Chúng tôi vừa nhận được vài thông tin của một bạn đọc giấu tên, liên quan đến
cuốn Thành ngữ - Điển tích - Danh nhân Từ điển của tác giả Trịnh Vân Thanh (Trịnh
Chuyết). Sách được Nhà Xuất bản Văn học xuất bản năm 2008. Các bạn có thể xem chi
tiết giới thiệu về cuốn sách ở trang
Sachhay.com
Vị độc giả đã chỉ ra rằng ở trang 742, trong mục nói về Phan Bội Châu, các nhà soạn
sách đã viết việc Phan Bội Châu bị bắt như sau:
Năm 1925, nghe theo lời của Lý Thụy và Lâm Đức Thụ, Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức "Toàn thế giới bị áp bức nhược tiểu dân tộc", nhưng sau đó Lý Thuỵ và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho thực dân Pháp để:
1 - Tổ chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15 vạn bạc) hầu có đủ phương tiện hoạt động.
2 - Gây một ảnh hưởng sâu rộng trong việc tuyên truyền tinh thần ái quốc trong quốc dân.
Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh trong giai đoạn ấy có bí danh là Lý Thụy. Và
như thế, căn cứ vào cuốn tự điển này, chính Hồ Chí Minh đã bán Phan Bội Châu cho
thực dân Pháp với những lý do đã nêu trên. Đến nay, vẫn có nhiều tranh cãi trong
giới quan tâm về sử Việt về tính xác thực chung quanh sự kiện này.
Vì không có phiên bản của cuốn tự điển để kiểm chứng, chúng tôi không bảo đảm hoàn
toàn sự xác thực của thông tin. Xin thận trọng đăng ở đây để các bạn phân tích và
làm vấn đề được sáng tỏ hơn.
Xin gửi kèm những bức ảnh chụp để tham khảo:
Nguồn: X-Cafevn, 29.12.2009
http://www.x-cafevn.org/node/2524
(Chúng tôi chọn một số ý kiến của bạn đọc để đăng lại trong phần sau. xoathantuong)
xahoidensoma
Thành viên chính thức
Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu - Film
xem ở đây
(10min, tiếng việt)
YouTube - 01 - Ho Chi Minh Phan boi Chau Phan...
trích từ đây! (60min tiếng anh)
http://video.google.de/videosearch?q...q=f&aq=-1&oq=#
ai muốn tìm hiểu thêm, xin vào thư viện cũa pháp, họ còn giữ "hóa đơn trả tiền"
+ tài liệ đã được bặch hóa
xahoidensoma
Thành viên chính thức
Trích:
anhoang_trungtuong viết: Ông Cụ không chỉ bán Phan Bội Châu, mà còn bán cả dững anh em thân tin
như Trần Phú (tội tự viết cương lĩnh đảng không xin chỉ thị), Hà Huy Tập
(tội tự sáng tạo cách mạng theo đường lối xét lại), Hồ Tùng Mậu (tội cầm
đèn chạy trước ô-tô), Lê Hồng Phong (tội vợ xinh) vưn vưn. Ba trong đó là
các lãnh tụ tối cao. |
HCM bán lấy tiền đó bác, hcm bán cụ Phan vs cash 100.000 quan tiền lận àh! các
đc bác kể trên thì bị hcm bán rẽ, thủ tiêu hay bị nhấn nước thui.
(cách đây vài năm có người đăng nguyên văn bản "hóa đơn" giờ vào tìm lại, links
chết mất tiêu. ai ở bên pháp làm ơn vào thư viện quốc gia tìm và chụp tấm hình cái...
cám ơn!)
trích...
Trưa ngày 1-7-1925 nhằm ngày 11-5 năm ãt Sửu, Phan Bội Châu vừa từ Hàng Châu
đến Thượng Hải, thì bị mật thám Pháp bắt cóc và giải về Hà Nội. Trong Tự Phán, Phan
Bội Châu cho rằng chính thư ký riêng của Ông là Nguyễn thượng Huyền (cháu Nguyễn
thượng Hiền) bán tin cho Pháp, nhưng sau này có nhiều tài liệu lịch sử chứng nhận,
kẽ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng là Lâm đức Thụ và Lý Thụy
(bí danh của Hồ chí Minh lúc đó).
