NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT (2)
 

Giấc ngủ ấy không có ác mộng, cũng chẳng có cơn mơ vàng.

Không một hình bóng quá khứ, cũng chẳng một nét vẽ về tương lai.

Giấc ngủ ấy đen kịt như đêm đông, dầy đặc như sương mù tháng chạp, nặng nề như cỗ xe bò chở gỗ. Giấc ngủ ấy như con thuyền bơi trên một dòng nước mênh mông, lặng lờ không sóng vỗ, chẳng ra sông cũng chẳng ra hồ, không phải đầm nước trong cũng chẳng phải vùng biển đục. Con thuyền ấy chở anh trôi đi, trôi triền miên giữa một vùng đen thăm thẳm...

Đại đội trưởng An ngủ liền một mạch cho đến tận mười giờ sáng hôm sau, khi ban chỉ huy tập trung, tiểu đoàn trưởng Nhã thấy thiếu mặt anh cho lính quay về gọi. An vùng dậy, đi ngay.

Trong hầm chỉ huy, tất cả đã tề tựu, người đứng kẻ ngồi, túm tụm thành từng nhóm. Thấy anh, tiểu đoàn trưởng Nhã tiến ra đón:

- Ngủ kĩ vậy? Tôi ăn sáng rồi đi luôn không quay lại hầm. Tưởng cậu phải nhớ giờ mà dậy?

- Thủ trưởng biết tính tôi hay ngủ nướng mà. Khi tôi thức dậy hãy còn tối đất nên đành nằm xuống ngủ thêm giấc nữa. Giấc ngủ lại bao giờ cũng nguy hiểm. Sao? Các đồng chí đã có tin tức của sư trưởng hay chưa?

- Không thấy gì hết... nhưng...

- Có chuyện gì vậy?

- Lính tìm thấy hai chiếc quần của họ, cùng vũ khí và những thứ đồ lặt vặt trên bờ suối. Sư đoàn đang đứng trước sự lựa chọn nan giải: Hoặc là báo cáo lên trên, chờ phán xử. Hoặc phải tìm cho ra lý do hợp lý hoá việc này. Sư đoàn phó và tất cả chúng tôi hy vọng sự gợi ý của đồng chí. Ở đây, đồng chí là người duy nhất từng quen biết đại đội trưởng dân tộc Mèo, đối tượng tác nhân.

- Xin cảm ơn sự tin cậy của các cấp lãnh đạo. Nhưng khả năng hiểu biết của tôi vô cùng hạn chế. Mã Lỳ là người Mèo. Anh ta ở nhà đất, ăn bánh ngô, trồng thuốc phiện là nghề chính.Tôi là dân Tày. Dân Tày chúng tôi ở nhà sàn, nuôi trâu bò gà lợn và trồng lúa nương, ăn cơm tẻ lẫn xôi nếp. Thông thổ, tập tục khác nhau. Thêm nữa, cũng đã mười lăm năm cách biệt.

- Dẫu sao các đồng chí cũng đã từng là đồng đội. Vả chăng, cùng là dân miền núi.

An cất tiếng cười:

- Bây giờ tất cả chúng ta đây đều là dân miền núi bởi chúng ta sống trong dãy Trường sơn. Gọi dân miền núi chung chung có nghĩa rằng chẳng biết gì về đám dân sơn cước.

- Ồ... thành thực mà nói...

Nhã lúng túng đáp rồi gỡ kính xuống lau, cử chỉ quen thuộc mỗi khi bối rối. Lúc đó sư đoàn phó đã nhìn thấy An nên ông vội vã tiến đến. Theo sau ông là nhóm cán bộ đứng đầu các tiểu đoàn. Mọi người chào nhau rồi tất thảy xúm quanh An với vẻ chờ đợi. Nhưng anh quay sang tiếp tục nói với tiểu đoàn trưởng Nhã:

- Trước hết, tôi muốn xem người ta tìm thấy những gì trên bờ suối. Bởi, tôi không tin Mã Lỳ rủ sư trưởng xuống suối tắm, nhất là lúc trời đã tối đen và nước đã trở lạnh. Nói thẳng thừng, người Mèo không thích tắm. Họ có thói quen tắm lửa, nhất là những ai đã lâu ngày hút thuốc phiện. Đồng chí biết thuốc phiện đã từng được coi như cơm trắng trong vương quốc người Mèo?

- Thú thực, lần đầu tôi nghe chuyện ấy. Quê tôi ở ven sông Hồng. Từ ngày vào lính cũng chỉ tiếp xúc với dân Kinh. Đồng chí là người dân tộc đầu tiên tôi quen biết.

- Lãnh thổ của người Mèo nằm trên tam giác vàng, miền trồng cây anh túc và sản xuất thuốc phiện cho nửa phần châu Á. Vua Mèo Hoàng-su-Phì từng thống lĩnh một đội quân đặc biệt tinh nhuệ, có nhiệm vụ bảo vệ những chuyến hàng vượt biên giới, đánh trả lại bất cứ quân lính của quốc gia nào cũng như các toán lục lâm. Dân Mèo vì thế buộc phải trồng thuốc phiện cho nhà vua để đổi lấy gạo, muối, cá mắm khô và dầu hoả. Nhiều đời như thế, họ trở thành nghiện thuốc phiện như người Kinh nghiện ăn cơm trắng. Không hiểu vì lý do nào, những người nghiện thuốc phiện thường rất sợ nước. Họ ít khi tắm suối, tắm khe hoặc đun nước nóng tắm trong nhà. Họ thường cởi quần áo ngồi cạnh đống lửa để hơi nóng làm mồ hôi toát ra khắp các lỗ chân lông, rồi họ lấy tay vê ghét lại thành viên và ném vào đống tro hoặc vun vào một góc rồi đổ ra vườn.

- Trời đất ơi, thật thế à?

Một cán bộ tiểu đoàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc.

An quay sang nhìn ông ta:

- Đồng chí cho là tôi bịa chuyện? Hoặc là tôi phân biệt sắc tộc nên nói xấu người Mèo?

- Ồ không...

Sư phó gạt đi:

- Đơn thuần chỉ là sự ngạc nhiên thôi. Đồng chí chớ hiểu lầm. Chính tôi đây cũng chưa từng biết điều đó.

An biết rằng câu chuyện về cách tắm của người Mèo kích động trí tò mò của đám cán bộ sư đoàn nhưng họ cố ghìm nén mà không dám hỏi thêm. Cứ nhìn những ánh mắt thầm lén trao đổi là đủ biết.

Tiểu đoàn trưởng Nhã nói với sư phó:

- Đồng chí An muốn xem hiện trường bởi không tin vào giả thuyết là hai người rủ nhau tắm suối. Tôi hy vọng lính còn giữ nguyên mọi dấu vết?...

- Yên tâm... Tôi đã ra lệnh bảo vệ hiện trường trong khi chờ đợi kết luận. Đồng chí có thể đưa đồng chí An ra xem.

- Chúng tôi sẽ trở lại ngay sau khi xem xét.

Nhã nói. Rồi tiểu đoàn trưởng ra khỏi hầm chỉ huy trước tiên.

An đi sau ông, nhìn mái tóc hoa râm phủ trên cổ áo đã bạc màu. Ở tuổi năm mươi, trông ông già hơn sư trưởng đến mười năm. Trong cuộc chiến tranh này, rõ ràng là dân miền biển và dân miền núi chịu đựng tốt hơn nhiều đám dân đồng bằng. Những bông hoa nở ven bờ sông Hồng, sông Luộc tàn rất mau vì mưa nắng Trường sơn.

Đồng hồ chỉ mười giờ hai mươi phút nhưng lính tráng đã đứng túm năm tụm ba khắp trảng. Lẽ ra họ có quyền ngủ hoặc ngồi chơi bài trong hầm. Nhưng tin tức rỉ từ tai nọ sang tai kia, nên khi hai người đi đến bờ suối, lính sư đoàn đã đổ ra đông nghịt. Một sợi dây dù chăng giữa ba thân cây, làm ranh giới bảo vệ hiện trường. Tiểu đội trực thuộc văn phòng ban chỉ huy sư đoàn làm nhiệm giữ đám lính tò mò bên ngoài sợi dây dù đó.

An đưa mắt nhìn bờ suối. Dấu vết con lũ còn hằn lên các ngấn cát và những đám sỏi bị nước bào. Những thứ đồ vật chiều qua xếp gọn thành đống giờ tẩu tán khắp nơi. Hai chiếc quần trôi tụt xuống phía dưới chừng dăm thước rồi dạt vào một gốc cây. Một chiếc đèn pin chúc đầu xuống cát chỉ còn nhô lên hai phần ba thân đèn, chiếc kia bị nước cuốn trôi tít xuống chừng ba mươi thước rồi mắc vào một đám cành khô. Những thứ lặt vặt như lọ tăm, hộp thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay... biến mất tăm không dấu vết. Chỉ hai khẩu súng là còn nguyên vị trí cũ cùng với một chiếc giầy. Tuy nhiên, chúng cũng phủ đầy bùn cát. Ồ, cơn mưa rừng đêm qua quả là trác tuyệt, nó đích thực là một gã phù thuỷ cao tay đã biến đổi hoàn toàn cảnh tượng sau lời thần chú.

- Ồ, cơn đằng tây mưa giây gió giật.

An bất giác thốt lên tiếng kêu:

- Đồng chí nhìn xem ngấn bùn đọng trên chiếc giầy.

- Quả là hung dữ, cơn mưa rừng đêm qua...

Tiểu đoàn trưởng Nhã gật đầu rồi nói tiếp:

- Mùa mưa năm trước, con suối này cuốn đi cả một cặp nai. Lính sư đoàn 89 đóng quân ở mạn dưới nhìn thấy hai con vật còn giãy giụa giữa dòng liền đem súng ra bắn rồi quăng dây kéo vào làm thịt. Kéo được hai con nai vào thì một cậu lại bị rớt xuống và lũ cuốn phăng đi không kịp cất tiếng kêu.

- Sao tôi không nhớ chuyện đó nhỉ?

- Nhớ làm sao được? Chuyện đó chỉ phổ biến trong nội bộ lãnh đạo ban sư đoàn. Ai dám chấp nhận sự thật ấy?

Tiểu đoàn trưởng chép miệng và hạ giọng gần như thì thầm:

- Khổ thay! Miếng ăn đổi lấy mạng người.

An trầm ngâm nhìn dòng suối và thầm nhủ:

"Đêm qua nếu ta không cột chặt một bên chân vào gốc cây, hẳn ta cũng lãnh được một cái chết như cậu lính vớt nai kia."

Quay lại, An thấy đám lính đang chằm chằm nhìn anh và Nhã. Họ là những khán giả của một vở tuồng thần bí không có cốt truyện cũng chẳng có phông màn. Nhân vật chính không xuất hiện. Chỉ duy nhất vài mẩu trang phục và dăm thứ đạo cụ ném ngổn ngang. Nhưng vở tuồng này kích động tâm trí biết bao người vì nó liên quan cùng lượt đến cái chết hữu hình và cái chết vô hình. Nếu không hẳn là cái chết tuyệt đối thì cũng là sự thương tổn nghiêm trọng đến danh dự các cấp lãnh đạo. Chưa đầy ba tháng trước, toà án binh vừa xử bắn hai cậu lính hiếp một người đàn bà Vân kiều đốt than trong núi. Cuộc xử tử được thông báo khắp bốn sư đoàn quần thảo nơi chiến trường để làm gương răn đe. Vậy mà giờ đây, sư trưởng sư đoàn danh tiếng nhất, nhiều thành tích chiến đấu nhất khắp miền biến mất tiêu với một gã Mèo, trong đêm khuya, không một lời nhắn nhe, và vào buổi sáng hôm sau người ta tìm thấy hai chiếc quần trôi dạt trên bờ suối. Hẳn không cần thông minh lăm lắm cũng có thể mường tượng được tất thảy những gì xảy ra trong óc não đám lính đang xúm đông xúm đỏ kia.

