyệt vọng này ?

" Ta có lỗi chăng khi để xảy ra tình thế tồi tàn, đồi bại như vậy ? "

Ông tự hỏi.

Và tâm hồn ông tràn đầy bóng tối.

Ông không đo đếm được sự phức tạp của cuộc sống. Ông tỏ ra vô năng khi lèo lái con tầu gia đình. Ông không đủ sáng suốt hay thiếu lòng can đảm để có thể hiểu rõ bản chất người đàn bà và đứa con trai của chính ông ?...

" Có lẽ ta thiếu cả hai thứ, sự sáng suốt lẫn lòng can đảm. Ta thiếu cả hai phẩm chất cần thiết nhất đối với một người đàn ông, một kẻ làm cha và một kẻ làm chồng. Hình như đã có người từng nói với ta về điều ấy ? "

Hình như....

Những tiếng " Hình như " bao giờ cũng kéo theo những vang vọng của quá khứ, và cùng với các hồi âm ấy, người ta lật giở lại những trang giấy đã ố vàng cùng tháng năm. Vũ biết trong ông có một người đàn ông cổ xưa, quan tâm tới gia phong và các giá trị được tu tạo xung quanh nó. Cũng vì thế, một đứa con trai, kẻ nối dõi tông đường là ước mong thầm kín nhất và cũng quan trọng nhất đối với ông sau khi lập gia đình. Sau mười bảy năm thất bại trong những lần xảy thai liên tục, ngày Vinh ra đời đối với ông thực sự là ngày hội " Vui mừng rơi lệ " như người ta vẫn nói tự ngàn xưa. Vũ nhớ rằng ông đã thức trắng ba đêm liền cùng Vân khi bà chịu đựng những cơn đau trở dạ. Ông ngồi cho bà tựa khi bà không muốn nằm, đưa cánh tay cho bà cấu xé khi bà bị cơn đau hành hạ. Bà sinh nở xong xuôi, hai cánh tay ông còn chi chít vết sẹo cho đến cả tháng sau chưa hết. Đám đàn bà cùng phòng nhìn Vân với những cặp mắt ghen tị không che giấu. Họ nhìn ông cũng với sự thèm muốn không che đậy. Vợ ông, hẳn chưa quên điều đó. Hẳn bà cũng không thể quên rằng chính ông là người đã tự tay đảm nhiệm việc giặt giũ cũng như nấu nướng phục vụ bà, cho dù cả hai bên gia đình cũng như cơ quan đều có sẵn một đống người trợ giúp. Tất thảy những gì ông đã làm đều xuất phát từ một ý thức rõ rệt là vợ ông phải được sung sướng tối đa khi trở thành người mẹ, khi họ trộn máu huyết để tác tạo nên một con người, kẻ có sứ mệnh ghi dấu và kéo dài tên tuổi, hình hài, danh tiếng của cả hai dòng họ....

Thời Vinh còn nhỏ, từ một đến sáu tuổi, với vóc dáng thanh tao và gương mặt xinh đẹp kiểu " mỹ nữ Hồng kông ", nó giống mẹ hơn giống bố. Thời ấy, hai người đoan chắc con trai họ lớn lên sẽ trở thành minh tinh màn bạc, nếu chẳng phải cỡ siêu sao Hô-ly-út thì cũng phải là một thứ Yve Montand hay Alain Delon. Nhưng từ năm lên mười, mọi đường nét của nó hoàn toàn thay đổi, Vinh không còn là ngôi sao màn bạc mà có dáng dấp của một gã dô-kề. Lúc ấy, hai vợ chồng ông chuyển từ giấc mơ nghệ thuật sang giấc mơ quán quân thể thao nhân dịp Vinh nhận được một giải nhì trong cuộc thi điền kinh của trường tiểu học. Cùng với sự đổi thay ngoại diện, thằng bé bộc lộ những phẩm chất mà không một bậc cha mẹ nào mơ ước. Trước hết, nó tham ăn một cách khủng khiếp. Đứa con trai ông có một niềm đam mê bệnh hoạn khi nó sà xuống bàn ăn. Vào lúc đó, nó không còn nhìn thấy ai, không còn quan tâm đến bất cứ một thứ gì, ngoài việc chúi đầu xuống gắp. Vào những dịp đặc biệt, vợ ông mời đầu bếp đến nhà nấu những món ăn lạ, Vinh viện cớ trốn trường để ở nhà, chui xuống tận bếp ăn trước cả cha mẹ lẫn khách khứa. Tuy nhiều lần, Vân thuyết phục ông rằng trẻ ham ăn là điều đáng mừng, bởi như thế cơ thể của nó sẽ mạnh khoẻ cường tráng ; nhưng khi nhìn đứa con trai vục đầu xuống mâm, ăn không kịp nuốt không kịp thở, Vũ thấy mặt mình bỏng rát. Từ năm Vinh mười hai tuổi, lông mép đã mọc xum xuê, giọng vỡ ồ ồ, vợ ông yêu cầu nó ăn cơm riêng với Trung trong gian bếp để khỏi làm ông xấu hổ.