Mới đây vào năm 1972, Sử gia kiêm học giả Ðài Loan là Tưởng Vĩnh Kính, qua tác
phẩm ‘Hồ chí Minh tại Trung quốc’ cũng xác nhận chính Lâm đức Thụ (đại diện của
Phan bội Châu tại Hương Cảng) và Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy-Hồ chí Minh), đã bán cụ
Phan cho Pháp, rồi cả hai chia đôi số tiền thưởng là 100.000 quan bây giờ. Sau đó,
Thụ và Quốc còn hợp tác nhiều năm nữa để bán những đồng chí của cụ Phan cho Pháp.
ai muốn đọc thêm xin vào links dưới.
http://geocities.ws/xoathantuong/mg_hcmbd.htm
links dưới còn nhiều bài nữa.
http://geocities.ws/xoathantuong/
1 con số thông kê có nói là, hcm có 167 bí danh chính thức được biết đến. kinh thật,
thời đó mà có internet chắc hcm có cả ngàn cái... dám lắm.
tudovn
Thành viên chính thức
Có hai nguồn thông tin nói về việc HCM bán đứng cụ Phan bội Châu cho Pháp.
1)
http://www4.gu.edu.au:8080/adt-root/...lic/02Main.pdf
2)
http://www.washingtonpost.com/wp-srv...yatanycost.htm
may4phuong
Thành viên chính thức
Các bác kiếm cuốn Ho của David Halberstam, một phóng viên chiến tranh VN nổi
tiếng của Mỹ, mà đọc. Sách có nói đến chuyện này
David Halberstam
Sống chết với nghề nghiệp
Thượng Văn
Đời sống không bao giờ thiếu chuyện bất ngờ. Tin tức về cái chết của nhà báo nổi
tiếng David Halberstam là một.
Một tai nạn xe cộ xảy ra lúc 10:30 sáng thứ Hai ở thành phố Menlo Park như đã từng
có bao nhiêu tai nạn như vậy xảy ra trên đường phố Hoa Kỳ. Nhưng lần này, người
ngồi cạnh tài xế lại là David Halberstam. Ông chết ngay tại chỗ. Người lái xe chở
ông đi là một sinh viên ban báo chí của Đại Học Berkeley. Thứ Bảy, ông nói chuyện
ở UC Berkeley đề tài “Turning Journalism into History.” Thứ Hai, chuẩn bị tài liệu
cho quyển sách dự định sẽ viết “The Game,” ông trên đường đi đến gặp và phỏng vấn
Y. A. Tittle, cựu quarterback của đội banh New York Giants về trận tranh giải vô
địch giữa đội Giants và Baltimore Colts vào năm 1958 mà hầu hết mọi người đều cho
là trận football hay nhất cho đến nay. Ông trễ hẹn lần cuối cùng trong đời năm ông
73 tuổi.
David Halberstam sinh ngày 10 tháng Tư, 1934 ở New York City. Cha là bác sĩ giải
phẫu, mẹ là cô giáo. Người cha ở trong quân đội và như thế Halberstam thời nhỏ sống
bất định theo gia đình ở mọi nơi Texas, Minnesota, Connecticut. Lớn lên ông theo
học Đại Học Harvard và tốt nghiệp ngành báo chí ở đây.
Ông bắt đầu vào nghề báo từ năm 1955 với tờ Daily Times Leader ở West Point, Mississippi,
một nhật báo nhỏ có số ấn hành 4,000 số. Ông là phóng viên duy nhất trong tòa soạn
mà ngài chủ bút lại không ưa cậu ấm Do Thái tốt nghiệp Harvard. Ông tiến thêm bước
nữa làm việc cho tờ Tennessean ở Nashville, rồi sau đó đặt chân vào tờ New York
Times năm 1960.
Cuộc đời David Halberstam bắt đầu có chuyện đáng nói từ lúc đó hay nói đúng hơn
từ khi ông được báo gửi đi làm phóng viên ở Việt Nam vào năm 1962.
Halberstam gia nhập vào hàng ngũ của phóng viên Mỹ đầu tiên, cùng lứa đôi mươi,
không tên tuổi, bắt đầu xây dựng sự nghiệp bằng chiến tranh Việt Nam.
