Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc (Tập 2)

NHÓM TÂM VIỆT, Sydney, Úc Châu

(Tái bản có sửa chữa)
Nhóm Tâm Việt - Tvvn.org
Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 07-2010

MỤC LỤC

Chương 4 Cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh (tiếp theo) trang 05
Chương 5 Những Cây Người Hồ Chí Minh Trồng 22
Chương 6 Tư Tưởng Hồ Chí Minh 50
Chương 7 Hồ Chí Minh, Con Vẹt Của Stalin 80

++++++++++++++++++++++

Lời giới thiệu (tiếp theo) của Khối 8406

Rồi để tiếp tục công trình của Lãnh tụ (đánh phá hầu nô dịch Dân tộc), đồng đảng của ông đã ngụy tạo ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” sau khi toàn bộ lý thuyết của Mác, Lênin, Stalin đã hoàn toàn bị phá sản ở Liên xô và Đông Âu các năm 1989-1991 (ch. 6). Thật ra, HCM chỉ là con vẹt của Stalin (ch. 7), hoàn toàn lặp lại lời nói và hành động, lấy lại phương sách và mục tiêu của tên Đồ tể khát máu này. Cả đời ông ta chỉ biết theo gương Stalin trong việc đối xử với nhân dân lẫn đồng chí. Cụ thể là qua cuộc Cải cách ruộng đất, vụ Nhân văn Giai phẩm, vụ Xét lại chống đảng, cuộc Tàn sát Mậu Thân… Thế nhưng, với bản chất gian manh, HCM luôn ném đá giấu tay (ch. 8), đứng đàng sau mọi hành vi bạo lực của đồng đảng và đồ đệ (như bán cụ Phan Bội Châu, giết bà Cát Hanh Long, tàn sát mọi tổ chức quốc gia cùng chống ngoại thù chung của Dân tộc…), ứng xử vô cùng tàn ác mà bao giờ cũng tỏ ra đạo đức nhân bản, thậm chí trong cả bản Di chúc cuối đời. Là kẻ đã đi hết biển (ch. 9), bôn ba khắp nơi hải ngoại như bao nhà cách mạng đương thời, Hồ Chí Minh và đồng đảng đã chỉ đem về cho Tổ quốc, du nhập vào đất nước một chủ nghĩa sai lầm, một chế độ phi nhân và một chính đảng tàn bạo. Tóm lại, ông ta chỉ là một chính trị gia tồi tệ (ch. 10), thay vì cai trị cho minh chính, theo vương đạo, đem lại hạnh phúc no ấm cho toàn dân, an vui và thăng tiến cho đồng bào, thì ngược lại chỉ biết thống trị theo bá đạo, toàn trị độc tài độc đảng, dẫn đến bao thảm họa cho Tổ quốc và Dân tộc.

Nay nhân cái gọi là “kỷ niệm 150 năm sinh nhật của Hồ Chủ tịch”, chúng tôi phổ biến tài liệu này không ngoài mục đích phơi bày bộ mặt phản dân hại nước của tay Tội đồ Dân tộc số một đó. *Khối 8406*

Chương 4
Cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh (tiếp theo)

Vũ Hạnh tác giả bài “Mặt đối mặt với Nhân dân”

Đến năm 1990, sau 15 năm dưới sự cai trị độc tài của Đảng Cộng sản, nhà văn Vũ Hạnh có viết một bài rất đặc sắc nhan đề Mặt đối mặt với Nhân dân. Bài đó được dịch ra Pháp ngữ và đăng trên tờ Nouvelles de Moscow, một tờ báo khuynh hữu ở Mạc Tư Khoa. Một phần của bài đó là bản photocopy với chữ viết tay của Vũ Hạnh được đăng tải trong quyển Bút ký Irina của Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ (Tập 1, trang 48). Xin mời quý bạn đọc:

“Một vài suy nghĩ về con người và xã hội Việt Nam hiện nay. Sau ngày giải phóng 15 năm, nhiều người Việt Nam đánh giá về Đảng lãnh đạo theo hai cách nhìn khác nhau: một là Đảng đã có công tập họp toàn dân chống những kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh để giành Độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Tuy nhiên, về mặt lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã thất bại, làm cho đa số dân chúng nghèo đi, chịu nhiều bất công, phiền hà, đất nước thua kém các nước láng giềng từ xưa được xem là chậm tiến nhất vùng Đông Nam Á. Cách thứ hai có vẻ quyết liệt hơn nhiều khi khẳng định rằng không thể tách rời giai đoạn cứu nước với dựng nước, vì giai đoạn đầu là tiền đề cho giai đoạn sau. Sự hi sinh to lớn kéo dài suốt mấy mươi năm để chỉ đem lại nghèo đói, bất công thì hi sinh ấy có ý nghĩa gì? Bây giờ người ta bắt đầu hoài nghi chủ nghĩa xã hội, hoài nghi học thuyết Mác Lê...”

Bài viết phân tích rất sâu sắc và rành rẽ cuộc khủng hoảng không lối thoát ở Việt Nam và quyết liệt đòi hỏi chế độ phải thay đổi thực sự và toàn diện, trong đó có đoạn nói: “Vì sống bằng ngụy biện, người ta (tức là đảng Cộng sản) lại dùng ngụy biện để minh chứng rằng các biểu hiện xấu chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Nhưng hiện tượng lập lại mãi cũng là bản chất. Hoặc bảo: đó là những sự suy thoái nhất thời, nhưng cái nhất thời ấy được đo bằng suốt chiều dài chế độ. Một cách giải thích khá quen thuộc khác là do kẻ thù đế quốc phá hoại, nhưng sao lại để kẻ thù phá hoại? Và sao chúng lại phá hoại dễ dàng như vậy?

Theo dõi phong trào nhân dân các nước Đông Âu nổi lên bằng những cuộc biểu tình ôn hòa, xử dụng quyền Dân tộc Tự quyết và thực hiện cuộc Cách mạng nhung không đổ máu để xây dựng nền dân chủ và loại trừ chế độ CS, nhà văn Vũ Hạnh đã theo quan điểm duy tâm mà cho rằng: “Đó là điều cần phải xảy ra, đó cũng là lẽ nhân quả ở đời”.

Và sau cùng trong đoạn kết nhà văn viết: “Câu trả lời thực sự cho V.N. không phải ở nơi Liên Xô, Trung Quốc, hay nước Đông Âu nào khác mà là ở tại V.N. Và chỉ khi nào những người lãnh đạo V.N. thấy rõ về xã hội mình và có can đảm sửa đổi những tệ trạng gây nên cho những con người V.N. bằng những phương thức hoàn toàn phù hợp với người V.N., thì chỉ lúc ấy quần chúng mới khỏi phải dùng đến sự thô bạo để giành lấy quyền định đoạt cho số phận mình.”

Vũ Hạnh chối bỏ bài viết của mình

Câu chuyện về nhà văn Vũ Hạnh bắt đầu bằng chuyến viếng thăm thành phố Sài Gòn của Irina Zisman, một phụ nữ Nga có chồng là người Việt Nam. Bà học tiếng Việt ở Mạc Tư Khoa, nói tiếng Việt thật lưu loát và viết văn Việt thật điêu luyện như bất cứ một nhà văn Việt Nam tài ba nào. Trong tác phẩm Bút ký Irina, bà kể lại rằng trong chuyến viếng thăm Sài Gòn vào cuối tháng 5 năm 1991 (xin chú ý: tác giả Irina viết là Sài Gòn chớ không viết Thành phố Hồ Chí Minh!), bà được mời đến Hội Nhà văn và đã gặp Vũ Hạnh ở đấy. Bỏ ngoài chuyện được đãi trái măng cụt và bàn luận về truyện Kiều với Vũ Hạnh, khi ra về, bà có mời Vũ Hạnh lại chỗ bà ở để nói chuyện cho được tự nhiên, nhưng ông gạt đi: “Nếu như vậy, cấp trên sẽ hiểu nhầm.”

Trong một ghi chú của Irina, thì sự hiểu lầm bắt đầu từ một bài viết ký tên Vũ Hạnh đăng trên tờ báo Tin tức Mátxcơva (xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Pháp ở thủ đô Liên Xô). Điều đáng tiếc là chính Vũ Hạnh đã hiểu nhầm về cái tên Vũ Hạnh như thế! Về biến cố nầy, Irina viết tiếp: “Tôi nghĩ về các văn sĩ của thời đại chúng ta. Chúng ta, những người chỉ biết đọc lại các tác phẩm của những người xưa. Tôi nghĩ về tấn bi kịch của nhà văn luôn luôn giấu kín suy nghĩ của mình, về các nhà báo viết bài không phải để đăng báo. Về tấn bi kịch của các văn nghệ sĩ đã được cởi trói nhưng vẫn có cấp trên. Và về những cấp trên chuyên môn hiểu nhầm.”

Đó là lời bình rất phớt nhẹ của Irina về việc Vũ Hạnh chối bỏ bài viết của mình, lời phê bình phớt nhẹ đến nỗi tưởng chừng như nó không chạm đến ai cả. Nhưng với Nguyễn Ngọc Bích thì không. Trong lời đề bạt cho quyển Bút ký Irina (Tập 1 trang 1600), ông tung ra lời phê rất sâu sát như sau. Xin mời quý bạn đọc kỹ:

“Một bài viết như vậy, nếu Vũ Hạnh có can đảm nhận lãnh trách nhiệm của mình -- như Chân Tín đã làm, như Nguyễn Ngọc Lan cũng có can đảm xác nhận -- thì ông đã chuộc được phần nào những phản phúc mà ông đã dành cho bạn bè ông khi Cộng sản vào thành. Đằng này, ngờ đâu sau khi chị Irina đã cất công dịch sang tiếng Nga cho đăng báo Nga thì Vũ Hạnh ở nhà vội phủ nhận mình là tác giả bài báo. Để cho Hà Nội có thể ngụ ý là chị Irina đã bịa đặt ra bài báo, chứ làm gì có một bài báo như vậy. (Thành thử trong Bút ký, chị đã phải cho in phóng ảnh cả tuồng chữ của Vũ Hạnh để anh khỏi chối được mãi). Thì ra, anh không hơn gì nhân vật mô tả trong Ly Thân của Trần Mạnh Hảo, chỉ giỏi nghề đón gió -- và khi thấy gió ngược chiều thì vội vã tháo bỏ hết cả nhân phẩm của mình để lộ nguyên hình là một thằng hèn.”

Chúng ta hẳn biết chỉ có một Vũ Hạnh mà thôi, nào đâu có Vũ Hạnh thứ hai là nhân vật do chị Irina tưởng tượng ra! Trong photocopy bức thơ của Vũ Hạnh gởi cho chị Irina còn có ghi cả địa chỉ của Vũ Hạnh ở Sài Gòn kia mà, này nhé: 647 Điện Biên Phủ. Q3. Thành phố Hồ Chí Minh. Trước sau chỉ có một Vũ Hạnh đó mà thôi! Đó là Vũ Hạnh, đảng viên Việt Cộng nằm vùng ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975. Đến khi Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam, đến ngày 3-4-1976, công an Việt Cộng mở chiến dịch hốt gọn các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nghệ sĩ tự do ở Việt Nam cho vào tù và nghe đâu danh sách các văn nghệ sĩ ấy là do Vũ Hạnh thiết lập. Trong hồi ký của Tạ Tỵ, quyển Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, thì danh sách ấy do Vũ Hạnh cùng thiết lập với Sơn Nam.

Bàn về ngày bi thảm 3-4-1976, ngày mà sau nầy chính thức trở thành Ngày Văn nghệ sĩ Việt Nam, nhà văn kiêm nhà báo Trần Dạ Từ viết: “Trong những trang đen tối nhất của lịch sử văn hoá nhân loại, kể cả thời vua Tần đốt sách chôn học trò ở phương Đông, Nê Rô đốt thành La Mã ở phương Tây, Mao Trạch Đông làm Cách mạng Văn hoá ở Hoa Lục, sự bách hại nhắm riêng vào giới cầm bút và nghệ sỹ, chưa bao giờ đạt tới mức qui mô như biến cố ngày 3-4-1976 ở Việt Nam, cả về tính cách lẫn thời gian.”

Xin trở lại thời gian Vũ Hạnh nằm vùng dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa, khi được lãnh tiền nhuận bút 120 ngàn đồng (giá trị bằng 8 cây vàng) cho một quyển sách, với tiền thù lao xứng đáng như vậy, Vũ Hạnh như là người đang được ăn chiếc bánh thật mà trong lòng cứ chết mê chết mệt đeo đuổi theo chiếc bánh vẽ do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản rêu rao từ năm 1945.

Chuyện văn nô phục vụ lâm tặc: một chỉ vàng

Việt Nam Cộng hòa đang trên đà phát triển theo cùng một nhịp với Đài Loan và Đại Hàn, thì bị bức tử vào ngày 30-4-1975. Ôi thôi rồi! Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ 20! Công lao tranh đấu ôn hòa của Cựu hoàng Bảo Đại (sau là Quốc trưởng) để tranh đoạt Độc lập từ trong tay Pháp! Đến Đệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đệ nhị Cộng hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Quân Dân Cán Chính miền Nam đã chẳng những can trường chống trả bộ đội Việt Cộng ở ngoài chiến trường mà còn phải lo đón đỡ những đòn đánh lén của nhóm Việt cộng nằm vùng như Vũ Hạnh ở hậu phương! Rồi còn phải hứng chịu biết bao nhiêu điều thóa mạ trên mặt trận tuyên truyền vu khống của Việt Cộng, bị mang tiếng nào là Việt gian bán nước, bồi Tây, tay sai Mỹ Ngụy, Thiệu Kỳ ác ôn…

Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ 20 đã sang trang nhưng đã đi vào lịch sử như một điểm son sáng chiếu để rồi bị thay thế bằng những trang sử đen tối nhất từ đấy cho đến đầu thiên niên kỷ thứ ba và kéo dài không biết đến bao giờ! Trên những trang sử vô cùng đen tối ấy, thử xem ta có thể đọc được đôi ba dòng về cuộc sống của giới văn nghệ sĩ hay không? Đây, những dòng chữ ảm đạm tác giả Bùi Ngọc Tấn cố gắng và can đảm viết thật rõ nét cho chúng ta được đọc. Trong quyển Viết về bạn bè, tác giả Bùi Ngọc Tấn thố lộ rằng vì chưa viết được về mình thì hãy viết về những bạn văn và những nhếch nhác trần ai của họ. Có ba người bạn văn của tác giả, Đình Kính và Chu Lai là hai nhà văn quân đội và Nguyễn Quang Thân là tác giả nhiều thiên tiểu thuyết một thời làm say mê độc giả ở quốc nội. Trong cảnh nhếch nhác trần ai ấy, ba nhà văn, vì muốn có tiền, chỉ còn cách dùng văn tài của mình để đi viết thuê, tức là làm văn nô, chứ không phải viết cho mình! Bùi Ngọc Tấn viết:

“Để có tiền, nói cách khác, để sống còn, thôi thì đành gác lại những trang sách vẫn nghiền ngẫm nung nấu, những tác phẩm sẽ được viết ra bằng tim gan mình. Hãy để lại sau. Để đến bao giờ chưa biết, nhưng trước mắt là kiếm sống. Đình Kính, Chu Lai, Nguyễn Quang Thân đã phải ép mình chấp nhận viết thuê cho viên giám đốc một lâm trường quốc doanh. Dĩ nhiên, họ không thể viết theo ý mình. Họ phải vận dụng ngôn từ, chữ nghĩa, kể cả những mánh lới mang tính lưu manh, để thỏa mãn ý muốn của người thuê viết, là biến Rừng Xưa Lá Úa trở thành Rừng Xưa Xanh Lá.”

“Rừng xưa lá úa. Nhưng những con người đến cùng rừng hôm nay đã thay lá cho rừng. Không phải đất trời, sự vận động của thời tiết, của bốn mùa đã làm nên điều ấy. Mà chính là con người. Con đường mới mở trong rừng đâu phải chỉ làm bằng máy móc. Trước hết, nó được làm bằng trí tuệ, bằng tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của những người làm việc âm thầm không cần ai biết đến... Rừng thay lá. Rừng sống lại. Rừng lại hát khúc ca hùng tráng của rừng.”

“Những cây bút viết thuê nầy biết rằng họ phải bịa, cho dù phải cúi mặt vì xấu hổ với lương tâm. Nhưng biết làm gì khác hơn khi vợ con, bố mẹ và cả chính mình còn có một thứ nợ đời phải trả. Đó là nợ áo cơm. Bằng mọi giá họ phải đáp ứng đòi hỏi của người thuê là hoàn tất cuốn sách có tên Rừng Xưa Xanh Lá trong thời hạn hai tháng được nuôi ăn, và sau khi hoàn tất được trả công mỗi người đúng một chỉ vàng như đã quy định trong hợp đồng từ lúc khởi đầu.”

Dưới ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn thì ba bạn văn của ông phải bẻ cong ngòi bút, không phải để làm bồi bút cho đảng Cộng sản, mà còn tệ hơn nữa, là làm văn nô để viết thuê cho viên giám đốc lâm trường quốc doanh vốn là phường lâm tặc. Món tiền còm nhuận bút một chỉ vàng trả công cho mỗi một người bạn văn ấy chính là tiền tên thủ trưởng lâm tặc đã phá hoại tài nguyên của đất nước mà tư túi riêng cho mình.

Xin trở lại chuyện nhà văn Vũ Hạnh. Không cần phải chờ đến thiên niên kỷ thứ ba, để ông đọc tác phẩm Viết về bạn bè của Bùi Ngọc Tấn, ông mới biết các nhà văn sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nghèo khổ như thế nào. Theo bài Mặt đối mặt với Nhân dân của ông viết vào năm 1990, chỉ sau ngày giải phóng 15 năm, ông đã mở mắt để thấy rõ sự thất bại của xã hội chủ nghĩa và vì ông là văn sĩ với tâm hồn dễ dàng rung cảm, nên hẳn ông cũng rất thương xót cho số phận hẩm hiu của ba nhà văn xấu số kia phải sống đọa đầy trong kiếp văn nô. Tôi thiết nghĩ chắc có nhiều độc giả cũng muốn biết số phận của Vũ Hạnh như thế nào dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, có giống như số phận hẩm hiu khốn khổ của ba bạn văn của Bùi Ngọc Tấn hay không!? Thì có khác gì với những văn nghệ sĩ và trí thức Hà Nội đã bỏ thủ đô theo Hồ Chí Minh lên Việt Bắc kháng chiến chống Pháp: kháng chiến thắng lợi, trở về thủ đô Hà Nội để thấy Dân tộc bị mất tự do dân chủ và nô lệ cho Liên Sô và Trung Quốc. Họ lại đứng lên tranh đấu bằng ngòi bút của mình trong phong trào Nhân văn Giai phẩm. Nhưng họ lại bị đàn áp khủng bố, tù đày, đói rách, khốn khổ đến mức: sự thật đã có những nhà văn viết đêm, không có một tách cà phê để uống! Đã có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện! Và đã có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của mình để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách, nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ! Còn Hữu Loan, trong căn nhà nhỏ trong đêm tối, chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu để thức mà viết!

Bây giờ, tôi xin trở lại đề tài Có một Vũ Hạnh hay có hai Vũ Hạnh? Chắc có nhiều bạn đọc cho rằng Vũ Hạnh thứ nhất đã viết bài phê bình đảng năm 1990 là Vũ Hạnh can đảm. Còn Vũ Hạnh thứ hai là Vũ Hạnh hèn nhát, không có cái đảm lược như Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan, nên đã chối rằng không có viết bài của mình. Đó là Vũ Hạnh hèn như nhân vật trong truyện Ly Thân của Trần Mạnh Hảo mà Nguyễn Ngọc Bích đã phê bình. Nhưng không phải vậy. Người viết xin phép không muốn dùng chữ “hèn” để phê bình Vũ Hạnh và cũng xin ông Nguyễn Ngọc Bích thứ lỗi vì đã không phê bình nhất trí với ông.

Ở miền Bắc, ai cũng mang họ “Sợ”

“Tránh voi không xấu mặt nào” cổ nhân ta dạy thế. Trong một chế độ coi rẻ sinh mạng con người và không từ nan bất cứ thủ đoạn nào để tiêu diệt người đối lập, ai ai cũng phải áp dụng triết lý sống như Nguyễn Tuân: “Tao mà còn sống và viết được đến ngày hôm nay là nhờ tao BIẾT SỢ chúng mày ạ!”, cụ vừa nâng ly rượu vừa nói mà nước mắt chảy ròng ròng! Còn nhạc sĩ Văn Cao, trước khi lìa đời hai tuần lễ, mới dám nói với một phóng viên ngoại quốc: “Bây giờ tôi đã 73 tuổi, tôi không còn biết sợ gì nữa. Chẳng ai giết tôi được nữa.”

Nhà thơ Chế Lan Viên đã ăn bánh vẽ Của Hồ Chí Minh suốt đời. Nhưng đến cuối cuộc đời, bị ăn quá nhiều bánh vẽ nên phát ách, ông mới tuôn những dòng thơ phản ứng như sau:

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn,
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui!
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết

Ngay đến người hùng Điện Biên Phủ là Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn phải ép mình nhẫn nhục thay. Xin nhắc lại chuyện khủng bố do cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chủ xướng: chỉ trong một đêm, họ sai công an bắt sạch sẽ mấy chục tướng tá trực thuộc bộ Tổng Tham mưu thân cận của tướng Giáp đem về tra khảo tàn nhẫn bắt nhận tội nói xấu Tổng bí thư, mặc dầu những ông sĩ quan nầy có đến ngót nghét 40 tuổi đảng. Vậy mà tướng Giáp không một lời phản đối để binh vực thuộc hạ của mình. Về vụ việc này, tác giả Bùi Tín có hỏi tướng Giáp sao không can thiệp để đòi công bằng cho những người làm dưới quyền ông bị bắt giam oan ức thiệt thòi hàng mấy chục năm (Trích quyển Hoa xuyên tuyết trang 143). Ông trả lời đại ý: có chứ, nhưng không thể làm gì nổi trong cái cơ chế kỳ lạ này, khi ngành tổ chức, ngành an ninh là chúa tể, lộng hành. Nếu không cẩn thận thì tất cả còn bị trù nặng nề và kéo dài hơn nữa, và bản thân ông cũng bị tai họa như chơi!

Một đoạn văn của Lạc Nam trong bài Diễn tiến Hòa bình (Bán tuần báo Việt Luận, ngày 5-4-2005): “Trong Bộ Chính trị, người duy nhất biết đọc biết viết là Võ Nguyên Giáp bị kết tội “chống đảng”. Ông là người có uy tín trong quân đội và nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ. Chính Lê Đức Thọ và Lê Duẩn hỏi cung trực tiếp và buộc Võ Nguyên Giáp nhận tội “chống đảng”… Rồi sau đó, mỗi lần có tiếng chuông bấm ngoài cổng, thì cả gia đình Võ Nguyên Giáp đứng tim vì tưởng người ta lại đến bắt chở đi…”

Đốn ngã hết tay chân bộ hạ của tướng Giáp chưa đủ, phe cánh Lê Duẩn còn hạ nhục ông, bắt ông phải phụ trách việc hạn chế sinh đẻ thuộc công tác kế hoạch hoá gia đình. Vụ việc nầy làm cho ngoài dân gian có câu vè truyền tụng:

“Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em.”

Và một câu vè khác:

“Ngày xưa đả viện công đồn
Ngày nay Đại tướng bịt l... chị em”

Vì thế có người viết bài rằng “Đại tướng đã thắng Pháp, nhưng thua Đảng”.

Có một Vũ Hạnh hay có hai Vũ Hạnh?

Vì tình trạng đất nước mình như thế cho nên tôi không dùng chữ “hèn” với nhà văn Vũ Hạnh, nhất là thời điểm sau khi chế độ Cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Sô sụp đổ, công an Cộng sản càng ra sức đàn áp khủng bố tàn bạo độc ác hơn bao giờ hết.

Nhưng thưa quý bạn đọc, để trả lời câu hỏi Có mấy Vũ Hạnh, xin trả lời ngay là có hai Vũ Hạnh:

1- Vũ Hạnh thứ nhất là Vũ Hạnh nằm vùng được thưởng thức chiếc bánh thật để phá hoại Việt Nam Cộng hòa (“nằm vùng” mà lại được ăn bánh thật!)

2- Vũ Hạnh thứ hai là Vũ Hạnh quan chức đỏ được ăn cái bánh vẽ to tướng do Bác Hồ và Đảng Cộng sản ưu ái đút cho trong chế độ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ lại chuyện Con chó và miếng thịt trong sách Quốc văn Giáo khoa thư mà ngày xưa, trước năm 1945, học sinh nào cũng có đọc. Nội dung chuyện nầy bàn về việc thả mồi bắt bóng y như câu chuyện bánh thật và bánh vẽ của Vũ Hạnh, cho nên chúng tôi cũng xin sao chép lại để đọc chơi cho vui. Câu chuyện trong sách Giáo khoa thư ngày xưa nguyên văn như sau:

“Một hôm, một con chó vào hàng cơm ngoạm trộm miếng thịt. Người nhà hàng trông thấy, vác gậy đuổi theo. Con chó đâm đầu chạy. Khi chạy đã xa, đến một cái cầu, con chó dừng lại để ăn. Nhìn xuống sông, thấy có một miếng thịt to hơn miếng thịt đang ngậm trong miệng. Nó liền nhả ngay miếng thịt ấy ra, nhảy xuống sông định lấy miếng thịt ở dưới nước. Nhưng nào có lấy được! Chẳng qua chỉ là bóng miếng thịt nước chiếu lại mà thôi. Còn miếng thịt, dòng nước cuồn cuộn kéo đi, con chó hết sức đuổi theo cũng không sao lấy lại được nữa.

Ôi! con chó lấy trộm thịt là có tội, con chó nhả bỏ miếng thịt là khờ dại. Thả mồi bắt bóng, bóng bắt chẳng được, mồi kia không còn, chẳng là đáng tiếc lắm sao! Người ta ở đời chẳng nên đứng núi này, trông núi nọ, đã được voi, lại còn đòi tiên. Cái gì đã nắm chắc trong tay, ta chớ nên buông ra mà chực những cái hão huyền đâu đâu.”

Người dân ở nông thôn Việt Nam sống gần thiên nhiên cũng có nhận xét tương tự:

Con cá trong lờ dật dờ đôi mắt,
Con cá ở ngoài lúc lắc chun vô.

Bạn đọc thân mến ơi! Đó chỉ là chuyện chó và cá, mà sao lại giống y như chuyện Vũ Hạnh và chuyện Dân tộc Việt Nam mình vô cùng!

Nhận xét của Bùi Tín về Miền Nam

Sau ngày 30-4-1975, Bùi Tín sống ở Sài Gòn trong 4 năm liền. Cùng với nhiều người từ miền Bắc vào Nam sinh sống, Bùi Tín đã “khám phá” miền Nam, đúng như nó vốn có, chứ không như trước đó được Đảng tuyên truyền. Trong quyển Mây mù thế kỷ, xuất bản ở Paris mùa Thu 1998, tác giả Bùi Tín viết (trang 28): “Chúng tôi dần dần thấy rằng, chế độ chính trị ở miền Nam có những cái dở, cái kém, nhưng dù sao nó cũng có điểm trội hơn miền Bắc, như có tự do kinh doanh, đặc biệt là có tự do báo chí, ngôn luận, có báo tư nhân, có tự do xuống đường, biểu tình, tuần hành, tán phát truyền đơn, có tự do tín ngưỡng… là những điều ở miền Bắc chưa từng có.”

Đó là những quyền căn bản người dân miền Nam đã được hưởng, và nhạc sĩ Phạm Duy còn được thêm “quyền tự do sáng tác” vì chính ở miền đất đẹp phương Nam đó, người nhạc sĩ họ Phạm tài ba của thế kỷ, cũng như tất cả các văn nghệ sĩ khác nhất là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tất cả đã “sống những ngày phong phú nhất đời mình” . Nhưng sau ngày 30-4-1975, Đảng đã lấy lại hết, không còn tự do nào cả, và phát cho cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh!