Có thể là những khi một mình đối mặt với sự thật, vợ ông cũng đau lòng. Nhưng trước ông, bà không bao giờ lùi bước. Bà phải bảo vệ đứa con trai của bà, tác phẩm duy nhất trong cuộc đời làm mẹ của bà bằng mọi giá. Nhiều phen, Vũ những muốn tin vợ, muốn tin rằng con mình rồi đây sẽ trở thành:

" Một ai đó vô cùng sáng láng trong tương lai. "

Đôi phen, ông cũng tự thuyết phục mình rằng có thể tồn tại những con người mà tài năng cũng như nhân cách chín muộn màng, bộc lộ muộn màng, giống loài than cháy chậm, kiểu như quan thượng thư Lã Vọng, ngồi bên khe câu cá đến bát tuần mới ra tay trị quốc...Nếu như vậy, con trai ông rồi đây có thể sẽ trở thành một nhà nghiên cứu lừng danh, người sáng chế máy bay, tầu thuỷ, chất dẻo tổng hợp hoặc một bác sĩ đem lại khả năng cứu rỗi cho những con bệnh hiểm nghèo. Nó hoàn toàn có thể trở thành một con người hữu ích với nhân quần, đem lại vinh danh cho tiên tổ. Với điều kiện là nó phải thay đổi tính nết, trở thành đứa ham học.

" Với điều kiện là.... "

Ôi giấc mơ bất khả của những kẻ làm mẹ và làm cha !

Dù đau đớn như chết từng khúc ruột, Vũ cũng thấy rằng cái ngày hy vọng của ông mỗi lúc mỗi lùi xa. Lùi xa đến vô cùng tận. Trong hiện thực cay đắng, càng ngày con trai ông càng trở thành phiên bản của cậu ấm Tùng, em trai Vân. Về ngoại diện, sự đổi thay này khiến cả họ phải bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Thoạt tiên, mũi nó bành trướng trên gương mặt một cách quá cỡ, với hai cánh mũi vừa to vừa dầy, với cái đầu mũi hình củ tỏi lúc nào cũng bóng loáng. Rồi cặp mắt nó dần dần nhỏ lại trong khi hai hàng lông mày mọc dày rậm cũng quá khổ, kiểu lông mày thiên hạ gọi là lông mày sâu róm. Nó béo lên rất nhanh bởi tính tham ăn, và càng béo, những ngấn thịt càng nổi vồng lên trên hai má, xoá đi những nét thanh tao cuối cùng còn sót lại của tuổi ấu nhi. Vũ không tin lắm vào thuật xem tướng, nhưng ngoại hình của đứa con khiến ông thất vọng, bởi do nghiệm sinh, ông biết rằng sự thay đổi hình tướng thường kèm theo những đổi thay trong đời sống tâm linh hoặc tinh thần. Không lâu, những điều ông ngờ vực đã được chứng minh. Những năm tiểu học, Vinh luôn luôn được xếp hạng là học sinh giỏi. Sang năm thứ nhất trường trung học, nó tụt xuống hạng trung bình. Ngay năm sau, nó rơi xuống nhóm " học sinh đặc biệt " và từ đó, nó tiếp tục rơi xuống theo chiều thẳng đứng....Từ đây, Vinh bị kèm cặp thường xuyên và vợ ông bắt đầu lui tới nhà các thầy các cô như cơm bữa. Vũ thấy vợ luôn luôn gói ghém các loại quà, khi thì những món đồ ngoại quốc ông mua trong các kì " đi xứ " ; khi là những món đồ thực phẩm đặc biệt đem từ quê ra: nào gà giò vườn, nào cua biển tôm biển tươi ốp trong bẹ chuối, nào hoa quả và các loại mứt trái cây tự nấu...Một lần, cầm lòng không đậu ông phải bảo vợ:

