Thánh nhân Trần Hưng Đạo thương dân yêu nước và
con người gian manh quỉ quyệt buôn dân bán nước Hồ Chí Minh

Chu chi Nam
 

"Viết để nhớ ơn Thầy Bu"

Dân và lịch sử không bao giờ lầm, nhất là về lâu dài. Ai có công thì được họ kính trọng, tôn thờ, nhiều khi được coi như thánh nhân, và họ tự làm giỗ để tưởng nhớ hàng năm. Ai có tội thì bị dân và lịch sử phỉ nhổ ngàn đời. Những bạo chúa thường bắt dân ca tụng, đúc tượng để thờ. Nhưng khi bạo chúa bị hạ bệ hay chế độ của họ bị sụp đổ, thì dân tự hạ hình, vứt tượng họ xuống đất. Ðiển hình là dân Việt từ hơn 700 năm nay đã tự động tôn Trần Hưng Ðạo lên làm thánh nhân và hàng năm tự động làm lễ để tưởng nhớ công đức, ghi ơn ngài. Ngược lại những bạo chúa như Staline và Sadam Hussein mà chúng ta đã có dịp thấy phản ứng phẫn nộ của dân trên truyền hình, khi chế độ cộng sản Liên Sô sụp đổ, khi Sadam Hussein bị hạ bệ. Người ta có thể nói Staline là người đã được các chính quyền và đảng cộng sản trên toàn thế giới tôn sùng nhiều nhất ; nhưng rồi hành động đồ tể của ông, một trong những kẻ giết người đứng đầu thế giới, cũng đã bị phơi bày và kết án.Sau khi đồ tể bị hạ bệ, không phải chỉ mình dân Nga kết án, mà cả thế giới phỉ nhổ. Sadam Hussein của Irak cũng vậy ! Chỉ giờ trước giờ sau, khi bạo chúa chạy trốn, thì dân Irak đã vứt hình, đạp tượng ông xuống đất.

Ngày hôm nay, chế độ bạo tàn cộng sản do Hồ chí Minh lập ra còn tồn tại ở Việt Nam, bắt dân Việt phải tôn thờ Hồ chí Minh. Nhưng ai cũng biết, nếu một ngày gần đây, chế độ này không còn nữa, thì người dân sẽ lập tức vứt hình, đạp tượng họ Hồ  xuống đất. Ngay hiện tại người dân Việt đã phỉ nhổ Hồ chí Minh và chế độ qua những câu thơ, câu vè truyền khẩu. Có lẽ chưa bao giờ nước ta lại có một nền văn chương truyền khẩu chửi chế độ phong phú như ngày hôm nay !

Thật vậy, đức Trần hưng Ðạo quả thật là một vị thánh nhân thương dân, yêu nước, tài đức, văn võ kiêm toàn.

"Hưng đạo vương là một người danh tướng đệ nhất, đánh giặc Nguyên có công, được phong làm Thái sư, Thượng phụ, Thượng quốc công, Bình bắc đại nguyên súy, Hưng đạo đại vương..... Hưng đạo đại vương thực là hết lòng với vua, với nước, tuy rằng có quyền uy lừng lẫy, mà vẫn giữ chức phận làm tôi, không làm điều gì kiêu ngạo. Ðang khi quân Nguyên quấy nhiễu, ngài cầm binh quyền, Thánh tông, Nhân tông cho ngài được chuyên quyền phong tước : trừ ra từ tước hầu trở xuống, cho ngài được phong trước rồi mới tâu sau. Thế mà ngài không dám tự tiện phong thưởng cho ai cả ; phàm những nhà giàu mà ngài quyên tiền gạo để cấp cho quân ăn, ngài chỉ phong cho làm giả lang tướng mà thôi, nghĩa là tướng cho vay lương. Ngài cẩn thận như thế và ở với ai cũng công chính, cho nên đến khi ngài mất, từ vua cho chí bách tính ai cũng thương tiếc. Nhân dân nhiều nơi lập đền thờ phụng để ghi nhớ công đức của ngài." (Trần trọng Kim - Việt Nam Sử Lược - trang 160+161 - Nhà xuất bản Tân việt - Sài gòn).