Tâm sự ngậm ngùi của cụ Vũ Đình Huỳnh

Trong quyển hồi ký Hỏa Lò, tác giả Nguyễn Chí Thiện có nói về một người làng Vân Đình, cùng quê với cụ nghè Dương Khuê, vào đảng năm 25 tuổi, là bộ đội đã tham dự chiến dịch Biên giới và Điện biên. Anh đã “giác ngộ” tương đối sớm, nhưng cũng quá muộn để làm lại cuộc đời. Sau Cải cách Ruộng đất, sau vụ Nhân văn, anh biết mình đã lầm. Khi đất nước thống nhất, anh có dịp đi công tác vào Nam ngay và có nhận xét (trang 218 sđd): “Qua vùng đồng bằng sông Cửu Long, tôi thấy tận mắt nông dân dùng cả gạo để nuôi lợn. Quá no đủ. Đầy tình người. Đặt chân tới thành phố Sài Gòn, tôi giật mình. Phồn thịnh quá! Hạnh phúc quá! Trẻ con thời ngoan ngoãn, lễ phép. Hoá ra tuyên truyền toàn bố láo. Cả một cuộc sống như vậy mà không biết giữ lấy. Thực đáng tiếc, đáng trách”.

Trở ra Hà Nội, anh có dịp gặp lại cụ Vũ Đình Huỳnh. Cụ là người quen cũ vì trong thời kháng chiến, anh đã có gặp cụ vài lần. Đây là lời anh thuật trong lần tái ngộ nầy (tr.219 sđd): “Một cụ già đạo mạo, trang trọng. Nét cương nghị, trung thực, hiện rõ trên vẻ mặt ưu tư, buồn buồn. Cụ ngậm ngùi nói với tôi: “Anh bạn ạ, Sài Gòn là thành phố bị chiếm đóng. Không phải là thành phố được giải phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà Nội. Tôi cả đời đi làm cách mạng, hy sinh tất cả, chỉ mang trong lòng một nguyện ước: đất nước được độc lập, Dân tộc được tự do, no ấm. Tôi đã không làm được điều đó. Thực đắc tội với đồng bào.”

Sài Gòn năm 1979 dưới mắt Vũ Thư Hiên

Sau đây là vài câu chuyện phụ họa để tô thêm vài nét thê thảm cho Cái bánh vẽ Hồ Chí Minh. Trước hết là chuyện Sài Gòn năm 1979 dưới mắt Vũ Thư Hiên. Bị giam cầm 9 năm không xét xử, được thả vào năm 1976, và đến tháng 12 năm 1979 thì tác giả Đêm giữa ban ngày Vũ Thư Hiên vào được Sài Gòn. Vũ Thư Hiên thuật về chuyến đi và nhận xét về thành phố Sài Gòn như sau (trang 288 sđd):

“Đó là chuyến đi nhớ đời, rất vất vả từ việc xin cấp Thông hành thay cho Chứng minh nhân dân mà tôi chưa có, tới việc mua vé máy bay. Vào tới tận chợ Bến Thành rồi tôi mới tin là mình không bị cản lại. Cuộc sống ở Sài Gòn khác xa cuộc sống ở miền Bắc, mặc dầu Sài Gòn 1979 đã không còn giống thời nó là “Hòn ngọc minh châu trong Á Đông”. Chế độ tem phiếu đã được áp dụng.”

“Bữa cơm của dân chúng đã phải độn bo bo, chẳng khác gì ở Hà Nội. Nhưng Sài Gòn vẫn sầm uất, vẫn nhộn nhịp, vẫn cố gắng để có cuộc sống riêng, chứ không sống theo chỉ thị. Thành thử nếu gọi cảnh Sài Gòn 1979 là tiêu điều thì không biết gọi cảnh Hà Nội bằng gì cho đúng.”

Theo như câu vè mới phát sinh vào lúc đó “Người Nam nhận họ, Người Bắc nhận hàng”, tình bà con họ hàng thân thương kẻ Nam người Bắc đùm bọc lẫn nhau được nhà văn Vũ Thư Hiên phác họa bằng nét chấm phá: “Người Hà Nội tiếp tục vào Sài Gòn kìn kìn khuân ra tivi, tủ lạnh và trăm thứ bà dằn khác.” Nhưng chữ bà dằn anh Vũ Thư Hiên dùng, thì ở trong Nam chúng tôi quen miệng nói hằm bà lằng, và có người còn nói hằm bà lằng xắng cấu cho có vẻ giống đồng bào người Việt gốc Hoa.

Sài Gòn năm 1977 dưới mắt Lương Thành Nĩ

Lương Thành Nĩ là người tỉnh Tây Ninh theo đạo Cao Đài, tác giả quyển Thực trạng của cuộc Chiến tranh Việt Nam xuất bản ở California, tháng 1-1995. Quyển sách dài 400 trang, được bố cục thành 82 “chương chuyện”, mỗi chương là một câu chuyện ngắn, gọn, đầy đủ ấn chứng, rất dễ đọc. Lương Thành Nĩ viết với tâm niệm cao cả rằng (trích Lời tựa, trang 3 sđd) “Mọi người chúng ta hãy làm một điều gì dù là nho nhỏ, hầu góp phần đừng để cho những kẻ gian trá, vốn đã lừa đảo được gần như mọi người trên khắp thế giới trong chiến tranh, không còn xe tròn, bóp méo được nữa đối với sự thật và lịch sử…”

Ở chương III nhan đề Be bờ Cộng sản, thời điểm sau 1954, Lương Thành Nĩ nhắc lại câu nói của Hồ Chí Minh (trang 88 sđd): “Ngày nào miền Nam chưa được giải phóng, đồng bào miền Nam còn đói khổ, tôi ăn không ngon ngủ không yên”.

Ngon! Hồ Chí Minh ngon! Đúng là lời nói của kẻ tiểu nhân vô lại tự mình tôn vinh là “Cha già Dân tộc” rồi được cả “bầy đàn” văn nô tung hô! Hồ Chí Minh quá gian xảo đã láo khoác vo tròn bóp méo lịch sử! Vào lúc đó miền Nam nào có đói khổ đâu, chính miền Bắc đang đói khổ mà “Bác” lại không lo. “Bác” chỉ cho dân “ăn bánh vẽ” và lo đem quân vào đánh chiếm miền Nam cho kỳ được! Hãy xem màn kế tiếp của vở bi hài kịch Giải phóng Miền Nam.

Rồi miền Nam được “giải phóng” ngày 30-4-1975. Lương Thành Nĩ viết tiếp: “Đến 1977 khi có lập loè cởi mở, phương tiện đi đứng đỡ eo hẹp, người từ Bắc ùa vào Nam LÀM KẺ HÀNH KHẤT ăn xin với mức độ không tưởng tượng nổi. Hầu như vào bất cứ một quán ăn hay giải khát nào dù nhỏ hay lớn ở tại thành phố hay thị xã, thị trấn nào cũng có người đến than thở cầu mong giúp đỡ. Nhưng thực khách không phải xót dạ nếu những kẻ ăn xin kia là người có tuổi, già cả, có lẽ bởi quá xa xôi nên các cụ không còn sức khỏe để đi từ Bắc vào Nam làm hành khất. Mà thực khách chỉ phải xót dạ vì những chị phụ nữ còn trẻ trung, khoẻ mạnh tay bồng con và những anh thanh niên trai tráng, có những người trông thật là khôi ngô, tuấn tú nhưng quần áo thì dơ bẩn nhăn nheo, cử chỉ thẹn thùng, cặp mắt trắng bệt mở lờ đờ, nhìn thấy họ chẳng còn một chút tự tin nào!”

Về cái xã hội mà Hồ Chí Minh và Lê Duẩn xây dựng ở miền Bắc từ 1954 đến 1975, tác giả Lương Thành Nĩ, người dân Tây Ninh đã can đảm đứng lên nói thay Dân tộc, và đặt câu hỏi về tương lai của Đất nước: “Nhìn hình ảnh thanh niên của một xã hội chẳng còn niềm tin thì chắc ai cũng biết mức độ sung mãn của cái xã hội ấy như thế nào rồi phải không, thưa quí vị?!”

“Tự do, cơm áo, hòa bình” không còn nữa

“Tự do, cơm áo, hòa bình” là một ca khúc được sáng tác trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc Nam bộ Kháng chiến. Nhạc sáng tác do anh Nguyễn Văn Thông, một nhạc sĩ vĩ cầm, biệt hiệu Lữ Sinh. Vào lúc đó, anh phụ trách dạy nhạc cho trại huấn luyện Cán bộ Thanh niên và Thiếu nhi tại địa điểm Cồn Lớn sát bờ biển Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Một buổi trưa trong trại, nhạc sĩ Lữ Sinh đưa bản nhạc anh vừa viết xong cho Xuân Tước và bảo: “Tao viết nhạc, mầy làm lời đi!”. Xuân Tước viết trong quyển Hồi k‎‎ý 60 năm cầm bút (Nhà xuất bản Văn Nghệ, trang 31):

“Thế là tôi ngồi xuống. Anh nâng cây vĩ cầm lên, kéo cho tôi nghe một lần. Thấy hay, tôi bảo anh đàn lại, rồi chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã hoàn tất ca khúc “Tự do, cơm áo, hòa bình”. Xuân Tước viết tiếp: “Lữ Sinh khoái quá. Ngay hôm sau, anh đem bài hát ra tập cho trại sinh.”

Lời ca của bản nhạc như sau:

Làm sao khắp chúng dân đều tự do,
Làm sao khắp muôn dân đầy cơm áo?
Làm sao khắp thiên hạ hưởng hòa bình?
…………………………

Vùng lên quyết tranh phần sống,
Tự do, hạnh phúc kia rồi.
Hòa bình, no ấm chào đón ta!”

Thế vì sao “Tự do, cơm áo, hòa bình” không còn nữa? Đến 45 năm sau, câu chuyện mới được tiếp nối do bức thư của Xuân Vũ gởi cho Xuân Tước. Nhắc lại chuyện xưa lúc ở Trại huấn luyện Cồn Lớn, Xuân Tước là người điều khiển trại còn Xuân Vũ là một trại sinh thiếu nhi 16 tuổi. Năm 1992, lúc hai người đều sống đời tỵ nạn trên đất Mỹ, Xuân Vũ chép nguyên cả bài “Tự do, cơm áo, hòa bình” gởi cho thầy mình là Xuân Tước với lời chua thêm như sau:

“Đây là bài hát phổ biến nhất Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và đã được Hà Nội dùng liên tục hơn 10 năm, đặc biệt làm nhạc hiệu cho buổi phát thanh vào Nam, nhưng không hề nhắc đến tên tác giả. Tồi bại hơn nữa, khi chúng cướp được miền Nam thì không dám phát thanh vì sợ cái mà chúng đòi Sài Gòn phải có thì bây giờ chính người Sài Gòn lại đòi chúng phải có cho họ, tức là Tự do, cơm áo, hòa bình.”

Câu chuyện “Sao chú không chờ?”

Trong một buổi trà dư tửu hậu ở Sydney, một anh bạn giáo chức đồng nghiệp thuật cho chúng tôi chuyện Sao chú không chờ? mà đã 30 năm qua rồi chúng tôi vẫn còn nhớ. Anh là người miền Bắc di cư, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, và được dạy tại một trường trung học ở Sài Gòn. Anh đang an cư lạc nghiệp thì xảy ra cơn Quốc Nạn 30-4-1975. Cả miền Nam hốt hoảng tìm cách vượt biên. Anh bạn người Bắc di cư của tôi may mắn có một mối tổ chức vượt biên đáng tin cậy. Đồng thời, anh gặp lại một người anh họ là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội chuyển vào. Biết anh sẽ cùng gia đình vượt biên, người anh họ mới khuyên: “Sao chú không chờ một thời gian để xem chúng tôi làm việc ra sao đã. Nếu sau này mà thấy chúng tôi không làm được việc thì chú hãy đi.” Lẽ tất nhiên người bạn di cư của tôi vẫn tâm niệm câu nói trứ danh của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Việt Cộng nói mà hãy nhìn kỹ những gì Việt Cộng làm”, cho nên anh không nghe lời khuyên của người anh họ.

Anh bạn nhà giáo vượt biên thành công. Sau một thời gian ổn định nơi đất khách quê người, thì bốn đứa con của anh đều tốt nghiệp đại học: ba đứa là bác sĩ y khoa và một là nha sĩ. Nhắc lại lời khuyên của người anh họ, anh bạn của tôi cười hóm hỉnh: “Anh ấy bảo mình hãy chờ xem, nếu thấy các ổng không làm được việc, thì đến chừng đó mình hãy đi! Anh nghĩ coi, có lạ không! Nếu các ổng không làm được việc, thì các ổng phải đi chứ! Tại sao tôi phải đi! Té ra các ổng nghĩ rằng các ổng sẽ cầm quyền mãi mãi. Thôi thì mình đi cho được việc!”

Xin đừng chôn tôi gần Việt Cộng!

Người bạn giáo chức của chúng tôi dẫn cả gia đình đi vượt biên, theo cách nói thời thượng, họ không chấp nhận chế độ nên đã bỏ phiếu bằng chân. Và có một dạo, ai ai ở Việt Nam cũng nói “Nếu cột đèn đi được, thì chúng cũng đi rồi”. Sau ngày Quốc nạn 30-04-1975, Dân tộc đã nếm mùi bánh vẽ của Hồ Chí Minh, nên mới tiếc nhớ những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ, quãng thời gian kể từ lúc Cựu hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh, qua Đệ nhất Cộng hòa với tổng thống Ngô Đình Diệm, đến Đệ nhị Cộng hòa với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thời vàng son đã qua như giấc mộng đẹp! Đến thời đen tối sống dưới ách Cộng sản khiến cho ai ai cũng muốn bỏ phiếu bằng chân. Riêng về điệp viên Phạm Xuân Ẩn, người đã đóng góp cho ngành tình báo Việt Cộng, qua đời năm 2002, ông không bỏ phiếu bằng chân, ông để lại lời trối: “Xin đừng chôn tôi gần Việt Cộng!”

Trong tác phẩm Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm của Vĩnh Phúc, xuất bản năm 1998, tác giả có thuật chuyện điệp viên Việt cộng Phạm Xuân Ẩn đã ra tay cứu giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến, cựu giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị tại phủ Tổng thống. Ông Ẩn biết được địa điểm rước tỵ nạn bằng trực thăng cuối cùng vào đêm 29-4-1975, mới hối hả lấy xe Renault 4 ngựa của mình chở bác sĩ Tuyến đến nơi vừa kịp lúc.

Trong lần tái bản năm 2006, tác giả Vĩnh Phúc viết thêm (trang 516 sđd): “Sau này, ông Ẩn sống trong tâm trạng u uất và chán nản. Hẳn ông rất hối hận đã chọn lầm đường, đã đem hết khả năng thời trẻ phục vụ cho một l‎ý tưởng mà ông đặt lầm chỗ.”

Chuyện 3D của Giáo sư Phạm Thiều

Giáo sư Phạm Thiều là một vị giáo sư khả kính, người gốc Hà Tĩnh, dạy chữ nho và toán tại trường Trung học Trương Vĩnh Ký. Ông tham gia kháng chiến với chức Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Sài Gòn, rút ra khu từ tháng 9-1945, tập kết ra Bắc, rồi trở về Nam sau 30-4-1975. Đến năm 1986, ông treo cổ tự tử. Ông để lại cho đời Lời phê nình 3D (ba chữ D) về chế độ do Hồ Chí Minh xây dựng như sau: “DỐT mà lãnh đạo nên làm dại. DẠI mà muốn thành tích nên báo cáo DỐI. DẠI, DỐT, DỐI đó là ba điều làm cho các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.”

Trong tác phẩm Những ngày qua, bác sĩ Trần Ngươn Phiêu ghi lại Lời phê bình 3D trứ danh nói trên và cho biết cảm tưởng về cái chết đau thương của Giáo sư Phạm Thiều như sau (trang 182 sđd): “Không hiểu có phải vì ông đã chán ngán cái cảnh thoái hóa, tham nhũng của cán bộ Cộng sản sau 1975 hay vì ông nhận thức được cái sai trái của đường lối chủ nghĩa Cộng sản của Stalin khiến làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ở Trung Âu, nên ông đã ân hận và treo cổ tự tử.”

Cái chết của Giáo sư Phạm Thiều đầy bí ẩn. Nhưng nếu cảm tưởng của Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu về sự tự tử của Giáo sư Phạm Thiều là đúng thì chúng ta có thể kết luận rằng: Giáo sư Phạm Thiều ân hận vì thấy Dân tộc bị ăn cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh, Giáo sư không bỏ phiếu bằng chân, Giáo sư đành bỏ phiếu bằng mạng sống của mình!

Lời phát biểu của Nguyễn Hữu Thọ

Giáo sư Phạm Thiều bỏ phiếu “không ăn cái bánh vẽ của HCM” bằng chính mạng sống của mình năm 1986, thì 2 năm sau đó, trong kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc họp ở Sài Gòn ngày 25-9-1988, nổi lên nhiều tiếng nói phản đối Đảng như “Chính sách kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước không phù hợp với thực tiễn tình hình đất nước, thậm chí có khi đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích của quần chúng”, “Đảng thay dân làm chủ” và “Không lấy dân làm trọng mà lấy Đảng làm trọng” v.v…

Cũng tại đại hội trên, Nguyễn Hữu Thọ, lúc đó đang là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đã vô cùng thất vọng trước tình trạnh dân chủ hình thức, dân chủ bánh vẽ của chế độ mà ông đã nhiều năm góp công xây dựng. Ông phát biểu: “Nhân dân ai cũng thích cái bánh thật chứ chẳng ai thích cái bánh vẽ… Khuyết điểm lớn của chúng ta là chưa có dân chủ thật sự… Người dân chưa thật sự chọn lựa được những người lãnh đạo theo sự tín nhiệm của họ”.

Sự phản tỉnh của Jean-Paul Sartre

Jean-Paul Sartre, triết gia hàng đầu của Pháp, là người đã từng ủng hộ phong trào Cộng sản thế giới rất nhiệt thành. Trong lúc phong trào Cộng sản lên đến cực thịnh tưởng chừng như sắp chinh phục cả thế giới đến nơi, ông cho rằng những người chống Cộng là chướng ngại vật ngăn cản bước tiến hóa của nhân loại nên mới gọi họ là “Loài chó má” (tiếng Pháp “chien”). Nhưng rồi nhân loại bàng hoàng khi khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ tan tành như lâu đài xây trên cát, để lại những trang sử vô cùng đen tối trong lịch sử loài người. Đến lúc đó, nhà triết gia Cộng sản Jean-Paul Sartre xoay đúng 180 độ, lần nầy ông lại dùng “Loài chó má” để gọi những kẻ thân Cộng (tiếng Pháp “procommunistes”)!

Bây giờ Jean Paul Sartre gọi những người thân Cộng là “Loài chó má”, chỉ “thân” thôi mà đã là “chó má” rồi, chúng ta không biết ông phải dùng từ gì để gọi những người Cộng sản chính hiệu, nhất là những tên Việt Cộng. Bây giờ, chúng ta có cần phải viết thêm hay không? Xin hãy để cho Dân tộc trả lời! Riêng người viết chỉ xin gọi họ là những “kẻ sáng đảng mà mù tình dân tộc, tức là những kẻ hết lòng trung với đảng mà vô cùng bất hiếu với dân”.

Con đường “Bác” đi: từ Kominternchik… đến Autocolonia-liste

Xin trở lại đề tài Vũ Hạnh và cái bánh vẽ. Điều bất hạnh cho Dân tộc Việt Nam là cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh lại quá đẹp, đẹp hơn cái bánh thật ngàn triệu lần, và không phải chỉ có một mình Vũ Hạnh muốn ăn bánh vẽ của Bác mà thôi mà có cả triệu triệu người Việt Nam cũng muốn ăn theo. Ôi! Cái bánh vẽ của Bác! Nhưng điều đại bất hạnh là trong khi Dân tộc đang thưởng thức chiếc bánh thật thì Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản gây ra cuộc chiến tranh đánh Dân tộc dài 30 năm, gây năm, sáu triệu người chết và cả chục triệu người bị thương tật ở hai bên chiến tuyến chỉ để cướp lấy cái bánh thật rồi phát cho Dân tộc cái bánh vẽ của Bác. Cái bánh thật chỉ để dành cho Đảng. Ôi! Cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh, Thiên đường xã hội chủ nghĩa của Thế giới Đại đồng!

Đến bây giờ thì cái bánh vẽ của Hồ Chí Minh đã nát ruỗng cả rồi và đã trở thành huyền thoại đau thương! Không còn ai muốn ăn cái bánh ấy nữa. Dân tộc cũng không còn bỏ phiếu bằng chân nữa. Nhưng vì Đảng đã dồn Dân tộc vào chân tường cho nên Dân tộc phải đương đầu với Đảng thôi, không còn phương cách nào khác. Trong Mùa Bịt miệng 2007, việc Dân tộc đương đầu với Đảng cũng giống như chuyện lấy trứng chọi đá, chuyện châu chấu đá xe, chuyện đội đá vá trời. Nhưng Dân tộc bị bịt miệng thì mắt lại sáng suốt vô cùng để thấy rất rõ rằng Con đường “Bác” đi chỉ là Con đường bi đát, bởi lẽ “Bác” đã đi theo Cuộc Cách mạng đã bị phản bội. Trên Con đường bi đát đó, Hồ Chí Minh đã khởi hành ở điểm Quốc tế ủy Komin-ternchik để cuối cùng dìu dắt băng đảng thành những tên Thực dân lô canh hay Thực dân bản địa Autocolonialistes, như Jean Lacouture đã gọi.

Xin mở dấu ngoặc: Jean Lacouture là sử gia Pháp đã một thời hết lòng ủng hộ và ca ngợi Hồ Chí Minh, nhưng sau cùng ông cũng đành hạ bút viết rằng Kẻ chiến thắng đã xây dựng được chế độ Autocolo-nialisme, một từ mới do ông chế tác. Theo văn phong của ông, ta có thể hiểu đó là Chế độ Thực dân không phải do người Pháp cai trị như ngày xưa mà là Chế độ Thực dân Tự quản hay “Lô canh” (local). Có một vài nhà bình luận đã dùng chữ “Nội xâm” để diễn tả ‎ý tương tự như vậy. Theo một cách diễn tả rõ ràng hơn, ta có thể nói trong Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chiến thắng Dân tộc và đã xâm chiếm Đất nước làm Thuộc địa của riêng mình, biến Dân tộc thành Nô lệ cho Đảng, và Đảng đã trở thành Thực dân lô canh y hệt như Thực dân Pháp ngày xưa!

Sử gia Pháp Jean Lacouture không còn ca ngợi Hồ Chí Minh như xưa nữa, cho nên khi ông chế tác danh từ mới Autocolonialisme, tức là Chế độ Thực dân lô canh, hẳn ông ngụ ý Chế độ Thực dân lô canh mà Hồ Chí Minh thiết lập cũng không khác gì Chế độ Thực dân Pháp thời Pháp thuộc ngày xưa. Nhưng Dân tộc Việt Nam thì biết không phải vậy. Chế độ Thực dân lô canh, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh, tức Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa của Lê Duẩn, khi so sánh với Chế độ Pháp Thuộc ngày xưa thì ĐỘC ÁC, THAM TÀN, BẦN TIỆN, GIAN XẢO, MA GIÁO, QUỶ QUYỆT, KHÁT MÁU hơn gấp nghìn gấp triệu lần.

Đảng phải trả tự do nhân quyền cho người sống, trả linh quyền cho người chết, và trả đất nước cho Dân tộc

Bởi lẽ đó, việc Dân tộc đương đầu với Đảng trong Mùa Bịt miệng 2007 tưởng rằng khó mà lại hóa thành dễ vô cùng. Dễ là vì trong hàng ngũ của đảng Cộng sản bây giờ, không còn những vị yêu nước thương dân như Cựu tướng Trần Độ của thuở nào, mà chỉ còn toàn là những Quan chức đỏ Cộng sản rất sáng đảng mà mù tình Dân tộc. Họ cũng tham ô, tàn bạo, khát máu như những thái thú Tàu Tô Định, Thoát Hoan, Trương Phụ, Tôn Sĩ Nghị, hay như những tên Pháp xâm lược Henri Rivière, Rigault de Genouilly. Dân tộc chỉ cần trở về với truyền thống chống ngoại xâm thời Bắc thuộc dài một ngàn năm, hoặc lịch sử một trăm năm chống Giặc Pháp xâm lược là được việc.

Truyền thống chống giặc ngoại xâm, sở trường của Dân tộc

Nhưng thực sự không dễ dàng, công cuộc Dân tộc đương đầu với Đảng Cộng sản để giành lấy “Nhân quyền cho người sống và linh quyền cho người chết” như lời của Hòa thượng Thích Huyền Quang. Công cuộc Dân tộc đứng lên để giành Độc lập Tự do Hạnh phúc và đòi lại Đất nước cho mình thực sự không dễ dàng bởi lẽ Đảng đã quá ma giáo, quỷ quyệt và khát máu sau hơn nửa thế kỷ kinh nghiệm độc tài đảng trị. Bây giờ Đảng đã có trong tay vô số công an, quá dư thừa để cho công an mặc thường phục giả làm dân phụ lực với công an mặc sắc phục. Đảng lại quá dư tiền để mướn bọn du đãng đầu trộm đuôi cướp tức là xã hội đen giả làm đầu gấu uy hiếp bằng võ lực những vị tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ, nếu cần thì giết người diệt khẩu, vì thế nên có thêm từ mới là xã hội đỏ. Đảng lại có ngón nghề bắt nguội, như vụ Thái Bình khởi nghĩa, Đảng chờ đợi cho sự việc tranh đấu lắng dịu và ra lịnh cho công an vào nhà ban đêm bắt những người lãnh đạo đem đi thủ tiêu. Đảng lại “theo thói phụ nữ đánh ghen” dùng át-xít tạt vào nhà như vụ khủng bố người con gái ông Hoàng Minh Chính, Đảng xử dụng những cách giết người bịt miệng bằng những tai nạn giao thông theo chiêu thức “ném đá giấu tay”, hoặc bằng cách dùng độc dược trộn vào thức ăn cho các tù nhân. Đảng lại có sáng kiến chưa từng thấy trong bất cứ quốc gia dân chủ nào là muốn xoá án tích nên không dùng chứng từ án lịnh mà chỉ dùng khẩu lịnh cho công an trong việc đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ dân quyền.

Khi Cựu tướng Trần Độ bị khai trừ ra khỏi đảng và viết Nhật ký Rồng rắn, khi cựu Đại tá Bùi Tín và cựu Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội Nguyễn Minh Cần trở thành những chiến sĩ kiệt xuất tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ cho Dân tộc, khi nhà văn Vũ Thư Hiên để hết tâm trí hoàn thành quyển Đêm giữa ban ngày để trao cho các thế hệ tương lai, khi nữ sĩ Dương Thu Hương khóc cho thành phố Sài Gòn vừa bị mất tên và viết bài “là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền” thì cái đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh thành lập không còn là cái gì cả. Xin lập lại: cái đảng CS do Hồ Chí Minh thành lập không còn là cái gì cả!

Chủng loại Homo Sovieticus trên đất Việt

Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập và xây dựng, trong hơn gần một thế kỷ nay, đã thụt lùi xuống tới mức tàn ác gian xảo đê tiện hèn hạ tận cùng của loài người, loài Homo Sovieticus, một giống người mới xuất hiện từ tháng 10 năm 1917 ở Nga. Xin ghi chú: từ “Homo Sovieticus” rất phổ biến vào thập niên 1980. Nguyên thủy, từ đó dùng để chỉ một chủng loại mới của loài người đột sinh dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của Stalin. Chủng loại đó, tức là người dân Nga nghèo khổ, phải mánh mung, lươn lẹo, gian trá mới sống còn trong môi trường chính trị của Stalin. Tác giả Aleksandr Zinoviev đã viết quyển Homo Sovieticus được dịch ra tiếng Anh năm 1985. Ở đây, người viết xin được dùng từ Homo Sovieticus trái ngược với ‎ý nguyên thủy để chỉ những cán bộ, những công an, những cốt cán CCRĐ năm nào, tất cả là những cây người Hồ Chí Minh đã trồng trên đất Việt, sau khi đã đào tận gốc trốc tận rễ Trí Phú Địa Hào, thì biến thành những Quan chức đỏ, cai trị Đất nước bằng Luật rừng xanh.

Chủng Loại Homo Sovieticus phát sinh từ đất Nga rồi lại bị diệt chủng ngay trên đất nước Nga. Nhưng than ôi! Những cây người Homo Sovieticus ác độc đó do Hồ Chí Minh (hay Hồ Xít Mao) mang về vẫn còn tồn tại trên đất Việt thân yêu của chúng ta! Đó là những kẻ sáng đảng mà mù tình Dân tộc! Đó là những kẻ hết lòng trung với đảng mà VÔ CÙNG BẤT HIẾU VỚI DÂN!

