CÁC TIÊU CHUẨN ĐÀO TẠO
CỘNG ĐOÀN ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
(CĐĐSKTH – CLC- CVX)
I. THÀNH VIÊN
CĐĐSKTH TIÊU BIỂU
A. KHÁM PHÁ VÀ SỐNG
ƠN GỌI ĐẶC THÙ TRONG HỘI THÁNH
Khám phá và sống
ơn gọi và sứ mạng riêng
Có khả
năng thông đạt và giúp đỡ tha nhân
Kiến thức
khoa học và chuyên môn
B. SƯ PHẠM
CĐĐSKTH ĐỂ PHÁT HIỆN VÀ SỐNG ƠN GỌI
KITÔ-HỮU
1. Vai tṛ trung
tâm của linh thao trong việc nhận định ơn gọi
a). Được
gọi với tư cách là thụ tạo
b). Đức
Giêsu Kitô: lựa chọn của Linh Thao và của
CĐĐSKTH
2. Các đặc
điểm của “đối tượng y-nhă”
3. Những
giây phút nhận định ơn gọi ki-tô hữu
4. Chuẩn bị
trước và xác chuẩn sau cuộc linh thao lựa chọn
C. SƯ PHẠM
CĐĐSKTH NHẮM TỚI SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ
3. Tiêu chuẩn
Ynhă nhằm nhận định tông đồ
D. DẤN THÂN
VÀ NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI TÔNG ĐỒ
1. Dấn thân
dựa trên Nguyên Tắc và Quy Tắc Tổng Quát
II. MẪU H̀NH
CĐĐSKTH TIÊU BIỂU
B. MỘT CỘNG
ĐOÀN SỐNG ĐẶC SỦNG YNHĂ
Sứ vụ
có tính cộng đoàn, cá nhân và tổ chức
III. CHIỀU
KÍCH PHỔ QUÁT CỦA CĐĐSKTH
A. NGUỒN GỐC
THẦN HỌC: CHÚA BA NGÔI, ĐỨC GIÊSU VÀ THẾ GIỚI
B. ƠN GỌI
TÔNG ĐỒ: MỘT CỘNG ĐOÀN PHỤC VỤ THẾ
GIỚI
C. ĐỂ
CÓ THỂ PHỤC VỤ TỐT HƠN (MAGIS)
Trong
tài liệu này, chúng tôi muốn mô tả đặc sủng
CĐĐSKTH. Ư hướng của chúng tôi là làm sao tŕnh bày
được tính đơn giản và sự phong phú, những
cội rễ lịch sử và những phát triển thêm của
đặc sủng CĐĐSKTH. Bài tŕnh bày này được
dựa trên những kinh nghiệm của các cộng đồng
quốc gia, nhưng lại vượt trên bất cứ cộng
đồng quốc gia nào. Ơn gọi và đặc sủng
của chúng ta là một lư tưởng và một thách đố
đối với tất cả chúng ta. Đóng góp của
các phần tử ưu tú CĐĐSKTH là cần thiết
để áp dụng tài liệu này vào trong mỗi cộng
đồng quốc gia, nhưng đồng thời chúng ta
cũng phải luôn luôn cùng nhau t́m kiếm sự canh tân liên
tục đặc sủng chúng ta. Tôi có cảm thấy
được mời gọi bởi những tiêu chuẩn
này không? Những tiêu chuẩn này có thể cải tiến
và khởi hứng cho cộng đồng của tôi không?
Nền
tảng việc huấn luyện và canh tân CĐĐSKTH là
chính giá trị của mỗi người và xác tín của mỗi
người về ơn gọi thần linh, khởi từ
đó có thể xây dựng một đời sống cộng
đoàn, đảm nhận các trách nhiệm tông đồ
và chia sẻ các trách nhiệm trong sứ mạng chung.
Một
người đầy sức sống, với những lư
tưởng, yêu mến Chúa Giêsu, thiết lập một
tương quan cá nhân, sâu xa và có khả năng tái định
hướng, cả chỉnh đốn nếu cần, các
nhu cầu và ước vọng, các thương tích và yếu
đuối. Lành mạnh và quân b́nh, dấn thân trong cuộc
sống, với hiện tại và những hoàn cảnh cụ
thể như ân huệ Chúa ban cho ḿnh bây giờ; Không khoanh
tay tiếc nuối quá khứ hay mơ tưởng
tương lai viễn vông; cũng không bị tê liệt v́
sợ hiện tại hay tương lai, biết phán
đoán lành mạnh và có khả năng đưa đến
những quyết định; cho thấy được là
kiên tŕ trong các cam kết và thành thật trong việc lượng
giá. Quảng đại và sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn
ư chí, con người và tất cả những ǵ của ḿnh
để phục vụ Chúa chí tôn và mưu ích cho tha nhân.
Cũng
như đối với mọi ơn gọi khác, việc
tháp nhập vào CĐĐSKTH là điều năng động,
có tiến có lui, chứ không luôn luôn đứng yên một
chỗ.
Trong
các giai đoạn đầu, ơn gọi CĐĐSKTH
chưa chỉ dành cho giáo dân. Nhưng đến giai đoạn
trưởng thành, khởi từ cam kết vĩnh viễn,
ơn gọi CĐĐSKTH có tính cách giáo dân, và v́ thế, có
những mục tiêu và những đặc tính biệt loại.
Năm
1949, đức Piô XII nói: “Các tín hữu, chính xác hơn là
giáo dân, có vị trí tiên phong trong Hội Thánh. Đối với
họ, Hội Thánh là nguyên lư sống của xă hội loài
người. V́ thế, họ phải ư thức ngày càng rơ
hơn ḿnh không chỉ thuộc về Hội Thánh nhưng cũng
là Hội Thánh nữa; nghĩa là cộng đoàn tín hữu
trên trần gian, có vị lănh đạo chung là đức
thánh cha, và các giám mục hiệp thông với Ngài. Họ là Hội
Thánh.
Theo
công đồng Vatican II, tính cách thế tục là đặc
thù của giáo dân… Giáo dân được kêu gọi t́m kiếm
Nước Thiên Chúa bằng cách xử lư và xếp đặt
các vấn đề thế tục theo ư Thiên Chúa (LG. 31).
Như vậy, “trần gian” trở thành môi trường và
phương thế cho ơn gọi kitô hữu của các
tín hữu giáo dân, v́ trần gian được đặt
định để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong Đức
Kitô. Công đồng cho thấy đâu là ư nghĩa đặc
biệt của ơn gọi Thiên Chúa dành cho các tín hữu
giáo dân. “Họ không được kêu gọi bỏ nơi
ḿnh đang ở trong trần gian… nhưng ơn gọi của
họ liên hệ đến chính t́nh trạng của trần
gian. . . như thế, đối với các tín hữu giáo
dân, sống và làm việc trong trần gian không chỉ là một
thực tại nhân học và xă hội học, nhưng c̣n,
và đặc biệt là có tính cách thần học và giáo hội”
(Ch.L. 15).
“Cộng
đoàn chúng ta bao gồm những kitô hữu- nam và nữ,
đă trưởng thành hay c̣n trẻ, thuộc đủ mọi
thành phần xă hội- muốn theo sát Chúa Yêsu hơn và cộng
tác với Ngài để xây dựng Nước Trời, những
người nh́n nhận trong CĐĐSKTH ơn gọi
đặc biệt trong Hội Thánh. Mục đích của
chúng ta là trở nên những chứng nhân kitô hữu dấn
thân, làm chứng về những giá trị nhân bản và Tin
Mừng liên hệ đến phẩm giá con người,
thiện ích của gia đ́nh, và sự toàn vẹn của vạn
vật, cả trong Hội Thánh cũng như xă hội.
Chúng ta ư thức nhu cầu khẩn thiết phải phát huy
công b́nh, phải ưu tiên chọn lựa người nghèo,
và phải sống đơn giản để diễn tả
sự tự do và liên đới với họ. Để
chuẩn bị tốt hơn cho thành viên của chúng ta, cho
công cuộc làm chứng và phục vụ tông đồ,
đặc biệt trong chính môi trường sống của
ḿnh, chúng ta tập hợp trong các cộng đoàn những
người cảm nhận một nhu cầu cấp bách
hơn phải hiệp nhất đời sống nhân bản,
trong tất cả các chiều kích, với đức tin
Kitô giáo trọn vẹn, theo đặc sủng của chúng
ta. Chúng ta t́m đến sự hiệp nhất đời sống
ấy để đáp lại tiếng mời gọi của
Đức Kitô, giữa thế giới chúng ta đang sống”
(PG. 4).
Nguồn
suối riêng của đặc sủng chúng ta là linh đạo
Ynhă. Gương mẫu và công tŕnh của thánh Ynhă là như
một cây xum xuê hoa trái trong vườn Hội Thánh. Cành
chính của cây ấy là Ḍng Tên. Từ cây ấy cũng mọc
những cành nhiều hoa trái khác như những ḍng tu và các
nhóm giáo dân. Trong các cành ấy, cành liên quan đến chúng ta
hơn là cành Hiệp Hội Thánh Mẫu, ngày nay gọi là
CĐĐSKTH. Muốn hiểu hơn về đời sống
và tiến tŕnh huấn luyện CĐĐSKTH, chúng ta phải
nhớ lại cuộc đời thánh Ynhă, hành tŕnh huấn
luyện của Ngài, khoa sư phạm của Ngài trong việc
huấn luyện người khác.
Đối
với thánh Ynhă, người bạn đường Chúa
Yêsu, cộng tác vào sứ mạng của Chúa, là một
người vận dụng mọi khả năng để
tôn vinh Thiên Chúa hơn và phục vụ anh em. Muốn nên khí
cụ đắc dụng để phục vụ sứ mạng
Đức Kitô, điều quan trọng nhất là kết
hiệp với Thiên Chúa và nhu thuận trong tay Chúa, hết
ḷng để Chúa dẫn dắt. Muốn vậy, cần
a). Đức
mến và ư hướng chỉ muốn phục vụ Thiên
Chúa. Đời sống trong Thánh Thần được xây
dựng trên đức tin, đức cậy và đức
mến là những ân huệ thuần túy của Chúa. Phải
chuẩn bị để đón nhận bằng ước
muốn và cộng tác với hoạt động của
Chúa Thánh Thần.
b). Ḷng tốt
và các đức hạnh. V́ yêu mến và ước muốn
làm được tối đa cho tha nhân, chúng ta loại trừ
dần dần các khuyết điểm, cố gắng thận
trọng, liêm khiết, khắc khổ, can đảm, kiên
tŕ. Yù thức ḿnh bất toàn, bất trung với Thiên Chúa, yếu
đuối và nghèo nàn trong t́nh yêu, chúng ta đặt tin
tưởng nơi Chúa là Đấng cứu độ và
ban Thánh Thần để chúng ta biết yêu mến và làm việc
thiện.
c). Thân
thiết với Thiên Chúa, dễ dàng thấy Chúa trong kinh nguyện
cũng như trong mọi sự. Theo thánh Ynhă, thân thiết
với Thiên Chúa là hoa trái “đương nhiên” của việc
kiên tŕ t́m kiếm Chúa.
d). Thành thực
ước muốn và giúp đỡ người khác cách hữu
hiệu, nhất là những người nghèo và những
người bị gạt ra lề, để họ có
được cuộc sống tṛn đầy và đích thực.