- Em sẽ làm hư con trai chúng ta thêm một trăm lần nữa nếu sự việc này tiếp diễn. Vinh không có một chút cố gắng tự thân nào. Nhiều lần anh để ý, thấy nó ló đầu vào xem em gói quà mang đến nhà các thầy cô như khán giả xem xiếc, nhởn nhơ như chuyện đùa chơi. Dường như nó nghĩ rằng nó cứ thả sức chơi bời và ngu dốt, còn cha mẹ phải lo tất cả phần đời của nó. Hãy dừng tay lại, nếu không con trai em sẽ trở thành một kẻ hoàn toàn vô dụng như cậu của nó, tấm gương xấu xa đã hiển hiện rành rành.

Vợ ông đỏ nhừ từ mặt xuống chân tay, quay sang chì chiết:

- Em biết gia đình em thua kém gia đình anh. Em trai em học hành ngu dốt. Tại sao anh không chọn một người đàn bà học vấn tót vời, từ đầu xuống chân phủ đầy chữ ?

- Em không cần tự ái vặt. Phải nghĩ đến tương lai con chúng ta một cách nghiêm chỉnh. Muốn thế, phải nhìn thẳng vào sự thật. Sự thật là Vinh càng lớn càng ham chơi. Cậu Tùng đến rủ cháu đi bất cứ lúc nào. Và chính em là người bao che cho cả hai đứa. Học hành như thế, sớm hay muộn cũng đứng bên lề xã hội.

- Trong gia đình này chưa có ai phải đứng bên lề xã hội. Anh đừng quá khắc nghiệt với con. Nó là đứa cứng đầu, vì thế phải lựa chiều mà uốn. Nhìn mà xem, có biết bao nhiêu người thành đạt trên đời này đã trải qua một thời học trò ngỗ nghịch. Thậm chí có những người mù chữ cũng vẫn thành công. Người ta bảo: ngựa hay thường đái tật...

Vũ đành im lặng. Ngao ngán mà im lặng. Ông còn biết nói gì hơn ?...Ông thấy mình bất lực. Liệu ông có thể làm gì được để xoay chuyển tình thế ?...