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Bịt miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney

Chương 5
Những Cây Người Hồ Chí Minh Trồng

Hồ Chí Minh nổi tiếng là đã tuyên bố những lời thật hay. Ngày 2-9-1945, trước quảng trường Ba Đình, lần đầu tiên xuất hiện trước dân tộc Việt Nam, Bác đã đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầy những ý tưởng cao đẹp lấy từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ cùng với Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cuộc cách mạng Pháp năm 1791.

Lời Quản Di Ngô, Bác Hồ lặp lại

Cũng như khi phát biểu trong lớp học tập chánh trị cho hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc do Bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.”

Qua ngày hôm sau, báo Nhân Dân đăng câu phát biểu của Bác lên cho cả nước biết, rồi câu đó được biến thành khẩu hiệu treo ở tất cả các trường đại học và trung tiểu học khắp nơi ở miền Bắc. Trong sách báo tuyên truyền của Đảng cũng như trong lòng của những người tôn kính Bác, danh ngôn trên được xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho Đất nước. Nhưng thật ra, câu trên là lời của Quản Trọng tức Quản Di Ngô thời Xuân Thu bên Tàu khoảng hơn 2.000 năm trước. Trong quyển Quản Tử, thiên 3, nguyên văn câu danh ngôn đó như sau:

Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc
Thập niên chi kế mạc như thụ mộc
Chung thân chi kế mạc như thụ nhân

Hồ Chí Minh cũng bị mang tiếng về tài đạo văn tức là tài ăn cắp văn của người khác làm văn của mình. Nhưng việc đạo văn không phải là chủ đề của chương nầy. Người viết không muốn phạm vào tội kết án “Bác Hồ” đạo văn. Trong lòng người viết, Bác có thể xử dụng và khoe là của chính mình bất cứ danh ngôn nào của những bậc thánh hiền hoặc danh nhân trong sử Việt hay sử thế giới, tỷ như câu nói khảng khái của danh tướng Trần Bình Trọng đời nhà Trần khi bị quân Nguyên bắt và dụ hàng: “Thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc”. Nhưng thật bất hạnh cho dân tộc! Khi Hồ Chí Minh rời Paris như một người lục lục thường tài, đến Mạc Tư Khoa không lâu thì được đề cử vào chức vụ quốc tế ủy Kominternchik (năm 1924), cho nên Bác đã phục vụ đắc lực cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế để sau này được làm chủ tịch đảng Cộng Sản Việt Nam và chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa!

Trong niềm tự hào của dân tộc, xin mời quý bạn đọc lời tự thuật của cụ Phan Bội Châu về quãng đời niên thiếu của cụ: “Cha tôi thường khách phương xa, làm thầy dạy trẻ. Tôi từ lúc mới sinh cho đến 6 tuổi, dạy dỗ nuôi nấng tự một mình mẹ tôi gánh lấy... Khi tôi còn bé, mẹ tôi dạy tôi, nửa câu nói cũng không khinh xuất.”

Khi bậc hiền mẫu như mẹ cụ Phan Bội Châu muốn dạy dỗ con nên người thì nửa câu nói cũng không khinh xuất. Còn Chủ Tịch Hồ Chí Minh thì sao, bạn đọc thân mến ơi, vì bản tánh Bác vốn đã dối trá, lại thêm kỹ năng tình báo do KGB đào luyện, Bác đã đóng trọn vai tuồng Cha già Dân tộc một cách điêu luyện. Đối với nhân dân tôn sùng Bác, những lời phát biểu, tuyên bố hay dạy dỗ của Bác đều là những lời vàng ngọc trong thời cơ kháng chiến chống Pháp của lịch sử trăm năm có một. Nhưng theo câu vè phổ biến trong thời đại Việt Cộng “Nói vậy mà không phải vậy”, khi kiểm chứng lại những điều Bác và Đảng đã tuyên bố đối chiếu với những điều họ đã làm cho dân tộc thì thật hoàn toàn trái ngược. Nếu Bác thực hiện đúng những điều Bác đã nói thì thật đại vạn hạnh cho dân tộc. Nếu được như thế thì mãi sau nầy vào thập niên 60, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu làm gì có dịp nói một câu để đời: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng Sản làm!”

Bây giờ thì khắp nước ai cũng biết Việt Cộng nói láo như Vẹm (vẹm là kết tự của VM tức Việt Minh), Nguyễn Văn Linh (NVL) trong giai đoạn cởi mở rồi lại trói buộc nên đã trở thành Nói Và Lờ, còn Hồ Chí Minh thì cứ luôn luôn hô hào đánh ngoại xâm để giải phóng Dân tộc khỏi ách nô lệ, nhưng lại thiết lập một chế độ cai trị tàn bạo ác độc quỷ quyệt bỉ ổi nhất trong lịch sử loài người, khiến cho Dân tộc trở thành nô lệ cho Đảng. Trở lại chủ đề Những cây người của Hồ Chí Minh Trồng, chúng ta cứ ví như khẩu hiệu “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” thật sự là tư tưởng vĩ đại chính từ thiện tâm muốn xây dựng Đất nước của Bác, chúng ta hãy thử xem Hồ Chí Minh và Đảng đã trồng được những gì. Trước hết, xin mời quý bạn đọc lược qua những cây thảo mộc do Bác ra lịnh trồng. Sau đó, đến phần quan trọng, xin thưởng thức những cây người Hồ Chí Minh trồng trên đất Việt thân yêu của chúng ta.

Trồng cây không chọn giống

Câu chuyện trồng cây dưới chế độ ưu việt của Hồ Chí Minh thật giống như chuyện tiếu lâm dở khóc dở cười. Trong thời gian mười năm (1982-1992), Hòa thượng Thích Quảng Độ bị quản thúc ở chùa Long Khánh xã Vũ Đoài, một hôm hòa thượng gặp một toán bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa. Hòa thượng trò chuyện với các cụ và kể lại như sau:

“Tôi hỏi các cụ đi đâu thì các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm. Tôi tò mò hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm, các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc... những cây các cụ trồng xong, chỉ ít ngày sau là người ta đã bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm, bởi vậy các em bé chăn trâu cho Hợp tác xã mới làm vè hoan hô các cụ:

Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín một cây gật gù!

Các cụ cũng chẳng vừa, cũng làm vè phản pháo lại:

Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt gật gù ở đâu?!

Nghĩa là trong con mắt các cháu thì mười cây còn sống được một cây, nhưng dưới mắt các cụ thì mười cây chết hết cả mười! Thực ra thì các cụ chỉ trồng chúng xuống để lấy điểm sống qua ngày thôi, còn chúng sống hay chết cũng mặc, các cụ đâu có quan tâm. Còn những người bẻ hoặc nhổ cây đi thì lại nghĩ chúng có lớn lên mình cũng chẳng được dùng, thôi thì nhổ phứt đi cho khuất mắt”.

Theo Hòa thượng Thích Quảng Độ, thì những cây được trồng là bạch đàn, xà cừ, phi lao, và hợp tác xã dùng chúng làm củi đốt, nung gạch, hoặc làm nhà kho. Bàn về chính sách sai lầm trong việc trồng bạch đàn, xin mời quý bạn tham khảo bài viết của một chuyên gia hiếm hoi về môn Dân tộc thực vật học (ethno-botanique), ông Đinh Trọng Hiếu, chuyên gia nghiên cứu Trung tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học Paris và giảng sư Đại học Paris VII. Ông về nước nhiều lần, có dịp đi thực địa nhiều làng, có làng ở suốt hơn tháng, trải qua chiều sâu của 10 năm theo dõi, quan sát, nghe ngóng, và nhất là sống với những tầng lớp đồng bào bình dân. Ông đã nhận xét và viết như sau (Trích quyển Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Tuyển tập nhiều tác giả, trang 219):

“Tôi đã đứng trên nhiều quả đồi, nhìn Đất nước đổi thay như vậy, cảm động đến rơi nước mắt. Núi rừng bạt ngàn, trùng điệp vạn dặm, xanh tươi. Tôi cũng đã cúi nhìn từng gốc cây, xem xét từng thớ đất, và hỏi han rất nhiều người. Cảm động đến rơi nước mắt là vì các cụ, đồng bào đã mồ hôi nước mắt gia công vào chuyện trồng cây, mà trồng những 350.000 héc-ta san sát, chứ không ít. Nhưng hỡi ôi, lại trồng toàn bạch đàn! Phải nói rõ: rừng bạch đàn là một tai hại. Trồng cây cốt để tái tạo đồi trọc, tránh đất xói mòn, mà bạch đàn được trồng rễ vừa ít ăn sâu lan rộng, tán lại hẹp, lá không che mưa. Lá những loại bạch đàn được trồng, nếu không đủ chất cinéol để cất tinh dầu (dầu khuynh diệp) lại quá nhiều chất ấy để tạo mùn cho đất. Cho nên dưới tán bạch đàn cây con khác và cỏ không mọc được, rễ trơ và đất trơ. Lá dùng không được, gỗ cũng lại không dùng được: gỗ bạch đàn dễ vênh, đóng đồ đạc không ai ưa, làm nhà cũng vậy. Ca dao (mới) có câu: “Thứ nhất là gỗ vàng tâm. Thứ nhì gỗ nghiến, thứ năm... bạch đàn”.

Không có thứ ba, thứ tư gì cả, giáng ngay xuống hàng năm!... Bạch đàn trồng như vậy có dùng làm giấy được không? Cũng không nốt! Vì thớ gỗ quá ngắn. Chỉ còn dùng làm củi nếu không có thứ gỗ nào khác: khói bạch đàn dễ ám vào cơm! Hăng hái trồng cây theo lời dạy của cụ Hồ, trồng bạt ngàn bạch đàn, để có những cánh rừng mà nhà báo, nhà địa lý nọ kia đều khen ngợi, nhưng rồi không dùng được vào việc gì, và cũng không giữ được đất, lại chiếm một diện tích quá rộng, lỗi ấy tại ai? Có phải tại cụ Hồ không? Người ta đã đổ lỗi cho những nhà nông học Trung Quốc xúi trẻ ăn cứt gà, nên bây giờ bạch đàn cũ đã trồng từ mấy chục năm nay gọi chung là bạch đàn Trung Quốc, tạm không trồng nữa, nay trồng một loại cây cũng loại tăng trưởng mau, lá to, gọi là bạch đàn Úc, chưa biết sau này tốt xấu ra sao.”

Dùng hồng bỏ chuyên: thất bại trong việc trồng chuối

Trồng bạch đàn Úc, tức là khuynh diệp Úc, sau nầy xấu tốt ra sao chưa biết, nhưng kế hoạch trồng chuối ở những vùng đồi trọc ở Tây Bắc và Việt Bắc thì thất bại hoàn toàn. Đi tìm nguyên nhân của sự thất bại thì: “Nguyên nhân chẳng phải sâu đào. Thấy ngay thủ phạm: vàng sao lá cờ”(Thơ Nguyễn Chí Thiện)

Ngày nay ai cũng biết Hồ Chí Minh đã xây dựng một chế độ cai trị độc tài đảng trị dựa vào những đảng viên trung kiên xuất thân là bần cố nông thất học, còn hàng ngũ trí thức là mục tiêu hàng đầu bị đàn áp, thường xuyên bị hạ nhục và khủng bố. Về kế hoạch trồng chuối, tác giả Việt Thường trong quyển Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ Chí Minh (tr.194) kể lại câu chuyện như sau:

“Về chuyên môn nông nghiệp thì dù là kỹ sư nông nghiệp nhưng vẫn phải xin ý kiến về mọi mặt của Hoàng Anh, Bí thư Trung ương Cộng đảng kiêm Phó thủ tướng Chính phủ. Nhân vật này xuất thân là dân nghèo thành thị, nghĩa là chẳng biết nghề nông cũng chẳng biết gì về công, thương hay thủ công nghiệp. Cho nên mới có chuyện Hoàng Anh đã triệu tập một cuộc họp toàn quốc (tức miền Bắc Việt Nam) về nông và lâm nghiệp, có đủ mặt chức sắc các tỉnh, thành, khu, các nhà khoa học về nông lâm học và đương nhiên có mặt kỹ sư nông học Nghiêm Xuân Yêm, lúc đó giữ chức Bộ trưởng nông nghiệp. Hoàng Anh phổ biến sáng kiến vĩ đại của ông ta là phủ kín các đồi núi hoang hóa vùng Tây Bắc và Việt Bắc bằng cách trồng chuối. Tiến sĩ lâm học Thái Văn Trừng (tác giả cuốn sách nổi tiếng Về hệ thảm thực vật ở Việt Nam) đã phát biểu ý kiến rằng cấu tạo bộ rễ của cây chuối không cho nó sống được trên đồi trọc ở Tây Bắc và Việt Bắc. Tất nhiên là kỹ sư nông nghiệp Nghiêm Xuân Yêm, giữ thái độ im lặng, có nghĩa là tuân lệnh của Hoàng Anh. Vì thế, Hoàng Anh đã nổi giận chỉ tay vào mặt Tiến sĩ Thái Văn Trừng mắng ở giữa hội nghị, đại ý: “Anh tưởng anh là ai mà làm nguội nhiệt huyết cách mạng dám làm dám nghĩ của đảng của giai cấp vô sản. Chỉ cần có đảng lãnh đạo thì cái gì cũng có thể làm được. Trí thức các anh chỉ là lũ hoang mang, giao động trước các trào lưu cách mạng.”

Sau đó, lệnh trồng chuối của Hoàng Anh được ban hành khắp các tỉnh, các ngành, các giới và đảng đã huy động tiền và nhân công đến các đồi trọc ấy để thi hành. Không kể tiền quyên góp bằng cách cưỡng bức, không kể biết bao dân công được huy động đi sưu, làm không công, cũng như cán bộ, công nhân viên và bộ đội, ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm triệu vào cái sáng kiến quái gở đó của Hoàng Anh. Kết quả là chỉ sau 3 ngày đêm, toàn bộ chuối được trồng chết hết”.

Nếu ta biết vào thời gian đó, lương một Bác sĩ y khoa mới ra trường là 48 đồng một tháng và sau 2 năm mới tăng được 60 đồng, thì Hoàng Anh đã gây thiệt hại vô cùng to lớn cho công quỹ. Thế mà ông ta vẫn cứ là Bí thư Trung ương kiêm Phó thủ tướng, thôi làm công tác nông nghiệp mà được sang kiêm nhiệm Bộ trưởng bộ Tài chính! Còn Tiến sĩ Thái Văn Trừng, tuy lời đề nghị đúng trong phạm vi chuyên môn, nhưng đã bị mắng oan và sau đó, không được một lời tạ lỗi để an ủi.

Chuyện cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ

Cách trồng cây trong nông nghiệp và lâm học là như vậy, nếu trồng bạch đàn Trung Quốc không có lợi thì có thể đổi bằng bạch đàn của Úc, nhưng cách trồng người theo lời dạy của “Bác Hồ” còn bi thảm và tác hại khôn lường đến nền văn hóa đạo đức khó có cơ phục hồi. Nhắc lại thời điểm sau hội nghị Genève 20-7-1954, Hồ Chí Minh và bè đảng từ Việt Bắc kéo về Hà Nội để làm chủ nhân ông trọn cả miền Bắc từ sông Bến Hải trở ra. Họ tha hồ giết người, cướp của, bắt bớ tù đày gây biết bao tội ác và tệ nạn xã hội. Những cây người mà Hồ Chí Minh vừa trồng trên đất Việt được cụ Phan Khôi trong nhóm Nhân Văn dùng lối văn ẩn dụ để viết thành bài Cây Cộng sản trong tập truyện Nắng chiều. Đáng lý ra, bây giờ chúng ta đã không biết một tý gì về bài Cây Cộng sản cụ Phan Khôi viết để châm biếm Đảng nếu không có một vị cứu tinh. Đó là Đoàn Giỏi, một cán bộ trong Nam tập kết, đã giả vờ viết bài đả kích cụ là phản động để phổ biến những nét đại cương của tác phẩm mà Đảng đã cấm không cho xuất bản. Bài đả kích cụ Phan Khôi của Đoàn Giỏi với tựa đề Tư rưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi nguyên văn như sau (chỉ xin trích phần phê bình về Cây Cộng sản), xin mời quí bạn thưởng thức văn phong của cụ Phan Khôi trộn lẫn với lối viết lách (vừa viết vừa lách) của Đoàn Giỏi:

Trở lại bài Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đã chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng: ... có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật Bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có.

Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại như rừng, ken kít nhau (ghi chú của tác giả: ý phá hoại do lịnh Tiêu thổ Kháng chiến của Hồ Chí Minh). Nơi gọi là Cỏ bù xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là Cây cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. Tên đều không nhã tí nào hết, thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản. Phan Khôi bịa rằng trước kia nước ta không có cây này (cứt lợn dại), người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê, cao su để che đất cho mát gốc.

Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng sản đang bắt đầu hoạt động, phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là herbe communiste, đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là cây CS. Nó còn một tên nữa rất lạ...

Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ. Hỏi ông tên nó là cây gì, ông nói nó là Cỏ cụ Hồ. Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đồng, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy.

Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít, toàn những tên không nhã tí nào hết để gọi nó là Cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ? Cái con người vẫn tự cho là học giả, bản chất phản phúc, con người đã đưa ra thứ triết lý con chó thì phải ăn cứt thì việc mượn tên xấu của một giống cây cỏ, để xỏ xiên nói móc nói chửi cạnh chửi khoé Cộng sản là cái sở trường của y!

Trên năm mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Phan Khôi sáng tác bài Cây Cộng sản. Vào thời điểm đó, tức là 1956, người chiến sĩ lão niên cang cường ấy cùng với hơn 50 văn nghệ sĩ miền Bắc quyết tâm xây dựng Mùa xuân Hà Nội để mang tự do sáng tác cho văn nghệ và dân chủ cho Dân tộc. Nhưng Đất nước thật bất hạnh, Hồ Chí Minh và Đảng lại quyết tâm xây dựng một chính phủ độc tài đảng trị theo chủ thuyết Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông nên đã thẳng tay đàn áp dã man gây nên vụ án Nhân văn Giai phẩm ô nhục trong lịch sử.

Những điều Phan Khôi nói về Cỏ cụ Hồ, Cây Cộng sản, Cỏ bù xít, Cây cứt lợn, Cây chó đẻ, thật ra là những nhân sự đốn mạt quá hồng mà không chuyên được Hồ Chí Minh trọng dụng cho được việc Đảng mà Phan Khôi quan sát được trong một quãng rất ngắn chỉ 11 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản từ 1945 đến 1956. Đến thời điểm 1956, Hồ Chí Minh chỉ mới làm Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch Nước không hơn 2 năm (kể từ sau hiệp định Genève, Hồ Chí Minh và Đảng làm chủ nhân ông trọn vẹn miền Bắc vĩ tuyến 17) và Trần Quốc Hoàn, người Bộ trưởng Công an đầu tiên của chế độ còn nắm quyền công an thêm 24 năm sau đó. Theo thời gian, Cây Cộng sản càng đâm chồi nẩy lộc, Cỏ Cộng sản lan tràn khắp cả Đất nước phủ kín hết những vùng đất phì nhiêu của trí tuệ và trấn áp sĩ khí của Dân tộc khiến cho Hoa Tự do Dân chủ Nhân quyền không nẩy mầm được, còn nói chi đến việc đơm bông kết trái!

Những tên đao phủ của “Cha già Dân tộc”

Những Cây người mà Hồ Chí Minh trồng, những Cỏ cụ Hồ của cụ Phan Khôi, những người không còn là người nữa nếu họ ôm chân đảng của Hoàng Hữu Quýnh (tác giả quyển Tôi bỏ Đảng), những Bự giòi của nhà văn nữ Dương Thu Hương... tất cả những thứ đó đã nắm tay reo hò nhảy múa Sol Đố Mì, chà đạp trên Hồn thiêng Sông núi, giày xéo trên Lăng miếu Đình chùa di tích lịch sử của tiền nhân, dẫm nát trên xương máu tài sản của Đồng bào, trên tự do hạnh phúc của Dân tộc... tất cả là những Đảng ủy và những Công an của Quốc tế ủy Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn Bộ trưởng Công an đầu tiên đào luyện và xử dụng. Sau đây là vài câu chuyện vụn vặt về những Cây người đó. Xin mời quý bạn xem chúng đã tác oai tác quái như thế nào đối với Đất nước và Dân tộc, và đấy chỉ là phần nổi nhỏ nhoi được tiết lộ. Còn phần chìm của tảng băng sơn tội ác Cộng sản vĩ đại xảy ra trong bóng tối như Đêm giữa ban ngày không lời nào diễn tả hết, không giấy bút nào ghi hết cho được, không sử gia nào biên chép lại cho đầy đủ.

Hồ Chí Minh đã chọn Bộ trưởng Công an dâm dục và tàn ác là Trần Quốc Hoàn (giữ chức bộ trưởng 27 năm từ 1953 đến 1980), thì phụ họa theo phải có những tên đao phủ cai ngục để giam cầm và tàn sát những người mà công an vây bắt. Tác giả Trần Nhu trong quyển Địa ngục sình lầy (trang 111) liệt kê những tên đao phủ như Lý Bá Sơ, Tuần Ất, Hãn Đen, Phạm Diến... Chỉ riêng Lý Bá Sơ, trong thời kỳ diệt Quốc dân Đảng năm 1945-46, đã một tay chỉ huy đội tự vệ hạ sát bằng dao găm mã tấu bốn ngàn người ở dọc bờ sông Dương Úc, Tiên Lãng, ngoại thành Hải Phòng. Y đã được Hồ Chí Minh tặng nhiều bằng khen, và sau này y được chính Hồ Chí Minh cử giữ chức Tổng giám đốc Trại giam khu Ba và Tư.

Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn với bút danh Nguyễn Kiên Trung trong quyển Đem tâm tình viết lịch sử có thuật chuyện một đảng ủy khát máu ở tỉnh Hưng Yên như sau (trang 63 sđd): “Riêng ở Hưng Yên, Học Phi, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh, đã công khai hạ lệnh xử tử ít lắm là năm ngàn người, ấy là không kể số người bị thủ tiêu một cách đơn giản ở các phủ, huyện, làng, xóm. Cuộc khủng bố này đã khiến cho tỉnh Hưng Yên, trong một năm trời, vắng hẳn bóng những người biết đọc, biết viết. Rồi cũng do đó, tỉnh Hưng Yên sẽ là tỉnh nhiều nhất những người chống Việt Minh, không vì chủ nghĩa hay chính trị, mà chỉ vì oán thù trong tang tóc.”

Chuyện đao phủ Phùng Thế Tài

Con Bự giòi khát máu khác của Đảng là Phùng Thế Tài, câu chuyện do tác giả Việt Thường thuật trong quyển Chuyện thâm cung dưới triều đại Hồ Chí Minh (trang 66). Vốn là đứa bé chuyên quét chợ và khiêng hàng mướn ở chợ Mông Tự tỉnh Vân Nam, Tài lọt vào mắt xanh của Hoàng Văn Hoan và ông dùng Tài làm người bảo vệ. Chính ông đã đề cử Tài vào học trường Quân sự Hoàng Phố. Tốt nghiệp trường Hoàng Phố, mang cấp bực trung úy của quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng, Tài được chỉ định làm cận vệ cho Hồ Chí Minh. Vì là trung úy đặc vụ của quân Tưởng nên Tài bảo vệ Hồ đi trên đất Tàu rất thuận lợi. Tài thăng tiến nhanh trên đường phục vụ Bác và Đảng, được vào biên chế quân chính quy, lần phong hàm đầu tiên cuối năm 1946, khi Võ Nguyên Giáp là đại tướng tổng tư lệnh thì Phùng Thế Tài được phong cấp đại tá. Theo tác giả Việt Thường: “Máu du đảng cao bồi vẫn vậy, Tài thường xách ba-toong đánh lính và chửi lính. Tài rất ghét lớp lính và sĩ quan có nguồn gốc học trò hoặc tầng lớp trên trong xã hội. Cái mặc cảm đó làm Tài cực kỳ hung hăng, thô bạo với cấp dưới.”

Việt Thường cho rằng Phùng Thế Tài đã không uổng công Hồ Chí Minh tín nhiệm. Trong vụ thanh niên miền Nam tập kết bất mãn vì bị đối xử bất công, chúng đã cướp tỉnh Ninh Bình, bắt giam chủ tịch, bí thư, cùng trưởng ty công an làm con tin. Tướng Tô Ký được lệnh đem quân dàn xếp. Ông đã thuyết phục số thanh niên đó đầu hàng và hứa sẽ khoan hồng cũng như xem xét những khiếu nại của họ. Trên đường về gặp Phùng Thế Tài, Tài ra lịnh đem tất cả số thanh niên nổi loạn đó ra bờ sông Đoan Vĩ ở Phủ Lý bắn chết hết (trang 69 sđd). Tướng Tô Ký khiếu nại lên cấp trên, nhưng Bộ Chính trị ủng hộ quyết định cứng rắn của Phùng Thế Tài cho nên vị tư lệnh Quân khu Tây Bắc Tô Ký bị thất sủng và phải ngồi chơi xơi nước. Bây giờ, xét lại vụ việc này, nghi vấn đặt ra là Phùng Thế Tài cấp bực đại tá thấp hơn tướng Tô Ký mà sao lại dám qua mặt thượng cấp. Phải chăng đàng sau đại tá Phùng Thế Tài là ô dù bự của Bác? Phải chăng Tài đã nhận mật lịnh của Bác? Nếu đúng như thế thì Hồ Chí Minh chính là người chủ mưu sát hại các thanh niên miền Nam tập kết: Bác đã chơi trò ném đá giấu tay!

Cuộc Đại thanh trừng theo kiểu Killing field thứ hai xảy ra trên bờ sông Bạch Hạc ở Việt Trì làm mất mạng gần 200 tân binh gốc Hà Nội. Tên Bự giòi Phùng Thế Tài cũng là tác giả của vụ tàn sát này. Đó là thời điểm 1970, vào dịp Tết nguyên đán, số tân binh gốc Hà Nội đòi có công bằng trong khi thi hành nghĩa vụ quân sự. Chúng chiếm đoàn tàu hỏa và bắt nhân viên trên tàu làm con tin. Phùng Thế Tài nhận lệnh dàn xếp, và một lần nữa, hắn có dịp ra tay chém giết. Hắn dùng trực thăng đổ quân xuống phục kích ở ga Việt Trì tỉnh Vĩnh Phú, dùng loa kêu gọi tân binh xuống sân ga nếu đầu hàng thì sẽ tha tội. Các tân binh quá trẻ, vì dại dột mà làm liều, cảm thấy hối lỗi, xin ra hàng đều bị bắn chết sạch. Khi thuộc cấp kinh hoàng vì số người chết quá nhiều thì Tài đập gậy ba-toong xuống đất và quát (trang 70 sđd): “Đây là ý Trung ương. Khoan hồng con củ c... Đ.M. thiếu gì lính mà không bắn cha nó đi cái lũ nứt mắt đã vô kỷ luật này. Đ.M. thằng nào còn nói nữa tao cũng cho bắn luôn!”

Sáu năm sau ngày sát hại 200 thanh thiếu niên Hà Nội, đến 1976, Phùng Thế Tài được vinh thăng Thiếu tướng!

Ngon! Hồ Chí Minh ngon! (xin mượn chút văn phong của Lê Mai Lĩnh trong quyển Đứng ngồi không yên). Không ngon sao được vì Bác ta đã tạo được cho mình hình ảnh Cha già Dân tộc nhân từ bác ái, lại còn sang Liên Xô nhờ KGB giải phẩu thẫm mỹ độn má cho đầy, sửa mắt cú vọ thành loan nhãn, cấy thêm râu cho đầy đặn, cho có nét đẹp phúc hậu! (Trích Chân tướng Hồ Chí Minh của Cao Thế Dung, trang 106). Thế mà dưới tay Bác toàn là những Cây người khát máu bắn giết tàn sát không gớm tay, phục vụ rất đắc lực như Trần Quốc Hoàn, Phùng Thế Tài, và Lý Bá Sơ! Hồ Chí Minh chính là Giáo chủ sáng lập môn phái Ném đá giấu tay trong lãnh vực chánh trị.

Các đao phủ vô danh

Anh hùng vô danh thì được Dân tộc ngưỡng mộ và được ca tụng như bài thơ Anh hùng vô danh của Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy. Nhưng biết bao nhiêu đao phủ vô danh của Hồ Chí Minh không để lại tăm tích tên tuổi gì trong những ngày đầu kháng chiến khi Hồ Chí Minh phát động bạo trào “Giết Việt gian”. Rất to lớn như phần băng sơn chìm dưới mặt nước, biết bao nhiêu tội ác của Hồ Chí Minh vẫn còn ẩn tàng trong quên lãng và rất hiếm hoi trong hồi ký của vài tác giả nhân chứng.