Thánh Ynhă gọi điều ấy là “nhiệt thành với
các linh hồn”. Ḷng yêu mến Thiên Chúa dẫn chúng ta đến
chỗ yêu mến tha nhân và quan tâm giúp mọi người và
mỗi người phát triển. Đức Kitô là vị
Vua mời gọi mọi người cộng tác vào sứ
mạng cứu thế của Người. Ước muốn
cộng tác với Đức Kitô trở nên nguyên lư vận
động và định hướng toàn bộ cuộc sống
cá nhân và cộng đoàn của chúng ta.
Có
khả năng thông đạt với người khác và
giúp đỡ tha nhân, với những phẩm tính giúp chúng
ta hợp tác với ơn Chúa để phục vụ con
người. Đối với thánh Ynhă, các phẩm tính
chính yếu là
a). Kiến
thức thiêng liêng và thần học vững chắc. Muốn
giúp đỡ người khác, chứng từ của chính
kinh nghiệm thiêng liêng chưa đủ, mặc dù đó là
điều không thể thiếu trong việc loan báo Lời
Chúa. Cùng với kinh nghiệm ấy, càng hiểu biết vững
chắc và có hệ thống về sứ điệp Kitô giáo,
chúng ta càng có thể giúp người khác lớn lên trong
đời sống thiêng liêng.
b). Cách
tŕnh bày kiến thức cho người khác: bao gồm cả
cá phương pháp sư phạm và các phương tiện
truyền thông, cùng với việc hội nhập Lời
Chúa vào văn hóa, điều này giả thiết chúng ta phải
hiểu biết năo trạng, những thắc mắc về
những vấn đề của mỗi nhóm (phân tích xă hội
và văn hóa).
c). Cách
cư xử và nói năng: lịch sự, dễ mến, “nhập
vai” (đặt ḿnh vào địa vị người khác) v.
v. trong các cuộc đàm thoại thiêng liêng cũng như trong
tất cả những ǵ liên hệ đến sứ mạng
Tin Mừng hóa.
Các
kiến thức này cho phép chúng ta giúp đỡ người
khác phát triển nhân bản, cá nhân cũng như tập thể,
cũng như thăng tiến công b́nh và hoà b́nh. Cũng
như kiến thức thiêng liêng và thần học giúp phục
vụ đức tin, các “kiến thức chuyên môn” về
khoa học nhân văn và xă hội giúp thăng tiến công
b́nh.
“Công
việc đào tạo các tín hữu có mục tiêu cơ bản
là phát hiện ra ơn gọi riêng của mỗi người
mỗi lúc một rơ ràng hơn và tạo tư thế mỗi
lúc một sẵn sàng hơn để thực thi ơn gọi
ấy trong khi thi hành sứ mệnh riêng của ḿnh”
(Christifidelis Laici 58).
Nhận
xét khởi đầu:
Trong
khoa sư phạm Ynhă, lối sống ki-tô hữu là một
ơn gọi. Nghĩa là:
a). Đó
là một cuộc đối thoại luôn mở ra giữa
Chúa và mỗi cá nhân, trong đó Chúa có sáng kiến như ân sủng
và ân huệ, thế nào để người cho Linh Thao…,
để cho Đấng Tạo Hoá làm việc trực tiếp
với thụ tạo, và thụ tạo với Đấng
Tạo Hoá và là Chúa của họ (LT 15). Chính chúng ta phải
dọn ḿnh, phải t́m kiếm, phải van xin và phải ôm ấp
ơn gọi ấy như ân sủng và t́nh yêu cao trọng
nhất có thể đến với chúng ta: “… trong khi chiêm
ngắm cuộc đời của Chúa, chúng ta sẽ bắt
đầu t́m kiếm và cầu xin để biết xem Thiên
Chúa uy linh muốn ḿnh phụng sự Người theo lối
sống nào, ở bậc sống nào:… cũng
như chúng ta dọn ḿnh để đạt tới sự
trọn lành trong bậc sống hay theo lối sống nào mà
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, đưa ra chúng ta chọn lựa” (LT
135). Làm như vậy, chúng tôi tin rằng chúng ta có thể
thoát ra khỏi được lối đi rập khuôn phán
ra cho chúng ta một bậc sống và một kiểu sống.
Chúng ta có thể thoát được thuyết định mệnh
đă bị loại bỏ. Công việc định hướng
lối sống và bậc sống của chúng ta có thể xuất
phát từ những khát vọng sâu xa nhất của chúng ta,
bởi v́ đấy chính là nơi mà Chúa mặc khải cho
chúng ta biết bậc sống mà Người mời gọi
chúng ta.
b). Trong
khoa sư phạm Ynhă, sáng kiến này của Chúa là một lời
mời gọi vào sống thân mật với Người và
nối tiếp sứ mệnh của Người: Bởi
đấy, ai muốn đến với Ta th́ phải lao nhọc
với Ta, để v́ theo Ta trong lao khổ, th́ cũng theo
Ta trong vinh quang (LT 95). Nhưng lời mời gọi như
thế của Chúa không phải là một cái ǵ đó mà chúng
ta có thể thêm vào sự an lạc của chúng ta, các t́nh bạn
của chúng ta, nền giáo dục của chúng ta, lợi ích
của chúng ta và các lư tưởng của chúng ta. Trong ơn
gọi, Chúa gọi chúng ta lột bỏ tất cả những
cái ấy, dám liều ḿnh trút bỏ mọi an toàn đang che
chở chúng ta. Ơn gọi là một lời mời gọi
các bạn đường của Đức Giêsu, Đấng
vừa có mặt lại vừa vắng mặt, buớc
đi trong ánh sáng của niềm tin tưởng và ḷng trông
cậy; đó là lời mời gọi sắp xếp lại
toàn bộ cuộc sống của chúng ta, sự an lạc của
chúng ta, các t́nh bạn của chúng ta và các lư tưởng của
chúng ta, bằng cách đăït Người vào trung tâm của
cuộc sống của chúng ta.
c) Lối
đi là nhận định. Trong trường Linh thao th́ nhận
diện là dâng tiến một cách có trách nhiệm và tự
do của người nghĩ là đă nghe thấy tiếng
nói của Thiên Chúa trong các tiếng kêu của anh em, và ư Chúa
trong một chương tŕnh đầy hứa hẹn hoặc
trong một t́nh huống tuyệt vọng: đi t́m Người
trong mọi sự và trong mỗi giờ khắc.
Linh
Thao là chính yếu trong kinh nghiệm thiêng liêng Ynhă và đồng
thời trao tặng chúng ta khoa sư phạm để
đạt tới sự viên măn trong cuộc sống. Đối
với CĐĐSKTH, th́ Linh Thao là nguồn suối đặc
thù và khí cụ đặc biệt thuộc linh đạo của
chúng ta (PG. 5).
Mục đích của Linh
Thao là để thắng ḿnh và để sắp xếp cuộc
sống của ḿnh. . . (LT 21): “ để
dọn ḿnh mà đi đến chỗ hoàn thiện trong bất
cứ bậc sống hay lối sống nào mà Thiên Chúa, Chúa
chúng ta sẽ cho chúng ta lựa chọn”(LT 135); Linh Thao là một
trường học tuyệt vời dạy lắng nghe và
trả lời cho cho những lời kêu gọi của Thiên
Chúa, để sống cuộc sống của ḿnh như việc
lắng nghe và đáp trả quảng đại cho Chúa là
Đấng kêu gọi chúng ta và sai chúng ta đi. Linh Thao chuẩn
bị cho chúng ta sống cuộc sống như “ơn gọi-đáp
trả”, bằng cách làm cho chúng ta nhậy bén với các tiếng
gọi của Thiên Chúa ở ba mức độ: tạo dựng,
Đức Giê-su Ki-tô, và Thánh Thần.
Sự
kiện làm thụ tạo gồm có một trách nhiệm: phải
sống theo h́nh ảnh và giống Thiên Chúa (Kn. 1, 26-30), phải
sinh sôi nẩy nở cho đầy mặt đất và làm
chủ lấy trái đất, nh́n nhận sự tốt
lành từ nguồn gốc của mọi sự.
Nguyên
lư và Nền tảng khắc ghi vào tâm trí chúng ta rằng chúng
ta là những hữu thể biết đối thoại,
chúng ta được mời gọi để nh́n nhận
các ân huệ cùng sự hiện diện của Thiên Chúa trong
mọi sự- sức khoẻ cùng bệnh tật, cái dễ
chịu cùng cái khó chịu- và đáp trả cho những
điều ấy bằng lời ngợi khen, tôn kính và phụng
sự (LT 23). Cuộc đối thoại bằng cuộc sống
như thế trở thành công việc hằng ngày trong việc
xét ḿnh, trong đó chúng ta nh́n nhận “những điều tốt
lành đă nhận được” trong các sự vật, con
người và hoàn cảnh (LT 23). Đấy là một cách sống
việc Chiêm niệm để đạt được
t́nh yêu trong những sự việc hàng ngày, nó đưa
chúng ta đến chỗ cầu xin để được
ơn nhận biết từ bên trong mọi điều tốt
lành đă nhận được, để tôi. . . có thể
yêu mến và phụng sự Thiên Chúa uy linh trong mọi sự
(LT 233-234).
Các
thành viên của CĐĐSKTH phải vượt qua Nguyên lư
và Nền tảng và kinh nghiệm về một Thiên Chúa dễ
thương và thương xót mà chúng ta t́m thấy
được b́nh an và an toàn: vượt qua một “chủ
nghĩa tiều tụy” (consumérisme) thiêng liêng. Thành viên của
CĐĐSKTH phải đi đến chỗ cầu xin:
“Con có thể làm ǵ cho Đức Ki-tô? ”
và chuyển sang tuần thứ hai, khi nghe tiếng gọi
phục vụ th́ sẵn sàng trả giá để làm môn
đệ.
Người
làm Linh Thao chẳng những cảm thấy ḿnh được
Đức Ki-tô cứu độ mà c̣n thấy ḿnh
được Người t́m kiếm và kêu gọi. Vị
Vua đời đời mời gọi họ ở với
Người, chia sẻ lao nhọc và vinh quang với Người.
Ở với Đức Giê-su và bước theo Người
trong công việc của Vương Quốc là một lụa
chọn duy nhất và không thể tách rời nhau ra
được. Bước theo Chúa có nghĩa là t́m cách
để biết Người hơn, để mỗi lúc
mỗi say mê Người hơn, và đi theo Người
trong công việc của Vương Quốc (LT 104). Đấy
là mục đích của mọi bài Chiêm niệm trong Linh
Thao.
Công
việc chọn lựa duy nhất chỉ chọn Đức
Ki-tô và công việc Vương Quốc cho thấy rằng
I-nha-xi-ô đưa chúng ta đến chỗ chỉ chọn
có Đức Ki-tô toàn diện. Nhận biết, yêu mến
và phục vụ anh chị em của chúng ta có nghĩa là nhận
biết Đức Ki-tô một cách sâu xa hơn, yêu mến
Người hơn và phụng sự Người hơn.
Đó là làm cho Ngưới lớn lên. Đó là tham gia vào việc
hoà giải mọi sự với Người và trong Người
cho đến chỗ Cha bắt đầu trị v́ trong
“cuộc sống thực” (LT 139).
CĐĐSKTH
được thấm nhuần việc Lựa Chọn lớn
lao này: Cộng đoàn chúng ta gồm có các ki-tô hữu. . . muốn
bước theo sát Đức Giê-su Ki-tô hơn và làm việc
với Người để xây dựng Vương Quốc
(PG. 4).
Khái
niệm “đối tượng” quy chiếu vào “khả
năng” đối với một kinh nghiệm nào đó:
kinh nghiệm Linh Thao Ynhă. Khả năng nằm trong toàn bộ
các điều kiện thuộc con người khiến cho
kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc
sống trở nên dễ dàng hay khó khăn.