Có lẽ tiểu đoàn trưởng đã đoán được điều ấy nên sau một lát chờ đợi, ông lên tiếng giục An:

- Chúng ta quay về hầm chỉ huy được chưa?

- Vâng.... Nhìn thế cũng là đủ.

An đáp. Rồi họ quay gót. Tiếng lào xào bàn tán của đám đông đuổi theo họ. Nhất là khi hai người đi khuất trong rừng, gần như tức thời tất thảy những tiếng nói đều cất cao lên, giọng nào cũng oang oang như ra-đi-ô mở hết cỡ. An hiểu rằng đám lính trẻ chủ tâm để cho họ nghe thấy:

- Tôi đoan chắc là hai ông này rủ nhau ra nơi vắng vẻ chơi trò kê giao. Họ chọn đúng thời cơ đấy chứ? Lính đang mê mải xem văn công, các ngài ra đây giải quyết nỗi buồn cho củ hành bí bức.

- Kê giao là cái gì nhỉ?

- Đừng vờ vịt, tiên sư bố khỉ. Mày không biết thì còn ai biết cái trò ấy?

- Mày muốn gắp lửa bỏ tay người phải không?

- Lửa với than! Bữa trước thằng mặt mẹt nào kể với tao là lính Lào chuyên trị chơi trò lắp đít?

- Thế lắp đít với kê giao là một hay sao? Giờ tao mới biết...

- Bố sư thằng hề đểu.

- Không đểu thế làm sao chúng mày được mặc sức cười?

Những tiếng cười náo loạn chen chúc nhau, rú rít, sằng sặc,ha hả... Những tiếng cười bắn liên tục như đạn liên thanh. Những tràng cười rặn ra từng cục như kẻ táo bón trong cơn sổ ruột.

An nhìn thấy Nhã cúi đầu rảo bước thật nhanh, dường như muốn chạy trốn những lời đàm tiếu của đám lính. Chắc tiểu đoàn trưởng khổ tâm lắm. Đó là một con người nho nhã, có đôi phần đơn giản. Mọi tổn thất của cuộc sống tinh thần thường khiến ông hoảng hốt và bị dằn vặt nặng nề hơn những người khác.

An rảo bước tiến sát lưng ông, lên tiếng:

- Chẳng ai sinh ra để làm lính. Chiến tranh là sự chẳng đừng. Thủ trưởng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá.

- Tôi vốn là người không thích đa sự. Nhưng quả tình không muốn nghĩ cũng không được. Đồng chí lý giải ra sao sự việc này?

- Tôi cũng bất lực. Tôi không thể thông minh hơn các đồng chí.

- Chúng ta sẽ giải thích ra sao trước anh em?

- Nếu chúng ta không hiểu thì tốt nhất là đừng giải thích.

- Nhưng điều đó là bất khả. Muốn hay không cũng phải giải thích lý do trước tất thảy mọi người. Trong quân đội, mọi cái chết đều phải tuyên bố rõ ràng vì nó còn liên quan đến những người trong gia đình họ. Hoặc là một cái chết nhục nhã của kẻ phản bội, hoặc là sự hy sinh vì nhiệm vụ trước nhân dân và như thế, thân nhân của họ có quyền được hưởng sự đền bù.

- Vâng.

Nhã đáp.

Cùng lúc, trong thâm tâm anh bật lên tiếng cười chua chát:

"Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Còn có rất nhiều cái chết nằm ở ngoài vùng đất quy hoạch của các vị. Có những cái chết oan uổng, những cái chết nghẹn ngào câm lặng, những cái chết vô ý vô tình, những cái chết bò đến như loài rắn độc, những con rắn độc của định mệnh mà không ai có thể phòng ngừa và chống đỡ."

Chẳng mấy chốc họ đã trở lại hầm chỉ huy.

Mọi người lặng lẽ uống nước chè hoặc rít thuốc trong khi chờ đợi họ. An biết người ta muốn có một lời giải thích. Nhất thiết phải có một lời giải thích. Vì thế, tốt nhất là anh lên tiếng mà không chờ phải nì nèo.

- Báo cáo sư phó và toàn thể ban lãnh đạo... Tôi đã cùng tiểu đoàn trưởng xem xét kĩ những vật còn lại trên bờ suối. Tôi tin chắc sư trưởng và Mã Lỳ không thể rủ nhau tắm bởi dù còn khoẻ mạnh sư trưởng cũng đã ngoại ngũ tuần. Thời điểm đó, nước suối rất lạnh. Thứ hai, chắc chắn Mã Lỳ không dám lội xuống nước. Suốt quãng thời gian ở trên rừng Việt bắc, tôi chỉ chứng kiến cậu ta tắm hai lần, cả hai lần đều vào giữa trưa hè nóng nực và do nhóm bạn Sán dìu, Sán chỉ rủ. Bình thường, Mã Lỳ không bao giờ nhúng mình xuống suối, dù có phải lội qua thì cậu ta cũng mau chóng lau khô người để mặc quần áo. Chúng tôi vẫn gọi các cậu Mèo là lũ mèo nhát nước. Do đó, không có lý do để họ điên khùng bỗng dưng lội xuống tắm trong bóng đêm. Còn những lý do khác, tôi chưa đủ thời gian hoặc kinh nghiệm để phán đoán...

Nói xong, anh ngồi xuống bên tiểu đoàn trưởng. Đám người câm lặng. Ai đó khúc khắc cất tiếng ho. Rồi sư phó nghiêm giọng tuyên bố:

- Tôi buộc phải yêu cầu tất cả các đồng chí cho ý kiến để đi đến quyết định cuối cùng. Muốn hay không tất cả chúng ta cũng có trách nhiệm giải quyết sự việc này. Muốn hay không nó cũng liên quan trực tiếp đến danh dự của mỗi người ngồi đây. Chúng ta phải đương đầu với trên một ngàn lính và sau đó, dư luận sẽ lây lan sang các sư đoàn bạn. Thêm nữa, chúng ta cũng không thể báo cáo lên cấp trên, chờ cấp trên xuống mở cuộc điều tra, lập hồ sơ toà án binh theo thông lệ, bởi điều đó là chuyện không tưởng. Riêng thời gian chuyển công văn đi lại cũng mất nửa tháng là tối thiểu, đó là trường hợp thuận lợi tuyệt đối, giao liên an toàn không gặp thám báo, lũ cuốn hoặc thú dữ... Vả lại, chỉ đêm nay mưa rừng sẽ cuốn trôi sạch nếu chúng ta không gom nhặt những đồ vật còn sót lại trên bờ suối. Những thứ lưu vật đó cần phải được giữ lại cho gia đình những người mất tích. Tôi dùng chữ mất tích ở đây vì chúng ta không rõ số mệnh của sư trưởng và đại đội trưởng người Mèo kia ra sao?... Chúng ta hy vọng rằng họ có thể còn tồn tại, trong một cách thức nào đó mà chúng ta chưa biết rõ.

- Tôi nghĩ rằng chúng ta nên gạt bỏ giả thiết mất tích. Nó không thuyết phục được ai. Tưởng tượng xem hai người đang còn tồn tại, không mảnh vải trên thân. Liệu ai có thể bắt họ làm điều đó?

- Năm trước bọn biệt kích chẳng tóm gọn cả tốp lính đang tắm suối là gì? Nếu tôi không nhầm họ là lính sư 887.

- Ồ, tôi quên khuấy chuyện ấy.

- Trí nhớ ông ngắn thế? Vừa mới mùa hè năm trước đã quên?

- Ờ, bốn mươi chín rồi còn gì? Khôn đâu tuổi trẻ, khoẻ đâu tuổi già?

- Nói các đồng chí đừng cho là mê tín. Tôi không tin sư trưởng còn sống. Sáu giờ sáng hôm nay thức dậy, tôi nghe tiếng chim kền kền kêu như rít lên trong núi. Từ dạo lính của ông Thắng dính bãi mìn đến giờ đã hơn bốn tháng, có bao giờ nghe kền kền rít lên từng bầy náo loạn như thế đâu?

- Đúng! Tôi cũng nghe chim kêu rợn cả hồn. Lúc đó mới lờ mờ sáng, vậy mà cả bầy chim đã rít lên như vậy có nghĩa chúng gặp mồi. Tiếng kêu vọng từ mạn Núi Mỏ chim. Mạn đó là nơi con suối đổ vào sông Nậm Khuốt.

Sư đoàn phó quay sang hỏi trợ lý quân sự:

- Đồng chí cho chúng tôi biết từ đây đến đấy hết bao nhiêu thời gian?

Anh trợ lý đáp:

- Báo cáo đồng chí chỉ hai mươi phút nếu chúng ta có trực thăng. Nhưng đi đường bộ thì năm ngày là tối thiểu. Từ nơi chúng ta đóng quân đến sông Nậm Khuốt không có đường vượt rừng, cũng không có đường qua trảng. Đi dọc suối lại càng bất khả vì ngay khúc suối dưới cách đây chừng non hai trăm thước, núi đá tai mèo đã dựng lên giống hệt Vùng Núi Chết bên kia. Chỉ có cách duy nhất là đi theo lối mòn của người Vân kiều. Lối ấy, không thể dưới năm ngày đường, đó là với tốc độ của một giao liên khoẻ mạnh và thành thục. Tiếng chim kêu mà các đồng chí nghe thấy không vọng lại từ sông Nậm Khuốt mà ngay ở hang núi sau cánh rừng nơi chúng ta trú quân. Bởi từ sông Nậm Khuốt đến đây đường chim bay cũng hơn ba cây số. Không tiếng chim nào có thể vượt qua đoạn đường dài như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng loài chim gặp mồi thường có cách liên lạc và truyền tin riêng nên chúng kêu rít lên như vậy. Đó có thể là tiếng kêu để gọi bầy.

- Tôi cũng nghĩ như vậy. Phân tích của trợ lý sư đoàn hoàn toàn có lý.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật nói theo. Đoạn ông quay sang hỏi sư đoàn phó:

- Liệu chúng ta có thể xin được một chuyến trực thăng hay không?

Sư đoàn phó lắc đầu:

- Chiến trường chúng ta chưa bao giờ được hưởng ân huệ ấy. Ngay trận Đồi con Công, thương binh nặng nằm la liệt hàng trăm xin trực thăng cũng còn không nổi huống chi trường hợp này?

- Bộ tham mưu coi chúng ta thuộc loại lính cưng chắc?

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai vặn lại.

- Không lính cưng thì cũng được nằm sâu trong vùng đất Lào. Đất Lào được hiểu một cách ngầm ẩn là nơi ít hiểm nguy hơn các vùng khác. Đồng chí quên lời thượng tướng Đồng nói bữa trước rồi sao?

Sư đoàn phó đáp lời.

- A...

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật một tiếng kêu lửng lơ rồi ngậm miệng tức khắc. Chẳng ai nói thêm lời nào nữa.