Trong quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu của Phương Lan Bùi Thế Mỹ phát hành tại Sài Gòn ngày 5-1-1974, chúng ta tìm lại được dấu tích tàn sát tập thể của Hồ Chí Minh qua bàn tay của các đao phủ vô danh tiểu tốt như sau (trang 422 sđd):

“Sau cái chết của nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, trên con đường vào tử địa, còn lôi cuốn thêm cả trăm gia đình, họ bị “làm cỏ” tận gốc, vì tội ngưỡng mộ thần tượng Tạ Thu Thâu, vì cảm tình, tiếp rước Tạ Thu Thâu tại nhà…”

“Thời gian ở Hà Nội, nằm đợi sang Tàu, Thâu thường lên chiến khu Sầm Sơn, tới nhà Hà Tôn Thắng, và làng Đan Phượng, nhà của một người thợ in, thì sau đó cả làng, cả gia đình xa gần tiếp đón, ngưỡng mộ Thâu đều bị giết sạch sành sanh…”

“Tại Quảng Ngãi, gia đình chủ nhơn Bungalow là Hồ Đắc Di, và gần chục thanh niên cũng bị thanh toán “sạch cỏ” vì đã chứa chấp và giao thiệp cảm tình với nhà cách mạng Tạ Thu Thâu.”

Tác giả Phương Lan nhận xét rằng trong lịch sử sau nầy (trang 423 sđd), trong giai đoạn khơi mào độc lập, tự do, có lẽ phải viết lên toàn bằng máu, máu của triệu người dân vô tội, chết oan, trong cái chiến họa xâm lăng của Cộng sản…!

Bài ca vọng cổ có tên “Nguyễn Tường Tam”

Câu chuyện do Giáo sư Nhật Thịnh tường thuật trong tác phẩm viết về nhà văn Nhất Linh. Ở bìa quyển sách là tựa Chân dung Nhất Linh. Nhưng ở trang trong, tác giả Nhật Thịnh viết thêm “hay thân thế sự nghiệp Nguyễn Tường Tam”. Nhất Linh nhà văn nổi tiếng nhất trong nhóm Tự lực Văn đoàn tên là Nguyễn Tường Tam, ai cũng biết. Ở miền Nam, vào thời Đệ nhất Cộng hòa, các tác phẩm của Tự lực Văn đoàn được giảng dạy trong chương trình các lớp Trung học Đệ nhất cấp, nên học sinh đều biết như thế: nhà văn Nhất Linh tên là Nguyễn Tường Tam.

Vậy mà có người không biết Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam nên mới có chuyện (Trích trang 153 sđd). Câu chuyện xảy ra vào năm 1949 ở một làng thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Tác giả Nhật Thịnh tham gia kháng chiến và phụ trách huấn luyện lớp cán bộ địch vận. Vào một đêm trăng giữa khóa huấn luyện, sau phần kiểm thảo bài học, đến phần giúp vui tập thể. Một học viên đứng lên tự giới thiệu để ca một bài vọng cổ. Vào thuở đó, điệu hát vọng cổ là món văn nghệ quý hiếm độc đáo. Người học viên giới thiệu bài ca “Nguyễn Tường Tam” do anh sáng tác! Trong phần nói lối khởi đầu, tác giả trình bày gốc tích của Nguyễn Tường Tam, nào là “dòng dõi phong kiến, tổ tiên đều làm quan”, nào là “đỗ bằng cử nhân nhưng vì tính thích lêu lỏng chơi bời, Thực dân không dùng nên sinh ra bất mãn, v.v…” Sau mấy câu nói lối, bắt sang điệu vọng cổ, anh ta tiếp tục “Nguyễn Tường Tam là tên trùm phản động, tiêu biểu cho giai cấp trí thức tiểu tư sản lạc hậu, thối nát”. Đoạn kết của bài ca là lời hô hào đồng bào đừng nên mắc mưu tuyên truyền của bọn phản động đội lốt cách mạng mà Nguyễn Tường Tam là kẻ cầm đầu. Và sau cùng là lời xưng tụng HCM và đề cao cuộc cách mạng vô sản.

Khi hát xong, ai nấy đều vỗ tay hoan hô. Bài ca thành công rực rỡ, vì có kẻ lấy viết và sổ tay xin được chép lại. Tác giả Nhật Thịnh cho biết người ca sĩ đã từng là kép hát, sau làm thợ may, và lúc đó là đảng viên dự bị. Sau đó vài hôm, cũng vào một đêm trăng, Nhật Thịnh có dịp đi dạo ngoài cánh đồng với người cán bộ kép hát và bàn luận chuyện văn chương Nghệ thuật. Câu chuyện xoay quanh những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, nhất là mấy tác phẩm chính của Nhất Linh. Nhật Thịnh kể: “Quả nhiên, gã như xuất thần, say sưa, hoa chân múa tay tán thưởng từ nội dung đến văn chương của những tác phẩm như “Gánh Hàng Hoa”, “Nửa Chừng Xuân”, và nhất là “Lạnh Lùng”, “Đoạn Tuyệt”, và “Bướm Trắng”. Gã thao thao bất tuyệt…”

Trong câu chuyện dưới đêm trăng hôm ấy, gã nhất trí với Nhật Thịnh “Nhất Linh và Khái Hưng đã phá bỏ những lạc hậu, xấu xa, giả dối trong chế độ gia đình và xã hội cũ để tạo lập nên một xã hội mới theo một tinh thần mới trong đó con người được giải phóng và tự do hơn”.

Đến khi đó, Nhật Thịnh mới đặt câu hỏi:

- Theo đồng chí thì phá bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới cho thích hợp với sự tiến bộ của loài người, như thế có phải là cách mạng không?

Người cán bộ kép hát, đảng viên dự bị ấy, đáp không suy nghĩ:

- Thế đúng là cách mạng chứ!

Đêm khuya, trăng tàn, đến lúc chia tay, Nhật Thịnh ghé tai gã cán bộ bảo thầm:

- Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam đấy, đồng chí có biết không?

Nhật Thịnh kể tiếp rằng người cán bộ lặng người không đáp. Từ hôm ấy cho đến ngày mãn khóa học, gã trở nên ít nói, thỉnh thoảng nhìn trộm Nhật Thịnh với tất cả vẻ ngượng ngập. Còn tâm trạng Nhật Thịnh thì sao? Đúng là tâm trạng của một bậc thầy, một bậc giác ngộ chỉ biết thương yêu và tế độ, “không khinh gã cán bộ kép hát mà chỉ thương hại cho hắn là vì hắn đã không hiểu việc hắn làm, không biết hết những điều hắn nói”. Điều gây khổ nạn cho Dân tộc là những bậc thức giả như Nhật Thịnh thì như sao buổi sáng, mà “bầy đàn” người như gã cán bộ kép hát chạy theo cuộc “Kách mệnh khát máu của Hồ Chí Minh” thì nhiều như lá rụng mùa thu (“bầy đàn”, chữ của tác giả Vũ Thư Hiên trong Đêm giữa ban ngày).

Chuyện các Tổng bí thư

Những Cây người của Bác cũng biệt tài về khoa ăn nói. Hãy xem miệng lưỡi của một vài vị. Trong chuyến công du ở Pháp hồi năm 2000, trả lời một phóng viên của báo Le Monde, để chứng minh rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng dân chủ và văn minh, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã trả lời: “Người Cộng sản Việt Nam không có ăn thịt người.” Câu trả lời của nhân vật số một của Đảng Cộng sản Việt Nam thật giống hệt chuyện tiếu lâm rẻ tiền khiến cho giới báo chí truyền thông Pháp phải phì cười và ban cho ông cái hổn danh là Pinochet VN!

Một câu chuyện khác, cũng dính dấp tới một Tổng bí thư tiền nhiệm. Vào thời điểm 1991, khi nhà văn nữ Dương Thu Hương phản tĩnh và viết bài Đảng phải biết ơn nhân dân chứ không phải chỉ có dạy nhân dân biết ơn Đảng, thì Bộ Chính trị phát điên lên. Lúc đó, ông Nguyễn Văn Linh là Tổng bí thư đã gọi Dương Thu Hương là “Con đĩ chống Đảng” và đã ra lịnh bắt giam trong sáu tháng (trích Việt Nam cần đổi mới thật sự của Võ Nhân Trí, trang 135).

Chuyện nhà văn nữ Nhã Ca: giặc đến nhà đàn bà phải đánh

Nhã Ca, nhà văn nữ hàng đầu của miền Nam đã hai lần được trao tặng Giải thưởng Văn chương cao nhất, cũng bị chửi giống như vậy. Nhã Ca quê ở Huế và bị kẹt ở đấy trong cuộc Tổng công kích tết Mậu Thân (1968) nên đã chứng kiến sự tàn ác khủng khiếp của Việt Cộng trong thời gian đó. Khi tập truyện ký Giải khăn sô cho Huế khởi sự đăng tải trên một nhật báo ở Sài Gòn, đặc công Việt Cộng đã gởi thư đe dọa, buộc nữ sĩ phải ngưng viết, nhưng nữ sĩ không nhượng bộ. Chỉ vì vậy cho nên đến ngày 3-4-1976, Nhã Ca bị bắt giam và bị kết tội bôi nhọ nhân dân, cản bước tiến của cách mạng. Nhà văn bị công an luân phiên hỏi cung nhiều lần, bị nhục mạ nhiều lần, và đây là một lời chửi đầy nhục mạ (trích quyển Quê hương bạn hữu tù đày của Trần Dạ Từ, trang 187):

“Chị Nhã Ca. Chị nghe kỹ đây. Thằng Mỹ, thằng Thiệu đang để lại ở Sài Gòn một triệu đĩ điếm. Một chị phụ nữ làm điếm, giỏi lắm chỉ ngủ được vài trăm đàn ông. Hừ. Thằng Khánh, thằng Kỳ bảo mỗi ngòi bút là một sư đoàn. Đánh đỹ ngòi bút như chị, chị ngủ với mấy sư đoàn? Đàn bà mà viết văn là làm đĩ. Chị biết chưa?”

Bị tên công an Việt Cộng thoá mạ bằng lời lẽ thô tục và đê tiện như vậy, nhà văn Nhã Ca nữ kiệt của miền Nam, dù thân xác bị tù đày, vẫn lấy trứng chọi đá, vẫn vùng lên đánh trả để xứng với truyền thống giặc đến nhà đàn bà phải đánh. Xin mời quý bạn xem văn phong và đòn đánh trả của nữ kiệt Nhã Ca: “Bình tĩnh. Tin tưởng. Tập thở cho đều. Con cái sẽ hưởng phần xứng đáng với cha mẹ chúng. Hãy xử sự xứng đáng. Phải thở. Thở đều nữa, trước khi nói. Phải nói thật thong thả, nhỏ nhẹ, lễ phép.”

Nhà văn nữ kiệt của miền Nam đã xử sự thật xứng đáng và tung đòn đánh trả rất đẹp mắt: “Thưa anh, tôi chưa biết Bác và Đảng anh minh ra sao. Tôi cũng chưa biết chính sách nhà nước nhân đạo thế nào. Nhưng tôi biết rõ điều này. Anh nghe nhé. Anh là thằng mất dạy! Mất dạy! Mất dạy!...”

Lời bàn thứ nhất: Đảng đã lập Đại học Công an ở thủ đô Hà Nội để đào tạo công an, nếu thật sự vị công an này mất dạy và nếu Đảng sợ công an làm mất lòng dân, thì xin Đảng nên cho cán bộ của mình trở về trường học thêm cho giỏi. Lời bàn thứ hai: Với Nhã Ca, tuy giặc đã chiếm trọn miền Nam, nhưng giặc chưa vào nhà bà, lúc đó là thời điểm sau ngày 3-4-1976, với cái búng tay của bạo lực, Nhã Ca cùng cả trăm văn nghệ sĩ miền Nam bị bắt vào tù. Sau đây là chuyện giặc đã vào nhà và phá nhà một nhà văn nữ ở miền Bắc.

Giặc vào phá nhà Trần Khải Thanh Thủy

Ba mươi năm sau đó, ngày 27-10-2006, tại phường Đống Đa thủ đô Hà Nội, giặc đã thật sự vào nhà và phá nhà của nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy. Vào ngày hôm đó, vào khoảng 6 giờ chiều, vừa đón 2 cô con gái từ trường về nhà, thì nhà văn Thanh Thủy thấy ông Tổ trưởng Dân phố, ông Bí thư Đảng ủy, cùng ông Chủ tịch Phường mò đến. Nhà văn tưởng họ là người tử tế bèn mở cửa mời vào. Nhà văn không ngờ rằng khi họ ngồi chưa ấm chỗ thì cả trăm người gồm thanh niên trai tráng, phụ nữ, cựu chiến binh, thương binh tràn vào nhà. Nhà văn Thanh Thủy tường thuật (phỏng theo bài Trò chuyện cùng anh Lưu Ngọc Bang của chính nhà văn Thanh Thủy, VNN Website, đăng lại trên báo Việt Luận ngày 3-11-2007):

“...(Họ) quây kín cửa ra vào, cửa sổ, trèo lên giường, lên xe máy, la ó, đập phá... tất cả trăm con người nhâu nhâu vào... đòi tát vỡ mặt em với đủ các ngôn từ, giọng điệu, chửi bới em không tiếc lời, nào con đĩ chống đảng, nào đồ phản dân hại nước, nào bán nước buôn dân, tham tiền, phản động, làm tay sai cho đế quốc Mỹ v.v. và v.v... Cả hai vợ chồng em đều bị đánh. Em phải nhận mấy cái tát lật mặt nổ đom đóm mắt của mấy gã lực điền trai tráng (thực chất là đầu gấu do công an thuê), còn ông xã bị đập cả thanh gỗ vào sau vai và lưng, còn bị túm tóc lôi từ trên giường xuống đất khi cố tình che chắn cho vợ... Họ lấy chùm chìa khóa xe máy, cả chục thằng đi nguyên giày trèo lên giường đòi hành hung em nên giường bị sập, cửa sổ bị chúng dùng gỗ đập nát phần kính, chớp. Phần cánh bằng gỗ bên ngoài hiện tại hở toang hoác....”

Hai nữ sĩ Nhã Ca của miền Nam và Trần Khải Thanh Thủy của miền Bắc, mỗi người một tình huống khác nhau, xử sự mỗi người một cách, nhưng chỉ một dòng máu Việt, chỉ một trái tim Việt, chỉ một truyền thống Anh thư Trưng Triệu của Dân tộc Việt Nam. Đối diện với cả trăm côn đồ đầu gấu công an trá hình đang lên Cơn say Đảng và chìm trong Giấc mê Hồ, đang đập phá hung hăng (như đấu tố trong CCRĐ ngày nào), Trần Khải Thanh Thủy không thể dùng ngôn từ đối đáp như Nhã Ca, nên chọn cách trả đòn trong bài viết Trò chuyện cùng anh Lưu Ngọc Bang. Bị Đảng dồn tới đường cùng, nữ sĩ tự ví mình là một cô gái mảnh mai bị cả bè lũ đảng đè ngửa ra... cưỡng bức, kẻ giữ chân, người trói tay, người nhét giẻ vào miệng quyết bắt nữ sĩ phải câm miệng mới thôi. Nữ sĩ không thể dịu dàng bảo Đảng hãy buông vạt váy của mình ra như lời năn nỉ đáng yêu của cô thôn nữ ngày xưa: “Thôi thôi buông áo em ra. Để em đi bán kẻo hoa em tàn.”

Trong khi Nhã Ca chỉ đánh trả tên công an thẩm vấn: “Anh là thằng mất dạy”, thì Trần Khải Thanh Thủy đánh trả đòn bằng lời văn có uy lực như tiếng hét thẳng vào mặt Đảng, một tiếng hét như vang rền khắp Bắc Nam Trung bằng uy lực của cả Dân tộc, như nói thay cho Dân tộc:

“Mày là thằng khốn nạn, đểu giả nhất trên thế giới này. Chính mày làm tan nát ngôi nhà Việt Nam, bắt 3 triệu người phải xa xứ, tha hương, làm 850 nghìn người vùi xác nơi đáy biển, làm 78 trên tổng số 83 triệu người trong nước phải điêu đứng. Chính mày dâng đất, bán biển cho quan thầy Trung Hoa. Chính mày làm cho xã hội Việt Nam điêu tàn, tan nát, con cãi lại cha, trò chống đối thầy, người lương thiện ít hơn kẻ độc ác, gái ngoan ít hơn gái đĩ, điếm hóa đến cả trẻ thơ...”

Giặc đã vào nhà và giết người

Nhà cửa bị phá hoại còn có thể sửa chữa, người bị đánh có thương tích còn có ngày bình phục, cơn khiếp đảm rồi sẽ được xoa dịu và xuôi trôi theo ngày Trời tháng Phật và Bạn hiền khắp nơi, Chị Trần Khải Thanh Thủy ơi! Biệt nghiệp của mỗi chúng ta và cộng nghiệp của Đất nước còn quá nặng. Ở nơi hải đảo Úc Châu, khi viết hàng chữ này, tôi không ngăn được dòng lệ và xin gởi trọn niềm thương cảm của tôi đến Anh Chị và hai cháu gái. Xin chị hướng về phương Nam thân yêu, ở tỉnh Đồng Tháp, có một ngôi nhà giặc đã vào, phá hoại và gây án mạng vô cùng thảm thiết, để cùng nhau ôm khóc và cảm thương cho Dân tộc!

Ngôi nhà đó của ông Nguyễn Văn Bạo, ở ấp Long Hòa, xã Long Thuận, quận Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ông Bạo là thành viên đoàn Thanh niên Phật giáo Hòa Hảo. Theo bản tin của Văn phòng Phật giáo Hòa Hảo ở Hoa Kỳ (Bán Tuần báo Việt Luận ở Úc Châu đăng lại ngày 15-8-2006), thì ngày 25 tháng 2 năm Bính Tuất, nhà ông Bạo tổ chức tưởng nhớ ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ bị Việt Minh Cộng sản ám hại (xin nhắc lại: ngày 16-4-1947, Việt Minh Cộng sản mời Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ đi họp và ám hại Ngài). Trong lúc họ đang làm lễ thì công an xông vào nhà xô ngã bàn hương án, một công an dùng chân đạp lên ngực bà Nguyễn Thị Gấm, 50 tuổi, em ông Bạo, làm cho bà đứng tim và tắt thở.

Phân biệt 3 tình huống: thứ nhất giặc chưa vào nhà của Nhã Ca, thứ 2 giặc đã vào và phá nhà của Trần Khải Thanh Thủy, và tình huống thứ 3 giặc đã vào nhà của ông Nguyễn Văn Bạo và giết em gái ông là bà Nguyễn Thị Gấm, phân biệt như vậy chỉ là sai thôi. Sự thật là Giặc Cộng sản đã vào ngôi nhà Việt Nam từ thật lâu rồi, đến bây giờ thì giặc muốn vào nhà ai thì vào, giặc muốn phá nhà ai thì phá, giặc muốn cướp của ai thì cướp, giặc muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ tù, Đảng đã biến cả Đất nước thành Nhà tù khổng lồ rồi. Các nhà tù nhỏ như trại Thanh Cẩm hay trại Cổng Trời, Đảng chỉ dùng để làm phương tiện gieo khủng bố khi bắt giam những người yêu nước thương dân đấu tranh cho tự do, dân chủ, và nhân quyền.

Cây người Mai Trung Sơn

Chuyện đời đầy oan nghiệt! Học sinh Mai Trung Sơn thụ nhận nền học vấn ở ngôi trường Bồ Đề Nguyên Thiều do công sáng lập của Hòa thượng Thích Huyền Quang. Rồi do được bón phân Hồ Chí Minh, mọc lên Cây người Mai Trung Sơn hung hăng tàn bạo! Cảnh tang thương biến đổi đến đau lòng đứt ruột. Cơ ngơi Tu viện Nguyên Thiều gồm có trường trung học Bồ Đề, Phật học viện quy tụ 300 tăng sinh, Chánh điện uy nghiêm giữa rừng bạch đàn thâm u thơ mộng, tượng Phật Thích Ca cao 20 mét, tượng Đức Quan Âm bên bờ hồ sen bát ngát, một rừng huệ trắng tinh khiết quanh hồ sen, một hoa viên trăm loại kỳ hoa dị thảo do công đức cúng dường của Phật tử bốn phương, khu trồng xoài tiếp giáp với hàng chục dãy nhà phụ thuộc cho 300 vị tăng sinh làm nơi tu tập và sinh hoạt…

Rồi Cách mạng của Hồ Chí Minh thành công. Cơ ngơi Tu viện Nguyên Thiều do công sáng lập và khai phá của Hòa thượng Huyền Quang và Phật tử đã biến thành cơ sở của Đảng như trường Chi cục Thống kê Trung ương II, trường Bổ túc Văn hóa Liên khu V, Xí nghiệp Chế biến 3/2, Xí nghiệp Chế biến xút. Cách mạng thành công thì Cây người Mai Trung Sơn do Hồ Chí Minh vun trồng đường đường là Trưởng Công an xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Nghĩa Bình.

Hết oan nghiệt này lại đến oan nghiệt khác! Một buổi chiều u ám, mùa đông năm 1979, Công an trưởng Mai Trung Sơn, chỉ huy một tiểu đội du kích có võ trang, chận đường lục soát và hùng hổ áp tải đuổi Hòa thượng Thích Huyền Quang ra khỏi khu vực Dốc Eo, trên đường vào Tu viện Nguyên Thiều mà nay là cơ sở của Đảng. Mai Trung Sơn lạnh lùng cương quyết từ chối yêu cầu của Hòa thượng Huyền Quang, dù ngài chỉ muốn vào thăm nơi chốn cũ và nhìn thoáng qua trong chốc lát!

Câu chuyện về Mai Trung Sơn trên đây được trích từ bài Tu viện Nguyên Thiều của tác giả Nguyễn Mạnh An Dân đăng ở nguyệt san Làng Văn (số120, tháng 8-1994). Người viết xin tri ân tác giả Nguyễn Mạnh An Dân, chỉ ba trang ngắn ngủi trong Làng Văn, tác giả đã nêu lên một tệ nạn vô cùng lớn lao của Đất nước: Đảng Cộng sản CƯỚP tài sản của Phật giáo làm của mình! Tác giả An Dân viết tiếp rằng đường lên Dốc Eo dẫn vào một khu đất đẹp vốn là tư sản của dòng họ Bùi cố cựu. Vào năm 1961, cư sĩ Bùi Hàng, lúc đó giữ chức chủ tịch xã Phước Hiệp, đã cúng dường khu đất rộng lớn của gia tộc để xây dựng Tu viện Nguyên Thiều. Đến mùa đông 1964, chiến sự bùng nổ và lan rộng các quận An Nhơn, Tuy Phước tỉnh Bình Định. Dân chúng khắp nơi tìm chỗ an toàn để lánh nạn Cộng sản. Trường Bồ Đề của Tu viện, ban ngày là lớp học, ban đêm là chỗ tạm trú cho người dân di tản. Nhưng chốn thiền môn và học đường, Việt Cộng nào có tha! Một đêm trong mùa loạn đó, chúng kéo về Tu viện và quăng lựu đạn vào trường Bồ Đề sát hại xã trưởng Phước Hiệp và cũng là một cư sĩ đã hết lòng góp sức xây dựng Tu viện Nguyên Thiều: cư sĩ Bùi Hàng. Cùng chết với ông là mấy chục thường dân tỵ nạn khác! Ngôi trường Bồ Đề nguyên thủy của Tu viện hoàn toàn đổ nát!

Thí chủ Bùi Hàng, người cúng dường khu đất thì đã bị Việt Cộng sát hại. Tu viện Nguyên Thiều do công sáng lập và xây dựng của Hòa thượng Thích Huyền Quang thì đã bị Việt Cộng chiếm đoạt. Đến bây giờ, nhớ lại lời nói trịnh trọng của Hồ Chí Minh: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng bằng mười năm xưa!” Than ôi! Đúng là lời nói của Tên hề Hồ Chí Minh!

Chuyện Phật đất và Phật gỗ

Nhân đây, người viết nhớ lại câu chuyện Phật khóc của học giả Hoàng Văn Chí, sơ lược như sau. Có hai tượng Phật, một tượng bằng đất và một tượng bằng gỗ. Hai vị biết Trời sắp làm cơn lụt lớn. Vị Phật gỗ nói với vị Phật đất: “Tôi thương anh quá! Vì thân anh bằng đất, gặp cơn lụt này, thân anh sẽ rã ra thành đất. Thân tôi bằng gỗ, sẽ nổi trên mặt nước, trôi đến vùng đất khác, dân chúng sẽ vớt tôi lên để thờ lại”.

Vị Phật đất cảm thấy buồn, ngẫm nghĩ hồi lâu mới trả lời: “Không đâu anh ạ! Nghĩ kỹ lại, anh mới khổ hơn tôi. Thân tôi tuy bằng đất, gặp nước sẽ rã ra thành đất. Nhưng dân vùng này là Phật tử, khi hết lụt, dân sẽ lấy đất nắn tôi lại thành Phật và thờ tôi lại như xưa. Thân anh sẽ trôi nổi đến vùng đất lạ, rủi gặp vùng không có Phật tử, dân không biết anh là ai, anh sẽ sống kiếp lưu đày khổ sở lắm!”

Vị Phật gỗ nghe đến đấy bỗng khóc ròng.

Kể chuyện Phật đất Phật gỗ để ví von với việc lưu đày và việc ở lại quê hương như học giả Hoàng Văn Chí thật là tuyệt vời. Có phải vị Phật đất là Hòa thượng Huyền Quang gặp phúc duyên được ở lại quê nhà? Còn Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong vai Phật gỗ phải sống kiếp lưu đày khổ sở? Theo chuyện kể của học giả Hoàng Văn Chí thì như vậy: vị Phật gỗ Nhất Hạnh vì bị trôi nổi nơi xứ lạ quê người nên mới bật khóc ròng! Nhưng sự thật không phải vậy! Việc đời đảo điên điên đảo đến não lòng! Khóc ròng là vị Phật đất Thích Huyền Quang vì ngài bị lưu đày ngay trên chính quê hương của ngài. Thân xác thì bị lưu đày quản chế, Tu viện Nguyên Thiều cũng bị cướp đoạt. Còn vị Phật gỗ Thích Nhất Hạnh khi thì Làng Mai ở Pháp, lúc thì Lộc Uyển ở Hoa Kỳ, lại nhiều phen “mặc áo gấm về làng”! Trời làm một cuộc đảo điên! Mà có phải Trời làm không? Không! Không phải Trời làm đâu! Chính Hồ Chí Minh một tay đã đảo lộn sơn hà để gây ra cuộc tang thương biến đổi đó!

Giặc trước cổng chùa Quang Minh Tự

Như một tích tuồng cải lương lâm ly gay cấn có kẻ ngay người gian, có kẻ thiện người ác, khán giả là cả Dân tộc, và sân khấu là cổng chùa Quang Minh Tự ở An Giang.

Trong chùa, tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm và 20 tu sĩ khác đang ngồi thiền. Trước cổng chùa, 80 công an Việt Cộng mặc thường phục bao vây đêm ngày, chờ đêm đến liệng đá phá rối.

Thương đồng đạo bị bao vây bỏ đói, 30 tín đồ PGHH mang gạo và thức ăn, xin phép nhà cầm quyền địa phương vào thăm và tiếp tế, nhưng công an nhất định không cho vào.

Rồi công an xông vào đánh đập các tín đồ, kể cả những em bé gái dưới 14 tuổi, và còng tay ông Trương Văn Thức và ông Nguyễn Châu Láng bắt đưa về ấp Long Hòa, thuộc xã Long Điền A, quận Chợ Mới, An Giang. Được tin khẩn đồng đạo bị áp bức ở quê nhà, Ban Trị sự Trung ương PGHH tại hải ngoại lập tức thông báo với ông Marc Forino, cố vấn chánh trị tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ông Forino cho biết ông rất quan tâm về chuyện nầy và có thông báo với tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội. Bản tin được tường thuật đầy đủ do tuần báo Thời Báo ở Melbourne, (số 269 ngày 26-11-1902), người viết chỉ xin trích sơ lược cho câu chuyện được ngắn gọn.