Có nhiều giai thoại về Halberstam thời đó ngày nay vẫn còn được nhắc lại trên báo
chí khi tin ông mất được loan truyền. Mùa thu 1963, có tin một trận đánh quan trọng
xảy ra ở đồng bằng Cửu Long, các phóng viên không được phép tháp tùng để quan sát
và viết bài. Neil Sheehan cùng với ông bèn điện thoại cho tướng chỉ huy lực lượng
Hoa Kỳ là Paul Harkins và Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Chiều hôm đó, trong cuộc họp
báo ở MACV (Military Assistance Command, Vietnam), thay cho một đại úy hay thiếu
tá theo thường lệ, lần này tướng hai sao Dick Stillwell chủ tọa. Ông này mở đầu
bằng câu chuyện có người trong số phóng viên đã gọi điện thoại cho Tướng Harkins
và Đại Sứ Lodge, “Các ngài ấy là người rất bận rộn; các ngài không có thì giờ trả
lời điện thoại. Các anh nhớ lấy điều tôi vừa nói.”
Neil Sheehan nhìn thấy sự giận dữ mỗi lúc một tăng lên trên nét mặt của Halberstam.
Cuối cùng, câu trả lời bật lên như một thách thức, “Thưa thiếu tướng, ông không
hiểu. Chúng tôi không phải là hạ sĩ của ông; chúng tôi không làm việc dưới quyền
của ông. Chúng tôi làm việc cho các chủ bút. Nếu ông có điều gì phải than phiền
về chúng tôi, hãy liên lạc với chủ bút của chúng tôi. Chúng tôi có quyền gọi tướng
chỉ huy trưởng tại nhà bất cứ lúc nào chúng tôi cần để hoàn thành công tác. Dân
chúng Hoa Kỳ có quyền biết chuyện gì đang xảy ra ở đây.”
Một câu chuyện khác còn được nhắc là Tổng Thống Kennedy tìm cách làm áp lực cho
tờ New York Times thuyên chuyển cái gai nhọn David Halberstam ra khỏi Việt Nam.
Báo này chẳng những từ chối mà còn hủy bỏ dự tính rời Việt Nam của Halberstam để
chứng tỏ họ không nhượng bộ trước quyền lực ở Washington.
David Halberstam đã ở lại và sau đó được giải Pulitzer năm 1964 qua các bài
phóng sự của ông về chiến tranh cũng như vụ đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình
Diệm. Trong đội ngũ phóng viên thời đó được giải Pulitzer còn có Malcolm Browne,
Peter Arnett, Neil Sheehan và Horst Faas (hai lần).
Sau này khi nhớ lại thời kỳ sôi động đó ở Sài Gòn, David Halberstam lên tiếng cho
cả thế hệ phóng viên trẻ tuổi và lý tưởng, có mặt trong cuộc chiến về niềm tin và
ước mong Hoa Kỳ chiến thắng ban đầu. Cho đến khi họ khám phá ra điều họ không muốn
khám phá. Họ muốn chuyện phải thành. “Đến khi chuyện không thành, chúng tôi bắt
đầu nói chuyện sẽ không thành. Đó là lúc họ bắt đầu tấn công chúng tôi bằng cách
nói ‘Đây là bọn muốn chúng ta thất bại.’”
Sau Việt Nam, dường như David Halberstam không còn cảm thấy thích hợp cho bất cứ
chỉ định việc làm nào khác từ New York Times. Ông được điều động đi Warsaw, Ba Lan.
Có chỉ thị từ tờ báo cho các phóng viên trong trường hợp nghi ngờ hãy viết bài đúng
600 chữ. Halberstam viết cho bạn: “Chỉ có hai loại chuyện trên thế giới này: có
loại tôi không muốn viết nhiều đến 600 chữ, và loại tôi muốn viết nhiều hơn 600
chữ. Nhưng chẳng có câu chuyện nào mà tôi muốn viết đúng 600 chữ cả.”
Halberstam lấy cô vợ là diễn viên Ba Lan Elzbieta Czyzewska năm 1966 rồi cả hai
bị trục xuất trong năm sau vì dám viết bài phê phán chế độ cộng sản ở đây. (Họ ly
dị năm 1977. Ông lập lại gia đình với Jean Sandness Butler năm 1979 và sống cho
đến ngày ông mất.)
Không hài lòng, Halberstam bỏ tờ New York Times năm 1967 sang làm cho tạp chí Harper’s
để được viết dài theo ý thích.