Sau một hồi lâu lặng lẽ, Nhã bỗng nhiên buông tiếng hỏi bâng quơ:

- Liệu chúng ta có nên cử người xuống sông Nậm Khuốt hay không? Dẫu sao cũng phải hành động ở mức tối đa. Như thế, sau này chúng ta chẳng còn ân hận nữa.

Sư phó đưa mắt bất bình nhìn Nhã:

- Đồng chí nằm mơ hả?

Nhã còn ngơ ngác chưa kịp trả lời, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai đã quay sang đập vào vai ông:

- Khổ quá, đầu óc ông để trên trời hay dưới biển? Từ giờ đến chiều sẽ chẳng còn một mẩu da sót lại. Ông chưa từng thấy cảnh lính ông Thắng dính bãi mìn, có đúng không? Mười tám cậu cả thẩy mà chỉ hai ngày chim dọn sạch.

An thấy Nhã rùng mình. Rồi ông cố trấn tĩnh bằng cách thọc hai tay vào túi quần và cúi đầu xuống. Bình thường các cuộc họp ban chỉ huy chỉ dừng lại ở cấp lãnh đạo tiểu đoàn. Sự việc này là trọng đại nên sư đoàn phó mới quyết định mở rộng đến các đại đội trưởng. Lần đầu tiên, An có dịp quan sát người lãnh đạo trực tiếp của mình. Rõ ràng Nhã hiền lành, tốt bụng nhưng có phần kém khôn ngoan hơn lãnh đạo hai tiểu đoàn kia. Vậy mà thành tích chiến đấu của tiểu đoàn Một luôn luôn nổi trội. Có lẽ trời vốn thương kẻ khờ khạo. Hoặc nói cách khác là tất thảy những sĩ quan dưới quyền Nhã đều yêu quý ông nên họ hành động hết mình vì ông. Con người này giống một gã học trò hơn là một sĩ quan quân đội.

Sau một hồi im lặng, sư đoàn phó cất tiếng:

- Tôi đề nghị các đồng chí lần lượt phát biểu. Sự việc này xảy ra vô cùng bất ngờ. Mấy chục năm trong quân ngũ cũng không cho tôi đủ kinh nghiệm để giải quyết. Thế nên, tôi quyết định lấy ý kiến tập thể, và chúng ta chịu trách nhiệm tập thể.

Lại im lặng.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau, dường như tra vấn, dường như cầu cứu, dường như tìm một sự thông cảm. Bởi ai cũng hiểu họ đang bước trong ngõ cụt. Sư đoàn phó móc gói thuốc sợi ra lăn một điếu. Những bàn tay khác chìa về hướng ông. Gói thuốc chuyền đi theo kiểu dây chuyền, mỗi người bốc một nhúm thuốc, bóc một mẩu giấy cuốn. Khi nó quay lại chủ nhân thì chỉ còn vẻn vẹn nhúm thuốc cuối cùng vừa đủ điếu thứ hai. Sư đoàn phó đã rít hết điếu thuốc kia nên vớ lấy nhúm thuốc cuốn nốt đoạn vo viên tờ giấy gói, nhét vào túi quần.

Tất cả đều im lặng nhả khói. Căn hầm mù mịt. Trợ lý sư đoàn đứng dậy mở cánh cửa thông sang căn hầm phía sau cho gió lùa khói ra cửa hầm. Ai cũng có cảm tưởng sự việc mịt mù như khói và không biết tìm ngả nào mà ra. Nhưng khi hút tàn điếu thuốc, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba, người lặng câm như hến suốt từ đầu cuộc họp đến giờ bỗng giơ tay:

- Tôi có ý kiến.

"A, cóc mở miệng rồi đây."

An thầm nghĩ. Trong lúc đó tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ông này và sư đoàn phó hấp tấp bắt lời:

- Chúng tôi nghe đây.

- Tôi nghĩ rằng...

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai người đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu, ngoài những mệnh lệnh cụt lủn, kiểu như: " Chúng ta nghỉ, ăn cơm", hoặc:" Đi thôi, đến giờ rồi"...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín như bưng khiến lính không dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự coi như chịu kỉ luật: Tù mồm.

Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ đủng đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước. Xong đó, ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp:

- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng: người Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng đồng chí Hoàng An là có quen biết anh ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm năm sau đấy, không ai kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng ta có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai tiểu đoàn thiếu sau các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa cập bến. Đại đội trưởng người Mèo này chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển vào. Bây giờ, tôi giả định....

Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào những cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi. An cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những gì xảy ra phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư đoàn phó:

- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ với vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng gờm của lực lượng cách mạng trước ngày giải phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết tộc hoặc chịu ơn sâu nặng của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán thù thâm căn cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng về phía ngoại mà hành động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng quân đội của chúng ta từng chịu những tổn thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với Vua Mèo trên cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính đồng chí Hoàng An cũng biết đội quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ leo núi leo cây thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu quen khí hậu băng giá và không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt. Họ được nuôi ăn đầy đủ và tập bắn từ thuở lên mười. Đội quân này nổi tiếng là những thiện xạ bắn trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô cùng giàu có nên trang bị cho đội quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân đội chúng ta cũng chưa có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế hầu hết những con đường độc đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của chúng ta. Lính ngã xuống không biết bao nhiêu mà kể xiết. Thắng lợi của mặt trận Đồng Văn đã phải trả bằng một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để các đồng chí có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội trưởng Mã Lỳ này là hậu duệ của Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng chính là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả thù... Anh ta vừa tiêu diệt được một cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi nhọ danh dự ông. Chúng ta đã từng sống với sư trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được ông làm chuyện bậy bạ ô nhục, mà trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi cho rằng người Mèo này đã gợi những chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới người bà con sư trưởng rồi bắn lén ông. Sau đó, y lột quần của ông và của y bỏ lại để tạo nên hiện trường giả của sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng chết nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành động. Các đồng chí chớ quên rằng chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ vào rừng như cá trở về với nước. Nhất là khi họ đã chuẩn bị áo quần lẫn vũ khí tuỳ thân.

Mọi người ồ lên tán thưởng:

- Đúng rồi!

- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được?

- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói không ngoa: Một khi cóc đã mở mồm.

Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba giống như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó vươn qua mặt bàn, vỗ vai ông và nói:

- Tuyệt vời!

An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói:

"Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng, chính mày mới được liệt kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố: Mày là kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy"

Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng câu hát Con gà rừng:

"Con gà rừng;
Sao mày ăn lộn với lũ công,
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng?..."
 

*
* * *
 

Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống giường ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh lên:

- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy?

- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở lại.

- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.

- Tôi đắng lưỡi.

- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải ăn no mới được uống.

"Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện cho mọi người."

Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên:

- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa?

- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng. Lại có canh mà ngụp lặn.

- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ?

An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi sau anh, đáp thủng thẳng:

- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.

- Ra thế...

An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp:

- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa?...

- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố? Nhưng lính tráng nghe lỏm cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn, rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.

- Ở rừng mà... Còn chuyện gì kích thích hơn đâu?

- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè xem xong lại có người thiệt mạng.

- Cậu có tin ở số phận hay không?

- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người đều nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai tránh được đạn đâu? Chính đạn tự chọn đích mà bay đến.? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại sao đạn găm vào người này mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian?

- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa thì người ta không bao giờ tự đem thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.

- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận mệnh quốc gia, là số mạng chung của một tập thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc vào người đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen như chúng ta đây. Thời xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.

- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy?

- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt tôi.

Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt nhìn bốn xung quanh. An bảo:

- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu. Mà tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được từ ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất Lào. Tôi chỉ lặp lại những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.

- Vâng.

Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng:

- Anh biết không, tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy. Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm tinh mà là một sử gia.

- A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi biết thôi.

- Vâng.

Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.

Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ rộng rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài, nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền hoà chạy dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám sương còn đọng trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội phó nhìn những cánh hoa mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và buột miệng thở dài:

- Tôi nhớ nhà quá...

An lặng im, chờ đợi.

Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp:

- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông. Mùa xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi chạy theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi tầm hội hết cả tháng giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.

- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh:

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.

- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà, hợp tác vận động bà con đi làm từ mồng năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta vẫn tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.

- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi ngồi đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không có hội cũng chẳng làm gì vì trời mưa phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương sắn cũng làm cỏ xong rồi.

- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không?

- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội Tung còn của người Thái, rồi hội chơi khèn của người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ tay và có ngựa tốt là dám đi chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.

Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi:

- Bao giờ chiến tranh kết thúc?

An hỏi lại:

- Bao giờ?

Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật lên hỏi:

- Anh có nhớ thằng Toàn híp không?

- Sao không? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương nó mục chưa nhỉ? Hơn hai năm rưỡi rồi còn gì? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt, sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân lèn xuống lòng khe. Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.

An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta mím chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai có thể thấy họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc mách trong khóm rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng người đồng đội, anh nói:

- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.

Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc:

"Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc một mình cho đến ngày cuối cùng của kiếp sống."

Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại, lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta đã khổ công mang theo mấy năm chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng cỏ, thấp thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi:

- Họ làm gì bên kia thế?

Đại đội phó xì mũi và đáp:

- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.

- Sao chúng nó không ra suối? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn nước suối giờ này đã ấm lên rồi.

- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối? Sáng nay lính đổ ra đông nghịt để ngó nghiêng.

- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả chăng sông cũng như suối chảy qua biết bao miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ đã chết đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu?

- Vâng... Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi nên không biết nỗi sợ của người Kinh... Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều bị ám ảnh bởi cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là oan hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác. Bởi khi dìm chết những kẻ khác, họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu thai trở lại kiếp người.

- À, ra thế.

An đáp.

Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh:

"Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.

Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một kẻ thù chung cần đổi mạng.

Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ lâu rời bỏ ta; cả óc não lẫn tâm hồn."

Anh đứng lên, nói:

- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không?

Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng:

- Tôi?... Tôi vừa tắm chiều qua.

An cười bảo:

- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải quyết được chuyện sinh hoạt bình thường của lính? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng nước khe bé tẹo teo như nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh mông bỏ trống. Tôi không tin chuyện ma Nam.

- Vâng.

- Đi theo tôi.

- Vâng.

Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như một cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở đó, An cất cao giọng hỏi:

- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam?

- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.

- Chờ đấy.

An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng nhào lên ngụp xuống như một vận động viên nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá:

"Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có thể quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này."

Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười với chính số mệnh cay nghiệt của mình.
 

*
* * *
 

Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang. Một người bà con trong đoàn dân công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:

"Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa? Tổ chức cách mạng tìm cho chủ tịch một người phụ nữ Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được đổi tên là Chí thị Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin ấy."

An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin tức gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng tháng. Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài hoài không tắt.

Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng:

- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn Thành nữa mà là Chí văn Thành.

- Tại sao?

Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi.

- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo. Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.

- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân công đóng trước doanh trại chúng ta?

- Vâng. Chính xác như vậy.

- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ? Không dưng, ai làm như vậy?

- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý do ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái trong bản biết với nhau. Chúng tôi, phận con cháu không được quyền vặn hỏi.

Anh tủm tỉm cười đáp lại.

Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp:

- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo địa phương.

Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nông thay vào đó chữ Chí. Thế là xong. Trên chiến khu, tất thảy mọi người đều tình nguyện đi đánh giặc, nào ai có nhu cầu tìm kiếm lợi lộc gì, thế nên sở thích riêng đều dễ dàng thoả mãn. Huống chi anh lại là người dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số là chỗ dựa vững chắc của cách mạng tháng tám và cuộc kháng chiến trường kì. Bất cứ cán bộ lãnh đạo nào cũng biết nguyên tắc này: Trong mọi hoàn cảnh, cán bộ và chiến sĩ người thiểu số được quyền hưởng sự ưu đãi.