Trong
những chú dẫn (LT 1-20), chúng ta gặp được một
bức ảnh của thao viên trưởng thành. Họ vừa
là điểm bắt đầu, vừa là điểm tới.
Đó là cái tối thiểu mà I-nha-xi-ô đ̣i phải có
để bắt đầu cuộc mạo hiểm và
đấy cũng là kết quả của cuộc mạo
hiểm. Như chúng ta đă nói ở trang 3: ơn gọi cá
nhân vào CĐĐSKTH là một cái ǵ năng động nó có
tiến lên là cũng có thụt lùi, nhưng nó không bao giờ
đứng yên bất động tại một chỗ.
Trong những cách định hướng này, chúng tôi muốn
nêu ra những tiêu chuẩn tối thiểu để
người ta có thể dựa vào đó mà xét xem một
người có c̣n thuộc vào CĐĐSKTH hay không. Tất
nhiên, chúng tôi có quan tâm đến sự kiện là hoặc lời
mời gọi hoặc lời đáp trả là một
ơn mà chúng ta phải mở ḷng ra mà tiếp lấy.
Như vậy là mọi chủ nghĩa duy ư chí thiêng liêng và
tông đồ đều được loại đi.
Vậy,
khi miêu tả thao viên như “đối tượng” có khả
năng làm Linh Thao, người ta cũng miêu tả luôn con
người như “ đối tượng”
có khả năng yêu mến và phụng sự Thiên Chúa chí tôn
trong mọi sự (LT 233). Đấy cũng là những tiêu
chuẩn về con người có khả năng là thành viên
dấn thân trong CĐĐSKTH.
“Đối
tượng có khả năng Ynhă” là một người:
Yêu
mến Chúa Giê-su và thiết lập với Ngài một
tương quan riêng tư, sâu xa và có thể định
hướng lại và sửa chữa những nhu cầu và
những khát vọng, những vết thương và những
yếu đuối nếu cần.
Quảng
đại và cao thượng, họ có can đảm đặt
việc t́m ṭi, t́m thấy và làm trọn ư Thiên Chúa vào trung tâm
của cuộc sống của ḿnh. Là người học tập
để không đi t́m kiếm chính ḿnh, không xuất phát từ
những nhu cầu và những khát vọng của riêng ḿnhmà
hành động, nhưng một cách nhưng không và cho Chúa.
“Làm Linh Thao bằng cách dâng cho Ngài tất cả ḷng muốn
của ḿnh và tất cả tự do của ḿnh, để
cho Thiên Chúa chí tôn sử dụng chính họ và tất cả
những ǵ họ có, theo ư muốn rất thánh của Người”
(AIE. 5).
“Đến nỗi, động cơ để muốn giữ
lại hay bỏ đi một vật này hay mọt vật
khác sẽ chỉ là việc phụng sự, vinh dự và
vinh quang Thiên Chúa chí tôn mà thôi” (AIE. 16).
Có
thể chịu gian khổ và nhẫn nại để sống,
như một ki-tô hữu, công việc chuyên môn của ḿnh,
những giải trí, việc quản lư của cải và sức
khoẻ; có thể chịu đựng mệt nhọc, những
liều lĩnh và những nghịch thời.
“có thể thắng những cám dỗ. . . ;
chống cự kẻ thù và c̣n có thể quật ngă nó” (LT
13).
“đem hết lực của ḿnh ra mà chống lại với
đối tượng mà ḿnh bám víu vào một cách không lành mạnh”
(LT 16).
“người ấy càng tránh xa hết các bạn hữu, hết
các người quen biết và hết các sự lo lắng thế
gian. . . ” (LT 20).
Mở
ra với ngưởi khác như trung gian với Thiên Chúa. Là
một người có thể thông truyền với người
khác và tín nhiệm người khác: “mọi ki-tô hữu tốt
đều phải mau mắn cứu văn lời phát biểu
của tha nhân hơn là lên án lời ấy (LT 22). Vậy là
một người để cửa sổ mở ra bên
ngoài, mở ra đón gió mát của người khác, của
người khác với ḿnh, của người xa cách.
Lành
mạnh và quân b́nh, biết dấn thân trong cuộc sống,
trong hiện tại và ở giữa những hoàn cảnh cụ
thể, v́ coi tất cả các hoàn cảnh ấy như một
ơn huệ của Thiên Chúa. Là một người không
để cho ḿnh lầm lạc vào trong những luyến tiếc
quá khứ hay trong những nhiệt t́nh sai lầm về
ngày mai; một người không để cho ḿnh bị tê
liệt v́ sợ hiện tại hay tương lai; người
chứng tỏ có phán đoán tốt và có khả năng quyết
định; người kiên tŕ trong những dấn thân của
ḿnh và thành thực trong những lượng giá của ḿnh.
Với
một cảm thức đúng về Giáo Hội, là hiền
thê đích thực của Chúa Ki-tô, không phải chỉ là
Giáo Hội hoàn vũ, mà c̣n là Giáo Hội phẩm trật, mà
không để cho những luồng dư luận hay những
tiên kiến bất lợi (cho Giáo Hội) lôi kéo ḿnh.
Ynhă
có nói về cách thức thực hiện một cuộc lựa
chọn tốt, một cuộc lựa chọn cách sống
và bậc sống riêng. “Công cuộc lựa chọn” phải
là một lời đáp trả tự do và quảng đại
từ phía chúng ta cho một lời mời gọi từ
phía Thiên Chúa. I-nha-xi-ô chỉ cho chúng ta thấy cách thức dọn
ḿnh từ bên trong để lắng nghe tiếng gọi của
Chúa, cách thức chúng ta phải xử sự theo cách Thiên
Chúa nói với chúng ta.
Việc
nhận định ơn gọi là một tiến tŕnh diễn
ra thành những giai đoạn mà phải biết và phải
tôn trọng. Những giai đoạn này không nối tiếp
nhau theo đường thẳng. Đúng hơn nó là một
chuyển động biện chứng trong đó liên hệ
đến cảù ân sủng của Thiên Chúa lẫn tự
do của chúng ta.
Ơn
b́nh tâm- Hơn (magis)- cấp ba của t́nh yêu (LT 23, 155, 166 và
167).
Lựa
chọn nền tảng: dâng hiến quư giá hơn và có tầm
quan trọng cao hơn (LT 97 và 98)- lời đáp trả hợp
lư và tín thác khi lựa chọn Chúa và sự sống.
Sẵn
sàng để thực hiện “một cuộc lựa chọn
lành mạnh và rất tốt”.
Việc
nhận định “kiểu sống” riêng (LT 189):
tương quan giữa người và môi trường sống
của ḿnh (gia đ́nh, bè bạn, cộng đoàn, học tập,
lao động, v. v.) là nền tảng. Không phải mọi
môi trường đều thuận lợi cho việc
tăng trưởng của đối tượng; cho việc
lớn lên trong tự do cần thiết để nhận
định các bậc sống. Phải làm cho việc nhận
định này trở nên dễ dàng. . . Thường thường,
v́ người ta không chịu làm công việc này một cách
can đảm và cương quyết, cho nên việc nhận
định như vậy về các bậc sống bị bế
tắc.
Việc
nhận định bậc sống của mỗi người:
lối sống giáo dân trong CĐĐSKTH - lối sống tu
sĩ/ linh mục.
Theo
truyền thống Ynhă, Linh Thao là thời mạnh của
công cuộc nhận định ơn gọi. Nhưng thánh
I-nha-xi-ô đă biết rơ rằng chúng ta không thể nào làm
Linh Thao lựa chọn một bậc sống mà không
được chuẩn bị những điều phải
có. Công cuộc chuẩn bị có thể kéo dài nhiều
năm. Sau Linh Thao chúng ta cần phải có một thời
gian xác chuẩn và giải thích về tiếng gọi đó
của Chúa, có quan tâm đến những biến cố bên
ngoài và bên trong trong môi trường sống của chúng ta.
Đối với công việc chuẩn bị này cũng
như đối với thời gian xác chuẩn, I-nha-xi-ô mời
gọi chúng ta đi vào những t́nh huống khác nhau, vào những
kinh nghiệm, và được tháp tùng bởi một
người giúp đỡ chúng ta để nhận định
các tiếng gọi của Chúa.
a).
Dùng những cuộc thử nghiệm như những tác vụ
thực, như những bằng chứng về những tiến
bộ đă đạt được và như những khởi
điểm cho những tiếng gọi mới của Chúa:
Học
hành- đào tạo: với ư định tông đồ rơ
ràng; chỉ để “ giúp đỡ các
linh hồn”
Linh
Thao 3, 5, 8 ngày và trong cuộc sống.
Trách
nhiệm phục vụ: làm người điều phối
một cộng đoàn với thái độ “phục vụ”.
Tông
đồ: những kinh nghiệm đặt người ta
vào biên giới, vào một ngă tư, trong một kinh nghiệm
về sự khó nghèo của chính ḿnh.
Cộng
đoàn Sứ vụ: cộng đoàn “nhóm bạn” trở
thành “cộng đoàn bạn trong Chúa trong Sứ Vụ”.
Việc sử dụng các cuộc
thực nghiệm lệ thuộc vào những giai đoạn
khác nhau của việc tháp tùng để nhận định
ơn gọi ki-tô hữu:
Trong
những năm đầu tiên ở cộng đoàn, những
cuộc thực nghiệm này không khác ǵ những cuộc thực
nghiệm mà các thanh niên khác và những hiệp hội khác vẫn
làm: thăm nhà tù và nhà thương, dạy giáo lư, tham gia vào
các khoá và chương tŕnh huấn luyện, tĩnh tâm và làm
Linh Thao hai hay ba ngày, gặp người tháp tùng. . .
Với
những người cảm thấy ḿnh được
Chúa gọi một cách rơ ràng hơn, th́ ta có thể tổ chức
những cuộc thực nghiệm hai hay ba tuần, chia sẻ,
theo những nhóm nhỏ, cuộc sống nhóm trưởng
thành CĐĐSKTH gồm những hiệp hội khác hay những
tu sĩ nam nữ.
Khi
việc nhận định ơn gọi được
đặt ra một cách rơ ràng hơn, th́ trong một số
nước người ta có tổ chức những cuộc
cắm “trại” kéo dài chừng hai chục ngày, hướng
về việc lựa chọn lối sống và theo một
chương tŕnh cấp tốc về chia sẻ, làm việc,
suy nghĩ và Linh Thao được cá vị hoá.
b).
Việc tháp tùng thiêng liêng về phía người hướng
dẫn thiêng liêng và cộng đoàn. Các Chú dẫn đưa
ra cho chúng ta những nguyên tắc nền tảng thổi hứng
cho việc tháp tùng thiêng liêng tôn trọng những thúc đẩy
của Chúa và những điều kiện cụ thể của
mỗi người.
Công
việc tháp tùng này phải được chú ư tới một
cách đặc biệt trong giao đoạn Chuẩn bị
Linh Thao lựa chọn và thời gian xác chuẩn theo sau.
Người
tháp tùng cần phải tiêu hoá những chú dẫn và tháp nhập
tiến tŕnh tăng trưởng thiêng liêng vào những
đ̣i hỏi xă hội-văn hóa của một ơn gọi
tông đồ. Chính người tháp tùng đă phải tháp nhập,
ngay trong cuộc sống của chính ḿnh, công cuộc phục
vụ đức tin với việc thăng tiến công
b́nh và cuộc đối thoại liên văn hóa và liên tôn
giáo như những chiều kích chính yếu của việc
loan báo Tin Mừng.