Đứa con là tác phẩm chung của họ nhưng phần đóng góp của bà lớn hơn. Suốt thời kì mang thai, bà không ngừng nôn, không ngừng đau ốm. Sự thai nghén của bà một vạn lần khó khăn hơn những người khác. Cơ thể bà không thích ứng với việc thai nghén và sinh nở. Đứa con trai này là cuộc xổ số duy nhất trong đời bà. Không thể có lần thứ hai. Mười bảy năm có thai rồi lại xảy thai, xảy thai tháng trước vài tháng sau nghén lại....cái điệp khúc tồi tệ đó cứ lặp đi lặp lại như cơm bữa khiến chẳng những họ hàng mà những đồng nghiệp của Vân đều coi việc bà đến viện phụ sản như là một thứ công việc thường hằng. Mọi lần mang thai đều không vượt quá tháng thứ tư. Nhờ một sự huyền diệu trời đất đem lại, bà mới có được Vinh vào năm bốn mươi mốt tuổi, cái tuổi chấm dứt mọi hy vọng cho những ai muốn làm mẹ. Thế nên, đối với bà, đứa con trai này chính là hoàng thượng không ngôi. Điều lạ lùng là nó có thể làm xoay chuyển hoàn toàn cách nhìn của người mẹ. Thuở họ mới yêu nhau, Vân thường công khai bộc lộ ác cảm đối với đứa em trai mà bà thường gọi là " thằng Tùng lợn". Giờ đây, vì con trai của họ lại giống " thằng Tùng lợn" như hai giọt nước nên cái nhìn của Vân với đứa em trai bỗng trở nên trìu mến, dịu dàng. Còn ông, nhiều lần quan sát hai cậu cháu chuyện trò, đùa cợt, tán tỉnh, ăn uống....ông không tránh khỏi nỗi kinh hoàng. Một gã đàn ông ngoại tứ tuần, râu ria nhẵn nhụi với đứa bé đang dậy thì, lông mép đen rì từng đám. Cả hai đều có gương mặt đầy ú các múi thịt. Cả hai đều có những cặp mày đen rậm quá cỡ khiến mắt họ chỉ còn là những khe hẹp dưới bóng râm của chúng. Cả hai đều có cái vẻ hồn nhiên dâm đãng khi đưa mắt nhìn một cô gái hay một người đàn bà. Tiếng cười hy hý như tiếng ngựa của họ cũng giống nhau đến nỗi đôi lần, ông chịu không nổi phải bỏ đi. Mười hai tuổi, con trai ông đã có một vòng mỡ bụng ,giống như cậu nó thuở xưa, ngày ông đặt chân lên ngưỡng cửa nhà bà Tuyết Bông, đại lý nước mắm phố huyện:

" Làm sao ta có thể hình dung được bến nào dòng đời chảy đến ? Nào ta có ngờ đâu đứa con duy nhất của ta lại mang đầy đủ dấu vết đồi bại của dòng họ ngoại ? Ta yêu Vân vì tin tưởng rằng đó chính là hình hài được tái tạo của ông giáo Vương mà không biết rằng trong dáng vóc đẹp đẽ thanh tao của người cha, cô ấy vẫn dung chứa những hạt mầm bản thể của người mẹ, bà chủ đại lý nước mắm nổi tiếng xấu cả nết lẫn người ? Phải chăng cuộc hôn nhân này là thất bại lớn nhất trong cuộc đời ta ? Một thất bại không còn cơ cứu vãn ?"

Những năm đang ở tuổi trăng rằm, họ là nam thanh nữ tú của phố huyện Phù lưu nổi tiếng sung túc. Rồi họ lại cùng được gởi sang Hà nội học trung cấp, không cậu ấm cô chiêu cũng quần là áo lượt và được gia đình chu cấp đầy đủ để có thể theo kịp bạn bè. Tình yêu nảy nở dễ dàng khi họ cùng đi trên một chuyến tàu, và nàng ngồi mở cuốn tiểu thuyết đọc trong khi chàng lật các trang báo. Tình yêu cũng nảy nở dễ dàng khi cùng chung những trại hè " Hướng đạo sinh" khi cùng ngâm ngợi những khúc ca ngoại nhập: Nào Sê-nê-rat, nào Trở lại mái nhà xưa, nào San-ta-lu-sia...Vả chăng, Vân đẹp. Bà được mệnh danh là Hoa hậu Phù lưu. Vả chăng, cả hai đang tuổi mơ mộng tình ái. Vả chăng, nỗi lo cơm áo cũng như cơn cuồng phong cách mạng chưa chạm tới họ. Vả chăng....

Ô, còn biết bao sự vả chăng nữa để ông quay lại kiểm chứng cuộc hôn nhân đã ngoài ba thập kỉ của mình ? Nhưng Vũ nhớ rằng lần đầu dẫn Vân về nhà ông đã không báo trước với cha mẹ để gây sự sửng sốt, theo cung cách của các chàng trai thời ấy. Bố mẹ ông đã đứng lặng đi một hồi trước khi có thể đáp lại lời chào của vị khách xinh đẹp sóng đôi với cậu con trai. Đêm hôm đó, cha ông gọi ông ra nhẹ nhàng nói:

- Thời đại đã đổi thay. Giờ chẳng ai dám hỏi vợ hay gả chồng cho con mà không được trẻ thuận tình. Cha cũng thấy điều ấy là hợp với lẽ phải. Nhưng người sống với người là sự vô cùng khó khăn trên đời này. Đừng quên điều ấy. Một khi con đã cam kết sống với một người đàn bà, tức là con cam kết chịu nửa phần trách nhiệm cuộc sống của người ấy. Thế nên, phải biết dè chừng.