Trần hưng Ðạo tên thật là Trần quốc Tuấn, con của An sinh vương Trần Liễu, cháu gọi Trần thái Tông là chú ruột, quê làng Tức mặc, huyện Mỹ lộc, tỉnh Nam định.Sử ghi Trần hưng đạo mất ngày 3/9/1300 dương lịch. Ngày sinh của ngài không rõ, nhưng nhiều sử gia cho rằng ngài sinh vào năm 1232. Khi quân Mông cổ xâm chiếm nước ta lần thứ nhất (1257), Trần hưng Ðạo mới khoảng 25 tuổi, và là một viên tướng nhỏ, có nhiệm vụ cầm quân án ngữ ở biên thùy phía bắc. Ba chục năm sau, khi quân Mông cổ xâm chiếm nước ta lầ thứ hai (1285) và lần thứ ba ( 1287), ngài được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn bộ quân đội quốc gia để chống giặc. Quân Mông cổ là đòan quân mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, vó ngựa của chúng đã dẫm nát từ châu Á sang châu Âu, lập nên một đế quốc lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Lực lượng chúng huy động vào xâm chiếm nước chúng ta rất đông đảo, và được chỉ huy bởi những tướng lừng danh, bách chiến bách thắng trên thế giới, đặt dưới sự lãnh đạo tối cao của Thoát Hoan, Thái tử Mông cổ.Thế lực quân Mông cổ cả hai lần đều rất đông, tổng cộng lên tới 60 vạn người, rất mạnh, làm nhiều người nao núng ; ngay cả vua Trần Nhân Tôn, vào lần thứ hai cũng lưỡng lự : "Hay ta tạm hàng để cứu muôn dân." Trần hưng Ðạo đã khẳng khái trả lời : "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước đã ! " Lợi dụng thế hiểm trở của đất nước, toàn dân toàn quân một lòng, Trần hưng Ðạo đã dùng chiến lược đoản trận đánh với trường trận. Ngài biết quân địch giỏi về thế trận dài và rộng, vì quân Mông cổ lúc bấy giờ đứng đầu thế giới về đi ngựa, bắn cung và đấu kiếm. Ngài dụ quân địch đi vào ngõ hẹp, chia quân địch ra từng khúc một để tiêu diệt. Ðó là đoản trận. Trong cuộc phản công lần thứ nhì 1285, ngài chém đầu Toa Ðô, Nguyên soái của Mông cổ, và khiến Thoát Hoan, Thái tử của Mông cổ, phải chui vào ống đồng, chạy thoát về Tàu. Lần thứ ba, 1287, Thoát Hoan phải cuống cuồng chạy trốn về Tàu mới toàn mạng, phần lớn các tướng Mông cổ hoặc bị bắt sống, hoặc bị chém đầu.

Trần hưng Ðạo là tướng đầu tiên trên thế giới đánh bại quân Mông cổ, bách chiến, bách thắng ở khắp nơi.

Ngoài sự nghiệp về quân sự, Trần hưng Ðạo còn có tài về văn học. Sách cũ ghi lại, ngay từ lúc 7 tuổi, ngài đã biết làm thơ. Ngoài việc là tác giả bản Hịch Tướng Sĩ, nổi tiếng, ngài còn là tác giả hai quyển tư tưởng về quân sự Binh Thư Yếu Lược và Vạn kiếp bí truyền.

Ðó là con người Trần hưng Ðạo, so với con người Hồ chí Minh, thì hoàn toàn trái ngược!

Hồ chí Minh, con người quỉ quyệt, ăn gian, nói dối vừa bẩm sinh, vừa tập thành.