Sứ
mạng nói đây chỉ về một t́nh trạng hơn
là một sinh hoạt. Kitô hữu đồng nghĩa với
người được phái đi. Đặc sủng
Ynhă tự bản chất là đặc sủng tông đồ
để phục vụ.
Ynhă
đặt niềm tin nơi Đức Giêsu Kitô, nh́n nhận
Người được Chúa Cha phái đến để
giải phóng nhân loại. Chính người qui tụ lại
xung quanh Người những tông đồ và môn đệ
để sai họ lên đường thi hành sứ mạng
thuộc riêng về Người. Ynhă đến lượt
cũng nghiệm thấy ḿnh được Đức
Giêsu Kitô mời gọi và sai đi dấn thân vào lối sống
của các tông đồ nhằm phục vụ Vương
Quốc. Hơn nữa, Ynhă c̣n nghiệm thấy ḿnh
được đặt sát gót bước Đức
Giêsu với thập giá trên vai, để phục vụ
Người và Vương Quốc.
Vậy
nói tới sứ mạng, người thuộc
CĐĐSKTH hiểu ngay đó chỉ là đào sâu căn
tính Kitô riêng của ḿnh, đào sâu vai tṛ ḿnh được
mời gọi thể hiện trong Giáo Hội. Ơn gọi
CĐĐSKTH chính là ơn gọi được phái đi,
là nh́n nhận ḿnh và sự sống riêng của ḿnh bao gồm
tất cả cái là của ḿnh, cũng như tất cả
điều ḿnh trải qua và điều ḿnh làm nên, đều
thuộc về kẻ được Thiên Chúa phái đến
với thế giới, nhằm mục đích cùng với
Đức Giêsu vác thập giá Người giao, để
trong mọi sự, phục vụ kế hoạch
Vương Quốc của Thiên Chúa.
Áp
dụng vào hiện hữu như kinh nghiệm linh thao cho thấy,
sứ mạng nói đây chính là ḷng ước ao luôn tăng
trưởng nơi con tim người nghiệm thấy
ḿnh được Thiên Chúa yêu thương cách vô điều
kiện nơi Đức Giê-su Kitô, nên người ấy
cùng với Đức Kitô mang cũng t́nh yêu ấy cho tha
nhân.
Sứ
mạng ấy trở nên một lối sống, tức là
trở nên dụng cụ để t́nh yêu Thiên Chúa và Nước
Chúa sử dụng trong mọi khía cạnh và mọi lănh vực
thuộc đời sống con người.
Sứ
mạng CĐĐSKTH trước hết là những
đường hướng cũng như những lư
tưởng ưu tiên do sự cần phải đáp ứng
những nhu cầu của thế giới và của con
người, đó là sứ mạng khởi đi từ
Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô và của khởi hứng
đặc sủng riêng của CĐĐSKTH. Sứ mạng
ấy được thể hiện cách cụ thể bằng
những chọn lựa, những dự án và những hành
động, đó là những điều làm cho hữu thể
của ta trở thành người một cách cụ thể
trong sứ mạng. Cho nên những dự án và những hành
động vừa nói phải đáp ứng nhu cầu có thực
của thế giới và của con người, phải
đáp ứng sự thôi thúc của Phúc Âm cũng như
đáp lại ḷng trung thành đối với đặc sủng
riêng của ta.
Với
CĐĐSKTH, sứ mạng là điều đứng hàng
đầu. Không thể quan niệm việc huấn luyện
tách rời khỏi sứ mạng cũng như khỏi cộng
đoàn. Việc huấn luyện cũng như cộng
đoàn đều nhằm sứ mạng. Vậy không thể
nói: hăy huấn luyện trước đă, kế đến
mới đề cập tới sứ mạng. Cũng là
chuyện vô nghĩa luôn nếu sống sự sống của
nhóm như sự sống ấy tự nó đă là mục
đích. Nhóm thuộc CĐĐSKTH có thể và thực ra, phải
đổi thay theo chức năng của sứ mạng cũng
như theo chức năng của công cuộc huấn luyện
nhằm sứ mạng. CĐĐSKTH là một cộng
đoàn trong t́nh trạng phân tán v́ lư do sứ mạng; đó
là bản chất của CĐĐSKTH tuy sống theo bản
chất như vậy không phải chuyện dễ.
Môi
trường hoạt động của sứ mạng
CĐĐSKTH không có biên giới. Môi trường ấy trải
rộng ra trong Giáo Hội và trên thế giới nhằm phục
vụ những con người và xă hội. Bằng cách nào?
Thưa bằng cách đụng chạm tới trái tim con
người, bằng cách đấu tranh để thay
đổi những cơ cấu phát sinh ra áp bức, làm sao
để Tin mừng của ơn cứu độ đến
được với mọi người qua mọi hoàn cảnh
và biến cố. Trong CĐĐSKTH, sứ mạng Kitô hữu
giáo dân trong Giáo Hội không được b́nh giải theo
chiều hướng giới hạn hoặc chiều
hướng thiết lập nên những khác biệt song
đối.
Điều
ưu tiên giữa các ưu tiên trong CĐĐSKTH, chính là
thăng tiến công b́nh mà chọn lựa ưu đăi dành
cho người nghèo, đi đôi với lối sống
đơn giản là lối sống diễn tả tính tự
do và liên đới của ta đối với người
nghèo. Ưu tiên đó không được tách rời khỏi
công việc ta thực hiện để cùng với Chúa Kitô
xây dựng Vương Quốc, cũng không đuợc tách
rời việc ta làm chứng về những giá trị Tin
Mừng trong Giáo Hội và nơi xă hội. Nói tóm lại,
ưu tiên đầy đủ chính là ưu tiên nhằm truyền
đạt niềm tin đối với Đức Giêsu
Kitô và ưu tiên đấu tranh cho công bằng.
Ưu
tiên giữa các ưu tiên như vừa nói, được
triển khai giữa những đường hướng
đặc loại. Những đường hướng
này không có cùng một tầm quan trọng như nhau. Tùy ở
mỗi địa phương, mỗi nền văn hoá và
mỗi hoàn cảnh xă hội kinh tế, mà những
đường hướng ấy được mời
vào cụ thể và thực hành. Đó là hướng dấn
thân để phát triển và mang lại ḥa b́nh, hướng
thể hiện công bằng và bác ái, hướng giành lại
tự do và phẩm giá cho mọi người, hướng
làm chứng về những giá trị nhân bản và Tin Mừng
thiết yếu đối với phẩm giá nhân vị và
gia đ́nh, hướng bảo vệ sự toàn vẹn của
tạo thành và hướng phổ biến sự hiểu biết
giáo thuyết Kitô giáo v. v.
Nhận
một trong những ưu tiên như vừa kể sẽ
kéo theo những điều thuộc cung cách và lối sống.
Bước theo Đức Giêsu nghèo và khiêm hạ chính là hoa
trái mà ta nài xin Chúa ban cho ta trong khóa Linh Thao và đó là ơn
ta hy vọng Chúa sẽ ban. Tin vào Đức Giêsu Kitô có nghĩa
là bước theo Người, là sống một niềm
tin thật sự mang lại công lư, thật sự đặt
ta bên cạnh những người nghèo, có nghĩa là theo sát
gót bước Đấng Kitô trong cái nghèo của Người
và duy tŕ sự tự do tông đồ.
Đức
Maria là người mẫu của ta đối với sứ
mạng: việc Đức Mẹ phục vụ cách tích cực
như Mẹ tự diễn tả ḿnh trong chuyến viếng
thăm bà I-sa-ve, cũng như t́nh liên đới của Mẹ
đối với người nghèo như được
phản ảnh qua kinh Magnificat, khiến Mẹ trở nên
nguồn khởi hứng cho hành động của ta nhằm
thăng tiến công bằng trong thế giới hôm nay.
Những
cấp độ mà sứ mạng bao hàm gồm có việc
tông đồ cá nhân và việc tông đồ do nhóm tổ chức.
Việc tông đồ cá nhân chủ yếu có nghĩa làm cho
Đức Kitô và hành động cứu độ của
Người hiện diện nơi môi trường thuộc
về con người về xă hội cũng như về
Giáo Hội, cả trong những việc khiêm tốn nhất
của đời sống hằng ngày. Riêng việc tông
đồ có tổ chức do nhóm th́ hoặc có cơ cấu
riêng hay trong cộng tác với người khác.
Những
lư tưởng cao cả c̣n tồn tại và hiện thực
hoá được trong thế giới ngày nay, đều cần
phải có những trung gian mạnh mẽ đặc loại
về cơ chế, về tổ chức cũng như về
cơ cấu. Cho nên CĐĐSKTH sẽ cần có những
cơ cấu làm điểm tựa đầy đủ
dành cho sứ mạng. Phải nh́n nhận rằng nhóm nhỏ
không luôn là nơi thích đáng nhất, cũng chẳng phải
là nơi nhất thiết sẽ phát sinh mọi sáng kiến
tông đồ.
Phân
định tông đồ chính là việc chăm chú một
cách thông minh và chiêm niệm của người Kitô trưởng
thành đối với Chúa Thánh Linh, khi người đó
đặt ḿnh đối diện với những cuộc
dấn thân ḿnh thực hiện ngay nơi gia đ́nh, nghề
nghiệp cũng như trong xă hội và Giáo Hội.
Mục
đích của việc phân định tông đồ hệ
ở việc t́m kiếm và t́m ra ư Chúa liên quan tới sứ
mạng của chúng ta: tôi tự xem Chúa muốn ǵ ở tôi
trong hoàn cảnh hiện có vào thời điểm này? Để
thành thật t́m kiếm ư Chúa th́ ngọn lửa thiêu đốt
con tim Đức Kitô cũng phải thiêu đốt con tim
tôi. Hơn nữa, tôi c̣n phải nhận ra Chúa cho tôi biết
ư Nguời bằng cách nào, và có những tiêu chuẩn nào
để chọn điều làm vinh danh Chúa hơn, cũng
như mang lại lợi ích phổ quát hơn.
Các
tài liệu chính thức của CĐĐSKTH đều nhấn
mạnh nhu cầu phân định: Cộng Đoàn Đời
Kitô giúp chúng tôi sống lối dấn thân tông đồ
như vừa nói theo những khía cạnh khác nhau, cũng
như giúp chúng tôi luôn mở ra trước những ǵ là cấp
bách và phổ quát, đặc biệt nhờ việc duyệt
xét lại đời sống và qua việc phân định
cá nhân và cộng đoàn. Chúng tôi cố công mang lại cảm
thức tông đồ cả với những thực tại
khiêm tốn nhất của đời sống hằng ngày”
(Những Nguyên Tắc Tổng Quát Của CĐĐSKTH, 8c).
V́ Cộng Đoàn Đời Kitô nhằm hoạt động
cùng với Đức Kitô để mở mang triều
đại Thiên Chúa, mọi thành viên đều được
mời gọi dự phần vào lănh vực phục vụ
tông đồ một cách rộng răi. Phân định tông
đồ trên b́nh diện cá nhân và cộng đoàn là
đường lối b́nh thường để khám phá
ra cách tốt nhất nhằm mang lại sự hiện diện
của Đức Kitô cách cụ thể nơi thế giới
ta đang sống (NTTQ, 12b). Vậy, các thành viên
CĐĐSKTH sẽ cung cấp như một tiểu luận
về những tiêu chuẩn cho thấy tại sao ḿnh chọn
những thừa tác và sứ vụ đặc thù như
dư âm của lời dâng hiến của Ynhă. Chẳng hạn,
các thành viên CĐĐSKTH cần mở rộng đối với
những lời mời gọi khẩn cấp và phổ
quát (NTTQ 8c).