Dân tộc Việt Nam thân thương ơi, câu chuyện trước cổng chùa Quang Minh Tự chỉ có vậy! Chuyện nhỏ ở thế gian mà người thế gian không biết dàn xếp sao cho êm đẹp! Nhưng “Trời cao có mắt”, rốt cuộc rồi sẽ “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”! Viết tới đây, lòng thương cảm trào dâng, người viết đã khóc, cố gắng ngăn mà sao nước mắt cứ mãi tuôn trào. Thương cho các tín đồ PGHH vốn là dân quê chân chất và thương cho Dân tộc yếu hèn, và lại thương cho một phần nhỏ của Dân tộc hung tàn ngu muội lầm đường lạc lối! Xin nguyện cầu Hồn thiêng Sông núi hộ trì cho Đại khối Dân tộc hòa hợp trong đạo tâm “ở hiền gặp lành” để nêu cao và làm rạng danh Tình nghĩa Đồng bào một mẹ trăm con của Việt Tộc trên quả địa cầu này!

Tâm đạo sáng trong cơn khói lửa

Giặc Cộng sản muốn giết ai thì giết, muốn bỏ tù ai thì bỏ tù, đến trẻ em năm sáu tuổi cũng bị bắt bỏ tù! Trong tác phẩm Dòng sông văn hóa do Tập hợp Đồng Tâm Úc châu xuất bản năm 2000, tác giả Kim Bằng, cựu tù nhân học tập cải tạo ở trại Suối Máu, đã viết về chuyện Hai chị em 11 tuổi và 6 tuổi bị kết tội chống phá Cách mạng và chuyện Ba tâm đạo sáng trong cơn khói lửa, tuy hai mà một, chỉ là một câu chuyện thật bi hùng. Lúc đó là năm 1978, khi chiến trường Cam-pu-chia sôi động, tác giả Kim Bằng được đưa từ trại Bù Loi về Suối Máu và tại đó, anh đã gặp ba người bạn tù trẻ Nguyễn Văn Mạnh, Vũ Ngọc Văn, và Phạm Văn Tiến, mà anh bảo đã gặp rồi thì khó quên. Câu chuyện như sau (Trích Dòng sông văn hóa, trang 148):

“Cả ba anh đã vượt ngục từ một trại tù thuộc tỉnh Phước Bình, không may bị bắt lại và đưa về đồn biên phòng sát biên giới Miên Việt. Vừa tới đồn biên phòng, ba anh bị một trận đòn hội chợ tả tơi hoa lá. Trận đòn hội chợ tạm ngưng khi có hai em nhỏ bị dẫn tới.

Hai em nhỏ đó là hai chị em sống ở vùng kinh tế mới gần đó. Con chị mới chừng 10 hoặc 11 tuổi, đứa em trai 5, 6 tuổi. Đứa em trai bị lũ trẻ con cán bộ hiếp đáp đánh đập, con chị chạy ra bênh vực. Thế là hai đứa nhỏ bị khép tội chống phá Cách mạng, dám chống lại con em cán bộ, chống lại Đảng, chống lại nhân dân. Và bị đưa về đồn biên giới cho bộ đội xử lý.”

Kim Bằng thuật tiếp rằng lũ bộ đội lấy ra mấy cái roi mây lớn và ra lệnh cho ba anh phải đánh hai em bé, phải đánh cho nát đít nếu ba anh muốn khỏi bị đòn. Cả ba anh khảng khái khước từ. Anh Mạnh nói: “Hai đứa bé vô tội, chúng tôi không thể đánh chúng nó một roi. Các anh muốn làm gì chúng tôi thì làm!”

Ba vị tâm đạo sáng không khứng vâng lời Cách mạng, thì bị Đảng trừng phạt ra sao, tác giả Kim Bằng thuật tiếp: “Bọn bộ đội trói ba anh vào ba cột nhà. Từ xa chúng lấy thế chạy tới dùng hết sức bình sinh giáng báng súng vào ngực ba anh. Xương sườn cả ba anh gãy rắc rắc. Một thằng bộ đội lấy cây lồ ô chẻ một đầu cho tõe ra, và quất túi bụi vào mặt Vũ Ngọc Văn. Miệng anh Văn biến thành một miếng thịt bầy nhầy nát bét. Nguyễn Văn Mạnh có bộ râu quai nón khá rậm. Một thằng bộ đội khác tạt một lon xăng lên râu anh và châm lửa đốt. Lửa cháy bừng bừng, mùi da thịt cháy khét lẹt”.

Khi tác giả Kim Bằng gặp ba vị tâm đạo sáng ở trại Suối Máu thì “…vết thương ở những mảnh xương sườn gãy của họ vẫn chưa lành. Trời lạnh, ba anh vẫn nằm rên rỉ. Môi anh Văn vẫn còn vết tích của trận đòn thù.”

Tác giả Kim Bằng nhắc lại lúc còn là một cậu bé 12 tuổi học lớp Nhất trường Nguyễn Du ở Hà Nội, cậu rất thích thơ và thích nhất môn tập đọc. Về thơ thì cậu bé Kim Bằng thích nhất bài Anh hùng vô danh của Đằng Phương. Đến kỳ thi Đệ nhị Lục cá nguyệt về môn tập đọc, cậu bé Kim Bằng ước ao được thầy cho đọc bài thơ đó. Nhưng cậu không được “trúng tủ”, thầy cho cậu đọc một đoạn trích trong cuốn Ngục trung thư của cụ Phan Bội Châu. Tuy vậy, cậu bé Kim Bằng cũng đọc rất xuất sắc, theo lời diễn tả của tác giả sau này: “Nhưng vừa cất tiếng đọc, tôi bị cuốn hút vào những gì cụ Phan viết. Dần dần tôi như muốn uống từng câu cụ viết, nuốt từng lời cụ viết. Máu nóng bừng bừng lên mặt. Tôi sôi nổi, uất ức, phẫn khích, đau xót với những gì cụ viết về những hành động dã man tàn ác của người Pháp thời Pháp thuộc đối với người mình. Tôi vừa đọc vừa khóc, xúc động xen lẫn phẫn khích, nước mắt chảy giàn giụa đầy mặt. Có những lúc nấc lên rồi lại đọc tiếp. Khi đọc hết bài, tôi ngửng đầu lên, tay chùi má. Tôi nhìn xuống lớp. Lạ lùng thay tôi thấy cả chục người bạn học cũng đang khóc như tôi.”

Lời bàn: Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện có bài thơ Một tay em trổ kêu gọi cả thế giới hãy nhìn vào Ngục Tù Việt Cộng của Hồ Chí Minh:

“Thế giới ơi, ngươi có thể ngờ
Đó là một tù nhân tám tuổi!
Trên bước đường tù tôi rong ruổi
Tôi gặp hàng ngàn em bé như em!”

Người tù tám tuổi của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, có cả hàng ngàn người! Người tù của tác giả Kim Bằng, chỉ năm, sáu tuổi! Ngay đứa con của Bác là Nguyễn Tất Trung lúc vừa được vài ba tháng tuổi chưa thôi nôi đã mồ côi mẹ vì người mẹ Nông Thị Xuân đã bị Bác ra lịnh giết rồi! Lại còn chuyện một cán bộ Việt Cộng móc nối với Nhà Bảo sanh Từ Dũ ở Sài Gòn lấy thai nhi của những bà mẹ phá thai đem về bằm trộn với bo bo để nuôi heo! Câu chuyện này cũng do tác giả Kim Bằng ghi chép (trang 53) trong quyển Khơi lại nguồn văn hóa nhân bản, do Bán Tuần báo Việt Luận ở Úc châu xuất bản. Như vậy mà Hồ Chí Minh đã sai khiến Trần Dân Tiên (là chính Bác) tự ca ngợi mình những lời chỉ đáng vất vào sọt rác lịch sử: “Đối với nhi đồng tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoãn.” Ôi! Tội ác của Hồ Chí Minh! Một chế độ tàn ác vô nhân nhất trong lịch sử loài người!

Công an nói: “Miệng tao là pháp luật”

Sau đây là vài bản tin thông thường được đăng tải trên báo hàng ngày, nhưng nếu góp nhặt lại sẽ thành quyển sử dày ghi chép Tội ác của Việt Cộng lưu truyền cho đời sau. Trường hợp nhà Luật sư trẻ Lê Chí Quang, tác giả bài viết giá trị Hãy cảnh giác Bắc Triều. Ngay tại thủ đô Hà Nội, Luật sư Lê Chí Quang bị bắt lên đồn công an xét hỏi về tội liên hệ với Hội Nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và Nhà nước chống tham nhũng (hội nầy do hai ông Phạm Quế Dương và Trần Khuê xin thành lập này 2-9-2001). Hãy đọc một đoạn trong đơn tố cáo của Luật sư Lê Chí Quang về vụ việc này: “Cuộc thẩm vấn chỉ xoay quanh vấn đề Hội chống tham nhũng, nhưng tôi bị giữ tại cơ quan công an 3 giờ. Tôi hết sức bất bình vì thái độ của các công an viên, đặc biệt là anh Tâm. Anh này có thái độ vô cùng xấc xược và vô văn hóa đến mức không tưởng nổi. Lúc thả tôi, Tâm nói:

- Tao tha cho mày vì mày ốm yếu, chứ không tao đã bắt mày rồi. Nhưng tao cấm mày ra khỏi nhà.

- Có văn bản pháp luật nào cấm tôi ra khỏi nhà không?

- Tao không cần văn bản nào cả.

- Vậy là văn bản miệng à?

- Đúng. Miệng tao là pháp luật!

- Vậy thì tôi vẫn cứ ra khỏi nhà nếu tôi muốn.

- Tao sẽ bắt mày ngay nếu mày ra khỏi nhà, mày đừng thách tao!”

Lời bàn: Anh công an Tâm ỷ mình là công an nên ăn nói phách lối ngang ngạnh bảo miệng tao là pháp luật. Thật ra chế độ đã cung cấp cho công an đủ phương tiện để đày đọa Dân tộc. Ngày 14-4-1997, Võ Văn Kiệt lúc đó là Thủ tướng, đã ký Nghị định 31/CP cho phép quản chế hành chánh (tức bị ở tù tại gia) đến 2 năm mà không cần pháp lịnh của tòa án. Do nghị định này, nhà nước Cộng sản đã biến tất cả ngôi nhà của người dân thành nhà tù, biến người chủ nhà thành tù nhân trong chính ngôi nhà của mình, biến Đất nước Việt Nam thân yêu thành Nhà tù khổng lồ, và xử dụng vô số công an để canh giữ nhà tù khổng lồ đó làm tiêu hao biết bao nhiêu công quỹ là tiền thuế của người dân đóng góp. Trên 40% kinh phí quốc dân dùng để nuôi công an, vì chúng là lực lượng đàn áp Dân tộc để bảo vệ Đảng cho nên được chế độ trả lương hậu nhất!

Công an giả làm Dân

Một câu chuyện khác giữa công an ngụy trang làm dân và nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt. Vào cuối năm 1988, cùng với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc thực hiện một chuyến đi xuyên Việt, từ Đà Lạt, qua các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội nhằm vận động trí thức, văn nghệ sĩ đấu tranh đòi tự do dân chủ. Hành động đấu tranh can cường chống bạo quyền Cộng sản của nhóm Đà Lạt này như tiếp nối truyền thống của nhóm Nhân văn Giai phẩm ở Hà Nội 22 năm trước, sự việc này làm nhà thơ Bùi Minh Quốc bị khai trừ khỏi Đảng và mất chức Tổng biên tập tờ Langbian. Ông bị Đảng trù dập và nhân sự việc ông Hoàng Minh Chính điều trần trước Hạ viện Mỹ về tình trạng mất nhân quyền ở Việt Nam, Đảng cho công an giả làm dân thường xuyên chửi vào máy điện thoại di động những lời lẽ thật tục tĩu: “Mày có muốn đi Mỹ với thằng Chính để liếm đít Mỹ tao cấp visa cho!” hoặc “Thằng Chính bị ăn đòn, mày có kinh không? Bọn phản bội chúng mày sẽ còn lãnh đủ con ạ!”

Lời bàn: Tên công an này chưa được trau dồi đúng nghiệp vụ như Bác Hồ của hắn. Đã giả làm dân mà lại bảo Bùi Minh Quốc: “Mày muốn đi Mỹ tao cấp visa cho”, dân mà sao có quyền cấp visa. Đúng là miệng lưỡi của nhà nước. Đúng là giấu đầu lòi đuôi! Ăn vụng không biết chùi mép! Ném đá mà không biết giấu tay như Bác Hồ của hắn!

Tấm biển chỉ đường của trí tuệ

Câu chuyện công an giả làm dân chửi nhà thơ Bùi Minh Quốc trên đây được trích từ Thư ngỏ gửi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, của Hà Sĩ Phu tức là phó Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ viết ngày 10-12-2005 và đăng ở Thư Nhà số 28, tháng 11&tháng 12 năm 2005. Với bút danh Hà Sĩ Phu, Nguyễn Xuân Tụ đã viết nhiều bài bình luận rất nổi tiếng phê phán chủ nghĩa Mác-Lê và chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam như Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ (1988), Đôi điều suy nghĩ của một công dân (1993), Chia tay ý thức hệ (1995)... Vì những bài viết đó, Hà Sĩ Phu đã bị Đảng trù dập bằng đủ các cách: tổ chức đụng xe để giựt xách tay, bị kết tội ăn cắp tài liệu bí mật của Nhà Nước, bị giam 8 tháng không xét xử, và sau cùng bị ở tù 2 năm tại nhà tức là bị quản chế hành chánh theo NĐ 31/CP do ông Võ Văn Kiệt ban hành.

Nhân đọc bài Qua Đà Lạt, thêm nhớ Trạng Quỳnh của tác giả H.N.D. (Nguyệt san Tin Nhà số 29 tháng Tám 1997), người viết xin đáp ứng bằng câu chuyện Tấm biển chỉ đường của Đảng sau đây.

Kiểm điểm các cách hành xử theo luật rừng của Đảng đối với Nguyễn Xuân Tụ, một công dân trí thức ưu tư về tiền đồ của Dân tộc và muốn đóng góp ý kiến để xây dựng Đất nước, Nguyễn Xuân Tụ còn bị một đòn đánh trả của Đảng hết sức ấu trĩ, trình độ lớp một lớp hai trường làng, theo lối Mày chửi tao thì tao chửi ông chửi cha mầy, hoặc theo lối Hàng tôm nguýt hàng cá. Vì ông đã viết bài Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ, vì Đảng không chấp nhận Tấm biển chỉ đường của trí tuệ đó, cho nên Đảng đã làm một tấm biển chỉ đường khác để trả đủa. Tấm biển chỉ đường của đảng chữ màu đỏ trên nền trắng được đặt ở ngay cổng vào khu chúng cư của Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt. Bạn bè của nhà phó Tiến sĩ Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ đến thăm ông đều được Đảng chỉ đúng nhà của ông bằng những dòng chữ đỏ màu máu như sau: Cảnh giác phát hiện và cương quyết đấu tranh vạch mặt phần tử chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước

Lời bàn: Đối chiếu hai tấm biển chỉ đường trên đây, hiển nhiên THIỆN ÁC đôi đàng tương phân rõ rệt. Dân tộc biết ngay bên THIỆN là người mang hoài bão xây dựng và phát triển Đất nước, người muốn đưa Đất nước đi lên theo sự hướng dẫn của trí tuệ. Còn phần tử ÁC, vì túi tham không đáy cố bám vào chức vị, nên đã chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước. Và chúng càng CÙNG HUNG CỰC ÁC vì đã huy động trọn cả bạo lực của công an để đàn áp Dân tộc và trọn cả truyền thông của báo và đài để xuyên tạc những thành tâm thiện chí của những người yêu nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ đúng truyền thống độc quyền yêu nước và độc quyền quản trị Đất nước theo cách riêng của mình. Ngày xưa, vì độc quyền yêu nước dối trá nên đang tâm sát hại biết bao nhiêu người yêu nước chân thật. Ngày nay, vì độc quyền quản trị Đất nước nên đã sinh ra biết bao nhiêu là giòi bọ đục khoét ngân quỹ và tài nguyên của Đất nước. Vì cai trị bằng công an, vì dùng công an để bảo vệ chế độ, nên công an lộng hành tự cho mình như vua chúa ngày xưa toàn quyền sinh sát trong tay.

Tên công an số một của Hồ Chí Minh

Hãy xem thủ đoạn và miệng lưỡi của tên Công an số một của Hồ Chí Minh, tức là Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn. Trong đời làm bộ trưởng công an dài 27 năm, từ 1953 đến 1980, Trần Quốc Hoàn là tay được Hồ Chí Minh đào tạo và tín nhiệm, nên hắn được Bác giao nhiệm vụ thủ tiêu cô Nông Thị Xuân. Nhưng trước đó, Bác giao cho hắn nhiệm vụ lo việc ăn ở cho cô và việc chuyên chở cô vào Phủ Chủ tịch mỗi khi Bác có nhu cầu. Cô gái người Nùng xinh đẹp và bất hạnh tên Xuân có diễm phúc được Bác Hồ yêu đương trong tình nghĩa gối chăn và sanh cho Bác một đứa con trai mà Bác đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Nhưng vì ngây thơ non dại nên cô Xuân mới xin Bác nhìn nhận mình là vợ chính thức. Hồ Chí Minh lếu láo bảo cô Xuân rằng: “Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được, nên phải chờ một thời gian nữa”. Cô Xuân tin lời Bác nên chờ một thời gian nữa. Cô chờ không lâu, chờ cho đến khi bị Trần Quốc Hoàn hiếp dâm, đập đầu cô chết, rồi quăng xác ra đường cho xe cán.

Người Việt Nam ai cũng có biết qua truyện Kiều, không nhiều thì ít. Người biết nhiều có khi thuộc lòng cả truyện gồm mấy ngàn câu. Ai biết ít thì cũng biết nhân vật SỞ KHANH trong truyện là người đáng nguyền rủa vì đã lường gạt cô Kiều. Do đó, cái tên sở khanh đã trở thành danh từ thông dụng để gọi bọn đàn ông lưu manh chuyên lường gạt các thiếu nữ ngây thơ trong trắng. Trong truyện Kiều, nhân vật Sở Khanh chỉ tuân theo mưu kế của Tú bà dụ dỗ nàng Kiều đi theo mình xây tổ uyên ương để rồi lọt vào bẫy của Tú bà. Vì thế, Thúy Kiều bị Tú bà bắt lại và bị ép làm gái mãi dâm. Tội của Sở Khanh với nàng Kiều chỉ là vậy. Còn tội của Hồ Chí Minh đối với cô Xuân thì thế nào, xin để cho quý bạn trẻ thẩm xét. Nhưng vì Bác là Cha già Dân tộc mà để Bác mang tiếng là sở khanh thì coi không được. Vậy quý bạn cố làm sao cho Bác khỏi mang tiếng sở khanh thì cứ làm! Bởi lẽ nếu để Bác mang tiếng là sở khanh, thì Bác còn tàn nhẫn và đáng nguyền rủa hơn Sở Khanh trong truyện Kiều gấp trăm gấp nghìn lần!

Chuyện án mạng của cô Xuân được Nguyễn Minh Cần tường thuật thật đầy đủ trong quyển Công lý đòi hỏi. Đây chỉ xin trích lời ăn tiếng nói của Trần Quốc Hoàn khi hắn hiếp dâm cô. Chuyện kể: Hoàn bước nhè nhẹ lên gác, nhếch mép cười một cách xỏ lá, rồi ôm ghì lấy cô Xuân và hôn cô. Cô Xuân xô Hoàn ra và nói: “Không được hỗn*! Tôi là vợ ông Chủ tịch nước”. Trần Quốc Hoàn cười một cách nhạo báng và nói: “Tôi biết bà to lắm, nhưng bà phải biết sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”. Rồi hắn lại nói tiếp, đoạn này vô cùng quan trọng, xin Dân tộc Việt Nam lắng nghe cho rõ lời nói của Trần Quốc Hoàn, tên Bộ trưởng Công an đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước khi hắn hiếp dâm cô Xuân, hắn nói: “Sinh mệnh tất cả Dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào, tùy ý. Và tôi nói cho bà biết*: ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi.”

Lời phát biểu của Trần Quốc Hoàn trước khi hiếp dâm cô Xuân rất đáng được các sử gia tương lai đào sâu và nghiên cứu. Còn “phong cách” tên bộ trưởng công an thỏa mãn thú tánh và diễn tiến cuộc hiếp dâm dã man thế nào, xin các bạn tìm đọc thêm trong quyển Công lý đòi hỏi của tác giả Nguyễn Minh Cần.

Bùi Tín cập nhật hóa truyện dài Công an

Vụ hiếp dâm ô nhục đó xảy ra vào khoảng tháng 2 năm 1957, đến nay 50 năm đã trôi qua. Tiếp nối theo truyền thống của Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn, hai, ba thế hệ công an hậu duệ sau đó đã tàn phá và biến dải giang sơn gấm vóc Việt Nam thành Nhà tù khổng lồ và Địa ngục trần gian. Để cập nhật hóa truyện dài công an, xin trích một đoạn ngắn trong bài Cuộc sát hạch gay go của nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền Bùi Tín, viết từ Paris, Pháp Quốc, ngày 20-1-2007. Bùi Tín viết: “Cho đến hiện nay, dưới sự cai trị của đảng CS, mới có những chuyện kỳ quái là viên cựu sỹ quan công an ở tỉnh Hòa Bình nhét cứt lợn vào mồm người ở là cô Nguyễn Thị Thương, Luật sư Bùi Kim Thành bị công an trói và đưa vào bệnh viện tâm thần dù bà vẫn minh mẫn bênh người dân oan, hay thiếu tá công an ác ôn Võ Thị Hiền ở Plây-ku ra lệnh cởi truồng Mục sư Nguyễn Công Chính và đánh hiểm vào hạ bộ ông”.

Bùi Tín tường thuật 3 kỳ công kỳ cục của công an và nói lên tiếng nói bất mãn của mình đồng thuận với Dân tộc: “Chúng ta, toàn dân ta, mọi người thật lòng yêu nước thương dân phải cùng kêu lên: đảng quyền kiểu Stalin và Mao 61 năm, quá đủ rồi! Tôi không hề bất mãn cá nhân, không hề muốn gây loạn, nhưng lương tâm con người đòi hỏi phải thét lên như thế. Ai là người Việt mà không phẫn nộ trước những sự việc bất nhân tàn bạo đến vậy”.

Bầy ác thú của Hồ Chí Minh

Khổ nạn của Mục sư Nguyễn Công Chính trong ngày 24-9-2004 được Cơ quan Human Rights Watch tố cáo (ngày 21-10-2004) trước Tòa án Lương tâm Nhân loại như sau: “Gần đây vào sáng 24 tháng 9 vừa qua, hơn 200 cảnh sát vũ trang thuộc đơn vị 113 của Việt Nam đã đột nhập bất ngờ tấn công nhà thờ và nơi ở của Mục sư Nguyễn Công Chính tại tỉnh Kontum. Họ đã tịch thu tài sản, đốt nhà thờ và nhà ở của Mục sư Chính. Tuy đã chạy trốn nhưng vợ và các con Mục sư đã bị bắt lên trụ sở quận Vinh Quang từ 9:30 sáng đến 4:30 chiều. Vợ Mục sư đã bị đánh vào bụng trong khi mang thai 7 tháng.”

Lời bàn: Người công an Cộng sản đã ĐÁNH VÀO BỤNG NGƯỜI MẸ ĐANG MANG THAI 7 THÁNG! Hắn là người ác? Hay là người cùng hung cực ác? Không! Hắn không phải là người, hắn chính là thú vật, một con thú trong bầy ác thú của Hồ Chí Minh! Có một nữ tác giả viết quyển Ngàn giọt lệ rơi (đó là tác phẩm A Thousand Tears Falling của Yung Krall, nhũ danh Đặng Mỹ Dung) để diễn tả cảnh phân ly tan vỡ mà gia đình bà phải gánh chịu trong cuộc chiến. Vì Tình mẫu tử thiêng liêng mà Thượng Đế trao ban cho những bậc Hiền mẫu của loài người, cúi xin những Bà mẹ khắp nơi trên thế giới hướng tâm về nước Việt Nam đau khổ và cầu nguyện cho Dân tộc Việt Nam, một Dân tộc đã đổ cả triệu triệu giọt lệ rơi trong suốt thời gian loạn lạc từ năm 1945 cho mãi đến tận bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007! Xin cầu nguyện cho bầy ác thú Hồ Chí Minh sớm trở lại thành người!

Hoàng Hải Thủy viết ở Rừng Phong

Viết ở Rừng Phong, Công tử Hà Đông tức nhà văn Hoàng Hải Thủy nhận xét về Việt Cộng rằng chúng không còn theo chủ nghĩa Cộng sản, không còn tin theo Mác-Lê nữa, nhưng chúng vẫn giữ những đặc tính của bọn Cộng sản. Những đặc tính ấy là: Ngu-Ác-Tham-Bẩn-Đểu.

Đó là những đặc tính cần và phải có đầy đủ mới có thể trở thành Tỷ phú Mỹ kim tại Việt Nam là một trong 10 nước nghèo nhất và trong 20 nước tham nhũng nhất thế giới. Theo bức điện thư số 39, đề ngày 9-2-2005 của Câu lạc bộ Dân chủ Việt Nam trích dẫn nguồn tin tuyệt mật được tiết lộ do một quan chức cao cấp của Bộ Công an (xin được giấu tên), thì danh sách các quan chức cao cấp Việt Nam có trương mục từ 500 triệu USD lên đến hơn 2 tỷ USD với nhiều tấn vàng gửi tại ngân hàng Thụy Sỹ như sau: Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Đương kim Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà, Đương kim Thủ tướng Phan Văn Khải, Cựu Tổng bí thư Đỗ Mười, Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Đương kim Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, Đương kim Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Đương kim Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng, Cựu Thứ trưởng Bộ Thương mãi Mai Văn Dâu, Cựu Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Cựu Phó Ủy ban Thể dục Thể thao Lương Quốc Dũng…

Danh sách còn dài... nhưng rất tiếc chỉ diễn tả sự tình vào năm 2005 mà không được cập nhật hóa đến 2007. Bây giờ có ai đặt câu hỏi những Quan chức đỏ trên đã buôn bán món hàng gì hay đã làm nghề gì mà giàu đến như thế không? Chắc không ai muốn tìm câu trả lời, nếu có ai thắc mắc, xin mời đọc câu chuyện sau đây.

Chuyện một cô giáo yêu nghề

Nói tới chuyện nghề nghiệp và câu hỏi các Quan chức đỏ đã làm nghề gì, người viết mới nhớ lại câu chuyện một cô giáo yêu nghề gặp khổ nạn vì cô đã dạy bài đức dục về Nghề nghiệp theo đúng phương pháp sư phạm. Lúc đó vào khoảng 1964, Việt Cộng thường đắp mô trên đoạn đường từ Cần Giuộc tới Cần Đước, người viết được biệt phái theo Tiểu đoàn 2 TQLC để giữ an ninh vùng đó. Câu chuyện trên được truyền tụng trong giới giáo chức và phụ huynh học sinh như sau: một cô giáo dạy lớp Tư trường tiểu học Chợ Trạm, Cần Giuộc, cô yêu nghề mến trẻ và rất tận tụy. Một hôm, cô dạy bài đức dục về Nghề nghiệp. Theo đúng phương pháp sư phạm, cô giáo bắt đầu bài học bằng câu hỏi gợi ý. Với câu hỏi: “Ba em làm nghề gì?”, cô lần lượt hỏi vài ba em học sinh. Em thứ nhất trả lời “Ba em làm ruộng”. Em thứ hai trả lời “Ba em làm thợ mộc”. Đến em thứ ba thì em nói “Ba em làm Việt Cộng”. Cô giáo hoảng sợ, không hỏi nữa và cho học trò chép bài. Vài hôm sau, trong lúc cô giáo đang dạy, thì có ba bốn Việt Cộng mang vũ khí vào lớp, bịt mắt cô và giải cô đi, học sinh ngơ ngác nhìn theo, kinh hoàng!

Chúng dẫn cô giáo đi lanh quanh đến nửa đêm mới đến địa điểm Tòa án Nhân dân. Cô bị kết tội đã làm việc lãnh lương của Mỹ Ngụy mà còn thêm tội thứ hai là làm gián điệp cho giặc để truy tầm tố cáo những người làm cách mạng. Tội làm gián điệp là tội rất nặng đáng chết nên cô bị nhân dân kết án tử hình. Đảng lại bày trò mị dân: Tòa án Nhân dân thì kết án tử hình, nhưng Cách mạng lại khoan hồng, cô giáo được Đảng tha tội vì chỉ mới phạm lần đầu. Sau vụ khủng bố kinh hồn đó, cô giáo được thuyên chuyển về ngôi trường khác an ninh hơn.