"Nàng Nhỏ của chúng ta giờ đã thành hoàng hậu!"

Niềm vui ấy cháy âm ỉ suốt những ngày còn lại của cuộc kháng chiến cùng với cái tên Chí văn Thành. Dường như cái tên mới này cũng đem lại nhiều may mắn cho An dù trong tiểu đoàn, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai hiểu nguồn gốc bí ẩn của nó. Anh được thăng vượt cấp vì thành tích chiến đấu. Nhưng cái may lớn nhất là qua bao nhiêu trận mạc anh vẫn bình yên, chưa hề xầy vẩy xướt da. Anh không có cơ hội gặp nàng Nhỏ, tuy biết nàng đã rời bản Xíu về sống ở khu văn phòng chính phủ, cùng chiến khu Việt bắc. Nhưng niềm kiêu hãnh về nàng thắp sáng tâm hồn anh. Với anh, nàng là người em gái, hoặc nàng chính là một đứa con? Anh cũng không biết nữa. Mối dây liên kết giữa họ chẳng hề giống như những người anh rể và em vợ bình thường. Nàng Đông đã là bạn từ thuở cởi truồng nên khi Nàng Nhỏ ra đời chính anh đã cùng Nàng Đông nuôi dưỡng đứa em nhỏ. Ông Cao vốn đa tài đa phận, rời quê hương giang hồ đất khách đến bốn mươi hai tuổi mới quay về bản cưới vợ, một cô gái mỹ miều kém ông hai mươi ba tuổi chẵn. Khi bà chết, ông đã ngoại năm mươi. Tuổi ấy, chẳng người đàn ông nào còn có thể bồng ẵm hoặc cho trẻ bú mớm. Trong ngôi nhà rộng rênh của ông, xưởng cưa chiếm gian chính giữa, bàn thờ vợ gian ngoài cùng, còn gian trong nơi gầy bếp lửa được ngăn thành ba gian buồng nhỏ vách gỗ chính là nơi hai đứa trẻ lên chín tập sự làm cha làm mẹ nuôi cô em mồ côi đỏ hon hỏn trong nôi. Dạo đó, hai năm tròn An rời nhà sang chiếm một trong ba gian buồng gỗ nhỏ, gian giữa dành đặt nôi đứa bé, còn gian bên kia là của Nàng Đông. Ông Cao ngủ ngay cạnh bếp để giữ lửa. Trước cửa buồng của đứa bé, một đĩa nến cháy suốt đêm. Nếu nó khóc, khi là nàng Đông khi là anh thức dậy thay tã lót và lấy bình sữa cho nó bú. Hoạ hoằn, cả hai chưa kịp dậy ông Cao sẽ rung chiếc chuông đồng đánh thức họ... Thật kì lạ, tiếng chuông rung lanh lảnh trong đêm khuya. Ấn tượng đó anh không quên được. Tiếng chuông giống một thứ âm nhạc thô sơ nhưng sống động vang lên ròn rã trong tuổi thơ của anh. Đôi khi, nó làm cho đứa bé ngừng khóc, giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn. Anh cũng nhớ chiếc đĩa sâu lòng bằng gốm đỏ đựng sáp ong, tim nến se bằng sợi thô to hơn chiếc đũa. Ánh lửa lung linh chập chờn hắt bóng họ lên bức vách. Ánh lửa rọi lóng lánh lên quả cầu bằng giấy trang kim treo lủng lẳng giữa tao nôi. Bàn chân đứa bé giơ lên đạp đỏ như hoa mồng gà...Anh cũng còn nhớ như hôm qua cách thức ninh một nồi cháo nửa phần nếp nửa phần đỗ xanh ra sao cho nhừ nhuyễn mà không khô cũng không quá loảng. Anh nhớ cách thức lọc cháo để lấy nước rồi cho vào bình. Anh cũng biết cách vắt sữa trâu, canh sữa trâu cho đặc, rồi cất giữ ra sao cho khỏi lên váng. Bản Xíu không nuôi bò, chỉ thuần trâu. Trẻ nhỏ uống duy nhất thứ sữa đó. An nhớ chiếc chậu gỗ thường tắm cho Nàng Nhỏ, anh một bên và nàng Đông một bên, cùng thò tay vào kì cọ cho đứa bé. Đấy là cuộc đời thật mà lại tưởng như trò chơi. Bởi chính họ cũng đang còn niên thiếu. Cái trò chơi ấy liên kết ba người trong một mối tình kì lạ. Thế nên, anh cưới Nàng Đông từ năm mười bảy cho đến ngày nhập ngũ đã hai mươi bảy tuổi tròn mà chẳng ai thắc mắc chuyện họ không có con... Đành rằng cưới vợ xong rồi anh vẫn tiếp tục xuống huyện đèn sách. Cũng đành rằng thời ấy chuyện hiếm muộn con không quá quan trọng như ngày nay nhưng dẫu sao, vẫn là sự bất thường. Nàng Nhỏ sống chen giữa hai người, một mối tình pha trộn biết bao nhiêu mầu sắc. Cả ba cảm thấy đầy đủ nên Nàng Đông cũng như anh chẳng tìm thầy chữa chạy bệnh vô sinh như láng giềng khuyên.

Cuộc kháng chiến kết thúc đường đột một năm sau ngày anh thay tên đổi họ. Anh chẳng còn cơ hội quay về bản Xíu vì vợ anh đã tìm anh đúng ngày các cánh quân chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô. Nàng Đông ôm chặt lấy anh, vừa cười vừa khóc. Mai ngày, nàng sẽ sống với Nàng Nhỏ tại thành phố Hà nội. Còn anh? Số phận mỉm cười với anh lần nữa nên đơn vị anh sẽ đóng tại Hà đông, tỉnh lỵ Hà đông cách Hà nội có mười cây số, đạp xe không quá một giờ. Đối với họ, dường như cánh cửa thiên đường đã mở.

Tuy nhiên, ngày đầu tiên tới thăm hai người, An đã thấy không vui. Anh đi dọc theo cái hành lang dài và tăm tối đó, lòng tự hỏi vì sao người ta có thể xếp Nàng Nhỏ ở một ngôi nhà tầm thường như vậy? Tuy phía trên là ba gian phòng cao rộng, trang nhã kèm theo bếp và khu phụ riêng. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chỉ là một gian gác của dân thường, nơi ăn chốn ở của bất cứ người dân sung túc nào ở thành phố. Nàng Nhỏ của anh là hoàng hậu. Liệu có bà hoàng hậu nào bị xếp một rọ, sống cùng với thứ dân? Hay vì chúng ta là dân Tày? Một bà hoàng hậu người Tày không được quyền đòi hỏi như một bà hoàng thuộc dân tộc chính thống?

Lòng ngổn ngang nhưng anh không nói. Bởi cả hai người đàn bà đều đang tột độ mừng vui. Chiến tranh đã kết thúc, mạng sống cầm chắc trong tay. Sau bao nhiêu ngày cách xa, giờ được đoàn tụ. Chẳng ai cầu mong điều gì hơn thế. Họ lại được cùng ngồi bên nhau,quanh một mâm cơm. Không phải trong ngôi nhà sàn rộng rênh thuở xưa, giữa bốn bề trập trùng rừng núi, mà trong một gian gác lịch sự nhưng nhỏ hẹp, là nơi ăn chốn ở của những người ở đô thành...

Sau bữa cơm, An hỏi Nàng Nhỏ:

- Chủ tịch có bằng lòng cho em ở đây không?

- Có chứ. Chủ tịch bảo chúng ta phải sống giản dị. Giản dị như những người bình thường.

- Vậy là em hài lòng, đúng không?...

- Dạ... Em hài lòng. Em yêu chủ tịch.

- Chủ tịch có yêu em không?

- Có chứ.

Nàng Nhỏ kêu to:

- Chủ tịch rất yêu em...

Và hai má nàng bỗng dưng đỏ tưng bừng:

- Chủ tịch là người chồng rất tốt.

Đêm ấy, trong vòng tay Nàng Đông, anh cất tiếng hỏi:

- Em hãy cho anh biết, Nàng Nhỏ của chúng ta có hạnh phúc thật sự hay không?

- Có. Anh đừng lo. Nàng Nhỏ của chúng ta vô cùng hạnh phúc. Tuy chủ tịch cao tuổi, nhưng vẫn còn là bạn gối chăn đắc lực.

- Sao em biết?

- Chúng ta là người miền núi, không có điều chi phải kiêng dè. Em đã hỏi thẳng Nàng Nhỏ của chúng ta về chuyện đó. Nàng đáp rằng với chủ tịch nàng hạnh phúc hơn là với người đàn ông đầu tiên.

- Ra vậy. Giờ anh có thể yên tâm.

Sự yên tâm của anh kéo dài được hai năm, cho dù thi thoảng anh vẫn lượn xe quanh khu nhà các tướng tá lẫn các bậc lương đống triều đình để quan sát họ. Càng nhìn họ, lòng anh càng hậm hực bởi các phu nhân người Kinh được ở biệt thự riêng, có vườn cây bao quanh, có lính gác cổng, có xe Volga đi chợ, cho dù họ mắt híp môi thâm, nếu đứng cạnh nàng Nhỏ của anh thì chẳng xứng mặt con hầu.

Rồi đến ngày đứa cháu gái đầu ra đời, hạnh phúc che mờ mọi nỗi bất bình cũng như các hiềm khích. Mỗi chủ nhật, An đạp xe ra thành phố với tâm trạng của đứa trẻ đi chảy hội hoặc của gã trai mới lớn đến gặp bạn tình. Lần này, anh lại được làm bố. Nàng Đông lại được làm mẹ. Không còn là bản Xíu. Họ không còn phải ninh cháo đậu và vắt sữa trâu. Đời sống đô thị bí bức hơn nhưng cũng thuận tiện nhiều bề vì thế cả hai người đều thấy tâm hồn phơi phới như cánh rừng sang xuân khi đứa bé khóc cười với họ. Trong lúc đó, người mẹ thật sự lười lĩnh ngủ hoài hoặc nhìn họ chăm sóc đứa con với đôi mắt tràn trề mãn nguyện.

An không bao giờ gặp chủ tịch tại ngôi nhà ấy vì anh chỉ có thể ở lại đến sáu giờ rưỡi tối ngày chủ nhật. Sau bữa cơm chiều, phải tính cho đủ thời gian đạp xe quay lại Hà đông trước hiệu kèn đêm. Giờ ngủ quy định là chín rưỡi. Anh biết rằng văn phòng phủ chủ tịch thường cho xe đón Nàng Nhỏ vào dinh nhưng thi thoảng và thường là đột ngột, khi thu xếp được công việc, chủ tịch đến thăm vợ con vào lúc nửa đêm và chính ông đặt tên cho đứa con gái. Một cái tên cổ xưa, đầy tinh thần đạo đức: Nghĩa.

Khi được thông báo về chuyện đó, An tỏ vẻ bực mình:

- Thiếu gì tên hay, sao lại đặt cho cháu tôi cái tên cứng ngắc như vậy? Trung đội của tôi có đến ba cậu tên là Nghĩa. Trần trung Nghĩa; Đào duy Nghĩa; Ngô thành Nghĩa...

- Ồ, xin anh đừng giận.