Những
tiêu chuẩn nói đây về việc chọn các tác vụ,
ngỏ lời cùng con tim cũng như cùng trí khôn.
Sách
Linh Thao chứa đựng không những một kế hoạch
tương ứng với những bài suy gẫm và chiêm niệm,
nhưng c̣n chứa đựng một loạt những lời
khuyên về phương pháp tiến hành nhằm đạt
mục tiêu cách tốt đẹp. Ta có ư nói về những
điều phụ thêm, những luật giúp nhận ra những
thúc đẩy nội tâm cùng với những cuộc xét
ḿnh.
Các
cuộc chiêm niệm của Linh Thao cho ta thấy Đức
Giêsu phái các môn đệ của Người đi sứ vụ
như thế nào cùng với những lời dặn Người
dành cho họ: Người dạy họ về khôn ngoan và
kiên nhẫn khi nói: Này Thầy phái anh em đi như chiên ở
giữa sói rừng. Vậy anh em hăy khôn ngoan như loài rắn
và đơn sơ như chim bồ câu. Người chuẩn
bị họ lên đuờng khi nói: Đừng sở hữu
vàng bạc, điều anh em nhận không th́ cũng hăy cho
không. Rồi người giao cho họ chất liệu
để rao giảng. Trên đường, các con sẽ rao
giảng và nói rằng: Này đây, Nước Trời sắp
đến (LT 281).
Ngoài
Linh Thao ra, Ynhă c̣n cho ta cuốn Tự Thuật, trong đó ta
đọc được đường đi nước
bước riêng của Ynhă, rồi đến Hiến Luật
cùng với các thư nơi Ngài đề ra những chiến
lược, ấn định những mục tiêu và cung cấp
những tiêu chuẩn cho việc phân định tông đồ.
Toàn bộ những ǵ xảy ra, kể cả việc phân
định tông đồ, đều mang ấn dấu của
tinh thần hơn nữa.
Lợi
ích phổ quát và bền bỉ hơn cả:
Hăy suy nghĩ theo cái nh́n toàn cầu nhưng khi hành động
th́ phải hành động theo địa phương, tức
là: cơ cấu thay v́ cơ hội đuợc dành ưu
tiên.
Cơ chế thay v́ hành động đúng lúc nên được
khơi dậy.
Ưu tiên dành cho việc có thể lặp lại hơn là
việc xảy ra có một lần.
Nhu
cầu lớn nhất, việc cấp bách nhất, điều
ta bị mắc nợ nhất
Tới nơi chưa có ai tới
Chọn ưu tiên những con đường chưa ai biết
thay v́ những con đường đă biết. Chọn
ưu tiên những hoàn cảnh khó khăn thay v́ những hoàn
cảnh dễ dàng.
Nhắm
tới hoa trái lớn nhất
Huấn luyện những tác viên để nhân hoa trái thêm
nhiều.
Sáng tạo nên những không gian truyền thôâng v́ ư thức rằng
loài người chúng ta khắp nơi chỉ là một
đại gia đ́nh.
Sinh
hoạt của Ynhă có nghĩa hơn cả về phân định
có lẽ là những cuộc xét ḿnh. Hăy nh́n thoáng qua những
loại xét ḿnh mà Ynhă đề nghị chúng ta làm trong sách
Linh Thao:
Xét
ḿnh về cầu nguyện và cách cầu nguyện thứ
hai có thể được kể như một lời cầu
nguyện mà mục tiêu nhắm là duyệt lại ḷng trung
thành của thao viên đối với các giới răn, duyệt
lại thái độ của thao viên đối với các mối
tội đầu và đối với các nhân đức
đi ngược lại (LT 241, 245).
Xét
ḿnh riêng nhằm mục tiêu tuần tự điều chỉnh
lại những chiều hướng và cảm t́nh lệch
lạc (LT 24-31).
Xét
ḿnh chung (đọc lại cả ngày) để làm sao cho
đời sống tông đồ diễn tả được
bài thao luyện chiêm niệm để đạt được
t́nh yêu mà điểm nhắm là ngang qua mọi sự, ta có
thể yêu mến và phụng sự Chúa bằng cách
đưa ra thực thi, tất cả những điều
thao viên đă thấy trong cầu nguyện và trong phân định
v. v.
Với
Ynhă việc duyệt xét lại một ngày đúng ra là một
cuộc than thở với ḷng biết ơn khiêm hạ
đầy tràn, thấm nhuần tin, cậy, mến.
Người
làm cuộc thao luyện thiêng liêng này được giả
thiết là một người tông đồ suốt ngày
đă cộng tác với Đức Giêsu theo bài thao luyện
Vương Quốc: Ai muốn theo tôi (LT 93) để cuối
ngày có thể thưa thốt như “một người bạn
nói với bạn ḿnh” (LT 54). Người đó sẽ đọc
lại và cùng với Chúa, nhận xét về những biến
cố trong ngày: đó là hai mươi bốn giờ của
sử cứu độ.
Vậy
xét ḿnh chính là bước dừng chân không thể thiếu của
người tông đồ trên đường. Bước
dừng này sẽ cho phép nh́n lại quĩ đạo trong
viễn tượng, đồng thời cho phép lấy lại
sức để đi tiếp với đà tiến mới
với sự trong sáng lớn hơn đối với
bước đường kế tiếp vào ngày tiếp
theo: mục đích nhắm là cùng bước đi với
Chúa.
Nguyên
Tắc Tổng Quát xác định muốn làm thành viên Cộng
Đoàn Đời Kitô mỗi người phải
được kêu gọi riêng biệt (NTTQ 7) và đích thân
(NTTQ 10). Ơn gọi này được sống và diễn
tả bằng việc cam kết trong cộng đoàn thế
giới qua trung gian một cộng đoàn cụ thể.
Đời sống của những người được
gọi để sống sứ mạng này, thiết yếu
mang tính cách tông đồ (NTTQ 8) và bao hàm việc cam kết
tông đồ nhằm phục vụ sứ mạngï (NTTQ
8c; NTTQ 11).
Ơn
gọi cá nhân là đối tượng của nhận
định (NTTQ 10; NTTQ 12) và được diễn tả
trong cộng đoàn dưới h́nh thức “dấn thân tạm
thời” (NTTQ 10) bày tỏ ư muốn sống theo nếp sống
Cộng Đoàn Đời Kitô (NTTQ 2).
Sống
t́nh trạng ấy trong một khoảng thời gian nhất
định có thể khẳng định ơn gọi nên
một với Cộng Đoàn Đời Kitô thế giới
và sứ mạng của Cộng Đoàn. “Cam kết tạm
thời” sẽ diễn tả điều ấy (QTTQ 3; QTTQ
4).
Trong
suốt tiến tŕnh ấy, Linh Thao của thánh Ynhă sẽ
là ch́a khóa và phương tiện cần thiết để
nhận định các tác động của Thánh Linh và
để được tự do chọn lựa theo tiếng
Chúa gọi từng người (QTTQ 2; QTTQ 4), nhờ sự
giúp đỡ của cộng đoàn (người phụ
trách, phụ tá, các thành viên khác) (QTTQ 2).
Đọc
Nguyên Tắc và Qui Tắc Tổng Quát, có thể suy ra đời
sống trong Cộng Đoàn Đời Kitô xuất phát từ
tiếng Chúa mời gọi riêng từng người, và
đó là một ơn gọi tông đồ, phổ quát,
được sống trong Hội Thánh khởi từ cộng
đoàn cụ thể.
Điều
then chốt này về ơn gọi cho thấy rơ nhất tiến
tŕnh khai tâm trong Cộng Đoàn Đời Kitô. Những
người cảm thấy được Cộng Đoàn
Đời Kitô thu hút, lúc khởi đầu, phải
được cộng đoàn giúp đỡ để tiếp
thu nếp sống Cộng Đoàn Đời Kitô và xác định
có cảm thấy được gọi gia nhập không
(QTTQ 2).
Ơn
gọi hay tiếng gọi ban đầu mới chỉ là một
sự hấp dẫn mơ hồ và vu vơ, nhưng đủ
để dẫn đến việc tham dự vào đời
sống cộng đoàn. Khi trở nên thành phần của cộng
đoàn, họ được cộng đoàn giúp đỡ
để biết những phương thế riêng của
cộng đoàn để tăng trưởng trong Thánh Linh
(x. NTTQ 12). Họ sẽ được dẫn đi từ
từ, theo một tiến tŕnh của khoa sư phạm, trong
đó người hướng đạo đóng một
vai tṛ quan trọng (x. QTTQ 41b).
Trên
đường tăng trưởng, họ phải có những
quyết định: trải qua kinh nghiệm một cuộc
tĩnh tâm, tham dự vào một cộng đoàn địa
phương, khai tâm việc đồng hành thiêng liêng, tham dự
vào hoạt động tông đồ, tập Linh Thao bốn
ngày, tám ngày, v. v. . . Khi có những quyết
định như vậy, họ sẽ cảm thấy những
tác động, và họ sẽ nhận ra con đường
này có giúp họ tiến đến gần Thiên Chúa không, có
giúp họ thiết lập được tượng quan
phong phú hơn với Thiên Chúa không. Ở những cấp
độ khác nhau (x. QTTQ 39a), cộng đoàn nâng đỡ
họ bằng bầu khí nhận định, và khai tâm họ
theo đuổi con đường tăng trưởng này.
Như
vậy, họ sẽ đến lúc phải suy xét trong Thánh
Linh xem con đường này, con đường họ
đă được khai tâm và tháp tùng trong một thời
gian (từ một đến bốn năm theo QTTQ 2), có phải
là tiếng gọi và ân sủng Thiên Chúa dành cho họ không.
Thời điểm nhận định có thể bộc
phát trên đường, hoặc có thể được
đề nghị như kết một giai đoạn
trong tiến tŕnh sư phạm.
Dấn
thân tạm thời không chỉ diễn tả hay công thức
hóa chính xác ước nguyện muốn chia sẻ cách sống
Cộng Đoàn Đời Kitô, nhưng đó đă là chính
tiến tŕnh “nhận định ơn gọi Kitô giáo” của
giai đoạn đầu tiên trong Cộng Đoàn Đời
Kitô rồi.
Tiến
tŕnh nhận định ơn gọi này không giả sử
là đă có ơn gọi Cộng Đoàn Đời Kitô,
nhưng phải sẵn sàng mở ra với Ư Thiên Chúa và sẵn
sàng đón nhận Ư Ngài trong bất cứ bậc sống
hay đời sống nào trong Giáo Hội.
Tiến
tŕnh này được sống theo cách thức Cộng
Đoàn Đời Kitô cho thấy khi dấn thân như vậy,
họ đă thuộc về Cộng Đoàn Đời Kitô
rồi, dù chỉ một thời gian, dù chưa “vĩnh viễn”.
Điều
quan trọng cần hiểu là ở đây nhận định,
xem điều “tôi t́m kiếm và ước nguyện” có phải
là đào sâu một kinh nghiệm về Thiên Chúa đă
được ghi dấu trong Linh Thao của thánh Ynhă,
được sống trong cộng đoàn, nhằm phục
vụ hơn không. Người ta nhận định xem tôi
có nhận ra trong Cộng Đoàn Đời Kitô con
đường phù hợp với con đường Thiên
Chúa chỉ cho tôi không, và tôi có “cởi mở, tự do và sẵn
sàng” để tiếp tục sâu xa hơn con đường
với “quyết tâm chín chắn” (LT 98) theo một nếp sống
tông đồ không.