Nhà văn Gay Talese, bạn thân trong gia đình, nhận xét, “Ông là người không có một
khúc xương lười biếng nào trong cơ thể.” Thật vậy, ông viết rất nhanh và nếu cần
ông đóng cửa ở nhà, làm việc theo một kỷ luật sắt cho đến khi hoàn thành một tác
phẩm dự định. Ông viết hai tác phẩm trong thập niên 1960, ba trong thập niên 1970,
bốn trong thập niên 1980 và sáu trong thập niên 1990. Đề tài ông lựa chọn đụng chạm
đến mọi khía cạnh trong đời sống Hoa Kỳ. Cuốn “The Powers That Be” đề cập
đến giới truyền thông. “The Breaks of the Game” viết về bóng rổ. “The
Reckoning” nói về sự suy sụp của kỹ nghệ sản xuất xe hơn của Hoa Kỳ và sự phát
triển của kỹ nghệ này của Nhật...
Nhưng nhớ đến David Halberstam, người ta không thể quên, không thể không nhắc đến
hai tác phẩm ông viết về chiến tranh Việt Nam: Quyển “The Making of a Quagmire”
(1965) và quyển “The Best and The Brightest” (1972). Trong hai tác phẩm này
quyển thứ hai được coi như sách để đời của ông. Cuốn sách gắn liền với tên tuổi
ông. Tựa sách đi vào luôn trong ngôn ngữ Anh nói lên tình trạng trớ trêu, nghịch
lý của Hoa Kỳ thời Kennedy và Johnson trong liên hệ với chiến tranh Việt Nam. Những
khuôn mặt chính trị trong chính phủ lúc bấy giờ được ông nâng lên hàng “the best
and the brightest” của Hoa Kỳ để nói lên một điều duy nhất: họ bất lực trong việc
giải quyết chiến tranh Việt Nam. Tiếng nói của ông góp thêm một phần âm thanh vào
phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ. Ông đứng ở một phía của cuộc chiến để nói lên những
điều ông biết rõ hơn điều ông không biết ở chiến tuyến bên kia. Vì thế những điều
ông biết và viết ra không thể không thiên lệch. Trên biên giới được ông góp phần
vạch ra, làm rõ nét hơn giữa chủ chiến và phản chiến, ông không được một bên ưa
thích cả ở Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa.
Giữa hai tác phẩm chính về chiến tranh Việt Nam nói trên, ông có viết một cuốn sách
nhỏ 120 trang được ít người nhắc tới. Sách xuất bản năm 1971, được in lại năm 1987
có tựa là “Ho.” Để viết cuốn tiểu sử về Hồ Chí Minh, trong phần thư mục sách
ông tham khảo đúng 11 cuốn sách trong đó có hai cuốn của Bernard Fall, một
cuốn của Jean Lacouture, một cuốn của Joseph Buttinger, một cuốn của John McAlister
và Paul Mus... và cuốn tiểu thuyết “The Quiet American” của Graham Greene.
Tại sao phải nhắc đến “Ho,” một tác phẩm không quan trọng của Halberstam?
Sách chỉ trình bày sơ lược về cuộc đời của họ Hồ nhưng lại đặc biệt nói lên suy
nghĩ, tinh thần của thời đại bấy giờ về Việt Nam. Trong đó chuyện Hồ Chí Minh bán
cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp để lấy 150,000 đồng tiền thưởng được Halberstam
viết ra cũng lạnh lùng, khô khan cũng như việc cộng sản thanh toán các tổ chức “quốc
gia” thời sau 1945. Nhưng khi viết về miền Nam Việt Nam sau 1954, ông linh động
hơn trong phê phán. Việc Hoa Kỳ chọn Ngô Đình Diệm làm lãnh tụ được coi là “một
người trật cho Việt Nam nhưng lại đúng cho người Mỹ.”
Ông giải thích: Họ Ngô là người Công Giáo trong một đất nước Phật Giáo, một người
gốc miền Trung cầm quyền ở miền Nam, một ông quan không có đất đứng. Trước đó Halberstam
đã chia xã hội miền Việt Nam thành hai tầng lớp hoặc là chống Pháp hoặc là đứng
bên lề “chiến đấu chống lại tổ quốc, không làm gì cả hay thủ lợi trong thời chiến
tranh giành độc lập.” Khi nói đến chuyện Tổng Thống Johnson gặp “chúa tể” (overlord)
và “phi công chiến đấu” Nguyễn Cao Kỳ năm 1967, ông mở ngoặc chua thêm “Còn gì Mỹ
hơn và ít Việt Nam hơn trong một quốc gia nơi dân chúng còn sống với con trâu trong
khi một lãnh tụ lại đặt quyền lực trên một chiếc phi cơ phản lực.” Trong cuộc gặp
gỡ đó, Tổng Thống Johnson thúc giục Nguyễn Cao Kỳ nhanh lên đi đến chiến thắng.