Nàng Nhỏ tươi cười can gián:

- Con của chủ tịch mà.

Và vợ anh cũng tiếp lời:

- Em nó nói đúng đấy. Là bố mới có quyền đặt tên con.

An im lặng.

Nhưng tuần sau, anh bắt đầu gọi con bé bằng cái tên do chính anh tìm:

- Nó đẻ năm con dê nên tôi gọi nó là Mùi. Gọi thế cho dễ nuôi. Nào, Mùi lại đây với dượng.

- Ba...ba...

Đứa bé đã nói được thành tiếng khi vừa tròn chín tháng. Con bé này lưỡi quá nhọn. Chẳng đứa trẻ nào có thể biết nói sớm như nó. Môi nó đỏ như gấc, mà nụ cười của nó giống hệt nụ cười của người cha.

Năm sau, khi Mùi đầy tuổi, anh mua một chiếc ghế mây, buộc vào dóng khung xe phía trước. Đặt con bé vào đấy, anh đèo nó đi chơi khắp các phố phường. Rất nhiều lần, hai dượng cháu diễu đi diễu lại trên đoạn đường chạy qua phủ chủ tịch. Đứa bé líu lô như sáo còn anh nhìn ngắm toà nhà đó như ngắm nhìn một toà thành bí ẩn hoặc một pháo đài ma. Và anh thầm nói với người đàn ông sống trong đó, phía sau những hàng rào đầy lính canh, sau những bức tường và những khuôn cửa không bao giờ thấy mở. Người đàn ông anh chưa từng gặp mặt, chưa bao giờ đối lời, nhưng vẫn tồn tại trong gia đình họ, tham gia vào mọi cuộc bàn cãi, trò chuyện, mọi kế hoạch cuộc đời của họ. Một sự tồn tại vô danh, vô tướng, vô hình. Không phải là bóng ma, cũng chẳng là con người đích thực:

"Này ông chủ tịch, liệu ông có nhìn thấy con gái ông ngồi trên chiếc xe cởi truồng tồi tàn này không nhỉ? Dầu ông là người có quyền lực cao nhất nước, ông cũng chỉ là anh em đồng hao với tôi thôi. Và bởi lẽ tôi lấy người chị, còn ông làm chồng cô em nên nếu ngồi vào mâm rượu chính ông sẽ phải rót rượu cho tôi trước.

Như thế đó, luật lệ của chúng tôi, những người Tày."
 

*
* * *
 

Những năm sung mãn, những mùa sung mãn thường đến với con người một cách bất ngờ, ngoài sự chờ đón của họ.Vì thế, chẳng ai ngờ là khi con bé Mùi được mười một tháng, nàng Nhỏ đã lại mang thai lần thứ hai. Trước hết, Nàng Đông phàn nàn là con bé Mùi đi tướt cả tuần, uống thuốc nào cũng không cầm được. Sau đó, nàng Nhỏ bỗng mắc chứng thèm ngủ, ngủ ngay cả trong bữa ăn. Mọi người chưa kịp hiểu ra sao, bà già hàng xóm đã bảo:

- Thế này có nghĩa là mẹ nghén nên con bú sữa độc... Trẻ bú sữa độc thì chẳng thứ thuốc nào cầm nổi. Tại sao chẳng ai biết chuyện này?

- Ồ... Chẳng ai biết thật.

Nàng Đông đáp. Bởi chưa ai từng qua cảnh này để hiểu được sự tình. Vậy là con bé Mùi phải cai sữa tức khắc. Thật may mắn là nó rất ngoan, chỉ qua hai đêm khóc hờn rồi sau đó quay sang ăn bột và bú sữa bình thun thút. Vả chăng, từ thuở mới lọt lòng nó đã ngủ với Nàng Đông, nó quen hơi dì còn hơn hơi mẹ đẻ. Người ta bảo con đầu thường ngơ ngẩn,dại khờ. Nhưng con bé Mùi khôn lạ. Chiều thứ bẩy, cứ lặn mặt trời là nó ra ban công ngong ngóng chờ dượng Thành. Dòng người cuồn cuộn trên phố xá không làm con bé nhầm lẫn. Nhiều khi nó giơ tay vẫy anh khi anh đang còn dừng xe trước đèn hiệu đỏ ở ngã tư. Chiếc xe đạp Vĩnh Cửu đen xì không thanh chắn bùn của anh chính là con ngựa quen thuộc của đứa bé, hứa hẹn biết bao cuộc dạo chơi kì thú. Khi tới nơi, dắt xe lên vỉa hè, ngước lên ban-công anh đã thấy nó cúi xuống mỉm cười nụ cười thiếu nữ, gương mặt rạng rỡ và đôi mắt đen ngời lên ánh sáng. Nhiều khi, An giật mình vì tưởng như đang còn ở bản Xíu. Vào những buổi chiều thời xa xôi ấy, khi anh và nàng Đông đi củi về, Nàng Nhỏ đứng đầu sàn chờ đợi cũng cười nụ cười im lặng và rạng rỡ như con bé giờ đây. Kỉ niệm mới chồng lên kỉ niệm cũ. Dấu vết yêu thương điệp lên nhau, hoà trộn cùng nhau trong trái tim anh. Cứ như thế cuộc sống êm đềm của họ tiếp diễn cho đến ngày Nàng Nhỏ sinh đứa con thứ hai, vào năm Thân. Năm Bính Thân. Vào một chiều thứ bẩy, khi anh vừa bước chân vào nhà, Nàng Đông chạy ùa ra ôm cổ anh và với vẻ mặt vừa hãnh diện vừa ẩn giấu một vẻ long trọng bí ẩn, thầm thì báo tin:

- Một đứa con trai. Nặng ba cân sáu. Dài năm mươi tám phân.

- Ồ, như thế là tốt, có nếp có tẻ.

Anh đáp.

Nàng Đông đứng ngẩn ra nhìn anh trong giây lát rồi bảo:

- Anh nói thật tức cười.

- Sao? Anh nói điều gì sai trái hay lầm lẫn mà khiến em tức cười?

- Không sai trái cũng không lầm lẫn.

Vợ anh tủm tỉm nhìn anh:

- Nhưng không phải chỉ là nếp với tẻ. Anh quên rằng một đứa con trai là vô cùng quan trọng với người làm cha.

- À... Anh hiểu.

Anh cũng tủm tỉm cười và đáp lại Nàng Đông:

- Anh hiểu tầm quan trọng của kẻ nối dõi tông đường. Từ giờ trở đi anh nhường cho em nuôi dưỡng thằng bé, nhân vật quan trọng, còn anh sẽ chăm sóc con Mùi, vì con bé ít quan trọng hơn.

- Thế anh có vào viện thăm Nàng Nhỏ không?

- Không... Ngày mai anh sẽ đi chợ nấu cơm và đưa con Mùi lên bách thảo xem hổ, xem gấu. Vào viện sẽ là việc của em.

An không hiểu vì sao anh có phản ứng như vậy. Anh còn nhớ đôi mắt tròn xoe kinh ngạc của vợ nhìn mình. Cái nhìn ấy dán vào lưng anh khi anh đi vào gian buồng bên trong. Cái nhìn ấy ám ảnh anh như một câu hỏi câm lặng. Một bài toán không có lời giải đáp... Mãi về sau này anh mới hiểu rằng linh giác đã chỉ dẫn những hành vi của anh...Rằng anh đã cảm thấy bóng đen âm u của loài ác điểu xòe ra trên đầu họ vào thời khắc mà Nàng Đông báo tin cho anh, một cái tin lẽ ra phải đem lại niềm hân hoan tột độ cho tất thảy mọi người... Ngày hôm sau, chủ nhật, anh đèo con Mùi lên vườn Bách thảo. Lúc quay về, con bé đòi đứng lại trước phủ chủ tịch xem... mấy chú lính gác. Anh đành xuống xe, dựa pê-đan lên vỉa hè xi-măng để chiều nó. Nhưng họ vừa đứng được vài phút, lính gác đã ra hỏi giấy tờ. An xuất trình thẻ quân nhân. Người lính xem xét kĩ càng rồi nói:

- Đây là khu vực cần bảo vệ. Đồng chí nên đưa cháu ra nơi khác mà chơi.

- Tôi đâu có muốn làm phiền các đồng chí? Chỉ do trẻ nó đòi thôi.

Lúc ấy, chính đứa bé cất lời:

- Cháu xem. Cháu xem các chú bộ đội...

Con bé líu lô. Có lẽ vì lời trẻ bi bô làm người lính mềm lòng nên anh ta lui gót. Tuy nhiên, con tim An đã trở nên âm u. Anh nhìn vào toà nhà bên trong những rặng cây xén tỉa:

"Sung sướng gì khi người cha sống trong lâu đài còn đứa con ngồi trên chiếc xe đạp cởi truồng và nhìn vào với đôi mắt thèm khát? Có ích gì cuộc tình éo le này? Nếu Nàng Nhỏ của chúng ta chẳng lọt vào mắt vị vua già, nó ắt phải kiếm được tấm chồng xứng đôi vừa lứa. Trên miền quê, chúng ta đâu thiếu cảnh ấm êm? Ngôi nhà sàn của ta cao rộng gấp ba lần những ngôi nhà chật hẹp nơi phố xá. Chưa kể nhà ông già bố vợ, cả xưởng cưa đặt lọt thỏm vào một gian? Chúng ta có đất, có trâu đàn, có lợn bầy. Gà hàng trăm con đẻ trứng ăn không kịp. Chúng ta có rừng có suối, có ong dại ong nuôi và thú săn. Đành rằng ở đây cuộc sống tiện lợi và văn minh hơn nhưng đất đai eo hẹp và lòng người cũng eo hẹp. Phải chăng cuộc ra đi của chúng ta là một sai lầm?"

Dòng suy nghĩ chưa chấm dứt, một người khác từ vọng gác đã tiến lại phía họ. Lần này, hẳn là sĩ quan phụ trách nhóm lính. Anh ta buông từng lời một cách khô khan:

- Đây là khu vực cần nghiêm mật bảo vệ, yêu cầu đồng chí đưa trẻ đi nơi khác.

Không đáp nửa lời, An quay xuống bảo cháu:

- Không đứng được ở đây con ạ. Dượng đưa con ra chợ Ngọc Hà rồi mua cho con quả bóng. Con nghe rõ chưa?

Rồi anh trèo lên xe, đạp đi luôn. Phía sau lưng, hẳn anh chàng sĩ quan phải đưa mắt nhìn theo một cách bực tức. Trong thâm tâm, An biết rằng thái độ của anh vô lý bởi những gã lính kia cũng như anh, họ phải thi hành một phận sự, một mệnh lệnh giáng xuống từ những kẻ đứng cao hơn. Nhưng dẫu sao, con tim anh cũng không ghìm được cơn phẫn nộ:

"Này ông? cha đẻ của đứa bé đang ngồi trong lòng tôi đây

- Anh thầm nói với người anh em đồng hao chưa từng gặp mặt

- Liệu ông có mường tượng ra cảnh này? Một đứa con đứng trước ngôi nhà của cha đẻ mà không có quyền vào cũng chẳng có quyền ngắm nghía. Một đứa con bị đuổi khỏi cổng ngôi nhà cha nó đang là chủ nhân? Liệu cảnh trớ trêu này có khiến ông động tâm, ngài chủ tịch? Giờ đây, con gái ông còn quá nhỏ để hiểu sự tình. Nhưng mai đây, khi khôn lớn, liệu nó có thể coi ông là một người cha tử tế hay chỉ là kẻ vô tâm buông quăng bỏ vãi những hạt máu của chính mình? Cái dinh thự nguy nga kia liệu không có nổi một gian phòng cho vợ con ông trú ngụ hay vì một cơn cớ thầm kín, đen tối nào đó mà ông chấp thuận cho Nàng Nhỏ của chúng tôi ăn ở chen chúc lẫn lộn giữa đám thứ dân? Phải chăng vì hoàng hậu là người miền núi nên nàng buộc chịu cảnh ngược đãi của triều đình? Cái triều đình thường ban bố các loại chiếu chỉ: Ưu đãi người thiểu số!"