Đây
là giai đoạn t́m hiểu ơn gọi, nên mở ra với
nhiều khả thể. Trong các Cộng Đoàn Đời
Kitô giới trẻ, một số người khám phá ra ḿnh
được Thiên Chúa kêu gọi sống đời tu tŕ,
hay đến một hội đoàn đạo đức,
và họ bỏ Cộng Đoàn Đời Kitô. Lại có những
người khám phá thấy động cơ thúc đẩy
họ đến với Cộng Đoàn Đời Kitô chỉ
có tính cách xă hội hay t́nh cảm, và nh́n nhận ḿnh không
ước nguyện đi xa hơn. Trái lại, những ai
khám phá trong Cộng Đoàn Đời Kitô lời đáp trả
những ước nguyện cao đẹp nhất của
họ, họ sẽ phóng ḿnh trên con đường Cộng
Đoàn Đời Kitô với một đà mới.
Như
vậy, “dấn thân tạm thời” được bày tỏ
và tiếp nhận trong cộng đoàn, diễn tả về
phần họ, họ đă quyết tâm sử dụng
phương pháp thánh Ynhă để t́m kiếm thánh ư Thiên
Chúa. C̣n về phần cộng đoàn tiếp nhận họ,
“dấn thân tạm thời” nói lên việc cộng đoàn
trao cho họ một cách vô vị lợi con đường
đặc biệt của ḿnh là khoa sư phạm của
thánh Ynhă.
Điều
quan trọng là “dấn thân tạm thời” không chỉ nối
kết với ư chí, như việc lựa chọn, nhưng
nhất là với t́nh yêu và đức tin, như của lễ
cao quí nhất và quan trọng nhất. Khi dấn thân, chúng ta
cần lưu ư đến sáng kiến đầy yêu
thương của Thiên Chúa, đến ḷng nhân từ vô
biên và ḷng trung tín vĩnh cửu của Ngài (NTTQ 1), trước
sự hiện diện của Mẹ vinh hiển của
chúng ta (LT 98), người gợi lên trong chúng ta ước
nguyện kết hiệp với Mẹ mà hiến thân trọn
vẹn cho Thiên Chúa (NTTQ 9). Đừng chỉ nối kết
việc dấn thân với hàng loạt những ràng buộc,
nhưng nên nối kết vào lời đáp trả quảng
đại được thực hiện theo Thánh Linh của
Tin Mừng và luật nội tâm là Yêu Mến (NTTQ 2).
Linh
Thao của thánh Ynhă phải là bản lề của tiến
tŕnh nhận định ơn gọi Kitô hữu và của
việc lựa chọn. Việc huấn luyện trong tiến
tŕnh “dấn thân tạm thời” trước hết nhằm
chuẩn bị “đối tượng” sẽ tập Linh
Thao, hướng đến ơn gọi tông đồ.
Dấn
thân là một hành vi cá nhân, nhưng mang ư nghĩa cộng
đoàn và Hội Thánh sâu xa. Người dấn thân
được minh nhiên nối kết với Cộng
Đoàn Đời Kitô thế giới, trong khi nhấn mạnh
rằng việc dấn thân liên kết chúng ta bằng t́nh
yêu và trong cầu nguyện với mọi anh chị em trong
truyền thống thiêng liêng của chúng ta mà Hội Thánh
đă đặt làm bạn và những người chuyển
cầu có thế giá để chúng ta hoàn thành sứ mạng
(NTTQ 3). Việc dấn thân nên được cử hành
trong phụng vụ, nhất là khi dâng tiến lễ vật
trong Thánh Lễ.
Có
nhiều cách tổ chức “dấn thân tạm thời”. Có
thể mỗi năm mời tất cả các thành viên Cộng
Đoàn Đời Kitô cam kết tăng trưởng cá
nhân, bằng cách trao cho họ một “thẻ” giới thiệu
với họ những cơ hội khác nhau có được
trong năm thuộc các lănh vực linh đạo, cộng
đoàn, sứ mạng. Một cách khác là tập họp tất
cả những người đă có một số năm sống
kinh nghiệm Cộng Đoàn Đời Kitô và mời gọi
họ suy nghĩ về ư nghĩa việc họ “dấn
thân tạm thời”. Như vậy, họ được mời
gọi để nhận định, và những ai ước
nguyện dấn thân họp nhau lại để thỏa
thuận về dịp, h́nh thức và thể thức. Cách
thứ ba là có một h́nh thức và thể thức cho Cộng
Đoàn Quốc Gia hay Miền, và dịp hằng năm (thí
dụ đêm Vọng Phục Sinh hay lễ Chúa Thánh Thần
Hiện Xuống), trong đó những ai ước nguyện
có thể tuyên hứa.
Nếu
được tiến hành tử tế trong Cộng
Đoàn Đời Kitô, thời điểm nhận định,
lựa chọn và tự hiến ấy là điều
đương nhiên. Nếu không thành công, có thể v́ ba lư
do:
a).
tiến hành đứt quăng, lặp lại như cũ,
không tiến lên thêm;
b).
quan niệm sai về dấn thân, gán cho dấn thân những
“râu ria” và những ư nghĩa sai lạc;
c)
những khó khăn với các h́nh thức bên ngoài.
Thách
đố của chúng ta ngày nay là phải phơi bày những
ǵ chúng ta sống và t́m kiếm trong ḷng, làm cho nó trở thành
hữu h́nh và bộc lộ trong đời sống Hội
Thánh, đem lại cho nó những ư nghĩa thiêng liêng, thần
học và sư phạm hấp dẫn.
“Dấn
thân vĩnh viễn” phản ánh giai đoạn viên măn trong
tiến tŕnh của đời sống tông đồ: khi
ơn gọi cá nhân được sống như một sứ
mạng tông đồ. Mọi ơn gọi đều
được triển khai và bộc lộ trong sứ mạng.
Những thành viên đă hoàn tất việc nhận định
ơn gọi, và đă lựa chọn bậc sống, sẽ
“dấn thân vĩnh viễn”. Giai đoạn này nhất thiết
phải được liên kết với việc nhận
định tông đồ, coi đây là yếu tố thiết
yếu để triển khai sứ mạng.
“Dấn
thân tạm thời” trong Cộng Đoàn Đời Kitô
được nối kết với tiến tŕnh đào tạo,
sao cho đồng điệu với tiếng gọi của
Đức Vua và với lựa chọn. “Dấn thân vĩnh
viễn” nối kết chúng ta với Cộng Đoàn Đời
Kitô như một nếp sống, sao cho đồng điệu
với sự phó thác đầy tin tưởng trong bài Chiêm
Niệm để đón nhận T́nh Yêu. Dấn thân của
chúng ta là “Lạy Chúa, xin nhận lấy. . . ”,
điểm thứ nhất của bài Chiêm Niệm ấy. Nhưng,
c̣n quan trọng hơn nữa là các điểm hai, ba và bốn,
những điểm diễn tả Thiên Chúa dấn thân thế
nào: 2) Nh́n xem Thiên Chúa ngự trong tôi thế nào, Người
làm cho tôi sống động, đem lại cho tôi ư nghĩa;
3) Suy xét xem Thiên Chúa gian nan khổ cực v́ tôi thế nào; 4)
Nh́n xem mọi sự tốt lành và mọi ân huệ từ
trên cao xuống thế nào, và nghĩ xem như các tia sáng xuất
phát từ mặt trời, như các ḍng nước xuất
phát từ nguồn mạch, th́ cũng vậy, sức mạnh,
sự công chính, ḷng nhân hậu, ḷng thương xót và cả
ư chí cần thiết để chúng ta sống điều
chúng ta dân thân trong Thiên Chúa, đều xuất phát từ
Người (LT 235-237).
Trong
cụ thể, “dấn thân vĩnh viễn” được
diễn tả như thời điểm tột cùng của
việc nhận định ơn gọi Kitô hữu, chúng
ta bày tỏ ước nguyện thực sự muốn t́m
kiếm và thi hành thánh ư Thiên Chúa trong đời sống tông
đồ, chấp nhận những tiếng gọi cụ
thể và đặc thù, và được gởi đi thi
hành sứ mạng.
Tại
sao dấn thân vĩnh viễn khi chúng ta chỉ là những
con người?
Thay
v́ nh́n “dấn thân vĩnh viễn” như một quyết
định liều lĩnh có thể tổn hại đến
tự do của chúng ta trong tương lai, điều quan
trọng là nên khám phá xem tự do tinh thần là nền tảng
đích thực cho việc dấn thấn, và là một trong
những hoa trái của việc dấn thân, đến mức
độ nào. Thực vậy, tự do đích thực của
chúng ta được nối kết với định
hướng của chính đời sống chúng ta. Chúng ta tự
do trong mức độ chúng ta chúng ta biết và có thể
đem lại cho đời sống của chúng ta định
hướng đáp ứng những ước nguyện
thâm sâu nhất của ḿnh. Những hành vi tự do nhất
của chúng ta không phải là những hành vi ư chí, nhưng là
những hành vi đức tin và đức cậy. Tính triệt
để trong những dấn thân của chúng ta không chủ
yếu dựa trên những khả năng của ḿnh,
nhưng dựa trên việc “Đức Kitô đă giải
thoát chúng ta để chúng ta được hưởng tự
do” (Gl 5, 1).
Như
vậy, khi chúng ta đi đến kết luận về
điều “tôi muốn và ước ao, và quyết tâm sau
khi đă suy đi nghĩ lại” (LT 98), điều đó
muốn nói rằng Chúa đă dẫn dắt chúng ta qua một
chặng đường dài. Tự do với tư cách là khả
năng hiến dâng không chỉ là khả năng lựa chọn.
Hiến dâng là dâng ḿnh cho Chúa, là phó thác cho Chúa, là tin tưởng
hoàn toàn. Theo ư nghĩa thiêng liêng này, thánh Ynhă nói: “Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí
khôn, và toàn thể ư chí con, tất cả những ǵ con có và
thuộc về con. Mọi sự đều do Chúa ban cho
con, nay con xin dâng lại cho Chúa. Mọi sự đều là
của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn tùy ư. Xin cho con
được sống trong t́nh yêu và ân sủng Chúa: thế
là con măn nguyện” (LT 234). Tự do của chúng ta được
t́nh yêu của Thiên Chúa đánh động, và chúng ta tự
hiến cho Người. Chính Người đă yêu mến
chúng ta trước; Thiên Chúa đă dấn thân trước.
Tại
sao dấn thân công khai?
Khi
tuyên hứa “dấn thân vĩnh viễn” trước mặt
cộng đoàn, chúng ta xin Chúa ơn để có thể quảng
đại đáp lại ḷng trung tín của Người.
Khi dấn thân trước mặt cộng đoàn, để
cộng đoàn làm chứng, chúng ta xin cộng đoàn giúp
đỡ bằng cách tháp tùng chúng ta trên đường. Việc
diễn tả ra bên ngoài của việc dâng hiến bên trong
mang một ư nghĩa, một tính cách bí tích.
Đây
là thời điểm tái khẳng định việc lựa
chọn, quyết tâm dấn thân cho sứ mạng và phục
vụ (NTTQ 11). Linh Thao vẫn phải là bản lề của
tiến tŕnh đời sống trong sứ mạng, để
theo Đức Kitô nghèo khó và khiêm tốn hơn (NTTQ 8dc).
Việc
huấn luyện trong giai đoạn này phải được
quan niệm như việc “huấn luyện thường
xuyên”, để luôn luôn ở lại trong “bậc sống
tông đồ”, nhờ đó tùng giây từng phút có thể
đáp trả một cách thích đáng hơn câu hỏi: “Tôi
phải làm ǵ cho Đức Kitô? ”.