Thật vậy, người ta có thể nói Hồ chí Minh là con người gian dối bẩm sinh. Ngay đến ngày sinh, năm sinh ông cũng dấu. Ông tự viết sách để tự khen mình, khác hẳn với đức tính khiêm tốn của đức Trần hưng Ðạo. Ông lấy bút hiệu Trần dân Tiên, tự viết về đời mình, tự khen mình, và còn đạo đức giả nói là Hồ chủ tịch không có thì giờ để trả lời phỏng vấn về đời tư. Ngày hôm nay người ta biết đại khái là họ Hồ sinh vào khoảng năm 1890, tại làng Kim liên, huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ an. Hồ chí Minh có vào khoảng 50 tên khác nhau, đối xử tệ bạc với anh chị. Họ Hồ rời Việt Nam vào năm 1911, làm phụ bếp trên một chiếc tàu thủy Pháp, đi tìm đường nuôi thân. Thế mà chính họ Hồ trong quyển Cuộc Ðời Hồ chí Minh, tác giả Trần dân Tiên (chính là Hồ chí Minh), và đảng Cộng sản Việt nam đã quỷ quyệt gian manh, nói dối là "Ði tìm đường cứu nước ". Thực sự là đi cứu thân, vì ông đã viết thư với lời lẽ tưng bốc nước đại Pháp để xin vào học trường thuộc địa. Năm 1912, ông viết thư cho Khâm sứ Pháp ở Huế, với lời lẽ quỵ lụy viên quan thuộc địa này, để xin cho cha ông bị triều đình cách chức vì đánh chết người, một chức như thừa biện ở các bộ hoặc huấn đạo hay quản giáo. Tên Nguyễn ái Quốc là tên ông đã ăn cắp từ tên chung mà các cụ Phan chu Trinh, Phan văn Trường, Nguyễn thế Truyền dùng để viết báo ở Paris. Tên Hồ chí Minh cũng là tên ăn cắp từ một tên người khác ở bên Tàu. Năm 1920, ông đi theo Ðệ Tam Quốc Tế Cộng sản, mặc dầu ông chưa phân biệt nổi giữa Ðệ Nhị và Ðệ Tam, do chính ông thú nhận, trong quyển của Trần dân Tiên. Vào những năm 20, chính cụ Phan bội Châu cũng đã được đại diện của Ðệ Tam gặp chiêu dụ ở bên Tàu ; nhưng sau khi biết rõ điều kiện mà tổ chức này đặt ra cho các hội viên là phải từ bỏ chủ nghĩa quốc gia, dân tộc, cụ Phan đã từ chối khéo. Ngược lại Hồ chí Minh lại chấp nhận và tự nguyện làm một đồ đệ trung thành mù quáng của Ðệ Tam, miễn sao thực hiện được tham vọng cá nhân của mình, bất chấp quyền lợi quốc gia, dân tộc. Suốt cuộc đời, Hồ chí Minh đã là đồ đệ trung thành của trường phái Staline, cứu cánh biện minh cho phương tiện, dùng bất cứ phương tiện nào để thực hiện mục đích của mình, ngay dù vô đạo đức, phản luân lý, hại quốc gia, phản dân tộc.

Ngoài việc gian dối bẩm sinh, Hồ chí Minh còn gian dối tập thành, được huấn luyện để trở thành gian dối.

Sau khi theo Ðệ Tam quốc tế, ông theo học trường Cộng sản Ðông phương, mà chương trình học phần chính là nói dối, tổ chức lén lút và phá hoại. Ðể được chấp nhận vào học, chỉ cần có chứng chỉ làm việc 2 năm ở một hãng xưởng. Bài học đầu tiên của nhà trường là học trò phải học nói dối : mỗi học viên phải tự làm cho mình 3 phiếu lý lịch khác nhau, để tùy cơ nói dối. Chương trình học sau đó có lý thuyết Mác Lê, một cách sơ khai và tóm lược, mà Hồ chí Minh đã sao chép lại trong quyển Ðường Kách Mạng của ông (ở đây tôi dùng chữ K thay vì chữ C thường tình, vì đó chính là tên quyển sách viết như vậy, theo người cộng sản). Phần chính chương trình học còn lại là học tổ chức lén lút, bất hợp pháp, lén lút phá hoại, nói một cách khác đi là học phá hoại, giết người, không coi luật pháp và đạo đức luân lý là gì cả.

Hồ chí Minh, con người vọng ngoại chưa từng thấy trong lịch sử Việt nam và thế giới

Ðược Ðệ Tam Quốc tế phái về Việt Nam để sửa soạn cướp chính quyền vào năm 1941, họ Hồ sống ở Bắc Bó, và đã đặt tên ngọn núi gần chỗ ở là núi K. Marx và suối là suối Lénine. Ngay cả lúc gần chết, viết di chúc, họ Hồ cũng chỉ mơ ước được gặp cụ Marx, cụ Lénine, chứ không muốn gặp những vị anh hùng của dân tộc. Nếu chúng ta đọc lịch sử của các nước cộng sản trên thế giới từ Ðông Âu qua Trung cộng, chúng ta cũng không thấy có một người lãnh đạo cộng sản nào lại vọng ngoại như Hồ chí Minh.