Những ngờ vực, giận dữ đã chôn vùi bấy lâu trong đáy sâu tâm hồn anh bỗng trồi lên. Những lời nguyền rủa cũng vậy, chúng ào ào mọc lên trong óc não anh như rừng măng vầu măng trúc lúc sang xuân. Anh không nhận ra rằng anh đã đạp xe vòng trở lại đường Hoàng Diệu để nhìn ngắm như ghi, như khắc hình ảnh những dinh thự nguy nga, vườn bên phải,vườn bên trái, sân trước sân sau của các vị rường cột triều đình. Sau đó, anh lại tiếp tục đạp theo đường Phan đình Phùng để nhìn lại những biệt thự khác, mà anh đã thuộc lòng tên chủ nhân của chúng, để nỗi oán hờn căm giận tiếp tục ngoi lên từ con hồ lặng lẽ trong tâm hồn anh.

"Đây là nơi dành cho các phu nhân mắt híp, môi thâm chứ chẳng dành cho Nàng Nhỏ của chúng ta, cho dù nàng muôn ngàn lần xinh đẹp."

Anh thầm nghĩ với nỗi cay đắng, khi thấy một bà bộ trưởng ngồi trong chiếc Volga vụt qua mặt anh, cổ rụt xuống vì những lăm thịt dâng lên tận cằm và cặp mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ nhìn phố phường với vẻ ngạo nghễ. Chiều hôm đó trời rất đẹp nhưng anh chìm đắm trong những suy tưởng u ám mà không có cách nào thoát ra được. Anh thương con bé Mùi? Anh thương Nàng Nhỏ? Hay anh cảm thấy sự bất lực của mình trước cuộc cờ số phận? Mãi đến bữa cơm tối, khi vợ anh từ bệnh viện trở về với vẻ mặt hớn hở của trẻ bắt được quà anh mới tạm quên đi những dằn vặt chua xót.

Nàng Đông bảo:

- Ba hôm nữa chúng ta đón Nàng Nhỏ về nhà. Như thế em không còn phải mang cơm vào viện.

- Sức khoẻ của nó có tốt không?

- Của ai? Nàng Nhỏ hay thằng bé?

- Nàng Nhỏ.

Vợ anh cười:

- Nàng Nhỏ khoẻ và vui. Nhưng em thấy là anh trọng nữ khinh nam. Anh chẳng hỏi han gì thằng bé.

Anh bật cười theo:

- Bởi vì cả xã hội đã trọng nam khinh nữ rồi nên anh đành làm ngược lại. Em không thích như thế hay sao?

- Em thích.

Vợ anh đáp lại tức khắc. An biết rằng Nàng Đông vô cùng hạnh phúc với anh. Mối tình của họ bắt đầu từ thuở lên năm, nếu nói cho thật đúng là tình con trẻ. Và tình yêu đôi lứa khởi sự ở tuổi trăng rằm. Tình yêu thơ dại kết nối với hơi thở nồng đượm của tuổi ái ân, như một dòng chảy không ngưng cạn. Anh lại là người phóng khoáng, chẳng câu nệ việc của cải, cũng không quá tha thiết với kẻ nối dõi tông đường. Những năm đèn sách ở huyện đã đem lại cho anh lối nhìn cuộc sống khác hẳn những người đàn ông cùng thời đại. Điều đó giống như một thứ quà tặng được ban phát từ bàn tay đấng toàn năng. Nhiều lần, vợ anh nói:

- Ôi, thật may mắn sao là chúng ta ở hai bên một sườn đồi.

Và anh đáp lại rằng:

- May mắn rằng ngày anh ra đời lại có một cô hàng xóm chờ sẵn.

Nàng Đông vặn hỏi:

- Thế nghĩa là anh chê em già hơn anh mười lăm ngày?

Anh bảo:

- Cho dù em có ra đời trước anh mười lăm năm em vẫn là vợ anh. Số kiếp đã định như thế.

- Chao ôi!...

Vợ anh kêu lên:

- Anh là người nói khoác giỏi nhất trần gian.

Mọi cuộc chuyện trò của họ đều kết thúc bằng tiếng cười. An chưa từng thấy cặp vợ chồng nào gắn bó với nhau theo kiểu ấy. Thời họ còn trẻ, anh chẳng mảy may ngờ vực hạnh phúc của mình. Nhưng sau ngày đứa con trai của Nàng Nhỏ ra đời, một linh cảm âm u thường xuyên lởn vởn trong óc não anh, ngay cả những khoảnh khắc vui vẻ nhất. Anh thường nhớ lại những danh ngôn học được từ ông thầy dạy sử, người anh chịu ơn nhiều nhất trong những năm đèn sách ở huyện Thất Khê.

"Những mỹ nhân cũng giống loài hoa rực rỡ, sớm nở tối tàn; bởi trời xanh đã ban cho họ một nhan sắc lộng lẫy khiến bao kẻ phải thèm khát, ghen tuông, trời cũng sẽ tước đi của họ một phần đời sống."

Nhan sắc hai chị em Nàng Đông càng ngày càng trở nên rực rỡ đến chính anh cũng ngạc nhiên. Thời gian không chạm được đến họ, ngược lại, năm tháng khiến cho vẻ đẹp của họ thuần thục hơn, quyến rũ hơn, thần bí hơn. Đã nhiều lần An chứng kiến những kẻ qua đường dừng lại, sửng sốt nhìn hai nàng như nhìn những nữ thần sông, thần núi hiện hình. Ở đất thủ đô này, đốt đuốc giữa ban ngày cũng không thể tìm được một thứ nhan sắc chim sa cá lặn như vậy. An hiểu rằng thứ nhan sắc ấy chỉ có thể được tạo ra trên vùng đất quê anh; nơi không khí thanh sạch đến độ người ta có thể nhìn mọi vật như nhìn một thứ pha-lê vào những ngày tạnh sương mù hay mưa núi; nơi những rừng hoa mận nở trắng xoá lúc sang xuân; nơi những thác hoa kim ngân tuôn chảy triền miên dọc theo các dòng suối mùa hè; nơi hoa tím điệp vào sắc lèn đá tiết thu muộn; nơi quanh năm các loài ong rù rì, múa lượn và cho thứ mật màu hổ phách ngào ngạt phấn hoa; nơi khe, suối trong veo chảy giữa các bờ đá tắm táp không ngừng da thịt con người và tưới nhuần những vùng ruộng bậc thang... Những mỹ nhân của bản Xíu lớn lên trong vùng trời ấy, hít thở bầu không khí ấy, được nuôi dưỡng bởi thứ mật ong rừng hoà trộn hàng trăm loại phấn hoa dại, bởi sữa trâu và các loại gia cầm gia súc đất nhà. Da họ mơn mởn như trái đào, mắt họ trong như pha-lê, cái nhìn của họ thăm thẳm như vực sâu, như hang núi. Chẳng cần son môi họ cũng đỏ chon chót như trái ớt chín và sau màu đỏ rồ dại ấy, chứa chất và hứa hẹn biết bao lạc thú. Dường như An đã yêu Nàng Đông từ thuở lọt lòng. Nơi quê họ, dân bản sống theo kiểu người cùng một đại gia đình, không có chuyện tranh cướp tình ái. Mãi sau này, anh mới biết rằng chắc chắn vợ anh đã gieo rắc vô số những mơ mộng và ham muốn nơi những người đàn ông, dọc đường nàng đi. Và như thế, anh cũng hiểu vì sao vị vua già say đắm Nàng Nhỏ. Khó có người đàn ông nào đứng vững nổi trước những người đàn bà mà cùng một lần, nhan sắc của họ giống như lưỡi gươm bén, nhưng tâm hồn bình dị và thánh thiện của họ hứa hẹn một tổ ấm miên viễn, một đời sống lứa đôi ấm áp không đòi hỏi nhiều hao tổn óc não cũng như tâm cơ. Dù Nàng Đông chẳng mảy may ý thức về điều đó, nhưng An biết anh đang thống lãnh một thành trì. Để bảo vệ thành trì đó, cần có trí thông minh lẫn lòng dũng cảm. Niềm kiêu hãnh trong tâm hồn anh luôn pha trộn sự cảnh giác. Đối với Nàng Nhỏ, liệu vị vua già có cùng suy nghĩ như anh?Hoặc là ỷ thế làm vua, thay vì trân trọng một mối tình hiếm hoi như thế, ông ta tự cho mình quyền coi mỹ nhân như một thứ sơn hào hải vị?

Những suy tư ảm đạm ấy, anh không dám thổ lộ cùng ai, anh không muốn làm phiền muộn hai người đàn bà, những người anh yêu quý hơn chính bản thân mình. Anh trở thành kẻ im hơi lặng tiếng trước những cuộc chuyện trò rối rít niềm vui và hy vọng của họ:

- Em sẽ vào dinh chủ tịch ngày mai chứ?

- Vâng. Văn phòng đã lên lịch vào ngày mai. Lái xe sẽ tới đón em lúc chín giờ.

- Em đã chuẩn bị kĩ những điều cần nói chưa?

- Em không cần chuẩn bị nhiều. Em chỉ nói một câu đơn giản thôi: Vì đã có đủ con trai lẫn con gái, chúng ta cần được chính thức hoá trước pháp luật.

- Được rồi, ngày mai sẽ là ngày bận rộn. Chị sẽ nấu cơm sớm lên một chút và em nhớ cho thằng bé bú lúc tám giờ.

Ngày hôm sau chính là chủ nhật. An đưa con bé Mùi đi chơi từ mười giờ sáng, dặn hai người đàn bà rằng anh sẽ về muộn. Buổi trưa, anh dắt cháu vào cửa hàng ăn phở rồi đưa nó đi xem xiếc vào ca ba giờ chiều. Tan cuộc, hai dượng cháu ra về khi mặt trời đã tụt xuống phía sau các mái nhà phía tây thành phố. Con bé nằm lăn ra ngủ còn anh ăn cơm vội vàng rồi đạp xe vào doanh trại, không hỏi han một lời về cuộc gặp gỡ quan trọng của Nàng Nhỏ với người cha của những đứa con nàng. An vẫn nhớ cái nhìn dò hỏi của vợ anh trong lúc nàng đang là quần áo cho cô em. Còn Nàng Nhỏ, quá bận bịu về đứa con trai nên không để tâm đến sự im lặng bất thường của anh. Hoặc là, trong tâm trạng tràn trề hạnh phúc và các dự phóng tương lai, nàng chẳng quan tâm đến ngoại cảnh...Trên đường vào Hà Đông, An đã tự trách mình về sự lãnh đạm kì dị đó. Nhưng ngoài mọi lý lẽ, một nỗi buồn vô cớ cắn xé anh. Một nỗi buồn bất khả cưỡng chế và bất khả lý giải. Ngày nối ngày trôi qua nặng nề. Dù ở trong lớp huấn luyện hay ngoài thao trường cùng lính, An cũng có cảm giác là anh đang sống trong mộng, dường như chân anh không bước trên mặt đất mà bập bõm trong mây. Vì sao? Anh không hiểu. Đôi lúc, trí nhớ gọi anh về bản Xíu, với ánh hồi quang của những ngày hạnh phúc. Đôi lúc, trí nhớ dắt anh về lại thị trấn Thất Khê, trong mái trường mà anh đứng lênh khênh giữa đám học trò như con ngỗng đứng giữa bầy vịt. Hoặc là, anh thấy lại ngôi nhà thơm phức mùi chè của ông thầy dậy sử, bởi vợ ông bán chè mạn nên anh thường đến ngồi đóng gói chè giúp đám con cháu trong nhà, tiện thể nghe ông kể đủ thứ dã sử cũng như chính sử, của triều đình Tàu cũng như triều đình ta, nghe Tam quốc chí và Đông Chu liệt truyện đến thuộc làu làu. Đôi lúc, anh cảm thấy con tim se sắt mà chẳng rõ cơn cớ vì sao, nhưng chắc chắn có một nỗi lo âu mơ hồ nào đó giăng mắc xung quanh như tấm lưới nhện khổng lồ.