- Ý cha muốn nói tới hoàn cảnh nhà Vân ?

Ông hỏi lại người cha với sự thẳng thắn và nồng nhiệt:

- Nhưng hai chúng con có chung một đánh giá. Chính Vân cũng thừa nhận rằng mẹ cô ấy là một người đàn bà thiếu phẩm hạnh. Một khi đã xác định sự việc, ắt Vân phải biết cư xử theo lối ngay.

- Tuỳ ý con.

Cha ông đáp sau một chút ngập ngừng. Rồi, bỗng nhiên nhấn giọng:

- Người xưa nói lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Con hãy thử nghĩ xem họ có lý hay chăng ?

- Vâng, con sẽ suy nghĩ lại việc này.

Ông trả lời tức khắc.

Rồi ông đã nghĩ lại. Nhưng sự nghĩ lại của trai tơ không kéo dài quá hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Sự nghĩ lại của một kẻ đang yêu lại càng ngắn ngủi hơn. Một lời nói của mỹ nhân đủ sức san bằng mọi thành trì của định kiến hay ngờ vực.

Chiều hôm sau, Vũ tức tốc tìm Vân, đặt câu hỏi thẳng thừng:

- Em có nghĩ cuộc hôn nhân của bố mẹ em là thoả đáng hay không ?

- Không, một ngàn lần không.

Vân đáp lại tắp lự. Câu trả lời vừa thẳng thắn vừa dứt khoát. Cuộc hôn nhân oái oăm giữa ông giáo Vương và bà chủ đại lý nước mắm Tuyết Bông là đề tài thường trực từ mấy chục năm nay cho dân phố huyện, dù muốn hay không Vân cũng đã nghe mọi lời đàm tiếu từ thuở lên năm. Xét trên mọi chiều, từ ngoại hình đến phẩm cách, bố mẹ Vân vẽ nên bức tranh biếm hoạ hiếm hoi. Một ông giáo chỉn chu, dung mạo tuấn tú thanh tao, nói năng từ tốn, cử chỉ khoan hoà sóng đôi với một bà phì nộn, vừa keo kiệt vừa đanh đá chua ngoa. Dân phố gọi sau lưng bà là " mụ béo mồm loa mép giải ". Và họ liệt kê ba loại hoạt động chủ yếu của cái miệng rộng ngoác với cặp môi dầy cong cớn của bà: Trả giá hay thanh toán tiền nong ; cãi cọ hoặc chửi bới láng giềng lẫn con cháu ; và ăn quà vặt – một thú tiêu khiển vô tận...Không kể sự đành hanh hay lối vênh váo cậy tiền cậy của, chỉ riêng thói tham ăn của mẹ, cô con gái đã nhiều phen phỏng mặt vì hổ thẹn trước bạn bè. Chừng như muốn cho người yêu biết rõ thái độ cương quyết của mình, Vân giải thích:

- Ông nội khi đang ốm nặng đã gọi bà nội và bố Vương vào phòng, yêu cầu cưới mẹ Bông. Một tuần sau, trước khi chết, ông lại nhắc lại việc ấy. Vì thế sau ngày giỗ đầu, bà nội đã làm đám cưới gấp cho hai người.

- Vì lý do gì ông nội buộc bố em làm điều ấy ?

- Em không biết. Bởi bà nội cũng không biết và bố Vương cũng không biết.

- Dù bố em không hề yêu mẹ em ?

- Tất cả mọi người, trong họ hay ngoài phố đều biết điều ấy.

- Nhưng bố em đã chấp nhận vô điều kiện.