Hồ chí Minh, con người bán nước

Ngày hôm nay người ta chỉ nghĩ tới Lê khả Phiêu, con người bán nước với hai Hiệp định ký kết với Trung cộng vào năm 1999 và 2000, dâng cho Trung cộng 800km2 lãnh thổ, mà trong đó có ải Nam quan và thác Bản giốc, cùng 16 000km2 vùng biển bắc Việt. Thực ra việc dâng đất cho Trung cộng đã có từ hồi họ Hồ còn sống. Vào năm 1953, khi sửa đường xe lửa ở vùng biên giới Việt-Hoa, Trung cộng đã tự tiện dời một số cột mốc về phía xâm lấn đất nước ta. Chính quyền Cộng sản Việt Nam có lên tiếng phản đối trên báo chí ; nhưng cũng chỉ phản đối cho lấy lệ. Ngày 4/9/1958, Trung cộng yêu sách quyền hải phận 12 hải lý, chỉ 10 ngày sau, tức ngày 14/9/1958, Phạm văn Ðồng, thủ tướng lúc bấy giờ, theo lệnh của Hồ chí Minh và Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, đã gửi một bức thư cho Chu ân Lai, Tổng lý quốc Vụ viện Trung cộng, tương đương với thủ tướng, thỏa mãn yêu sách của Trung cộng, có nghĩa là gián tiếp dâng 2 quần đảo Trường sa và Hoàng sa cho Trung cộng.

Hồ chí Minh, con người đưa dân tộc và đất nước vào vòng trầm luân, khổ ải chưa từng có trong lịch sử Việt

Ngày 19/8/1945, lợi dụng cuộc biểu tình của công chức Hà nội đòi tăng lương, Hồ chí Minh và đảng Cộng sản đã gửi người trà trộn vào đoàn biểu tình, đi đến chỗ cướp các công sở và cướp chính quyền. Ngày 2/9/1945, Hồ chí Minh tuyên bố " Ðộc lập ". Nhưng thực tế Hồ chí Minh đã làm hành động " Ðuổi hổ cửa trước, rồi dẫn báo vào cửa sau ", chính thức đặt Việt Nam dưới gông cùm Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, đưa Việt Nam vào cuộc tranh hùng tư bản-cộng sản, làm dân Việt phải chịu bao gian khổ từ cuộc chiến tranh này tới cuộc chiến tranh khác. Không những ngoại chiến, mà còn nội chiến, nhập cảng lý thuyết Mác Lê, chủ trương bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, đưa đến cảnh con đấu bố, vợ tố chồng, bạn bè tìm cách sát hại lẫn nhau. Dân Việt đã phải chịu cảnh đô hộ biết bao lần, đô hộ Tàu, đô hộ Pháp, đô hộ Nhật ; nhưng chưa bao giờ dân Việt phải bỏ nước ra đi cả triệu người, không phải 1 lần, mà 2 lần, như dưới thời đô hộ cộng sản.

Theo Tôn Tử, một nhà tư tưởng Tàu cách đây 2 500 năm : " Việc binh như lửa, dùng lâu ngày sẽ có hại vào thân... Việc binh kéo dài mà có lợi cho nước chưa từng có vậy ! " ( Tôn Ngô Binh Pháp- Ngô văn Triện dịch-trang 41). Hồ chí Minh và đảng Cộng sản chỉ nghĩ đến tham vọng cá nhân, cố làm vừa lòng Ðệ Tam Quốc Tế Cộng sản, thi hành bao cuộc chiến, mặc cho đất nước lầm than, dân phơi thây ngoài chiến trường, nhân lực và tài lực quốc gia khánh kiệt. Ở điểm này so với Trần hưng Ðạo, chúng ta mới thấy ngài thương dân, yêu nước. Lời trăn trối của ngài với vua Trần anh Tông là một bài học thương dân, yêu nước vô cùng quí giá : " Làm thế nào thu hút được quân lính như cha con một nhà mới có thể dùng để chiến thắng được. Và phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước, không còn gì hơn." (Trần hưng Ðạo-Binh thư yếu lược-trang 23-nhà xuất bản Quê Mẹ-Paris 1988.)