Tới thứ bẩy, sau giờ luyện quân, An vồ lấy xe đạp. Nhưng rủi ro là vừa đi được vài trăm mét săm trước nổ tung nên anh đành phải tìm quán vá. Người thợ chìa trước mắt anh cái săm chằng chịt mụn vá, chỗ phồng chỗ tẹt như khúc dồi lợn luộc vụng:

- Xin kiếu đồng chí. Chẳng còn đất vá nữa. Nhất thiết phải thay săm mới thôi.

- Xin bác cố gắng giúp. Chúng tôi chưa đến thời hạn được phân phối săm lốp.

- Tôi xem kĩ rồi. Tôi đã chịu thì chẳng ai dám mó tay vào nữa, bảo đảm là như vậy.

Không có cách nào hơn là dắt xe quay về doanh trại, mượn chiếc xe chở thực phẩm của cấp dưỡng. Ai cũng biết rằng xe cấp dưỡng là thứ xe được ưu tiên hàng đầu nên săm lốp luôn luôn mới. Tổ cấp dưỡng cho anh mượn xe với điều kiện phải trả đúng trưa hôm sau để họ còn kịp đi chợ chiều. Cò kè năn nỉ một hồi, An kéo được giờ mượn xe tới ba rưỡi chiều, như thế anh còn đủ thời gian đèo con bé Mùi đi xem ca múa nhạc ở Cung thiếu nhi thành phố. Hài lòng vì thắng lợi, An hối hả đạp xe về Hà nội. Khi anh đến nơi, phố xá đã lên đèn. Con bé Mùi không đứng trên ban-công chờ đón anh như thường lệ. Chắn chắn vì anh tới muộn. Anh thầm nghĩ rồi dắt xe qua cái hành lang dài dặc và thiếu sáng, chào hỏi ba người lính mặc thường phục mà anh đã quen. Ở trong sân, anh nhận ra con bé Mùi đang ngồi chơi đồ hàng với hai đứa bé khác, cháu ngoại bà già hàng xóm. Thấy anh, con bé chạy ùa ra đu lấy cổ dượng, hôn chi chít lên hai má. An muốn bồng con bé lên nhà, nhưng bà già hàng xóm đã bảo:

- Bác cứ để cháu ngồi chơi ở đây...bác gái dặn tôi như vậy...

Nghe tới đó, An đã thấy tim anh đổi nhịp:

"Có chuyện gì đặc biệt xảy ra mà bắt con bé ngồi đây chơi vào giờ này?.."

Nhưng anh không tiện hỏi bà già nên đành để con bé quay lại chơi với bạn rồi lên gác. Hai người đàn bà ngồi chờ anh bên mâm cơm. Nhìn vẻ mặt họ, anh hiểu một nửa phần sự thật. Nhưng anh lại cất tiếng cười:

- Anh để mọi người chờ lâu quá. Sắp lả đi vì đói rồi phải không? Chờ anh rửa mặt xong ta ăn cơm. Hôm nay phải mượn xe cấp dưỡng vì nổ săm.

- Xe công của quân đội mà cũng không đủ săm dùng hay sao?

Vợ anh hỏi.

- Xe công nào cũng chịu chỉ định phân phối săm lốp. Mà phân phối thì từ may-ô, quần đùi đến cơm gạo, thực phẩm đều không đủ dùng. Hôm nay, các em cho anh ăn món gì vậy?

An chuyển chủ đề.

Nàng Đông tiếp lời anh:

- Hôm nay em làm món nộm chuối với thịt luộc chấm mắm tép của người Kinh.

- Bữa sau, anh đề nghị em nấu món phở chua cổ truyền.

- Người ta bảo phở chua Lạng sơn ngon hơn phở chua Thất Khê quê mình vì họ cho thêm vào nước dùng hương liệu. Ngoài hành khô nướng, gừng nướng, chi quế, hoa hồi, còn một vài thứ nữa coi như bí mật nhà nghề. Nếu anh muốn, hôm nào rảnh em ra phố hàng Mắm ăn thử. Ăn dăm ba lần khắc tìm ra công thức.

- Nếu vậy, em thử xem sao. Phở chua Lạng sơn đã từ lâu có tiếng.

Nhờ cuộc đối thoại ấy, họ có thể tạm quên đi mọi chuyện và kết thúc bữa cơm. Nhưng đến tuần trà, anh biết rằng không thể nào tiếp tục vờ vĩnh vui vẻ. Cái lưới nhện khổng lồ vô hình vây quanh họ đang thít lại những mắt lưới hung hiểm của nó. Anh là người đàn ông, bậc gia trưởng, anh phải là người trước tiên đề cập đến sự thật:

- Nào, bây giờ đến chuyện của chúng ta. Anh chờ nghe đây.

Nàng Nhỏ vẫn im lặng nhưng vợ anh lên tiếng:

- Chủ nhật, em nó thưa chuyện với chủ tịch. Chủ tịch đồng ý nhưng còn phải chờ ý kiến tập thể của bộ chính trị. Ngay thứ hai, vấn đề được đưa ra bởi đó chính là ngày có cuộc họp định kì. Nhưng ý kiến của chủ tịch không được chấp thuận. Không có một phiếu chấp thuận.

- Vì lý do gì?

- Vì họ không muốn chủ tịch có gia đình riêng. Vì họ muốn rằng chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc thôi. Vì... Vì... đấy là nghị quyết của bộ chính trị.

- Họ buộc chủ tịch phải chấp thuận ý kiến của họ? Hay chính chủ tịch muốn tuân phục họ?

Tới đấy, Nàng Đông im lặng. Hẳn vợ anh không thể trả lời. Và Nàng Nhỏ cũng thế thôi. Nhưng An vẫn muốn đi đến tận cùng sự việc. Anh hỏi Nàng Nhỏ:

- Em gặp ông cụ vào ngày nào sau cuộc họp đó?

- Thứ sáu. Khoảng mười một giờ chủ tịch cho xe đến đón em.

- Ông ấy giải thích ra sao?

- Chủ tịch nói rằng trên nguyên tắc của đảng, thiểu số phải phục tùng đa số. Huống chi trong trường hợp này tất cả bộ chính trị đều quyết định như vậy.

- Ông ấy còn nói gì nữa?

- Chủ tịch nói rằng chủ tịch biết em chịu rất nhiều thiệt thòi... rằng chúng ta phải kiên trì sống trong bóng tối một thời gian nữa chờ thời cơ thuận tiện để thuyết phục các uỷ viên bộ chính trị.

- Khi nói những lời lẽ ấy, vẻ mặt ông ấy ra sao?

- Em không nhớ, vì em cúi xuống lau nước mắt.

- Ông ấy cười hay ông ấy khóc?

- Chủ tịch cũng khóc. Chủ tịch ôm em, nói rằng: Họ thật thiếu tình, họ không thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta.

- Chúng ta ở đây bao gồm những ai?

Nàng Nhỏ ngước mắt nhìn anh, vẻ như không hiểu điều anh muốn nói. Lúc đó, An bình tĩnh lại và tự trả lời mình:

- Chúng ta ở đây nghĩa là ông ấy với em và hai đứa nhỏ. Nói một cách thông thường bốn nhân mạng trong một gia đình. Nếu là một gia đình bình thường thì đó là một gia đình đầy đủ.

Và trong lúc đó, một câu nói chua chát khác vang lên trong trí não anh:

"Nhưng rủi ro thay còn một thứ "chúng ta" khác. Chúng ta này là cái tập thể tí hon bao gồm anh và vợ anh và em, ba nhân mạng liên quan tới nhau không thể tách rời. Một liên quan sống còn, mật thiết. Mối liên quan này nằm ngoài sự nhận biết cũng như mối quan tâm của chủ tịch. Nhưng điều trớ trêu là mọi quyết định liên quan tới cuộc đời của ông ta sẽ giáng lên đầu chúng ta như những lưỡi gươm của số phận. Chẳng phải vinh hoa phú quý mà chắc chắn sẽ là mất mát khổ đau. Những linh cảm đã không lừa dối ta."

Anh nhìn đôi mắt u buồn của Nàng Nhỏ, tim thắt lại. Anh biết làm gì bây giờ? Anh biết làm gì để cứu vãn tình thế, để che chắn những người thân yêu của mình trước cơn gió dữ? Anh, người đàn ông duy nhất trong cái gia đình bé nhỏ này? Tại sao số phận xô đẩy họ đến đây? An cảm thấy nghẹt thở, anh vùng đứng dậy đẩy hai cánh cửa sổ mở trông xuống sân, rồi quay lại, cất tiếng:

- Này em. Giờ đây chúng ta phải bình tĩnh suy xét. Anh chưa hiểu rõ ý đồ của tập thể bộ chính trị. Trước đây đọc sử anh vẫn thường thấy các triều đình cảnh tỉnh khi một vị vua quá yêu chiều một quý phi. Nhất là khi vua già còn quý phi lại đang mơn mởn xuân thì. Sự lo lắng của các bậc lương đống quốc gia là dựa trên những kinh nghiệm đồi bại trong lịch sử. Đường minh Hoàng mê đắm Dương quý phi. Trụ Vương mê say Đát Kỉ. Ở nước ta chúa Trịnh Sâm say đắm cung phi Đặng thị Huệ. Nhưng những trường hợp này hoàn toàn khác biệt tình cảnh của chúng ta. Những người đẹp của các vua Tàu sống xa hoa trên lụa là châu báu. Mỗi bước đi của Dương quý Phi đạp lên một đoá sen đúc bằng vàng. Lâu đài của Đát Kỉ phủ đầy gấm vóc và mỗi bữa ăn của nàng ta đáng giá hàng trăm lượng bạc. Đến chiếc xe ngựa của quý phi cũng nạm ngọc dát vàng từ dưới đệm lên mui. Còn cung phi Đặng thị Huệ ở xứ ta đã ỷ thế được chúa yêu, thả sức nhũng lạm vàng bạc, đưa vô số người thân vào phủ chúa và bao che cho đứa em trai hung tàn bạo ngược là Đặng mậu Lân. Mậu Lân đi đến đâu cướp bóc tài sản của lương dân ở đấy. Gặp bất cứ người nào, dù là đàn bà hay con gái, hễ vừa mắt là sai lính quây màn giữa đường giữa chợ hãm hiếp người ta một cách thoả thuê... Kẻ nào trái ý chém chết ngay tức khắc. Sự hung tàn bạo ngược của y khiến cho lê dân cũng như các trung thần trong triều muôn ngàn lần phẫn nộ. Bao nhiêu sớ dâng lên đề nghị vua trừng trị Mậu Lân đều bị Đặng phi sai người xé đốt. Sau cùng, một võ quan đã chém chết y rồi tình nguyện trói thân quay về chịu tội trước Trịnh Sâm. Xét trên cả ba trường hợp đó, chúng ta chẳng liên quan gì đến sự xa hoa cũng như bạo ngược. Chúng ta sống nơi đây như những thứ dân dưới mức trung bình. Anh là người đàn ông duy nhất trong gia đình này, chưa từng cướp bóc hãm hại ai. Những đứa con của em ra đời trong một bệnh viện bình dân nhất, chẳng có lương y triều đình cũng không có thầy thuốc của phủ chủ tịch. Con bé Mùi và em nó lớn lên như mọi đứa trẻ con thuộc các gia đình công nhân hay cán bộ sơ cấp. Chúng ta chưa từng có một chút lợi quyền nào. Chúng ta cũng chưa từng xâm phạm đến tài sản hay quyền lợi quốc gia. Cớ sao họ có thể đối xử với chúng ta như vậy?