- Trong nhà, ông nội là mặt trời. Lời của ông là mệnh lệnh.

- Nếu bây giờ, bố em buộc em phải lấy một người em không hề yêu thương, giống như ông nội em đã từng làm ?

- Ồ không!...

Vân trả lời ngay, không một chút nghĩ ngợi:

- Không bao giờ em chấp thuận điều ấy.

- Vì sao ?

- Vì thời đại đổi thay rồi. Lúc này các bà tân thời đã mặc quần sooc ra đường. Em chẳng phải tân thời nhưng cũng không phải người của thời phong kiến.

Họ cười ngất, tự cảm thấy may mắn vì sống trong một thời đại mới, được tự do yêu nhau và được cưới nhau theo sở nguyện. Ông trở về nhà, thuật lại cuộc chuyện trò của họ với bố mẹ, yên trí rằng mọi ngờ vực đã được giải quyết. Tuy nhiên, bố mẹ ông vẫn tìm mọi cách thoái thác tiến hành lễ kết hôn cho họ. Cuộc kết hợp giữa ông giáo Vương với bà chủ đại lý nước mắm gợi quá nhiều băn khoăn trong lòng họ. Cha ông tìm cách điều tra ngọn ngành vì theo lẽ thường, phải có một ràng buộc bí ẩn và khủng khiếp mới có thể bắt đứa con trả một món nợ kinh hồn như vậy. Không một ai không hiểu cái sự thật này: người như ông giáo Vương mà phải sống chung với bà Tuyết Bông cũng giống như phải chấp nhận chung thân đoạ đầy trong địa ngục hay lò luyện tội, rằng như thế cả một kiếp người đã biến thành món hàng đổi chác. Và điều sau cùng là cốt yếu: những cuộc hôn nhân oái oăm bất hạnh như thế thường để lại những vết tàn phá cho đời sau....

Thiên hạ đã đưa ra bao nhiêu giả thuyết cho sự kiện này. Có người cho rằng cụ Kí, thân sinh của ông giáo đã có thời cùng sang Lào đào vàng với cụ Cử, cha đẻ bà Bông. Trong một lần sập hầm, cụ Cử đã cứu bạn thoát chết. Để đền ơn cứu mạng, cụ Kí hứa sẽ cưới con gái duy nhất của ân nhân cho con trai duy nhất của mình.

Nhưng nhiều người lại vạch ra rằng chuyện đào vàng đãi cát là chuyện viển vông, một cách giết thời gian của những kẻ tầm phào , vì cả cụ Kí lẫn cụ Cử đều là dân nuôi móng tay dài, cầm con dao rựa không chặt, sức vóc đâu mà theo đám phu moi đất đãi cát tìm vàng ?...Vàng bao giờ cũng chảy cùng dòng với máu. Theo nghề này nếu không là loại đầu nậu, túi ních chặt tiền, óc đầy lèn mưu mô quỷ quyệt để đứng lên làm chủ mỏ thì chỉ là đám giang hồ, coi chuyện dao búa như cơm bữa hoặc những kẻ lâm bước đường cùng, tuyệt kế sinh nhai, tự thí mạng mình như rơm như cỏ... Sự thực là cụ Cử lẫn cụ Kí đều có máu cờ bạc. Họ đánh bạc quanh năm, thắng cũng nhiều, thua cũng lắm. Vào một năm vận hạn, cụ Kí thua liên tục suốt một mùa đông. Nhưng càng cháy túi càng khát nước, cay cú gỡ cờ, cụ đã cầm cố cả nhà cửa lẫn ruộng vườn, trong phố cũng như dưới quê; bao nhiêu của chìm của nổi đặt hết lên chiếu bạc với ước muốn điên cuồng là lấy lại những khoản tiền đã mất. Nhưng thần hộ mệnh đã bỏ cụ mà đi chỉ còn sự đen đủi cặp kè như hình với bóng. Sau rốt, tất thảy gia sản bị thiêu cháy trong ngọn lửa nhà sòng. Giáp Tết, cụ Kí nhìn thấy trước cảnh vợ con bị đuổi ra khỏi cửa, trở thành những kẻ đầu đường xó chợ. Vừa sợ hãi vừa day dứt vì tội lỗi của mình nên cụ Kí tìm đường tự vẫn. Chính

lúc ấy, cụ Cử thanh toán tất thảy những món nợ lớn nhỏ cho bạn, chỉ với ước nguyện duy nhất là sau này....khi hai đứa trẻ khôn lớn, họ sẽ trở thành thông gia....