CĐĐSKTH
được sinh ra trong Giáo Hội. Chính trong Giáo hội,
CĐĐSKTH h́nh thành căn tính và tính phổ quát của
ḿnh. Mối tương quan cốt tủy của
CĐĐSKTH với Giáo Hội dựa trên sự hiệp
nhất với cùng một Đức Kitô. Quả thực,
sự hiệp nhất với Đức Kitô đ̣i chúng ta
hiệp nhất với Giáo Hội, từ đó Đức
Kitô, hôm nay và ở đây, đang tiếp tục sứ mạng
cứu thế của ḿnh “ (NTTQ 6). Với
cách thế đó CĐĐSKTH cổ vơ:
Một
Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng các đoàn sủng
và các thừa tác vụ; hiệp nhất trong tinh thần
đồng trách nhiệm với sứ mạng duy nhất
của Đức Kitô.
Một
Giáo Hội không đóng kín vào chính ḿnh. Bởi v́ “Giáo Hội
có sứ mạng loan báo và thiết lập Nước Chúa
Kitô và Nước Thiên Chúa cho muôn dân tộc. Giáo Hội là mầm
mống và nguyên lư của vương quốc này” (LG. 5).
Những
yếu tố xác định tính-giáo-hội của
CĐĐSKTH:
1.
Trung thành với sứ mệnh của Đức Kitô
Một
cộng đoàn luôn lớn lên với sự hiểu biết
sâu xa và sống động về giáo lư Tin Mừng mà các
tông đồ để lại, Giáo Hội giữ ǵn và giải
thích, Huấn Quyền đích thực xác quyết.
2.
Mở rộng với Giáo Hội địa phương và
toàn cầu
Một
cộng đoàn thấy ḿnh là một phần tử hoàn toàn
thuộc về Giáo Hội; dấn thân cách trung thành, trong sự
đổi mới của Giáo Hội, ư thức về những
nhu cầu và những vấn đề của Giáo Hội;
ḥa nhịp với những đường hướng và
những ưu tiên phục vụ của Giáo Hội, sẵn
sàng cộng tác để thực hiện sứ mệnh của
Giáo Hội.
3.
Hiệp thông với các mục tử
Một
cộng đoàn luôn gắn bó với những đường
hướng của hàng giáo phẩm, bằng thái độ
của ḷng tin trưởng thành, ḷng kính trọng và sự cộng
tác có trách nhiệm, để luôn hoàn thiện công cuộc
phục vụ Dân Chúa và xă hội nhân loại của Giáo hội.
4.
Yêu mến Thánh Thể
Một
cộng đoàn cầu nguyện với Giáo Hội, tích cực
tham gia đời sống phụng vụ lấy Thánh Thể
làm trung tâm. Nhờ việc tạ ơn, cộng đoàn làm
chứng về “một kinh nghiệm cụ thể của
sự hiệp nhất yêu thương và hành động”
(NTTQ 7).
Chính
phương diện thứ hai này xác định lư tưởng
của CĐĐSKTH, những đặc tính riêng và linh
đạo phải là đoàn sủng Ynhă. Linh thao của
thánh Ynhă là nguồn cảm hứng, là phương tiện
đào tạo và là một cách sống. Nói rằng linh thao của
thánh Ynhă tạo nên một cách sống, chúng ta muốn nói
đến một ơn gọi cá nhân: một lời mời
sống ơn gọi Kitô hữu theo đường hướng
Ynhă; và một ơn gọi cá nhân khi chúng ta sống trong cộng
đoàn.
Như
thế, CĐĐSKTH là một cộng đoàn huấn luyện,
thực hiện việc cá nhân hóa ḷng tin qua phương pháp
linh thao. Đó là một cộng đoàn có mục tiêu khách
quan; nối kết đức tin và cuộc sống, thể
hiện sự sung măn của đức tin nơi cuộc sống,
với mọi chiều kích: cá nhân, gia đ́nh, xă hội, nghề
nghiệp, chính trị và Giáo hội. Đó là một cộng
đoàn của nhận định thiêng liêng và tông đồ
ở hai mức độ: cá nhân và cộng đoàn; và
đó là một cộng đoàn sứ vụ, v́ theo một
linh đạo tông đồ phục vụ.
Những
đặc tính của lối nh́n qui-Kitô theo thánh Ynhă; một
Đức Kitô nghèo khó và khiêm nhường, được
Cha sai đến cứu chuộc nhân loại, là
gương mẫu cho cách sống của CĐĐSKTH.
Đó
là tính đơn sơ, giản dị, liên đới với
những người nghèo và bị bỏ rơi nhiều nhất,
kết hợp chiêm niệm và hành động, yêu mến và
phục vụ mọi người với tinh thần nhận
định.
Những
nguyên tắc tổng quát mới củng cố tính chất
đặc sủng Ynhă của CĐĐSKTH. Những cách diễn
tả nằm rải rác khắp bản văn đề cập
đến một kinh nghiệm linh thao hay đặc sủng
Ynhă, khi nhấn mạnh đến điểm trung tâm mà
hành tŕnh theo Đức Kitô sẽ dẫn đến; khi chỉ
định rơ ràng việc qui chiếu vào những nguồn
gốc đặc sủng Ynhă trong tiến tŕnh và cách h́nh
thành CĐĐSKTH, khi nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc nhận định tông đồ nhằm mở ra
với những tiếng gọi khẩn cấp và phổ
quát nhất của Chúa, như một cách thế b́nh thường
để có những quyết định.
Tính
đặc sủng Ynhă của CĐĐSKTH được
cụ thể hoá trong việc sử dụng thường
xuyên, ở b́nh diện cá nhân cũng như cộng đoàn,
những phương cách Ynhă trong việc cầu nguyện,
xét ḿnh, lượng giá, nhận định tông đồ,
cá nhân và cộng đoàn.
Những
nguyên tắc tổng quát, số 8 đă diễn tả cách
rơ ràng và thống nhất, theo hướng cộng đồng
Vat. II, tầm quan trọng của đời sống tông
đồ cá nhân và sụ cần thiết phải tổ chức
các việc tông đồ. Việc này có thể phát triển
do: “ hành động của nhóm đang hoạt
động hay đang được một cộng
đoàn nâng đỡ, nhờ vào những cơ cấu thích
hợp ”. Từ “cộng đoàn” trong bản Nguyên Tắc Tổng
Quát bao hàm nhiều cấp độ: thế giới, quốc
gia, miền, địa phận, trung tâm mục vụ.v.v; và những động từ được
dùng là “khai mở” hoặc “nâng đỡ” hành động của
nhóm. Bản văn muốn gợi ư một điều là một
cộng đoàn địa phương (cũng được
gọi là: “nhóm Sống Đời Kitô”) không phải lúc nào cũng
có cơ cấu thích hợp nhất cho sứ vụ, hay là
nơi phát sinh mọi sáng kiến. Chắc chắn cộng
đoàn địa phương rất quan trọng cho sứ
vụ. Công việc tông đồ được tổ chức
có thể phát triển hơn nhờ: “ Sự
dấn thân của các phần tử với những sáng kiến
của các tổ chức đời hay đạo đă có
từ trước”, thành một dạng thức mở rộng
cho nhiều khả thể khác.
Trong
ư nghĩa này, sứ vụ luôn là của cộng đoàn, cho
dù một cá nhân nào đó đă thực hiện. để
trở nên sứ vụ, một phân vụ cụ thể phải
được Giáo hội sai làm để bổ túc cách cụ
thể sủ mệnh của chúa con. Khi đưo95c nh́n nhận
và tháp nhập vào đời sống và sứ mệnh của
Giáo hội, cộng đoàn thế giới trở nên một
trung gian cho chúng ta - một bí tích, có thể nói như thế,
được các cộng đoàn quốc gia và địa
phương thực hiện để qui hướng những
phận vụ tông đồ và những việc phục vụ
con nguời vào sứ vụ.
Khi
chúng ta nói đến sứ vụ cộng đoàn của
CĐĐSKTH là chúng ta đang muốn mở ra với chiều
kích cộng đoàn mà sứ vụ có thể mang đến
trong nhiều trường hợp: Một phận vụ
khi được cộng đoàn chấp nhận (cho dù
không phải tất cả hay mỗi một thành viên đă
thực hiện) sẽ là của riêng cộng đoàn, hay là
sự hợp tác với những CĐĐSKTH khác, hoặc
thuộc Giáo Hội hoặc thuộc xă hội. Trong ư nghĩa
đó, với sự nhận định sáng tạo của
nhóm hay của các hệ thống tông đồ trung gian,
đối với những phạm vi đặc biệt
hay những lợi ích tông đồ chung, đáp ứng nhu
cầu của các cơ cấu điểm tựa cho sứ
vụ.
Cũng
thế, khi chúng ta nói rằng CĐĐSKTH là một cộng
đoàn thế giới, đang phục vụ một thế
giới duy nhất, chúng ta muốn mở ra với chiều
kích quốc tế sẽ có của sứ vụ, mở ra với
việc cộng tác giữa các phần tử, hay giữa
các nhóm SĐKT của các nước khác nhau nhưng cùng một
sứ vụ chung. Ít nhất, những lựa chọn tông
đồ của CĐĐSKTH trong một nước và được
chuẩn nhận, phải là điều mà tất cả
CĐĐSKTH coi như của chính ḿnh và đón nhận với
niềm vui.
Để
sẵng sàng được sai đi vào sứ vụ, phải
khiêm tốn “trong suốt” với cộng đoàn, chính cộng
đoàn trao cho cá nhân hay cho nhóm SĐKT công việc phục vụ
con người hay công việc tông đồ được
phân định một cách cá nhân và được nh́n nhận
như tiếng gọi thiết thân Thiên Chúa gửi đến
để hoán cải họ cho sứ vụ. Việc phân
định cá nhân để giúp lựa chọn được
bổ túc bằng việc phân định cộng đoàn
để sai đi.
Điều
đó không có nghĩa là trong CĐĐSKTH mọi người
phải làm cùng một thứ, nhưng mọi người
đều cảm nhận được sứ vụ, cho
dù là của ḿnh hay là của những người khác, sứ
vụ vẫn là của cộng đoàn. Như thế, hết
thảy chúng ta đều tham gia vào điều chuyên biệt
nhất của CĐĐSKTH. Sống cộng đoàn để
nhằm sứ vụ. Trong cộng đoàn, mọi sự
như đào tạo, cách sống… là để cho sứ vụ.
Nhóm
nhỏ hay cộng đoàn địa phương rất
thiết yếu cho sự tham gia liên vị cần thiết
để được lớn lên trong ḷng tin và trong sự
phân định sứ vụ. Nhưng nó không luôn luôn là một
cơ cấu điểm tựa thích hợp cho sứ vụ.
Ít nhất chỉ nó không sẽ không đủ, nhất là
khi sự phân định sứ vụ liên quan đến những
thách đố lớn lao của xă hội loài người
và của Giáo Hội ngày hôm nay đang luôn t́m kiếm ích lợi
phổ quát nhất và muốn trả lời cho những nhu
cầu lớn nhất hay là cho những điều mà những
nhóm khác không làm.
Từ
đó nảy sinh ra sự cần thiết của việc cộng
tác giữa các nhóm để tạo nên bàn đạp những
hệ thống hay những cơ cấu điểm tựa
cho những sứ vụ cụ thể. Việc công tác này
không chỉ liên quan đến những CĐĐSKTH khác
nhau, nhưng liên quan đến cả những điều
khẩn thiết khác của Giáo hội hay những cơ cấu
xă hội và dân sự khác, cho dù không thuộc Giáo Hội.