Halberstam viết thêm “Như nhiều người khác trước ông, ông nghĩ chiến thắng đang
gần kề; giống như nhiều người khác, ông lầm.”
Lúc Halberstam viết cuốn “Ho,” chiến tranh Việt Nam vẫn còn tiếp diễn. Ông thấy
lúc đó “Giống như người Pháp, người Mỹ chỉ kiểm soát được nơi họ đứng...” Chuyện
đếm xác chết sau mỗi trận chiến đã trở thành mối ám ảnh trước kia của Pháp và bây
giờ của Hoa Kỳ. “Mỗi năm người Mỹ bắt đầu bằng việc ước tính con số kẻ địch trong
nước; nếu giả dụ như là 75,000, năm đó họ có thể đã tiêu diệt được 85,000, nhưng
đến cuối năm họ lại khám phá kẻ địch tăng lên 90,000.” Trong ngôn ngữ sắc bén của
Halberstam, “Họ [Hoa Kỳ] chiến đấu chống lại mức sinh sản của một dân tộc.” Ông
trích lại tiên đoán của Bernard Fall mà ông tin là đúng. “Người Mỹ mơ một giấc mơ
khác hơn người Pháp nhưng lại bước trên cùng vết chân của người Pháp.”
Người ta có thể không tin vào tài tiên tri của Fall hay Halberstam. Người ta có
thể không tin vào phân tích tình hình đúng của Halberstam nên chiến tranh mới kết
thúc vào tháng Tư, 1975. Nếu như thế, tại sao người ta có thể tin rằng Halberstam
hay cả phong trào phản chiến có thể khiến cho Hoa Kỳ và miền Nam thua trận? Có phải
David Halberstam đã cố gắng chứng minh một lý do khác hơn trong “The Best and The
Brightest?” Ông không phải là một sử gia. Ngôn ngữ ông dùng không phải là ngôn ngữ
sử sách. Trước ngày tai nạn, ông chỉ mới hy vọng “Turning Journalism into History”
thôi. Nhưng người viết sử không thể bỏ qua những gì ông đã viết chỉ vì ông phản
chiến.
Một quyển sử đúng đắn cho chiến tranh Việt Nam vẫn chưa được viết ra. Người đóng
góp thêm tài liệu cho giai đoạn đó vừa mới mất.
CaFeDen
Thành viên chính thức
Trích:
zman viết: Lụm được cái ảnh cắt này các bác em chơi ...Em xin không dám lạm bàn
...(xin min/mod tha tội )
|
Xin phép để tui phiên dịch cái đoạn đóng khung cho các đ/c nào yếu bóng vía, ủa lộn, yếu tiếng Anh:
Ông Hồ liên minh hầu hết với tất cả phần từ Quốc Gia nhưng ông ta không bao giờ đặt mục tiêu chung lên trên mục tiêu của ông ta. Ông ta liên minh với các nhóm nầy là để phục vụ cho mục đích củng cố tham vọng của ông ta. Khi có mâu thuẩn, ông ta sẳn sàng tiêu diệt họ.
Năm 1925, ông Hồ phản bội nhà cách mạng lão thành nhất của VN là Phan Bội Châu cho mật vụ Pháp. Lịch sử của CS đã nói rằng ông Phan Bội Châu đã sa ngay vào một cái bẩy, nhưng không nói ra cái bầy đó là của ông Hồ để nhân được 100 ngàn quan Pháp. Vào thời đó, ông Hồ biện hộ cho sự phản bội của ông ta với các đồng chí của ông ta rằng Phan Bội Châu là một người quốc gia và do đó sẽ trở thành đối thủ trong tương lai.
kafe_dang
Đã đi xa
Anh trích lại cái tổng hợp này của Wiki. Việc tin bạn chính trị gia Nixon hay
tin nhà sử học Duiker thì tùy các chú quyết định nhể.
Trích:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_B%E1%BB%99i_Ch%C3%A2u Theo một số nhà nghiên cứu, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt được là
do có người mật báo. Danh tính của người mật báo được xác định khác nhau.
|
DanTriVN
Thành viên chính thức
Thêm một cuốn sách nói về việc này:
Tác giả là một cựu sĩ quan tình báo của quân đội Mỹ. Các bác có thể tham khảo
thêm ở đây:
http://en.wikipedia.org/wiki/Phillip_Davidson