Ðọc đức Trần hưng Ðạo luận về tướng, chúng ta mới thấy rõ sự khác biệt giữa ngài và Hồ chí Minh:

" Khí tượng của tướng, lớn nhỏ khác nhau. Tướng mà che dấu điều gian, không nghĩ đến quần chúng oán ghét, đó là tướng chỉ huy mười người. Tướng mà dậy sớm khuya nằm, lời lẽ kín đáo, đó là tướng chỉ huy được trăm người. Tướng thẳng mà biết lo, mạnh mà giỏi đánh, đó là tướng chỉ huy được ngàn người. Tướng mà ngoài mặt hăm hở, trong lòng ân cần, biết người khó nhọc, thương kẻ đói rét, đó là tướng chỉ huy được vạn người. Tướng mà dùng nhân ái với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục kẻ láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lý, giữa biết việc người, coi bốn bể như một nhà, đó là tướng chỉ huy cả thiên hạ " (Trần hưng Ðạo-Binh thư yếu lược-trang 15).

Hồ chí Minh là một người tướng che điều gian, giấu điều họa, không nghĩ đến quần chúng oán ghét. Hơn thế nữa, ông còn đày ài dân, bán nước, ông là một tội đồ của dân tộc, tội lớn hơn cả Mặc đăng Dung, Lê chiêu Thống. Ngược lại, đức Trần hưng Ðạo là một người tướng thương dân, yêu nước, dùng nhân ái với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục kẻ láng giềng, trên biết thiên văn, dưới thông địa lý, ngài quả là một vị tướng chỉ huy thiên hạ, không ai địch nổi.

Thế mà Hồ chí Minh lại hổn xược với ngài, gọi ngài bằng bác, xưng tôi, trong khi đó thì gọi Marx và Lénine bằng cụ.

Năm 1945, khi viếng thăm đền thờ đức thánh Trần, Hồ chí Minh đọc một bài thơ như sau. Có người bảo bài thơ này không do Hồ chí Minh làm. Ðây là một vấn đề chúng ta có dịp sẽ bàn sau. Nhưng dù sao Hồ chí Minh cũng đã đọc trong một dịp quan trọng, cũng nói lên tính hổn xược, ngông cuồng của ông.

Cũng cờ cũng kiếm cũng anh hùng,
Tôi bác chung nhau nợ núi sông.
Bác phá quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một xứ qua nô lệ,
Tôi dắt năm châu tới đại đồng.
Bác có anh linh cười một tiếng,
Mừng tôi cách mạng đã thành công!

Trần trọng Kim có nhận xét về người Việt Nam như sau:

"Về đường trí tuệ và tính tình, thì người Việt nam có cả tính tốt lẫn xấu. Ðại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân nghĩa lễ trí tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy nhiên vẫn có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt,và hay bài bác, chế nhạo. Thường thì hay nhút, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng đã đi đến trận mạc, thì cũng có can đảm, biết giữ kỉ luật." (Trần trọng Kim-Việt nam sử lược-trang 18-nhà xuất bản Tân Việt-Sàigòn).

Chúng ta có thể nói đức Trần hưng Ðạo và những tướng tá nhà Trần, từ Trần quang Khải, tới Trần bình Trọng, Phạm ngũ Lão, là kết tinh của tất cả những tính tốt của dân Việt. Chính vì vậy mà triều đại nhà Trần là một trong những triều đại vẻ vang, thịnh trị, dân sống an bình và hạnh phúc nhất. Ngược lại Hồ chí Minh và giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam là kết tinh tất cả những tính xấu xa của dân Việt. Vì vậy mà triều đại Hồ chí Minh là triều đại đen tối, bạo trị, dân sống đau khổ, lầm than chưa từng có trong lịch sử Việt.

Paris ngày 24/03/2004
Trực Ngôn Chu chi Nam

Nguồn: Dien Dan Dan Chu
 

www.geocities.ws/xoathantuong