Những chuyện đồn thổi luôn luôn là những chuyện đồn thổi. Các giả thuyết luôn luôn chỉ là giả thuyết bởi người cùng thời với hai ông không còn sống để xác nhận sự thật cuối cùng. Vả chăng, lịch sử muôn đời vẫn là cuốn sách chép lại các giả thuyết và sau mỗi giả thuyết lại có vô số điều bí ẩn. Lịch sử bé nhỏ của mỗi gia đình cũng vậy. Các bí mật luôn luôn tồn tại để tô điểm và huyền bí hoá đời sống. Bố mẹ ông không thích lắm sự huyền bí này nhưng sau hơn một năm nhọc công điều tra mà chẳng đi tới kết luận chân xác nào, họ đành chấp thuận làm đám cưới cho hai trẻ. Và như thế, đám cưới của họ đã diễn ra trong một cách xuôn xẻ, tuy có đôi phần còn gượng gạo. Bố mẹ Vũ vốn là những người thanh lịch. Họ biết cách giấu cái phần gượng gạo đó một cách tối đa.

Vào những năm đầu cuộc sống lứa đôi diễn ra như mong ước. Hai vợ chồng trẻ sống riêng, phần vì công việc, phần vì bố mẹ ông sống chung với vợ chồng người anh cả nên đã lo sẵn gia cư cho ông trước ngày cưới. Tuy nhiên, ngay vào những năm hương lửa mặn nồng ấy, gia đình vẫn là cái nôi êm ấm không thể thiếu vắng trong tâm hồn ông. Mái nhà xưa là nơi ông thường xuyên quay về. Vợ ông phải chấp thuận điều ấy. Trong thâm tâm bà muốn độc chiếm thời gian cũng như tình yêu của ông nhưng biết rằng điều đó là bất khả. Thành thông lệ, vào cuối tuần họ trở lại nhà Vũ. Mọi người quây quần trong những bữa cơm mà chỉ riêng các món ăn dân giã quen thuộc đã khiến người ta thoả mãn hơn bước chân vào cao lâu hay tửu quán. Mẹ Vũ, tuy đã già nhưng vẫn là người đầu bếp sành điệu. Bà nấu ốc bung dọc mùng, ếch xào măng ớt, cá quả om rau cần, tôm rim rượu nếp hoặc lươn om nghệ ngon hơn hết thảy những nhà hàng mà họ từng được ăn. Thêm nữa, không chỉ vì món ăn ngon nhưng còn ở không khí nồng ấm của gia đình, mối thiện cảm chân thành giữa những con người cùng chung gốc rễ....Mỗi năm họ chỉ quay lại nhà Vân một lần, vào dịp Tết. Bởi đó là điều không thể tránh được, một thứ lễ thức. Vũ buộc lòng chấp nhận vài bữa ăn chung. Điều ấy không vượt quá sức chịu đựng của ông, cho dù chạm mặt bà mẹ vợ, ông cảm thấy như bị gai nhím đâm mỗi lần nhìn cung cách cong cớn của bà khi quát tháo, hoạnh hoẹ người làm công và đầy tớ, hoặc điệu bộ vênh váo của bà khi xỉa tiền, cái cách biểu lộ sự hỉ hả của một người đàn bà vô duyên, vô hạnh, vừa nhai vừa ngửa mặt lên cười khiến cả mớ thức ăn đang nhào trộn trong cái miệng rộng ngoác của bà phô bày ra một cách gớm ghiếc.... Bà chủ đại lý nước mắm biết điều rõ ấy. Một lần, bà nói toạc móng heo:

- Tôi biết tôi không vừa mũi anh chị. Nhưng anh chị cũng chẳng vừa mũi tôi. Tốt hơn cả là cơm ai người ấy ăn, giường ai người ấy ngủ. Một năm mang lễ về đặt lên bàn thờ là đủ.