Lời bàn: Xưa nay theo tình tự Dân tộc, chúng ta thường liệt kê nghề nghiệp trong xã hội bằng thành ngữ đơn giản như Sĩ Nông Công Thương hay Ngư Tiều Canh Mục. Sự giàu có dư dả được dẫn giải theo nhân sinh quan đại phú do thiên, tiểu phú do cần. Nhưng các quan chức đỏ trong triều đại Hồ Chí Minh làm nghề Việt Cộng, và đã thành đại đại phú, điều đó xin được diễn tả bằng phương trình toán học đơn giản như sau: Quan chức đỏ làm nghề Việt Cộng = Tỷ phú Mỹ kim

Lời bàn thứ hai: Đây thêm một điểm son của chế độ VNCH của miền Nam! Em bé học lớp Tư trong chuyện kể trên, dù có Ba làm Việt Cộng, vẫn được đi học bình thường trong tình tương thân tương ái của các bạn đồng lớp và được các thầy cô trong trường dạy dỗ tận tâm như những em bé khác. Do đó, ba của em vẫn được yên tâm đi làm Việt Cộng để đánh phá sát hại Dân tộc. Ở miền Nam vào thuở đó không phải chỉ có một em bé học lớp tư trường Chợ Trạm là có cha làm Việt Cộng đâu, mà là có cả ngàn cả vạn em bé như vậy! Những chiến sĩ VNCH đổ xương máu ở khắp chiến trường miền Nam ngăn chận Làn sóng đỏ để xây dựng một xã hội đầy tình người đẹp như vậy. Thật đáng tiếc vô cùng, chúng ta đã thất bại! Trong sự thất bại vô cùng to lớn đó, chúng ta đành ngậm ngùi với niềm an ủi nhỏ nhoi: Chúng ta không thành công, nhưng chúng ta đã thành nhân.

Bài viết của Dương Thu Hương

Trong bài viết của Dương Thu Hương với tựa đề khá táo bạo Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền, nhà văn nữ nói tới một số vụ làm ăn của các Bự giòi. Con thì ăn cắp một nửa số xi-măng đổ lòng hồ Thủy điện Hòa Bình khiến mỗi năm một lần phải mời chuyên viên Hà Lan sang hàn vết nứt, mỗi lần tốn kém hàng trăm triệu USD và các ngân hàng bị huy động chạy nháo nhác như cứu hỏa. Con thì mua tàu bãi rác của Hải quân Nga thải đi sơn quét lại mang về lúc diễn tập sự việc mới đổ bể. Con thì mua tên lửa Nga đã tịt ngòi mang về bắn không nổ, mang tàu trục vớt không được phải thuê dân chài mò lên. Con thì rút ngân quỹ quốc gia cho vợ trổ tài xây sân bay trên đảo tốn hàng tỷ USD, ngày khánh thành cả sân bay, máy bay và phi công bị sập chìm xuống biển vô tăm tích, báo chí không được phép đưa tin*; đương nhiên Quốc hội cũng không được báo cáo v.v. và v.v…

Trở lại bài viết Là để ỉa vào mặt kẻ cầm quyền, Dương Thu Hương cho biết vào khoảng thời gian đó (năm 2005), ở Hà Nội có lưu truyền bản photocopie trên đó đăng thứ tự 50 con Giòi hạng một, những con Giòi chủ ngân khoản nhà băng khắp thế giới, nhiều nhất là Mỹ và Thụy Sĩ, mức tiền gởi thấp nhất trên 600 triệu USD. Bà viết rằng không đủ giấy và thời gian để liệt kê hết 50 con Giòi cấp 1, làm sao có thể đủ kiên nhẫn kể những con Giòi cấp 2 và cấp 3, cho nên bà viết tiếp:

“Tôi chỉ biết rằng sự tàn nhẫn khốc liệt đang hoành hành trên xứ sở này nơi đám công tử đỏ đánh canh bạc cả trăm nghìn USD, cưỡi máy bay đi chơi gái Hồng Kông như người ta xuống đường đổ rác, trong khi con cái nông dân thất học vì không tiền mua vở, bao nhiêu người chết bệnh vì không tiền chữa, thậm chí có người bị trâu đâm lòi ruột bệnh viện cũng không cứu cấp vì... không đủ tiền nhập viện...”

Câu chuyện hai tấm biển

Trong niềm đau khổ cùng cực của Dân tộc, chúng ta, cả Dân tộc, xin đồng thuận với Bùi Tín trong lời kêu gọi: “Chúng ta, toàn dân ta, mọi người thật lòng yêu nước thương dân phải cùng kêu lên: đảng quyền kiểu Stalin và Mao 61 năm, quá đủ rồi.”

Đảng phải trả Đất nước lại cho Dân tộc. Dân tộc sẽ trả lại Đảng những gì Đảng làm, tỷ như tấm biển chỉ đường chữ màu máu đỏ: Cảnh giác phát hiện và cương quyết đấu tranh vạch mặt phần tử chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất nước.

Đó là Tấm biển của Đảng mà Đảng đã làm và đặt tại cổng vào khu chung cư của Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt. Tấm biển ấu trĩ của cái đảng ấu trĩ đó, Dân tộc sẽ tưng bừng hoàn trả lại cho Đảng để Đảng mang về đặt ở hang Pắc Bó, nơi Hồ Chí Minh cư ngụ ngày xưa với đồi Mác và suối Lênin.

Và Dân tộc cũng xin làm một tấm biển thứ hai, Tấm biển của Dân tộc, ghi lại nguyên văn lời phát biểu của Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an số một của Hồ Chí Minh, trước khi hiếp dâm cô Nông Thị Xuân (Cô là bồ nhí của Hồ Chí Minh và đã sanh cho HCM một đứa con trai là Nguyễn Tất Trung). Đây tấm biển của Dân tộc làm cho Đảng: «Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào tùy ý, và tôi nói cho bà biết*: ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi» (Danh ngôn của Trần Quốc Hoàn, Công an số một của Hồ Chí Minh)

Sắp xếp lại theo trật tự tiến hóa của nền văn minh nhân loại, và vì Tiền đồ của Dân tộc Việt, hai tấm biển, Tấm biển của Đảng và Tấm biển của Dân tộc làm cho Đảng, cả hai tấm biển đó xin được trang trọng đặt ở hai bên cửa hang để trang trí cho hang Pắc Bó của Hồ Chí Minh. Và tên tuổi những người đấu tranh dân chủ và nhân quyền cho Dân tộc như Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ và biết bao người khác nữa xin được lưu truyền như những điểm son trong sử xanh xứng danh là bậc Sĩ phu Bắc Hà của miền đất thiêng Nghìn năm Văn vật.

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Bịt miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney

Chương 6
Tư Tưởng Hồ Chí Minh

Bàn về mối tương quan giữa văn phong và tác giả, một văn sĩ Pháp có nói: “Văn tức là người”. Ở phương Đông, các bậc hiền giả dùng văn chương để giảng dạy nhân luân đạo nghĩa như câu của thánh hiền: “Văn dĩ tải đạo”. Cho nên để tìm hiểu con người Hồ Chí Minh, ta thử xem qua những ngôn từ ông phát biểu và trích vài đoạn văn thơ ông ta viết để xem bản chất chân tướng và tâm địa của ông ra sao! Sau đó ta nghiệm xem Hồ Chí Minh có xây dựng được hệ tư tưởng nào để đóng góp vào nền văn minh văn hóa cho Dân tộc Việt Nam.

Đã vô thần mà còn phê bình Đức Phật

Trong sách của trường Đại học Nhân văn, khoa Tâm lý học, đoạn nói về Đức, lời Hồ Chí Minh như sau: “Có đức mà không có tài như ông Bụt (Phật), thì không có hại gì cho xã hội, nhưng cũng chẳng có ích lợi gì cho xã hội”. Văn liệu nầy được trích từ điều 8 trong thư của huynh trưởng Hồ Tấn Anh gởi cho ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, các Tổ chức Nhân quyền và các Chánh phủ trên khắp thế giới trước khi tự thiêu ngày 2-9-2001 để phản đối và tố cáo Chính phủ Hà Nội đàn áp Phật giáo (Lá thư được tác giả Trần Viết Đại Hưng sưu tầm và trích đăng trong quyển Đối lập mặc áo cà sa và chùng thâm, trang 202). Trước lá thư tuyệt mạng nầy, Huynh trưởng Hồ Tấn Anh đã viết tất cả 249 lá thư phản đối và trình bày sự việc đàn áp, bất công đối với Phật giáo, gửi các cơ quan công quyền Cộng sản từ Quảng Nam ra đến Hà Nội. Giống như cuộc nói chuyện với người điếc và câm, những lá thư đầy tâm huyết nầy cũng như những trang giấy lộn gửi cho bọn người mù chữ: Cộng sản càng ra sức đàn áp Phật giáo mà Quảng Nam Đà Nẵng là nơi bị đàn áp khốc liệt nhất!

Trong phạm vi tâm linh và tôn giáo, luật pháp vẫn dành tự do cho những người không tin tưởng Thánh Thần cùng Đức Phật và Đức Chúa. Đó là Tự do Tín ngưỡng và những người không tin như vậy có thể vỗ ngực tự xưng rằng mình là vô thần. Trong những nước tự do dân chủ, những người công dân dù là hữu thần hay vô thần vẫn sống hòa hợp bên nhau. Nhưng người Cộng sản vô thần thì không được như vậy. Người Cộng sản mà vô thần thì còn là vô đạo, vô luân, vô lễ giáo, bất nhân, bất nghĩa, bất lương, bất hợp quần, đứng ở lập trường vô thần của mình, nhìn những người hữu thần như kẻ thù cần phải tiêu diệt. Đó là nguyên nhân gây bất hạnh cho Dân tộc Việt Nam, vì khi Hồ Chí Minh về Hà Nội đọc Tuyên ngôn Độc lập dối trá, thì ông đã là người Cộng sản vô thần xem tôn giáo như là thuốc phiện cần phải giải trừ theo chính sách vô tôn giáo của các bậc thầy Lênin và Stalin. Đúng ngay ngày 19-8-1945 là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông, đất bằng bỗng dậy sóng. Sư phụ của thầy Thích Quảng Độ là Hòa thượng Thích Đức Hải bị tòa án nhân dân vu cáo về tội “Việt gian bán nước” và bị kết án tử hình. Chúng đánh đập Hòa thượng hết sức dã man trước khi hành quyết, trước sự chứng kiến của thầy Thích Quảng Độ lúc đó chỉ mới 18 tuổi.

Hai câu lục bát trong truyện Kiều của Nguyễn Du “Có tài mà cậy chi tài - Chữ tài liền với chữ tai một vần” mà người Việt nào cũng ghi nhớ để trau dồi đức tính khiêm cung, đức tính mà Hồ Chí Minh dẫm đạp dưới chân để tiến bước trên con đường lập dị tự mình viết sách để thần thánh hóa mình. Còn bàn về tương quan nghiệp quả giữa Tài và Đức, thì một nhà hiền triết phương Đông có nói: “Người có đức mà không có tài là người hiền. Còn người có tài mà không có đức là người ác”. Khi Hồ Chí Minh cho rằng Đức Phật không có tài thì chúng ta còn có thể miễn cưỡng, nhưng khi ông cho rằng vì Đức Phật chỉ có đức mà không có tài nên cũng chẳng có ích lợi gì cho xã hội, thì ông tự thú nhận rằng chữ đức không quan trọng trong việc ích nước lợi dân. Nhân sinh quan Hồ Chí Minh như vậy thật sai lầm và tai hại vô cùng. Trong Tình tự Dân tộc, Tài và Đức được xem trọng ngang nhau. Thành ngữ Tài đức vẹn toàn là để tôn vinh những bậc minh quân và những vị quan cầm cân nẩy mực có tài kinh bang tế thế và nhân từ đức độ trong lịch sử mà triều đại nào cũng có. Chữ Hiền tài trong ngôn ngữ của ta cũng bao gồm hai khía cạnh hiền đức và tài ba. Bởi trọng tài khinh đức như vậy, nên Hồ Chí Minh đã thành người cai trị BẠC ĐỨC NHẤT và TÀN ÁC NHẤT trong lịch sử Việt Nam.

Nhưng bạn đọc thân mến ơi! Khi chúng ta luận về Tài và Đức của Đức Phật, Đức Khổng hay Đức Chúa, thì chúng ta đã lọt vào bẫy của Hồ Chí Minh rồi. Trong những xã hội dân chủ văn minh, chúng ta phân biệt thần quyền và thế quyền. Thần quyền dành cho những bậc tu hành chân chính, còn thế quyền là phạm vi hoạt động của những chính trị gia ở ngoài đời. Xuyên suốt dòng lịch sử, Hồ Chí Minh là người lãnh đạo chuyên dùng bạo lực công an và bộ đội để tóm thâu cả thần quyền và thế quyền trong tay mình. Chờ cho có thế mạnh trong tay, tức là lúc Mao Trạch Đông làm chủ nước Trung Hoa, Hồ Chí Minh có chỗ tựa vững chắc ở phương Bắc mới leo thang chiến tranh đánh Dân tộc và tung ra khẩu hiệu mới*: “Tiêu diệt năm thành phần của xã hội: trí phú địa hào và tôn giáo lưu manh”, thêm “Tôn giáo vào hàng ngũ phản động cần phải tiêu diệt”, vì khẩu hiệu “Trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” thì đã có từ lúc thiết lập phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 rồi. Xin đọc lại bức thư của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang gởi cho các ông Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải và Nông Đức Mạnh ngày 21-4-2000: “…Năm 1950, sống ở Liên khu 5 vào thời Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động chiến dịch Cải cách Ruộng đất, tôi đã từng nghe cán bộ và loa phóng thanh ra rả ngày đêm kêu gọi nhân dân tiêu diệt năm thành phần xã hội “Trí, phú, địa, hào, và tôn giáo lưu manh”. Mười ngón tay mà chặt mất năm thì còn lại gì? Năm 1951, ông Nguyễn Duy Trinh, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu 5, đại diện Chính phủ Trung ương, tuyên bố rằng Phật giáo đã đến lúc cáo chung.”

Nhà Phật có muôn kinh vạn quyển gồm Kinh, Luật và Luận sưu tầm qua 4 kỳ Kiết Tập Kinh Điển. Lời Phật dạy vô vàn, học suốt đời biết có hết được chăng*? Chỉ bàn về điều đầu tiên của Ngũ giới là Cấm sát sanh vì đại lượng từ bi thương yêu tất cả chúng sinh, biết trọn đời chúng ta có giữ vẹn được hay chăng! Chỉ một án mạng là giết Nông Thị Xuân, người thiếu nữ ngây thơ trong trắng mà “Hồ Chí Minh Nguyễn Tất Thành” đã từng ân ái và sanh cho ông đứa con trai Nguyễn Tất Trung, ông đã phạm trọng tội sát sanh rồi, huống hồ ông là kẻ gây ra cuộc chiến tranh sát hại năm, sáu triệu nhân mạng và gây thương tật cả 10 triệu người. Trong Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc, vô số người bị xử tử vì bị vu cáo là Việt gian bán nước trong Lễ Tế cờ của ông, vô số người tử trận ở hai bên chiến tuyến có khi là bà con hay anh em một nhà, vô số người chết dọc đường mòn Hồ Chí Minh vì bị rắn độc cắn, bị thú dữ vồ, bị sa chân xuống vực sâu, bị chết đói vì lạc đường (tác giả Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết có kể đến 10 kiểu chết khác nhau, tác giả Xuân Vũ trong quyển Đường đi không đến kể thêm 1 kiểu chết khác nữa là “bị bắn tầm đạn gần từ sau gáy”!), vô số người chết trong các ngục tù giả danh là Trại Học tập Cải tạo, vô số người chết ngoài biển cả khi vượt biên vượt biển tìm tự do.

Đến đây, xin mở dấu ngoặc để bàn về nạn Hải tặc Thái Lan. Trong số những thuyền nhân bất hạnh bỏ mạng trên đường vượt biên, có những người là nạn nhân của Hải tặc Thái Lan. Vì xảy ra trên vịnh Thái Lan, nên dư luận cho rằng do người Thái Lan gây ra. Xét vì dân Thái rất sùng đạo, gần như hầu hết những người thanh niên Thái để chuẩn bị bước vào đời thường phải vào chùa học đạo trong một thời gian từ một tháng đến ba tháng cho nên ba giới cấm căn bản của Ngũ giới là cấm Sát sanh, cấm Trộm cắp và Cấm Tà dâm hẳn người Phật tử Thái phải giữ nằm lòng. Vì thế có dư luận cho rằng đa số các hải tặc không phải là người Thái mà chính là nhóm người Việt ở Bắc Thái, tức là nhóm người đã gia nhập đảng Cộng sản Xiêm do Hồ Chí Minh thành lập hồi thập niên 20. Nghi vấn nầy có cái lý của nó ở điểm người Phật tử Thái rất sùng đạo còn các người Việt ở Bắc Thái là Cộng sản vô thần. Hồ Chí Minh một lòng theo Mác Lê trọn đời, cho đến lúc chết cũng để lại di ngôn sẽ gặp các ông tổ Cộng sản ở phía bên kia thế giới, cho nên ông đã phạm vô vàn tội ác mà không biết ăn năn sám hối, mà lại còn phê bình “Đức Phật không có tài ba” này nọ. Lời phê bình bất kính của Hồ Chí Minh đối với Đức Phật chỉ đáng vất vào sọt rác lịch sử mà thôi! Cũng đáng vất vào sọt rác lịch sử nhiều thứ khác nữa của Hồ Chí Minh, như Chủ trương Tam vô, Sách lược Đấu tranh Giai cấp v.v…

Riêng về thủ đoạn của Cộng sản tiêu diệt Phật giáo, xin một nén tâm hương cúng dường và một phút mặc niệm cho Huynh trưởng Hồ Tấn Anh cùng các vị Tăng ni và Phật tử khác đã tự thiêu để phản đối chính phủ Hà Nội đàn áp và tiêu diệt Phật giáo. Huynh trưởng Hồ Tấn Anh đã cùng 13 Huynh trưởng thuộc Gia đình Phật tử Quảng Nam phát nguyện tự thiêu để bảo vệ Chánh Pháp, và ông là người đi đầu. Xin nhắc trong số Phật tử đã tự thiêu để phản đối Chính phủ Cộng sản vô thần đàn áp tôn giáo, ta có thể kể:

- Phật tử Nguyễn Tấn Dũng tự thiêu tại Huế ngày 21-5-1993. Việt Cộng đổi tên người tự thiêu là Đào Quang Hộ và vu khống rằng ông buồn chuyện gia đình nên mới đi tìm cái chết.

- Đại đức Thích Huệ Thâu 43 tuổi, tự thiêu ngày 28-5-1994 tại Tịnh xá Ngọc Phật ở Ba Càng, Vĩnh Long.

- Bà Nguyễn Thị Thu, Phật giáo Hòa Hảo, 75 tuổi, tự thiêu ngày 19-3-2001 trên đường đến chợ Cái Tàu Hạ xã Tân Hội, tỉnh Đồng Tháp để đòi Việt Cộng trả tự do cho cụ Lê Quang Liêm và đòi ngưng đàn áp Phật giáo Hòa Hảo. Nhục thân của bà Thu bị Việt Cộng cướp đi và không chịu trả lại cho thân nhân làm lễ an táng.

- Cô nữ sinh viên Phật tử người Đức Sabine Kratze pháp danh Từ Tâm. Năm 1991, cô Sabine sang Việt Nam học tiếng Việt ở Sài Gòn và tốt nghiệp thủ khoa năm 1994. Sau đó cô theo học ngành y dược Dân tộc, cô đi thăm viếng nhiều danh lam cổ tự từ Nam chí Bắc, rồi cô quy y với pháp danh là Từ Tâm và thụ trường trai. Đến khi nghe tin về vụ xử Thầy Thích Quảng Độ và Chư tăng Phật tử ngày 15-8-1995, cô Sabine Từ Tâm vô cùng xúc động và tự thiêu ngày 2-9-1995 cúng dường Chánh pháp để phản đối vụ án bất công phi pháp của Việt Cộng và cầu nguyện cho GHPGVNTN sớm thoát cảnh Pháp nạn.

- Nhưng bi hùng nhất là Vụ tự thiêu tập thể của 12 vị Tăng Ni tại chùa Dược Sư ở Cần Thơ ngày 2-11-1975. Về vụ việc nầy, Việt Cộng vu khống các tăng ni hủ hóa với người ngoài và tự hủy mình vì xấu hổ. Chúng đưa Thầy Thích Quảng Độ xuống Cần Thơ và yêu cầu thầy ký vào biên bản chúng ngụy tạo, nhưng Thầy nhất định không ký.

- Phật tử Phạm Gia Bình, trường hợp rất đặc biệt vì anh vốn là thuyền nhân, định cư ở Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Anh tự thiêu lúc 7 giờ sáng ngày 6-4-1993 để lại các bức thư tố cáo CS đàn áp Phật giáo gởi cho Tổng thống Clinton, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Cư sĩ Võ Văn Ái, và chư Tăng ni, Cư sĩ.

Đã bán nước mà còn khoe tài

Khoảng năm 1947, trong buổi viếng thăm đền Kiếp Bạc ở Hải Dương thờ Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Hồ Chí Minh có làm một bài thơ Đường nhan đề Viếng đền Kiếp Bạc. Bài thơ như sau:

Cũng là hào kiệt, cũng anh hùng
Tôi Bác cùng chung nợ kiếm cung
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng tôi Cách mạng sắp thành công

Bài thơ tưởng rằng có khẩu khí anh hùng, nào ngờ nó lại nói lên tính tình ngạo mạn vì Hồ Chí Minh đã xưng “Tôi tôi Bác bác” như người ngang hàng với Đức Thánh Trần, vị anh hùng Dân tộc mà ai ai cũng một lòng tôn kính. Chúng ta thường ví những người dân trong nước như những đứa con của một Đại Gia tộc vì chúng ta vẫn tin ở Truyền thuyết Một Mẹ Trăm Con, truyền thuyết mà chúng ta hãnh diện và giữ gìn như gia bảo thiêng liêng. Thử tưởng tượng trong ngày kỵ giỗ của một bậc tiên hiền của Đại gia tộc như Đức Thánh Trần đã hai lần đại phá quân Nguyên, trong lúc những đứa con hiếu thuận của Đại Gia tộc Việt Nam đều thành tâm cúng bái để tưởng niệm công đức của Ngài, thì đứa con ngỗ nghịch là Hồ Chí Minh leo lên bàn thờ ngồi để “Tôi tôi Bác Bác” với Ngài như người ngang hàng với mình và lại còn khoe mình tài ba hơn Ngài. Như vậy thì xem tội Phạm thượng và Bất kính của Hồ Chí Minh có đáng bị đánh đòn hay không? Đáng lắm chứ! Nhưng phạt đòn thì còn quá nhẹ!

Đứa con ngỗ nghịch của Dân tộc là Hồ Chí Minh đáng bị đánh đòn thật, nhưng trước khi phạt đòn, xin đọc lời luận tội của Bác sĩ Phan Quang Đán bằng bài thơ họa Hỏi tội Hồ tặc (trích Nguyệt san Bất khuất, số 2 tháng 4 năm 1990, trang 47):

Bớ tên Hồ tặc, Vẹm gian hùng
Dám sánh Đức Trần nghiệp kiếm cung!
Mi đứa tay sai Sô-Viết đỏ
Ngài vì sao sáng giống nòi Hồng
Bình Nguyên Ngài cứu non sông Việt
Tổ quốc mi quên nghĩa cộng đồng
Nô lệ toàn dân nay đói rách
Như mi bán nước tội hay công?

Bác sĩ Phan Quang Đán dùng bài thơ họa Hỏi tội Hồ tặc cũng chưa luận hết tội, nên ông phán thêm vài lời như sau: “Tên Hồ Chí Minh văn bất thành cú, làm tay sai cho ngoại bang, lưu manh, tàn ác, gieo rắc căm thù oán hận, phá hoại đoàn kết Dân tộc, hy sinh xương máu hàng triệu người, làm mất nước, dân thành nô lệ, đói rách kêu không thấu trời. Đức Trần Hưng Đạo và tên Hồ Chí Minh khác nhau một trời một vực, một bên là thiên thần, một bên là quỷ sứ vậy!”

Luận về tội Hồ Chí Minh đã phạm thì vô cùng bất tận! Nhưng đối chiếu với chiến công hiển hách của Đức Thánh Trần hai lần đại phá quân Nguyên để bảo toàn bờ cõi, tội của “Quỷ sứ Hồ Chí Minh” để làm mất đất, mất biển, mất hải đảo của Tổ quốc thì không tội nào lớn bằng (“Quỷ sứ” chữ của Bác sĩ Phan Quang Đán). Sự việc mất đất xảy ra ở biên giới Việt Hoa, xin đọc quyển Ma đầu Hồ Chí Minh, tác giả Hoàng Quốc Kỳ (trang 199):

“Từ năm 1950, lợi dụng phía Việt Nam đang bận rộn chiến cuộc, Trung Cộng cho quân lén dời cột mốc từ Mường Te đến Móng Cáy sâu vào nội địa Việt Nam, có chỗ đến hàng cây số. Từ năm 1954 trở đi, họ vẫn tiếp tục nửa đùa nửa thật, vừa lén lút lấn đất của ta theo các kiểu sau đây. Lính Trung Cộng thường xuyên sang phía biên giới Việt Nam cười cợt với bộ đội Việt cộng để mượn chậu, xin nước giặt giũ. Giặt xong, họ tắm luôn. Trước khi tắm, họ đóng bốn cái cọc rồi lấy vải nhựa (nylon) quây chung quanh. Tắm xong, họ cứ để nguyên cái “phòng tắm” như vậy, còn để cả hộp xà phòng, khăn lau ở đấy. Dĩ nhiên, bộ đội Việt cộng đâu dám động tới những thứ đó, vì sợ mất “tình hữu nghị”. Rồi thì chiều nào, họ cũng sang tắm giặt một cách rất tự nhiên. Lâu ngày, họ dựng cả nhà ở ngay bên cạnh “phòng tắm”. Thế là khoảng đất ấy thuộc về họ. Cách thứ hai là họ trồng các thứ bí, khoai… cho bò qua biên giới Việt Nam. Bộ đội Việt cộng lại càng không dám đụng tới, vì sợ mang tội ăn cắp hay phá hoại sản xuất của “nước bạn”. Và cứ thế, họ cuốc lấn dần, lấn dần vào đất của ta, mỗi mùa một quãng. Cách thứ ba, lợi dụng những đêm tối trời, mưa to gió lớn, họ đi dời những cột mốc sâu vào phần đất Việt Nam. Tình hình đó được cả trăm trạm tiền tiêu dọc biên giới Việt Hoa báo cáo lên chính phủ, nhưng Hồ Chí Minh cam tâm im lặng để Trung Cộng không ngừng lấn tới. Đã thế, “Bác” còn già mồm hứa hão rằng sẽ đi gặp bác Mao giải quyết trong tình hữu nghị”.

Hồ Chí Minh chỉ hứa hão như thế cho xong chuyện mất đất ở biên giới. Còn việc mất hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì đã có Phạm Văn Đồng đứng ra chịu đạn vì chính Phạm Văn Đồng lúc đó giữ chức Thủ tướng đã ký Công hàm ngày 14-9-1958 xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo đó. Trong một chế độ mà Hồ Chí Minh được tôn vinh là “Cha già Dân tộc” và đã tự hào phát biểu (với tướng Salan của Pháp năm 1946): “Họ làm được cái gì mà không có tôi? Chính tôi đã tác thành cho họ mà!”. “Họ” đây là những Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh, Lê Duẩn…

Giáo sư P.J. Honey, một học giả rất am tường về Cộng sản Việt Nam, vì chính ông đã giảng dạy môn nầy bằng tiếng Việt tại đại học Luân Đôn và ông cũng là cố vấn của Ban Việt ngữ đài BBC trong một thời gian dài, đã nói về uy quyền và sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh trong Đảng như sau (Trích Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp, tác giả Minh Võ, trang 315): “Chỉ một mình ông (Hồ) quyết định những vấn đề chính trị cao cấp, còn những kẻ khác, kể cả các ủy viên Bộ Chính trị, chỉ có việc chấp nhận và tuân hành mệnh lệnh của ông về các vấn đề liên quan.”

Cho nên việc thủ tướng Phạm Văn Đồng ký công hàm giao hai quần đảo cho Trung Quốc được tác giả Hoàng Quốc Kỳ diễn tả là “do Hồ Chí Minh cầm tay Phạm Văn Đồng ký” giống như cô giáo cầm tay em bé lớp vỡ lòng viết những chữ A, B, C đầu đời. Thêm một trường hợp Hồ Chí Minh chơi trò Ném đá giấu tay: “Bác” đã ký tên bán Nước bằng bàn tay của Phạm Văn Đồng.