Trong những điều này và những điều khác cộng
đoàn SĐKT sẽ đóng góp đặc sủng biện
phân tông đồ của ḿnh.
Nhằm
xác định những ưu tiên tông đồ của sứ
vụ, hay cụ thể hóa chương tŕnh hành động
thực hiện sứ vụ. Điều đó
tương tự với điều Công Đồng Vat.
II, gọi là việc nhận định dấu hiệu thời
đại.
Để
nhận định, cộng đoàn cần phải
được dành thời giờ thích hợp để từng
bước phân tích thực tế, hoặc ở phạm vi
trực tiếp, hoặc ở phạm vi liên vị với
những hoàn cảnh quốc tế khác nhau, ví dụ
tương quan Bắc Nam.
Chỉ
như thế cộng đoàn mới có được một
thông tin đầy đủ để cụ thể hóa và
minh bạch hóa đối tượng tông đồ của
việc nhận định cộng đoàn. Những nhu cầu
chúng ta phải lưu tâm, trước hết là những tiếng
kêu chính chúng ta nghe thấy, những kiến nghị
được làm từ một t́nh trạng “kêu thấu trời”
và làm xúc động ḷng người.
Tuy
nhiên, với th́ thứ hai, chúng ta phải vượt qua những
nhu cầu trước mắt, những kiến nghị
minh nhiên, để thấy được những nhu cầu
sâu xa hơn, căn đế hơn, nằm ẩn ở
bên dưới, chúng ta cần nghe thấu những tiếng
kêu cứu ẩn khuất, hiểu được những
ước muốn sâu xa và bằng tia sáng của ḷng tin yêu
rực cháy, thấy được những nhu cầu
đích thực của con người.
Những
nhu cầu sâu xa và căn đế hơn thúc đẩy
chúng ta mở rộng để phát hiện ra những nhu cầu
phổ quát và khẩn cấp giúp đáp ứng tính căn
đế hơn và t́m ra nhiều phương thế
đáp ứng nhu cầu.
Cộng
đoàn mang vào cầu nguyện kết quả t́m hiểu
sát thực tế của ḿnh để lắng nghe Chúa Thánh
Linh đang hiện diện và hoạt động trong cộng
đoàn, người đang tác động và mời gọi
đi vào sứ vụ và việc phục vụ. Kết quả
của việc cầu nguyện cá nhân có phân định sẽ
được chia xẻ với nhóm.
Đó
là một cộng đoàn quyết định ngang qua việc
chia xẻ những tác động của Chúa Thánh Linh, theo
tiêu chuẩn “gần như nhất trí”. Bằng cách này hay bằng
cách khác, những lựa chọn và những việc tông
đồ mà cộng đoàn quyết định bao gồm
tất cả mọi thành phần của cộng đoàn.
Đó
là một vai tṛ khác của cộng đoàn trong việc nhận
định tông đồ, dù được thực hiện
bởi một hay nhiều người của cộng
đoàn. Đó là một cộng đoàn lắng nghe với
tất cả tâm trí những vấn nạn tông đồ
(lựa chọn, quyết định) ở b́nh diện cá
nhân hay nhóm. Cộng đoàn cầu nguyện khởi từ
những điều nghe thấy để nh́n ra sự hiện
diện của Chúa Thánh Linh trong cộng đoàn. Cộng
đoàn tỏ lộ những ǵ đă cầu nguyện và
theo cách thế đó, cộng đoàn giữ vai tṛ xác chuẩn
những lựa chọn tông đồ ở b́nh diện cá
nhân hay nhóm.
Một
cuộc nhận định cộng đoàn đă được
Hiệp Hội Toàn Cầu khởi đầu tại Rôma và
kết thúc tại Providence năm 1982. Nhờ cuộc nhận
định này, Hiệp Hội đă quyết định
trở thành một cộng đoàn duy nhất toàn cầu. Cộng
đoàn này sẽ được điều hành bởi các
cuộc hội nghị toàn cầu. Đó là những thời
điểm ưu việt để thực hiện việc
nhận định cộng đoàn về sứ mạng của
CĐĐSKTH. Chiều kích toàn cầu của CĐĐSKTH
được diễn tả cách rơ nét trong một cộng
đoàn toàn cầu. Tuy nhiên, chiều kích phổ quát này phải
được hiện diện như một thái độ
trong tất cả mọi thành viên và trong mọi cộng
đoàn địa phương, bởi lẽ chiều kích
này đă ăn rễ sâu trong nền thần học của
chúng ta, và nó là một yếu tố thiết yếu của
ơn gọi ynhă.
Trong
số 1 và số 4 của Nguyên Tắc Tổng Quát, việc
chiêm ngắm Chúa Ba Ngôi quyết định trao ban trọn vẹn
chính ḿnh cho nhân loại đă khơi dậy nơi các thành
viên CĐĐSKTH ḷng khao khát tham dự vào sứ mạng của
Đức Kitô, bằng cách sống như anh em, con cùng một
Cha. Càng sống sâu xa niềm tin của ḿnh vào Đức
Giêsu Kitô bao nhiêu, ḷng ước muốn được hiệp
thông với tất cả mọi người nam và nữ
nơi chúng ta càng mạnh mẽ bấy nhiêu, và một khi
vượt ra khỏi những cộng đoàn bé nhỏ của
ḿnh, chúng ta đến với tất cả “mọi người
thành tâm thiện chí” (PG 7) như Thiên Chúa Ba Ngôi đă thực
hiện điều ấy trong Đức Kitô. Năm 1979, một
số điều sau đây đă được công bố
tại Rôma:
Chúng
ta được mời gọi sống một cảm thức
sâu xa hơn của cộng đoàn: cộng đoàn
được mời gọi phản ánh gia đ́nh của
Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng là một cộng đoàn.
Các
thành viên CĐĐSKTH nỗ lực chiêm ngắm thế giới,
thế giới mà họ được sai đến, với
đôi mắt của Chúa Ba Ngôi, để đưa các công
tŕnh mà Vị Vua Muôn Đời muốn thực hiện
trong lịch sử của mỗi người đến
chỗ hoàn tất tốt đẹp.
Như
thành viên của Giáo Hội, CĐĐSKTH được mời
gọi đảm nhận trách nhiệm toàn cầu, là t́m kiếm
những mục tiêu giống nhau và có cái nh́n như nhau về
thế giới, cho dù nơi chúng ta vẫn có những khác biệt.
“Sự
trao ban chính ḿnh được diễn tả bằng sự
dấn thân cá nhân trong cộng đoàn toàn cầu, ngang qua một
cộng đoàn địa phương mà chúng ta được
tự do chọn lựa… Trách nhiệm của chúng ta trong việc
phát triển các mối liên hệ cộng đoàn không dừng
lại ở cộng đoàn địa phương,
nhưng vươn đến Cộng Đoàn Đời
Kitô Toàn Quốc và Toàn Cầu, đến những cộng
đoàn giáo hội mà chúng ta là thành phần (giáo xứ, giáo
phận), đến toàn thể Giáo Hội và đến tất
cả mọi người thành tâm thiện chí” (PG. 7).
Chúng
ta đă được mời gọi chia sẻ sứ mạng
của Chúa Kitô. Với tư cách là cộng đoàn toàn cầu,
chúng ta được mời gọi tiến đến sự
hiệp nhất một ḷng một ư chặt chẽ hơn
nữa, đến một cảm thức về t́nh huynh
đệ, đến một cái nh́n chung đầy phong phú
nhờ chiều kích phổ quát. Trong cái nh́n phổ quát này,
chúng ta có thể hội nhập tốt hơn về linh
đạo và về sứ mạng, như đă được
công bố tại Rôma năm 1979:
Chúng
ta được mời gọi sống nhậy bén hơn
trước những nhu cầu của tha nhân. Với
tư cách là những thành viên của một cộng đoàn
toàn cầu, chúng ta được mời gọi thiết lập
những mối dây thân thiết hơn với những nền
văn hóa khác, loại bỏ khỏi ḿnh mọi thứ
thành kiến, hướng tầm nh́n về những viễn
ảnh của các nước khác, quan tâm đến tất
cả những ai sống bên kia biên giới đất
nước, khám phá hơn nữa sự phong phú ẩn giấu
nơi từng người trong số họ.
Chiều
kích phổ quát của CĐĐSKTH củng cố chúng ta
trong việc phục vụ hướng đến Giáo Hội
và mọi người: đó là một thách đố, một
lư tưởng, và việc phục vụ này làm xuất hiện
nơi chúng ta một mức độ dấn thân sâu xa
hơn. Đó là một sự dấn thân hướng đến
mọi người, bởi lẽ mọi người chúng
ta đều hết sức quư giá trước mặt Thiên
Chúa.
Căn
tính và ơn gọi của cộng đoàn nhỏ sẽ
được soi sáng và gợi hứng nhờ chiều
kích phổ quát này. Một thành viên CĐĐSKTH và một cộng
đoàn nhỏ, khi có cùng một cái nh́n phổ quát, sẽ
được mở ra tới sứ mạng của Chúa
Kitô, Đấng ôm lấy toàn thể thế giới. Thế
giới cần đến chứng từ của một cộng
đoàn t́nh yêu vượt qua mọi biên giới.
Như
những thành viên CĐĐSKTH, chúng ta “không được
tiền định cho bất cứ điều ǵ,
nhưng lại sẵn sàng trước mọi sự”.
Trước khi dấn thân vào một hoạt động cụ
thể, chúng ta nhận định đâu là những nhu cầu
khẩn thiết nhất và phổ quát nhất. Thực ra,
trong khi những hiệp hội khác trong ḷng Giáo Hội
ưu tiên hướng đến một loại công việc
tông đồ xác định nào đó, th́ sứ mạng của
CĐĐSKTH lại hướng đến những ǵ khẩn
thiết nhất và phổ quát nhất (Gaudalajara ‘90). Hướng
khai mở này được phản ánh trong PG. 8: “Lănh vực
sứ mạng của CĐĐSKTH không hề có giới hạn:
nó hướng đến Giáo Hội và thế giới,
để có thể đem lại cho tất cả mọi
người Tin Mừng cứu độ”. Năm 1979, các
điều sau đây đă được công bố tại
Rôma:
Là
một cộng đoàn toàn cầu, khi càng được nối
kết trong những vấn đề chung, chúng ta lại
càng có thể đem lại một lời giải đáp
thích đáng hơn cho hoàn cảnh thế giới hôm nay.
Mỗi
thành viên và mỗi cộng đoàn càng sống chiều kích
phổ quát bao nhiêu, chúng ta lại càng có thể thấy những
chiều kích đích thực của các vấn đề quốc
gia bấy nhiêu, chúng ta có thể mở ra mỗi ngày một
hơn với những nhu cầu của tất cả mọi
hiệp hội; chúng ta có thể đáp ứng tốt
hơn những biến cố quốc tế mà các cộng
đoàn khác trải qua, và chúng ta sẽ cùng nhau chống lại
những bất công.
Khi
trở thành một cộng đoàn duy nhất toàn cầu,
chúng ta sẽ vững mạnh hơn và sẽ ứng trực
hơn; chúng ta sẽ là một khí cụ thích hợp trong tay
Chúa độc nhất của chúng ta để đem lại
ích lợi cho thế giới duy nhất.
Chiều
kích phổ quát này mời gọi chúng ta làm cho nhau được
phong phú, nhờ sự trao đổi sâu xa về thiêng liêng,
về chương tŕnh huấn luyện, về các kế
hoạch xă hội, về những trực giác thiêng liêng và
về các phương thế.