- Bà nói gì vậy ? Thật là quá quắt...

Ông giáo trừng mắt răn đe. Bà Tuyết Bông cụp mắt im lặng. Dù là kẻ lăng loàn, có thể sắn váy chửi nhau với bất kì ai vì một đồng xu, có thể tuôn ra hàng tràng những lời nguyền rủa độc địa với bất kì người láng giềng nào dám đụng tới bản thân hoặc con trai mình , nhưng bà lại sợ chồng một vành. Trước mặt ông, bà có vẻ của một con chó trung thành. Cặp môi dày vô tận của bà luôn khép lại khi ông cao giọng. Cặp mắt sư tử cái của bà cũng luôn luôn cụp xuống theo cách loài thỏ cái khi ánh mắt ông chiếu tới. Một khi ông đã ra lệnh, bà phải xuống mã ngay tức khắc cho dù trước đó một giây bà có thể nhẩy chồm chồm như con ngựa cuồng đang xung trận.....Dân phố huyện bảo rằng bà tuổi chuột còn ông tuổi rắn, chuột có thể rỡn mặt với mèo nhưng gặp rắn thì hoàn toàn tê liệt chỉ còn nằm chờ chết. Số khác lại nói chẻ hoe ra rằng chẳng cần tuổi với tác, hạng người như bà, nếu chẳng nhờ một mối duyên tiền định bí ẩn áp đặt, hẳn chỉ có thể ngồi mơ ....các gã khố rách áo ôm, chân đất mắt toét kiếm cơm bằng nghề rong lợn đực trên các nẻo đường thôn....

Như thế, đã nhiều năm họ sống theo nguyên tắc: Dâu là con, rể là khách. Vân cũng chưa bao giờ phật ý khi ông chỉ trích những thói xấu của cậu ấm Tùng. Nhưng giờ đây, mọi sự đã thay đổi. Kể từ ngày con ông lớn lên, và nó trở nên một cậu ấm Tùng thứ hai, có nguy cơ còn tồi tệ hơn cả nguyên mẫu. Bởi chỗ đứng của ông chẳng phải là cái bục gỗ trường tư thục phố huyện. Sự thối nát mọc trên cái cây của uy quyền, sẽ ngàn lần thối nát hơn khi nó nảy mầm trên mặt đất hoặc giữa đống rơm.

"Chao ôi, con cái là những xiềng xích bằng vàng "

Một lời than não nùng bất giác vang lên trong óc não ông. Cùng một lúc, trái tim ông bị xuyên thủng bởi hai mũi tên, hai gương mặt đồng hiện: Con trai của chính ông. Và con trai của một người đàn ông khác.

" Ta sẽ chết....ta sẽ chết bởi sự giằng xé này. Bởi nỗi khổ đau không thể bày tỏ cùng ai...Bởi đường hầm tối chẳng tìm ra lối thoát ."

Ông bật lên một tiếng rên. Nhưng chợt nhớ ra rằng vợ ông đang nằm trên giường và chắc chắn là chưa ngủ nên ông vội nghiến răng lại để ghìm giữ cơn rên rỉ. Rồi một gương mặt khác hiện lên, cùng một ý nghĩ sắc nhọn như lưỡi kiếm:

"Nhưng không! Ta không có quyền chết. Ít nhất ta chưa được quyền chết vào lúc này. Với cái chết của ta, bọn khốn kiếp sẽ tự do hành động. Với cái chết của ta, bao người sẽ phải hệ luỵ. Rồi chưa biết những gì đáng tiếc sẽ xảy ra. Không, ta phải sống. Ta không được quyền thua..."

Đưa tay ôm đầu, mò mẫm như một kẻ bị trúng thương, ông lò dò đi về phía giường ngủ.
 

Coi tiếp SONG TẤU (2)
 

www.geocities.ws/xoathantuong