Về chủ quyền hai quần đảo Trường Sa (Spratly) và Hoàng Sa (Paracel) được tác giả Lê Văn Ngộ trong Hội Đồng hương Tây Ninh ở Sydney nghiên cứu rất tường tận trong tác phẩm Mùa xuân cho Dân tộc Việt Nam (xuất bản ở Sydney năm 1999). Tác giả Lê Văn Ngộ trưng dẫn rất nhiều tài liệu như Trường Sa Nhất Nhật Trình đời vua Lê Thánh Tôn (thế kỷ 15), Thiên Nam Tứ Chi Lộ Đồ Thư năm 1700, Phủ Biên Tạp Lục năm 1776, vua Gia Long cho lập Đội Hải quân để bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa năm 1802, Địa Dư Chí năm 1821, Hoàng Việt Địa Dư Chí năm 1883, Đại Nam Thực Lục Tân Biên năm 1844, Đại Nam Thực Lục Chính Biên năm 1848, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sử Lệ năm 1851, Việt Sử Cương Giám Khải Lược năm 1876, Đại Nam Nhất Thống Chí năm 1910, và rất nhiều tài liệu của các sử gia Pháp. Giám mục Taberd, một nhà bác học và thám hiểm nổi tiếng, có vẽ bản đồ cổ An Nam Đại Quốc Bản Đồ năm 1838 xác nhận Hoàng Sa là Bãi Cát Vàng (nguyên văn Katvang) của Việt Nam.

Gần đây nhất, vào ngày 6 và 7-9-1951, dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại chấp chánh, thủ tướng Trần Văn Hữu tham dự Đại hội Quốc tế ở San Francisco cùng với 50 quốc gia. Trong hội nghị nầy, thủ tướng Trần Văn Hữu đã chính thức lên tiếng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa và Hoàng Sa, kết quả là không có quốc gia nào phản đối. Như vậy mặc nhiên chủ quyền của Việt Nam đã được quốc tế công nhận.

Đến bây giờ hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, xin Dân tộc hãy ghi nhận công lao của thủ tướng Trần Văn Hữu dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Đồng thời cũng xin ghi thật đậm nét vào lịch sử việc “nhắm mắt ký tên bán nước” của thủ tướng Phạm Văn Đồng dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh để làm mất Trường Sa và Hoàng Sa. Hai thủ tướng, hai chế độ, hai thái cực! Dân tộc đành phải gọi Hồ Chí Minh là Đại Việt gian, Đại Phản nghịch, Đại Tội đồ về tội bán Nước xuyên suốt 4000 năm lịch sử! Chỉ có một, một mà thôi, không có hai, không ai bằng!

Dạy Dân kêu Trời bằng “Thằng”

Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong thời gian ở tù 10 năm, đã khám phá vô số những xảo trá và đê hèn của Việt Cộng. Như trong phép xưng hô của Việt Cộng, Hồ Chí Minh đã thiết lập một chiến tuyến giữa bạn và thù thật minh bạch (Trích Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên, tr. 265):

“Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thật phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng…”

Cách gọi như thế được coi như sự khẳng định lập trường chính trị, cho nên công an và văn nô đều nói và viết theo “Bác Hồ” của chúng, Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Theo gương ông, về sau người ta gọi kẻ thù nào cũng bằng thằng hết: thằng Bảo Đại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu…”

Rồi cũng theo gương Hồ Chí Minh coi trời bằng vung, và với khí thế đang lên rất cao sau năm 1975, các đội thủy lợi ở miền Nam trương khẩu hiệu lên khắp nơi, khoe tài làm thủy lợi và kêu TRỜI bằng “thằng”: “Thằng trời đứng ra một bên. Để cho thủy lợi tiến lên thay trời.”

Người ký giả lão thành Nguyễn Ang Ca, đã sống qua các thời Pháp thuộc, thời VNCH, và thời Việt Cộng cai trị, có viết một bài báo nhan đề Sài Gòn: Toàn những chuyện khó tin mà có thật với đoạn kết như sau (trích Bán Nguyệt san Chiêu Dương, số 16 năm 1983, trang 29): “Đối với bọn Cộng sản Việt Nam, chuyện gì chúng cũng có thể làm. Trời, Đấng Jésus Christ, Phật tổ Thích Ca, Đức Giáo hoàng…, bọn Cộng sản đều gọi tuốt bằng “thằng”, chỉ có Bác, Lênin, Mao Trạch Đông là bọn chúng xưng tụng thôi, thì thử hỏi bọn Cộng sản Việt Nam đâu có còn lương tri chi nữa mà phê bình và luận bàn vậy.”

Trong mục Ý kiến Độc giả của Bán Tuần báo Việt Luận ngày 14-9-2007, có bài góp ý của độc giả Phan Quang Cảnh, xin được trích: “Người có văn hoá, sống trong xã hội văn minh, không nên xử dụng ngôn ngữ hạ cấp. Trên báo Thông Luận ngày 4-9-2007, giáo sư Nguyễn Văn Trung có kể chuyện học giả Đào Duy Anh vào Nam sau 1975 và đến thăm một số trí thức miền Nam. Trong câu chuyện, học giả Đào Duy Anh thường gọi “Thằng Diệm, Thằng Thiệu”. Chúng tôi chỉnh: “Thưa Cụ, trong Nam, một cách chính thức trên sách báo, khi nói tới những lãnh tụ miền Bắc bao giờ cũng gọi là “ông” cả, ông Hồ Chí Minh, ông Phạm Văn Đồng… không bao giờ gọi là “thằng”. Học giả Đào Duy Anh thú nhận: “Tôi sống với họ lâu năm quá nên cũng bắt chước thói quen hạ cấp. Xin lỗi”.

Cái nôi của nền văn hóa Việt tộc!

Ông bà chúng ta ngày xưa coi trọng lời ăn tiếng nói và để lại cho chúng ta cả một kho tàng về phép ăn nói sao cho hợp lễ nghi phong hóa, nào là: “Trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần”, “Một tiếng chào cao hơn mâm cỗ”, “Trình, thưa, vâng, dạ, đứng, ngồi - Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên”, “Tiên học lễ, hậu học văn”, v.v… Bậc hiền mẫu như mẹ cụ Phan Bội Châu dạy dỗ lúc cụ lên sáu, thì cẩn trọng giữ gìn lời nói cho đến “nửa câu nói cũng không khinh xuất”. Chúng ta học thêm được một nếp sống đẹp: trong từ đường Phạm tộc ở An Lễ của Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy có bức hoành phi với 4 chữ Ngôn Hành Kính Tín (Lời dạy của bức hoành: lời nói phải đi đôi với việc làm để được người đời kính trọng và tin tưởng). Nhưng “Thượng bất chánh, hạ tất loạn”, Hồ Chí Minh tự xưng là Cách mạng bài Phong đả Thực mà lại du nhập cách xưng hô côn đồ vô lễ giáo “con nầy thằng kia” làm bại hoại gia phong quốc pháp, đạp đổ hết những thuần phong mỹ tục mà tiền nhân đã dày công tô điểm từ thời lập quốc. Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện, trong bài thơ tả cảnh tù ở những vùng núi rừng sâu thẩm, đã đặt câu hỏi cho thế giới trả lời:

“Từ vượn lên người mất mấy triệu năm!
Từ người xuống vượn mất bao năm?
Xin mời thế giới tới thăm
Những trại tập trung núi rừng sâu thẳm”

Đâu có cần phải đến những vùng rừng núi xa xăm ở miền thượng du Việt Bắc! Ở ngay vùng châu thổ sông Hồng, cái nôi của nền văn hóa Việt tộc, Hồ Chí Minh từ Nga Tàu về đánh phá tan tành và gây thành cảnh địa ngục trần gian để trú ngụ một xã hội vô cùng man rợ. Đây, một trích đoạn của tác giả Huy Vũ, trong bài Chuyện lánh nạn Cộng sản năm 1954 của gia đình tôi (Nguyệt san Làng Văn, số 213 tháng 5 năm 2001, trang 75):

“Trong giai đoạn hạ uy thế nầy (đợt Phóng tay Phát động Quần chúng cuối năm 1954), thầy mẹ tôi tuy đã trên dưới sáu mươi, song khi ra đường gặp nông dân hay con cái của họ, dù chỉ là đứa trẻ nít năm sáu tuổi, chẳng những phải đứng nép về một phía bên để nhường lối đi cho họ, mà còn phải chắp tay trước ngực, phải cúi đầu và nói lớn: “Con xin kính chào ông (hay bà) nông dân”. Ngoài ra, thầy mẹ tôi còn bị nông dân và đám con cái hỉ mũi chưa sạch của họ hạch hỏi, hành hạ, ném đá, đánh đập, và gọi là thằng này, con kia.”

Trong một bài viết của Dương Thu Hương vào năm 2002, chúng ta hãy nhìn xem vào những năm 1953-1955 (trong CCRĐ), Cái nôi của nền văn hóa Việt tộc đã bị Hồ Chí Minh biến thành một vùng dã man và con người biến thành dã thú:

“Trong lịch sử bốn ngàn năm, triều đình Cộng sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dạy con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm; dạy con trai, con rể chỉ vào mặt bố “đả đảo thằng bóc lột”, dạy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dầy xéo mồ mả của nhau… Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế đối với tha nhân”.

Cuộc “Kách mệnh” của Hồ Chí Minh “thành công, thành công, đại thành công”! Hồ Chí Minh đã xây dựng được một xã hội man rợ để cho trẻ con năm, sáu tuổi gọi những bậc cao niên là “con nầy thằng kia”! Man rợ tột cùng! Nào có kém bộ lạc ăn thịt người! Ai là người được hạnh phúc trong một xã hội như vậy? Cha mẹ chúng chăng? Chắc là không! Họa chăng chỉ có Hồ Chí Minh! Dân tộc ơi! Hồ Chí Minh đại thành công, nhưng Dân tộc đại bất hạnh! Hãy khóc cho thật nhiều đi! Hồ Chí Minh đã phá nát hết cả rồi! Đâu còn “Kính lão đắc thọ”! Đâu còn thuần phong mỹ tục, lễ nghi phong hóa bốn ngàn năm văn hiến của Ông bà Tổ tiên để lại! Đã mất hết cả rồi!

Cam tâm làm Kominternchik của Komintern

Trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập, lời giảng dạy của Hồ Chí Minh về Quốc tế Cộng sản như sau : “Đệ tam Quốc tế là một đảng Cộng sản thế giới, các đảng ở các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ tam Quốc tế, thì các đảng không được làm”.

Xem ra Hồ Chí Minh có vẻ hãnh diện việc Đảng Cộng sản Việt Nam được làm một chi bộ của Đệ tam Quốc tế. Về mặt điều hành việc đảng ở trong nước thì Hồ Chí Minh hô hào khẩu hiệu “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân dân làm chủ.” Ở trong nước thì như thế, Đảng lãnh đạo một cách độc tài, là chủ nhân ông đứng trên cả nhà nước và Quốc hội. Nhưng đối với Đệ tam Quốc tế, theo lời giảng dạy của Hồ Chí Minh thì: “Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ tam Quốc tế thì các đảng chi bộ không làm được”. Chúng ta đã thấy được gì chăng? Chúng ta nói lên được điều gì chăng? Hỏi tức là trả lời, nếu ta dùng xảo ngôn tuyên truyền của Hồ Chí Minh để trả đòn, thì câu giải đáp hiển nhiên là: “Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập và lãnh đạo chỉ là đảng bù nhìn tay sai của Đệ tam Quốc tế, và nước Việt Nam là chư hầu, là thuộc địa của Đế quốc đỏ Liên Xô!” Khi Hồ Chí Minh cam tâm làm Kominternchik của Komintern (tức là Quốc tế ủy của Đệ tam Quốc tế), thì ông đã phế bỏ Độc lập của Dân tộc rồi! Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập gồm 12 tập dài 7.866 trang chứa đầy những Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một mối Ô nhục lớn cho Nền Văn hóa Dân tộc! Phải mau mau vất vào sọt rác lịch sử, càng để lâu cho sinh viên học càng thêm di hại! Dân tộc hãy quay về học lại bài học yêu nước của danh tướng Trần Bình Trọng “Thà làm quỷ nước Nam hơn làm vương đất Bắc”. Lời kêu gọi “Hãy trở về với Dân tộc” thật thống thiết và khẩn cấp vô cùng!

Bậc thầy về môn xảo trá

Sau đây là chuyện Chỉ là cái nắp hộp thuốc lá, câu chuyện thật lý thú do tác giả Nguyễn Minh Cần kể lại (Trích quyển Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong Phong trào Cộng sản Quốc tế, trang 62). Lúc đó là thời điểm 1950, Nguyễn Minh Cần giữ chức Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên được Trung ương Đảng Cộng sản (lúc bấy giờ là đảng Cộng sản Đông Dương) triệu tập ra Việt Bắc dự hội nghị cán bộ để chuẩn bị cho Đại hội 2 vào năm sau. Lúc đó có nhu cầu cần phải đổi tên đảng Cộng sản Đông Dương thành đảng Lao động Việt Nam để che giấu bộ mặt Cộng sản hầu có thể lôi kéo nhiều tầng lớp dân chúng. Sau khi giải thích cho các đảng viên hiểu rõ ích lợi cần phải đổi tên đảng, Hồ Chí Minh giơ cao nắp hộp thuốc lá thơm “Craven A” về phía có nhãn hiệu và nói: “Đây là đảng Cộng sản”, xong ông xoay nắp hộp về phía không có nhãn hiệu và nói: “Còn đây là đảng Lao động.” Ông lại lớn tiếng hỏi: “Thế thì các cô các chú thấy có khác gì nhau không?” Cả hội trường đồng thanh đáp vang: “Dạ không ạ!” Ông mới nghiêm nghị:

“Các cô các chú nên biết rằng việc đổi tên đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi, các đồng chí ấy đã đồng ý (tác giả Nguyễn Minh Cần cho chúng ta biết thêm hồi đó Hồ Chí Minh vừa từ Nga về ngang qua ngả Bắc Kinh). Các cô các chú nên biết rằng ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.”

Nghe Bác nói như vậy, cả hội trường vỗ tay vang rầm nhất trí với Bác. Lần đó là hội nghị chuẩn bị cho Đại hội 2 năm 1950, Hồ Chí Minh đã tuyên bố như vậy. Sang năm 1951, vào đúng Đại hội 2 của Đảng, Hồ Chí Minh cũng lặp lại nguyên văn: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.”

Lời bàn: Chỉ một việc nhỏ là việc đổi tên đảng mà Hồ Chí Minh phải đi sang Tàu, phải đến tận Nga để hỏi ý kiến và xin phép các đàn anh Cộng sản lớn là Stalin và Mao Trạch Đông. Như vậy thì Tự do và Độc lập của Dân tộc đâu có nằm ở Bắc Bộ Phủ! Và khi nhận được phép cho đổi tên đảng, Hồ Chí Minh lại chụp lấy cơ hội để nâng bi rằng đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được! Đặt hết lòng tin vào hai tên Đại Đồ tể của thế kỷ, Hồ Chí Minh đã quá sai! Thảo nào “Bác” đã trở thành tên Đại Đồ tể thứ ba và đã dẫn Dân tộc đi lạc đường!

Lời bàn thứ hai: Cũng chỉ là cái nắp hộp thuốc lá xoay vào xoay ra mà khi thì Cộng sản, khi thì Lao động để dối gạt Dân tộc, vậy mà các đồng chí của Bác vẫn vỗ tay rầm rầm nhất trí với Bác. Đẹp thay! Toàn đảng từ trên xuống dưới đều đồng một lòng dối gạt Dân tộc! Hồ Chí Minh là bậc thầy tuyệt vời về môn xảo trá, lật lọng, đổi trắng thay đen, nói không thành có… Trong lịch sử 4000 năm văn hiến, nhất định không có một vị vua, một vị quan, hay vị thầy nào dạy dân hay học trò như vậy. Duy nhất, chỉ có một Hồ Chí Minh dạy đảng viên như vậy mà thôi.

Các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông của Liên Xô và Trung Quốc vĩ đại thì được Hồ Chí Minh xưng tụng là “không bao giờ sai lầm”. Còn đối với Lênin, khi Hồ Chí Minh đến Lêningrad thì Lênin đã chết trước 2 ngày, tuy vậy Hồ Chí Minh cũng không bỏ lỡ dịp để viết bài ca ngợi Lênin: “…Khi còn sống, Người là Cha, là Thầy, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội…”. Bây giờ, ta hãy mở sách Trần Dân Tiên ra xem để biết lúc Hồ Chí Minh 15 tuổi, ông nhận xét thế nào về các bậc ái quốc mà Dân tộc tôn kính.

“Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.”

“Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau.”

“Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.”

“Việt Nam Quốc dân đảng không có chính cương rõ ràng, chỉ lo tổ chức đám binh sĩ Việt Nam trong quân đội Thuộc địa Pháp để bạo động.”

“Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội chỉ rập theo Quốc dân đảng Trung Hoa.”

Tôi là một người Trung Quốc

Xin nhắc lại Hồ Chí Minh dùng ẩn danh Trần Dân Tiên viết quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch để tự đề cao mình và phê bình chỉ trích những nhà cách mạng ái quốc tiền bối thì ông đã đánh mất đi đức tính khiêm cung của mình rồi để trở thành kẻ ngạo mạn coi trời bằng vung. Bởi thế cho nên có một tác giả viết bài phê bình gọi ông là Nhân vật vĩ cuồng. Nhà ái quốc Việt Nam nào cũng bị ông chê cả mà ông chỉ dành sự ca ngợi cho các quan thầy Cộng sản Lênin - Stalin - Mao của Nga Tàu mà thôi. Thật lạ lùng! Dân tộc không thế nào hiểu nổi cho đến khi khám phá ra lời thú nhận của ông! Nhắc lại lúc Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Ái Quốc, được Đệ tam Quốc tế cử sang Quảng Châu hoạt động trong phái đoàn của Borodin, mọi chi phí do Ban Phương đông đài thọ, hẳn công tác hợp với sở nguyện, cho nên ông thích chí và có lời thú nhận lạ lùng! Đây này, xin mời xem. Trong bản báo cáo đầu tiên của Hồ Chí Minh ngày 18-12-1924, sau một tháng có mặt tại Quảng Châu, đã có những dòng chữ cuối thật lạ lùng như sau: “Trong lúc này, tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người Việt Nam và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc”.

Lời tự thú “Tôi là một người Trung Quốc…” do tác giả Minh Võ sưu tầm từ tập I của quyển Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử để dẫn giải chủ nghĩa Cộng sản du nhập vào Việt Nam như thế nào trong tác phẩm Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp (trang 514). Xin chân thành tri ân công sưu tầm của tác giả Minh Võ. Nhờ biết được lời thú nhận “Tôi là một người Trung Quốc…” của Hồ Chí Minh, cho nên chúng ta mới hiểu nguyên nhân vì sao Hồ Chí Minh cứ phê bình chỉ trích các nhà ái quốc Việt Nam như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám, ngược lại ông để hết lời ca ngợi những ông tổ Cộng sản như Lênin, Stalin, và Mao Trạch Đông. Ông nào có phải là người Việt Nam đâu! Ông thú nhận ông là một người Trung Quốc kia mà!

Xin bàn thêm về lời tự thú nhận “Tôi là một người Trung Quốc…”. Lời thú nhận đó là những dòng cuối trong bản báo cáo công tác đầu tiên gởi cho Đệ tam Quốc tế, tức là gởi cho KGB để cho Trùm Liên Xô Stalin đọc, cho nên Hồ Chí Minh không thể nào lếu láo được. Dùng bản Tuyên ngôn Độc lập bịp bợm đọc ở quảng trường Ba Đình để lường gạt Dân tộc Việt Nam thì có thể được, chớ làm sao dám lếu láo giả dối với Stalin! Stalin là một người rất đa nghi. Xin nhắc lại câu chuyện Hồ Chí Minh xin Stalin ký vào một tờ tạp chí để làm kỷ niệm, nhưng sau đó Stalin lại sai mật vụ lẻn vào phòng ông và đánh cắp lại tờ tạp chí có chữ ký đó! Và cũng xin nhắc lại chuyện Stalin ra lịnh cho sát thủ sang tận nước Mễ Tây Cơ để giết đối thủ Đệ tứ Trotsky cho bằng được. Cho nên khi Hồ Chí Minh khai với Stalin rằng ông là một người Trung Quốc, thì đối với Stalin, ông phải “tinh thành” (chữ của Hồ Chí Minh) là người Trung Quốc, ông phải thôi làm người Việt Nam! Cuộc đời của Hồ Chí Minh đã gởi vào trong lời khai đó rồi, ông không thể dối trá với Stalin và KGB được, ông không thể nào làm người Việt Nam nữa được! Thật cảm thương hại thay cho Dân tộc Việt Nam nhỏ bé có lãnh tụ “Cha già Dân tộc” tự nhận là người Trung Quốc!

Nhưng chắc hẳn không phải vậy. Hồ Chí Minh là người cực kỳ tinh ranh xảo quyệt khó có ai bằng. Ông lại cực kỳ bí ẩn. Ông cũng là một điệp viên kiệt xuất. Lời báo cáo: “Tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là người Việt Nam” hẳn cũng bí ẩn và kiệt xuất như ông, hẳn nó có công dụng đặc biệt nào đó mà người không ở trong nghề điệp viên như ông sẽ không bao giờ thấu hiểu. Tưởng dễ mà khó, cho nên xin dành câu giải đáp “Tại sao Hồ Chí Minh nói ông không phải là người Việt Nam?” cho những sử gia tương lai.

Miệng lưỡi Trần Dân Tiên: “Cãi chày cãi cối”

Cũng qua miệng lưỡi của Trần Dân Tiên, chúng ta mới biết tính gian xảo và ngụy biện của Hồ Chí Minh. Hãy mở sách Trần Dân Tiên, đọc kỹ hai trang liền nhau, trang 76 và trang 77, để xem Bác ta cãi chày cãi cối ra sao và tán thưởng văn tài của Bác. Đây trang 76: “Trong thời kỳ đầu, phong trào lan rộng và ăn sâu… Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền Xô viết. Họ tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên.”

Ở trang 76 đó, Hồ Chí Minh khoe là đã lập được những Làng Đỏ theo kiểu Xô viết của Liên Xô, nhưng tiếp sang trang 77 của Trần Dân Tiên, Bác Hồ nhà ta lại “em chả em chả” không chịu nhận mình là Cộng sản. Đây trang 77: “Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ tam Quốc tế, của Liên Xô… Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô… Pháp, Nhật tuyên truyền ầm ĩ Việt Minh là Cộng sản, nhận chỉ thị, tiền bạc của Mạc Tư Khoa…”

Thật chẳng “oan ơi ông Địa” chút nào hết! Bọn đế quốc chẳng “bịa đặt, tuyên truyền” chút nào hết! Những “người cách mạng đó” (dám khoe là cách mạng!) đúng là tay sai của Đệ tam Quốc tế nhận chỉ thị và tiền bạc của Mạc Tư Khoa. Nói riêng về Hồ Chí Minh, lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc, vào tháng 6 năm 1923, đã được bầu vào Ban Chỉ đạo gồm 11 người của Quốc tế Nông dân tức là Krestintern, một bộ phận ngoại vi của Đệ tam Quốc tế Komintern. Đến khi mang tên Hồ Chí Minh thì được Lãnh tụ Liên Xô Khrushchev trong quyển hồi ký của ông tán tụng như sau: “Hồ Chí Minh là tông đồ nhiệt thành của tôn giáo Cộng sản, là vị thánh của chủ nghĩa Cộng sản, người nhiệt thành xã thân vì đại nghĩa… Các bạn phải tôn kính người này, hãy quỳ gối trước ông ấy để tỏ lòng biết ơn về những đóng góp vô vị lợi của ông ấy cho chính nghĩa Cộng sản, đã dành cho nó tất cả sức lực và khả năng của mình.”

Lời bàn: Nhân đây xin trích dẫn lời phê của tác giả Minh Võ về Hồ Chí Minh trong quyển Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp trang 615. Tác giả Minh Võ viết như sau: “Trong đấu tranh, Hồ Chí Minh không bao giờ có thể bỏ quên các nguyên lý chủ nghĩa Lênin nên tuy ông sống và làm việc nhưng không phải ông, mà chính Lênin sống và hoạt động trong ông.”

Phối hợp lời xưng tụng của Khrushchev và lời phê của tác giả Minh Võ, ta có lời phát biểu hoàn chỉnh về con người thật Hồ Chí Minh: “Hồ Chí Minh là vị thánh của chủ nghĩa Cộng sản. Các đồng chí hãy quỳ gối dưới chân ông bởi ông chính là Lênin sống lại và hoạt động trong ông.” Khrushchev đã viết: “Các đồng chí hãy quỳ gối dưới chân Hồ Chí Minh” nhưng còn Dân tộc Việt Nam thì sao, Dân tộc hãy đứng thẳng dậy, nhìn kỹ những điều tệ hại Hồ Chí Minh đã gây cho Đất nước, và viết lại lịch sử rằng không những Hồ Chí Minh là Lênin tái sinh, mà ông còn là những Thái thú Tàu, những Toàn quyền Pháp sống lại và hoạt động trong ông!

Bác trả lời cho xong việc trả lời!

Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, chỉ còn lại nỗi niềm thương cảm cho Dân tộc vì đã không biết lá bài tẩy của Hồ Chí Minh hồi “Kách mệnh Mùa thu 1945”! Cứ tưởng ông là người quốc gia yêu nước! Nhưng trong Dân tộc hơn 20 triệu vào thuở ấy, hẳn có rất nhiều người biết Hồ Chí Minh là Cộng sản, như Đức Cha Lê Hữu Từ. Trong lần viếng thăm Phát Diệm ngày 25-1-1946 sau khi Đức Cha Lê được thụ phong Giám mục, Hồ Chí Minh có mời Đức Cha giữ chức Cố vấn Chính phủ và có mạn đàm với Đức Cha. Trong câu chuyện riêng tư, Đức Cha Lê tỏ ra rất thẳng thắn: “Tôi và toàn dân Công giáo Phát Diệm đoàn kết và ủng hộ Cụ trong công cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp, giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam, nhưng nếu Cụ là Cộng sản, thì tôi chống Cụ và chống Cụ từ phút này.”

Theo lời kể của ông Nguyễn Đức Hiệp, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Kim Sơn đăng trong Kỷ yếu Phát Diệm 1891-1991 (trang 207), Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn điềm đạm lấp lửng: “Thưa Cụ, toàn dân đoàn kết và đã đoàn kết chống thực dân Pháp giành độc lập cho Việt Nam thì thế nào cũng thắng. Đến khi toàn dân toàn thắng thì sẽ có phổ thông đầu phiếu, lúc đó toàn dân sẽ định đoạt, Cụ và tôi khỏi phải lo.”

Câu trả lời của Hồ Chí Minh hay tuyệt vời, tưởng như không có nhân vật thứ hai nào ngoài ông ra có thể ứng đáp hay đến thế. Ông không đá động gì đến Cộng sản, ông lách qua đề tài Cộng sản, ông đưa câu trả lời qua các đề tài nào là: toàn dân - đoàn kết - chống thực dân Pháp - giành độc lập - toàn thắng - phổ thông đầu phiếu - toàn dân định đoạt - tiến trình sẽ như vậy - cụ khỏi phải lo. Câu trả lời thật trọn vẹn đầy đủ. Nhưng tiếc thay, đó chỉ là đầu môi chót lưỡi, ông trả lời cho xong việc trả lời! Ông đá một cú trả lời thật ngoạn mục lọt hẳn vào khuôn thành bên địch! Mãi về sau, ở Phát Diệm, Toà Giám mục viết tắt là TGM, có kẻ chơi chữ đọc là Trại Giam mới! Và không còn ai nhớ đến cái câu trả lời hay tuyệt vời ấy nữa, ngay cả người nói là Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh nói rồi cũng quên, cũng bằng như vất vào sọt rác lịch sử mà thôi. Ông chỉ làm “Kách Miệng”!

Những lời nói dối chính trị

Lại thêm một lời phát biểu của Hồ Chí Minh về Đấu tranh Giai cấp (trích Người Việt ở Pháp 1940-1954, tác giả sưu tầm Đặng Văn Long, trang 432). Tờ Thông tin số 2 ngày 20-8-1947 của Phái đoàn Trần Ngọc Danh, Trưởng Phái đoàn thường trực của Chính phủ Hồ Chí Minh ở Paris, đăng bài Hồ Chí Minh trả lời báo ngoại quốc có đoạn như sau:

“Chúng tôi không chủ trương giai cấp đấu tranh vì rằng trong xã hội Việt Nam không có giai cấp tư bản. Hết thẩy các tầng lớp dân chúng nước Việt Nam đều bị kinh tế Thực dân làm khốn khổ. Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển, mà chỉ có thống nhất độc lập thì tư bản Việt Nam mới phát triển.”