Chẳng ai trả lời anh. Cả hai người đàn bà cúi đầu sùi sụt khóc. An hiểu rằng không ai có thể trả lời anh, trừ phi có một ông Trời và một khi ông Trời này động lòng từ ái trước tình cảnh của họ. Nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy một ông trời. Những thánh thần hoặc vong linh tiền nhân mà họ thờ cúng luôn luôn chỉ là những làn khói phất phơ bay trên bàn thờ ngày lễ tết, và dường như mùi thơm của nhang trầm chính là sự hiện diện gần gũi nhất mà anh có thể cảm nhận. Giờ đây, anh biết tìm trời ở đâu?

- Liệu em có dám hỏi thẳng ông cụ những điều anh vừa nói hay không?...

An dằn giọng. Nàng Nhỏ khóc to hơn. Những cơn nức nở dồn dập hơn. Vợ anh ngước nhìn anh với cái nhìn van vỉ. Cơn giận dữ tiếp tục trào lên trong anh như một nồi cháo sôi trên ngọn lửa cháy quá đà:

- Nàng Nhỏ, em cần phải hỏi ông cụ cho rõ ràng. Vì cuộc sống của em, và cuộc sống của những đứa con em.

- Em cũng đã hỏi nhưng chủ tịch nói rằng chủ tịch cần phải sống gương mẫu. Rằng nếu em yêu chủ tịch thì phải chấp nhận điều ấy. Rằng khi những đứa trẻ lớn lên tình thế sẽ đổi thay.

- Khi những đứa trẻ lớn lên?...

Anh hỏi lại và không chờ đợi câu trả lời:

"Chao ôi, giờ ông ta đã hơn sáu mươi tuổi. Liệu chúng ta phải chờ ông ta đủ bát tuần để có thể sống một cách chính thức với thiên hạ hay sao? Chua chát thay cho Nàng Nhỏ của ta! Chua chát thay cho thân phận những đứa con của một vị vua già! Những đứa cháu của ta, những đứa trẻ dù muốn hay không cũng liên đới với ta bởi sợi dây của tình ruột thịt."

Rồi một câu hỏi khác ập đến mà anh không thể ghìm nén:

- Này em, em có thật sự yêu ông ta không?

Nàng Nhỏ nhìn anh với cái nhìn ngơ ngác:

- Anh hỏi gì?

- Anh muốn hỏi rằng em thật sự yêu ông ta hay em yêu ông ta chỉ vì ông ta là chủ tịch nước?

- Em yêu chủ tịch... Em yêu...

Nàng đáp lại rồi oà lên trong một cơn nức nở dữ dội hơn. Nàng Đông đưa mắt nhìn anh giận dỗi:

- Anh làm sao vậy? Anh bị con mòng hay con rít cắn phải không?

- Ồ không.

An đáp lúng búng. Anh chợt nhận ra rằng cơn tức giận đã xô anh đi quá đà. Có lẽ anh mong muốn cho em anh có một số phận khác. Nhưng sợi dây oan nghiệt của định mệnh đã cột trói nàng với vị vua già, vị vua già mà nàng lại trót yêu. Tình yêu cắc cớ trớ trêu đến như vậy. Trước đây anh vẫn hồ nghi, giờ anh hiểu Nàng Nhỏ có thể yêu ông ta thật sự. Không phải vì ông ta quyền cao chức trọng mà trước hết bởi ông ta là người chồng tốt, dù chỉ làm chồng trong những khoảnh khắc bị cắt rời.

"Lão già này hẳn là bẻm mép, giỏi tán gái?"

Anh nghĩ, nhưng ngay tức khắc anh hiểu rằng ông vua già chẳng phải kẻ bẻm mép mà ông ta thật sự giỏi; rằng ông ta có thể làm Nàng Nhỏ siêu lòng bởi những lời lẽ ngọt ngào đằm thắm mà tất thảy những gã đàn ông trẻ trung hơn không biết nói, rằng ông ta có thể khiến nàng say đắm bởi những cử chỉ âu yếm đường mật mà người bản xứ chẳng biết cách thể hiện, những thứ cung cách văn hoá xa lạ mà ông ta học được ở phương tây. Cái sức mạnh đó không giống sức mạnh của người thợ săn giương súng lên ngắm con mồi, bởi nó không nhằm chiếm đoạt những con mồi mà nó nhằm chiếm đoạt những con tim. Cái sức mạnh đó vô hình vô dạng nhưng anh cảm nhận được một cách rõ ràng tựa hồ anh nhìn thấy ngọn lửa cháy, những hạt sương ban mai hay hoa nở trên các triền núi. Cái sức mạnh ấy, chính anh từng cầm nắm trong tay. Hồi ức dẫn anh quay lại những buổi tối ấm áp nơi bản Xíu, khi anh trở về từ thị trấn Thất Khê. Ngôi nhà sàn thênh thang bập bùng ánh lửa và chen chúc láng giềng. Chú anh chuẩn bị sẵn một hũ rượu lớn, những mâm gỗ sâu lòng chất đầy đồ nhắm mặn lẫn bánh trái và hoa quả. Thím anh rang đầy một thúng hạt hướng dương rồi sắp sẵn trà đường đãi khách. Dân bản, già cũng như trẻ, ngồi vòng quanh bếp lửa như những khán giả đam mê xúm quanh một sân khấu mà diễn viên duy nhất chính là anh. Đứng ở vị trí trung tâm, cậu học sinh phố huyện kể lại các liệt sử, các dã sử, các huyền thoại của người miền xuôi cũng như các vùng núi non khác xứ. Tất thảy kho kiến thức mà ông thầy trường huyện đã truyền thụ cho anh. Chú anh, ngồi ngay bên cạnh, khi đưa mắt nhìn anh với cái nhìn vừa yêu thương vừa thán phục, khi cúi đầu xuống để che giấu vẻ hãnh diện trước xóm giềng. Ông là người thợ săn nổi tiếng khắp vùng, người nấu cao hổ, cao gấu, cao sơn dương thành thục. Những miếng cao được sản xuất từ ngôi nhà sàn của ông là thứ mà những người giàu có sành sỏi khắp nơi phải lặn lội về bản Xíu để tìm kiếm... Chính với tiền bán những lạng cao ấy ông đã nuôi anh đủ bẩy năm đèn sách. Vậy mà khi nghe anh tán tụng tiếng sáo Trương Lương, khi nghe anh bình phẩm cái chết của Quan Vân Trường, khi anh miêu tả trận Bạch Đằng với tiếng hô Sát Thát...ông không tránh khỏi cảm giác thần phục của những người mù chữ trước một kẻ đọc thông viết thạo.Và sự thần phục ấy lia sát đến biên giới của sợ hãi hay mê đắm. Sức mạnh chinh phục của văn hoá là nghiệm sinh quan trọng nhất trong thời niên thiếu của An. Tuy anh chỉ là cậu học sinh trung cấp và chân trời xa nhất của anh dừng lại nơi những dãy phố nhỏ với những mái nhà lợp ngói ống huyện Thất Khê. Để so sánh, An hiểu rằng những gì anh hiểu biết chỉ là một hạt cát cỏn con trước một sa mạc mênh mông của con người lão luyện kia, kẻ đã hai mươi năm giang hồ tứ xứ, kẻ nói được cả tiếng Tàu lẫn các loại tiếng Tây. Kho trí tuệ của ông ta hẳn muôn ngàn lần rộng lớn hơn anh, và như thế, Nàng Nhỏ yêu ông ta cũng không phải việc lạ lùng.

"Nhưng cớ sao ta lại so sánh mình với con người quyền năng ấy? Đấy là sự rồ dại."

An thầm nghĩ một cách chua chát. Nhưng tức khắc, một tiếng nói khác dội lại như đáp lời:

"Vâng, ông muôn ngàn lần tài giỏi, quyền uy. Nhưng dẫu sao ông vẫn bước chân vào gia đình này sau tôi, đứng trước bàn thờ tổ tiên của hai nàng, tôi được quyền thắp nhang trước. Còn giờ đây, vợ chồng tôi là những người chăm chút con ông. Nói cho cùng, chính ông phải chịu ơn chúng tôi, hỡi vị vua già."

Buổi tối hôm đó trôi qua một cách nặng nề. Đêm đến, Nàng Đông ôm riết lấy anh. Họ không nói gì nữa. Họ làm tình một cách lặng lẽ. Họ làm tình như lần đầu làm tình ven bờ con suối Sơn ca. Như tuổi mười lăm được triệu hồi với tất cả sự hăm hở điên cuồng và sôi sục. Bởi thế, hôm sau anh ngủ đến tận non trưa. Khi tỉnh giấc, vợ anh đã đi chợ còn Nàng Nhỏ dẫn hai đứa con xuống dưới sân chơi với bà già hàng xóm. An mở rộng khuôn cửa sổ nhìn cảnh ba mẹ con nàng chơi dưới gốc sấu già. Dán mắt và cảnh tượng đó nhưng đầu óc anh hoàn toàn mù mịt khói sương. Hoàn toàn trống rỗng. Không một ý nghĩ nào hiện lên rõ nét. Chẳng một cảm giác nào có thể mô tả thành lời. An cảm thấy anh đã biến thành một thứ tượng gỗ biết đi lại, nói năng nhưng vô cảm. Anh chìm đắm trong trạng thái mụ mị như thế giờ lâu cho đến khi vợ anh quay về. Nàng Đông bỏ làn thức ăn xuống sàn, chăm chú nhìn chồng. Rồi, chừng như cảm nhận được trạng thái tinh thần kì dị của anh, nàng dẫn anh vào phòng. Ở đó, nàng ôm lấy đầu anh một cách dịu dàng, dịu dàng ghì xiết vào bộ ngực nồng nàn của mình. An gục mặt vào lòng vợ. Da thịt ấm nóng thân thuộc của nàng, và nỗi dịu dàng âu yếm của tình yêu khiến anh dần dần trồi lên khỏi làn nước lạnh giá của sự vô cảm. Anh bật khóc. Khóc nức nở như một người đàn bà. Khóc cơ cực như kẻ đói cơm rách áo. Khóc hờn tủi như một đứa trẻ bị lạc trên sân ga.
 

Coi tiếp NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT (3)
 

www.geocities.ws/xoathantuong