“Đồng thời chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước khác thật thà cộng tác với chúng tôi, một là để kiến thiết nước Việt Nam sau khi bị chiến tranh tàn phá, hai là để điều hòa kinh tế thế giới và giữ gìn hòa bình.”

Lời bàn: Năm 1930, khi phát động Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh , thì “Trí phú địa hào đào tận gốctrốc tận rễ”, tức là có đấu tranh giai cấp. Vào năm 1947, khi trả lời báo ngoại quốc, thì “Chúng tôi không chủ trương đấu tranh giai cấp!” như trích dẫn bên trên.

Nhưng đến năm 1950, thì lại hô hào tiêu diệt “Trí phú địa hào và tôn giáo lưu manh”, tức là tiếp tục đấu tranh giai cấp mà còn leo thang thêm một bậc, đánh thêm một giai cấp nữa!

Hồ Chí Minh bản tánh lưu manh gian xảo, buổi sáng nói xuôi, buổi chiều nói ngược! Hồ Chí Minh cứ phát biểu thêm một lời, thì có thêm một lời dối trá!

Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu, một nhân chứng lịch sử thời Thanh niên Tiền phong 1945, tác giả quyển Phan Văn Hùm, Thân thế & sự nghiệp, có kể thêm vài lời dối trá nổi tiếng của Hồ Chí Minh được sưu tầm ở Pháp như sau (trang 381):

“Khi Hồ Chí Minh tuyên bố ở Pháp năm 1946 nhân dịp bạn thân của (Tạ Thu) Thâu là Daniel Guérin hỏi về cái chết của Thâu: “Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc có tầm vóc. Chúng tôi khóc cái chết của ông”, ai ai cũng biết đó chỉ là một lời nói dối chính trị. Nhìn lại khoảng đường lịch sử vừa qua, những “lời nói dối chính trị” của Hồ Chí Minh nay được một số nhân sĩ Việt Nam gọi là khôi hài đen (black humour), nhất là hai lời tuyên bố đã được Trần Ngọc Danh ở Paris cho in trong tập “Hồ Chí Minh”, ấn hành tại Paris, tháng 5 năm 1947. Trần Ngọc Danh nhấn mạnh về hai lời tuyên bố của Hồ Chí Minh: lời thứ nhất đăng trên Journal de Genève: “Những bạn bè của chúng tôi không cần phải lo ngại là chủ nghĩa Mác-xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi”, lời thứ hai đăng trên báo Le Pays: “Những lí thuyết Mác-xít không thể áp dụng được ở nước chúng tôi”.

Lại thêm một lời nói dối chính trị khác. Nhắc lại khi Hồ Chí Minh bị Trung Hoa Quốc dân đảng bắt (ngày 29-2-1942) vì tình nghi là Cộng sản và gián điệp cho Nhật và bị giam trong hang đá Độc Đăng Sơn ở Liễu Châu, ông may mắn được Chủ tịch Trương Bội Công và cụ Nguyễn Hải Thần can thiệp với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc để xin cứu ông. Được sự bảo đảm của các vị lãnh đạo VNCMĐMH, tướng Trương Phát Khuê thả ông ra. Để được lòng tín cẩn của tướng Khuê, và vì biết không thể chối quanh được, nên ông đã thú nhận và hứa (ngày 13-9-1943): “Tôi là một người Cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là độc lập và tự do cho nước Việt Nam. Tôi có một lời bảo đảm đặc biệt với ông rằng chủ nghĩa Cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới.”

Trong quyển Chiến đấu, tác giả Phạm Quang Trình đã đọc qua hết 7.866 trang của bộ Hồ Chí Minh toàn tập và có nhận xét về “hai chữ Tự do của Hồ Chí Minh” như sau (trang 297): “Lạ lùng là bài viết nào của ông Hồ cũng nói đến dân chủ, tự do, hạnh phúc… nhưng khi nhìn vào thực chất chế độ “xã hội chủ nghĩa miền Bắc” do ông và Đảng Cộng sản thống trị, người ta sẽ thấy những gì Cộng sản hay ông Hồ nói là phải hiểu ngược lại. Ngôn ngữ Cộng sản và ngôn ngữ của ông Hồ là thế. Nó là kết tinh của những nghịch lý mà chỉ những người từng sống trong chế độ đó mới nhận ra dễ dàng.”

Cái nết đến chết vẫn còn, Hồ Chí Minh bản tánh dối trá, nên đến lúc sắp đi chầu các ông tổ Cộng sản, cũng đã để lại những lời dối trá. Đây lời dặn miệng cho các đàn em trong Bộ Chính trị của ông, tác giả Hoàng Quốc Kỳ ghi chép trong quyển Ma đầu Hồ Chí Minh (trang 184): “Khi Bác đi rồi, các chú nhớ cắt hộ khẩu, cắt sổ gạo cho Bác. Đám táng chỉ nên đơn sơ. Đừng bày vẽ linh đình. Các chú hỏa táng cho Bác. Đừng xây lăng tốn kém.” “Đừng xây lăng tốn kém” Hồ Chí Minh đã dặn như vậy thì thôi! Đến bây giờ, ai tin Hồ Chí Minh được thì xin cứ tin!

Những giọt nước mắt “cá sấu”

Câu chuyện “Nước mắt cá sấu của Bác” được tác giả Trần Đỗ Cung tường thuật trong tác phẩm của ông nhan đề Câu chuyện một di dân tỵ nạn Việt (trang 43) như sau:

“Khoảng trước cuối năm 1945, Hồ Chí Minh triệu tập cuộc họp liên hiệp ở chùa Bà Đá. Tôi được có mặt tối hôm ấy trong phái đoàn đại biểu sinh viên. Chúng tôi đến nơi được độ mười phút trước khi chủ tịch Hồ Chí Minh đến. Khi phái đoàn VNQDĐ đến với Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam thì Hồ Chí Minh vội vã chạy ra giang rộng hai tay ôm chặt lấy vai Nguyễn Hải Thần, hai mắt long lanh ướt lệ (nước mắt cá sấu)! Thế rồi Chính phủ Liên Hiệp ra đời.”

Sau hội nghị Đà Lạt, rồi Fontainebleau dưới chiêu bài Liên hiệp Pháp thì Thỏa ước Sơ bộ 6-3-1946 được ký kết nên Pháp được chính thức trở lại. Tác giả Trần Đỗ Cung lại được chọn cùng một số sinh viên trong Đại học xá cho đeo phù hiệu xuống Hải Phòng ngồi xe jeep đưa Tây vào Hà Nội. Ông viết tiếp rằng nước cờ tháu cáy của Hồ Chí Minh thành công. Tây trở lại thì Tầu phải cuốn gói về Tầu, VNQDĐ hỏng cẳng. Hồ Chí Minh chiếm được thế thượng phong mới lộ bộ mặt phản phúc và ác độc như sau (trang 43 sđd):

“Việt Minh bắt đầu thanh toán đối lập, triệt hạ thanh toán chiến khu Đại Việt và trường võ bị Đại Việt ở Yên Bái. Sau này mới biết rõ sự đánh phá trường võ bị Yên Bái tàn bạo như thể nào. Chúng vây hãm xung phong chém giết cực kỳ dã man, ném thây xuống sông nhuộm máu. Trong số bị giết có hai anh em Đặng Văn Bút, Đặng Văn Nghiên là bạn học ở Cao đẳng Khoa học, anh em Đỗ Quang Lung, Đỗ Quang Hiền là con cụ Đỗ Quang Giai. Còn có bạn Nguyễn Đình Tú bị chém nát lưng ném xuống sông nhưng may mắn giạt vào bờ sống lại.”

Món quà sinh nhật bằng máu

Xin đừng tự trách chúng ta quá khắc khe đối với vị “Cha già Dân tộc” vì chúng ta cứ mãi bới lông tìm vết, cứ mãi tìm những lỗi lầm của “Bác”. Chúng ta nên nhớ những lời nói và việc làm của Hồ Chí Minh không phải là vô thưởng vô phạt. Vào ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể “kệ cha Bác!” như Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện đã “Làm thơ chửi Bác”. Nhưng khổ thay, mỗi một lời nói của Hồ Chí Minh, mỗi một bài thơ của Hồ Chí Minh, mỗi một ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh, ngay cả khi Hồ Chí Minh im lặng không nói một tiếng nào, là có thể giết người, giết cả chục, cả trăm, cả ngàn, cả vạn, cả trăm ngàn, cả triệu người, và lại có thể bán nước nữa! Trong lịch sử Việt Nam kể từ lập quốc, không một nhân vật nào như Hồ Chí Minh, ông đi đến đâu là Lưỡi hái tử thần tiền hô hậu ủng đến đó!

Trong bài trả lời đài VNCR ngày 28-1-1996 (trích Tin Nhà số 23 tháng 3-1996, trang 18), Linh mục Chân Tín đã nói: “…Vào ngày 19-5-1954, anh cả tôi đã chết trong một vụ nổ mìn của Cộng sản, giết hại nhiều người vô tội trên chuyến tàu hàng Đà Nẵng-Huế”. Trong một số Tin Nhà khác (số 20, trang 25), Linh mục Chân Tín cho biết thêm rằng người anh đó là một nhân viên phục vụ trên chiếc tàu, và vài tháng sau, bà vợ của ông cũng lâm bệnh và ra đi vĩnh viễn để lại 8 đứa trẻ mồ côi cha lẫn mẹ, có 5 em còn quá nhỏ nên phải gởi vào Cô nhi viện Vincent de Paul trên Đà Lạt. Mỗi năm đến ngày 19 tháng 5, đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ngày sinh nhật Hồ Chí Minh rất long trọng, cho nên vụ nổ mìn sát hại người anh cả của linh mục Chân Tín và các người vô tội khác trên cùng chuyến tàu được Việt Cộng xem như là chiến công dâng lên Hồ Chí Minh làm Quà sinh nhật cho ông! Lấy sinh mạng người vô tội làm món quà sinh nhật! Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhận món quà sinh nhật bằng máu! Đúng là “HỒ KHÁT MÁU”! Đúng là TỘI PHẠM CHIẾN TRANH có một không hai trong lịch sử loài người.

Sau đây là câu chuyện rất nhỏ về một người bạn của tác giả, vì là chuyện riêng tư rất nhỏ nhặt, nên xin được viết chuyện trong dấu ngoặc.

(Nhân đề tài Ngày sinh nhật Hồ Chí Minh, người viết mới nhớ lại một chuyện xưa trên nửa thế kỷ về một người bạn thân gặp nạn vì ngày sinh nhật ấy. Anh TMĐ tốt nghiệp trường Sư phạm ở Sài Gòn và được về dạy ở tỉnh nhà. Tỉnh nhỏ Hà Tiên vui mừng được đón tiếp nhà giáo mới ra trường, yêu nghề, mến trẻ, lễ độ với tất cả mọi người, lại hiếu học và cầu tiến (Anh là độc giả có ghi tên mua dài hạn các tạp chí về khoa học từ Pháp gởi về như Naturalia, một đặc san có giá trị về khoa Vạn vật học. Nhờ anh, nên tôi mới biết đặc san Naturalia nầy, nên cũng đã sưu tầm như anh). Anh là nhà giáo trẻ, mẫu mực như các bậc thầy đáng tôn kính ngày xưa, được cả tỉnh Hà Tiên thương mến, cho nên khi anh bị bắt khoảng cuối thập niên 50, ai ai cũng bàng hoàng. Lý do anh bị bắt cũng không quan trọng gì! Anh được “người ta” mời một bữa cơm, rồi “người ta” tố cáo với mật vụ rằng anh ăn mừng Ngày sinh nhật của Bác Hồ. Đối với ai khác thì khổ lụy lắm, nhưng với anh TMĐ thì anh có thể biện hộ được. Anh tự biện hộ rất hùng hồn: “Người anh cả của anh, một ký giả tài ba chống Cộng sản ngay từ lúc chủ nghĩa vừa mới du nhập vào nước, đã bị Việt Minh Cộng sản sát hại bằng lựu đạn ở Dakao Sài Gòn năm 1948, ở ngay trước sân nhà anh. Người anh cả bị Cộng sản giết như thế, gia đình anh là nạn nhân Cộng sản, thì làm sao anh lại ăn mừng Ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh cho được”. Anh được cứu xét nhanh chóng và được trả về lớp học với các học sinh đang chờ đợi thầy về. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, nhân động não để viết Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc, người viết mới nhớ lại Chuyện Bịt miệng 1948 bằng cách giết người anh ký giả bằng lựu đạn và vu cáo cho người em vào tù. Bất cứ việc gì phản dân hại nước mà có lợi cho Đảng, Việt Cộng cũng có thể làm được!)

Bài thơ giết người tết Mậu Thân

Sau đây là Bài thơ giết người tết Mậu Thân với tựa đề Toàn thắng ắt về ta.

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta

Theo tác giả Minh Võ, bài thơ này không phải là một tác phẩm văn học, không thể gọi được là thơ, tuy rằng Hồ Chí Minh đã qua 3 tháng nghiền ngẫm, và bài thơ được Cộng sản nâng cấp là bài Hịch lịch sử! Làm xong bài thơ, thâu thanh vào băng để lại Phủ Chủ tịch, thanh thản lên chuyên cơ bay sang Bắc Kinh tịnh dưỡng, để rồi đến đêm giao thừa Tết Mậu Thân, Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh thưởng thức bài thơ của mình qua đài Tiếng nói Việt Nam trong khi máu lửa ngập tràn miền đất Việt phương Nam, mặc dầu hai bên Quốc Cộng đồng ý hưu chiến trong ngày Tết. Nữ sĩ Nhã Ca viết lên tiếng khóc than của cố đô Huế trong quyển Giải khăn sô cho Huế. Bây giờ cũng xin mượn Giải khăn sô ấy để choàng cho cả Dân tộc trong ngày Tết Mậu Thân 1968.

Đến bây giờ xét lại toàn bộ Cuộc chiến tranh của Hồ Chí Minh đánh Dân tộc, câu hỏi đặt ra là Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản có chọn đúng ngày để đánh Dân tộc trong ngày Tết Mậu Thân 1968 hay không? Xét về mặt chiến pháp theo đúng binh thư đồ trận thì Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đã chọn thật đúng ngày! Nhất là Đảng đã âm mưu cho phổ biến một bài nghiên cứu về Thiên Văn học xác định rằng ngày Tết Âm Lịch phải điều chỉnh lại sớm hơn một ngày mới đúng. Đảng đã sửa lại lịch theo mưu mô gian xảo chỉ để cho Bộ đội ăn Tết trước một ngày trước khi ra quân! Rồi Đảng lại đề nghị hưu chiến trong những ngày Tết! Ngày 18-11-1967, đài phát thanh Giải phóng của Việt Cộng cho đọc bản thông cáo của Đoàn Chủ tịch MTDTGPMNVN về việc hưu chiến 7 ngày nhân dịp Tết Mậu Thân từ 27-1 đến 3-2-1968. Bản thông cáo trên còn nói rõ: “Các lực lượng võ trang của MTGPMNVN có nhiệm vụ bảo vệ để đồng bào được ăn Tết bình yên vui vẻ, cũng như binh lính và nhân viên của ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn được trở về xã xum hợp với gia đình, lễ gia tiên, và thăm bà con họ hàng…” Tương quan của Đảng Cộng sản đối với Dân tộc là tương quan sống chết không đội trời chung. Đảng đã xem Dân tộc như là kẻ thù cần phải chiến thắng bằng bất cứ giá nào. Đảng phải toàn thắng Dân tộc thì mới có thể chiếm trọn cả Đất nước làm chiến lợi phẩm riêng cho Đảng.

Thêm vào đó là tất cả trữ kim và trương mục tiết kiệm trong tất cả ngân hàng. Tổng Giám đốc của Đại Á Ngân hàng là ông Huỳnh Văn Lang, tác giả quyển Đã hơn 30 năm rồi (V.N. du ký 2006), đã tiết lộ chuyện xưa (trang 245): “Đại Á Ngân hàng, trụ sở trung ương ở đường Nguyễn Công Trứ có 800 hộp sắt (safe) để khách hàng thuê cất giữ vàng bạc, đồ trang sức quí giá cũng như những giấy tờ quan trọng của gia đình. Đầu tháng năm 1975, có 5 xe camion của CS gởi đến, cho lệnh giám đốc Võ Văn Hải mở hầm và trao chìa khóa, để rồi năm sáu cán bộ tràn vào tha hồ hốt bỏ bao, không kiểm điểm, không một tờ giấy ký nhận và mang đi, cũng không biết mang đi đâu. Chi nhánh ở Chợ Lớn cũng bị một số phận như thế.”

Đối với ngân hàng của Pháp là BNP (Banque Nationale de Paris ở góc đường Nguyễn Công Trứ - Tôn Thất Đạm) thì Đảng hành sự có vẻ thanh lịch hơn như chuyện kể anh LCL, người chủ thuê của một “hộp an toàn” (Trích Trường trung học Petrus Ký của giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, trang 153). Anh LCL thuật rằng vào tháng 10-1975, khi anh nhận được giấy mời đến ngân hàng “giải quyết” “hộp an toàn”, anh rất mừng nghĩ rằng vì chờ đợi quá lâu, nay mới được rút vàng, hột xoàn, nữ trang của bà xã, và bằng khoán đất đai nhà cửa, v.v… Anh nói tiếp: “Thật không ngờ, khi đến ngân hàng, sau khi điền giấy tờ, hộp an toàn lấy ra và mở trước mặt “cán bộ”. Cán bộ lấy bao nhiêu lượng vàng của tôi bỏ chung với đống vàng đã có sẵn, và nữ trang bỏ chung với nữ trang, hột xoàn bỏ chung với ống hột xoàn. Cán bộ tuyên bố “vàng và đá quí là chiến lợi phẩm của Nhà Nước”. Tôi xây xẩm mặt mày và đứng chết trân.”

Không phải một mình anh LCL xây xẩm mặt mày và chết trân mà là cả miền Nam, người giàu cũng như người nghèo, ai cũng xây xẩm mặt mày và chết trân cả. Ngay cả những người tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hay kỹ sư Hồ Văn Bửu cũng xây xẩm mặt mày và chết trân vì không ngờ là đã tiếp tay giúp cho kẻ cướp Cộng sản vào nhà miền Nam. Anh LCL, người cựu học sinh trường Petrus Ký đó, rất am hiểu tình hình, giải thích rằng vì Đảng muốn nắm hết huyết mạch miền Nam cho nên ra lịnh (trang 152 sđd): “Gần 40 ngân hàng phải nạp tích sản, Đảng gom hết giấy 500$ của các ngân hàng và bí mật tung ra, một phần lớn khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long để thu mua lúa gạo, một phần nhỏ ở chợ trời Sài Gòn để gom mua hàng hóa, và chở tất cả về Bắc bằng tàu sung công và xe bộ đội. Khi giấy 500$ đã nằm trọn trong tay dân chúng ở nông thôn cũng như ở thành phố, đầu tháng 9-1975, chánh quyền tuyên bố “hủy”giấy bạc do ngân hàng quốc gia phát hành. Không biết bao người đã nghẹt thở đứng tim.”

Đảng thỏa mãn lòng tham không đáy bằng nhiều chính sách tàn bạo như cải tạo công thương nghiệp để cướp hãng xưởng và cơ sở thương mại, đuổi dân đi vượt biên và đưa dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà, đổi tiền để cướp tiền, bao vây chợ để cướp hàng bày bán, cho vượt biên bán chánh thức để đổi mạng lấy vàng. Giải phóng đâu không thấy! Chỉ thấy toàn là những hành động thổ phỉ: Vào Vơ Vét Vui Vẻ Về!

Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, đảng Cộng sản Việt Nam hiện nguyên hình là Đảng Cướp, bởi lẽ nếu thật vì lý tưởng cao cả khởi nghĩa để giải phóng Miền Nam, thì Đảng đã không xử dụng những phương tiện hèn hạ độc ác để đánh Dân tộc. Việc Cộng sản chọn đúng ngày Tết Mậu Thân 1968, ngày thiêng liêng nhất trong năm để nổ súng bắn giết Dân tộc, là hành vi vô văn hóa đáng khinh bỉ nhất trong 4000 năm văn hiến. Còn Bài thơ giết người Tết Mậu Thân nhan đề Toàn thắng ắt về ta của Hồ Chí Minh chính là lịnh của Hồ Tặc cho phép lâu la của mình xông vào nhà khổ chủ miền Nam để “chôm chỉa”. Một bài thơ ô nhục!

Sự im lặng giết người

Ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh giết người! Bài thơ Tết Mậu Thân của Hồ Chí Minh giết người như trên đã dẫn giải! Nhưng thật lạ lùng, sự im lặng của Hồ Chí Minh lại cũng có thể giết được người! Xin lặp lại, khi Hồ Chí Minh im lặng không nói tiếng nào, ông cũng giết người! Câu chuyện sau đây do nhà Tranh đấu Dân chủ Nhân quyền ở Paris là Bùi Tín tường thuật trong quyển Mặt thật (trang 37). Đây sự im lặng giết người của Hồ Chí Minh, không phải giết một người, mà cả trăm ngàn người! Vào thời điểm Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, ngay lúc khởi đầu:

“Khi đội phát động đến vùng đồn điền Đồng Bẩm sát ngoại ô thành phố Thái Nguyên làm thí điểm phát động nông dân, chủ đồn điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng hộ các chiến sĩ Cộng sản từ thời bí mật, từ những năm 1937-1938… Chính các ông Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt đã được bà che chở nuôi dưỡng. Hai con trai của bà hoạt động Việt Minh từ thời bí mật, đi bộ đội giải phóng và đến năm 1954, một anh tên Nguyễn Công là Chính ủy trung đoàn, một anh tên Nguyễn Hanh là Đại đội phó Đại đội thông tin. Cố vấn Trung Quốc nhận bừa rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu. Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sỹ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là Địa chủ Kháng chiến. Những người ấy bị Cố vấn Tàu và ông Đội trưởng quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che, chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đấu tranh trực diện của nông dân, kể tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với màn xử bắn.”

Hoàng Quốc Việt, người từng chịu ơn bà Nguyễn Thị Năm che chở và nuôi dưỡng, chạy đến báo cáo với Hồ Chí Minh để xin cứu bà. Hồ Chí Minh chăm chú nghe rồi nói: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ và lại là người từng nuôi cán bộ Cộng sản và mẹ một chính ủy trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.” Hồ Chí Minh hẹn sẽ can thiệp, sẽ báo Trường Chinh về việc hệ trọng và cấp bách đó, tức là việc cứu bà Nguyễn Thị Năm Cát Hanh Long. Lúc đó Trường Chinh là Tổng bí thư Đảng và đảm trách Trưởng ban chỉ đạo Cải cách Ruộng đất. Nhưng rồi Hồ Chí Minh im lặng! Và bà Nguyễn Thị Năm bị giết!

Mãi đến năm 1987, Hoàng Quốc Việt, người Cộng sản muốn cứu bà Năm mà không được, tâm sự và than với Bùi Tín rằng đến Bác cũng biết giết bà Năm là không đúng, nhưng Bác cũng không dám nói với “họ”! Xin mở ngoặc: “họ” là những Cố vấn Trung Quốc sang Việt Nam để chỉ đạo phong trào Cải cách Ruộng đất. Và cũng xin đặt câu hỏi: “Vì sao Hồ Chí Minh lại sợ các Cố vấn Trung Quốc đến nỗi không dám lên tiếng để cứu bà Năm Cát Hanh Long và để cứu mấy trăm ngàn người khác nữa bị đấu tố dã man trong phong trào Cải cách Ruộng đất sau đó?” Biết là sai lầm, sợ Cố vấn Trung Quốc nên không dám can thiệp, giữ im lặng để cho chết oan biết bao nhiêu người, đưa Trường Chinh làm vật tế thần để chịu trách nhiệm, rồi đến Đợt Sửa sai đưa Võ Nguyên Giáp ra xin Dân tộc xóa tội và tha lỗi. Hồ Chí Minh sợ các Cố vấn Trung Quốc, để cho “họ” tàn sát đồng bào như vậy, nhưng cứ luôn hô hào “Giải phóng Dân tộc, đánh Mỹ cứu Nước”. Đúng là “gái đĩ già mồm”. Chân tướng của Hồ Chí Minh hèn mạt, đê tiện và độc ác như vậy thì làm gì có tư tưởng cao siêu mà luận bàn!

Đi tìm cái gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”

Về tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quyển Viết cho mẹ và Quốc hội, tác giả Nguyễn Văn Trấn là nhân chứng nghe Hồ Chí Minh nói và ghi lại như sau:

“Không! Tôi không có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê. Tôi chỉ có phương pháp giải quyết thỏa đáng từng vấn đề của ta. Như tôi thường nói “Lạt mềm buộc chặt”, đó là phương pháp cột cái gì đó của tôi. Mà cho đến phương pháp như vậy thì cũng có sự chỉ biểu của phương pháp biện chứng. Chớ còn tư tưởng là quan niệm về vũ trụ, về thế giới và về xã hội con người, thì tôi là học trò của Mác-Ănghen-Lênin, chớ làm gì có tư tưởng ngoài triết học Mác.”

Tác giả Jean Lacouture cũng viết như vậy. Ông thuật chuyện khi Hồ Chí Minh bị ký giả Tây phương chất vấn về lý do tại sao không viết sách báo như Mao Trạch Đông thì được Hồ Chí Minh trả lời: “Không còn gì để viết vì ông Mao đã viết cả rồi.”

Đi tìm Tư tưởng Hồ Chí Minh qua lời nói và việc làm của ông như trên đã dẫn giải, chúng ta vô cùng thất vọng. Hồ Chí Minh không phải là Cha già Dân tộc, không phải là Bác Hồ vĩ đại, không phải là Người Con yêu quý nhất của Dân tộc… mà lại hiện nguyên hình là một người Việt Nam tồi tệ gian xảo dối trá suốt cả cuộc đời, khinh mạn Đức Phật, hỗn láo với Đức Trần Hưng Đạo Vương, không chân thành với những vị tu hành như Đức Cha Lê Hữu Từ, một kẻ hiếu sát đã mang tòa án nhân dân, đấu tố, chiến trường, gươm giáo súng đạn đặt giữa lòng Dân tộc để gây cảnh nồi da xáo thịt, một kẻ mang ngôn ngữ côn đồ hỗn láo vô giáo dục dạy cho trẻ con năm sáu tuổi gọi những người cao niên là “con nầy thằng kia”, một kẻ Đại phản quốc làm mất đất mất biển mất hải đảo của Tổ quốc, một kẻ vì lãnh lương của Liên Xô mà tự thú nhận rằng mình là “người Trung Quốc mang tên là Lý Thụy chớ không phải Nguyễn Ái Quốc”…, Hồ Chí Minh chính là MỐI Ô NHỤC VĨ ĐẠI của Dân tộc Việt Nam từ cổ chí kim! Có tư tưởng cao siêu gì mà phải luận bàn!

Chính Hồ Chí Minh cũng nói rằng ông “không có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác-Lê”. Nhưng sau khi các nước Đông Âu và Liên xô bị sụp đổ, tượng Lênin bị giật sập, và chủ nghĩa Mác-Lê bị chính người Nga quăng vào sọt rác lịch sử, đảng Cộng sản Việt Nam bỗng mất đi nước đàn anh đỡ đầu và cơ sở tư tưởng để bám víu. Trong cơn bối rối, Đảng họp Đại hội VII (tháng 6 năm 1991) và quyết định “kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội…. lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đó là chuyện Đại hội VII năm 1991, theo tác giả Nguyễn Ngọc Nghĩa trong bài Phê bình bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp của Cộng sản Việt Nam (Làng Văn, số 90, tháng 2 năm 1992, trang 11): “Điểm đáng chú ý là suốt trong 3 bản Hiến pháp 1946, 1959 và 1980, CSVN tuyệt nhiên không hề đá động tới “tư tưởng Hồ Chí Minh”, ngay cả lúc Hồ còn sống (1946, 1959) hay đã chết (1980). Không phải đợi Hồ nằm phơi thây ở Ba Đình hơn hai mươi năm sau rồi mấy triệu đảng viên CSVN mới khám phá rằng “Bác vô vàn kính yêu” của họ… có tư tưởng.

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Nghĩa, thì Đảng đã nặn ra “cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” để ghép nối vào phía sau chủ nghĩa Mác-Lênin vào lúc mà chủ nghĩa tai hại nầy bị xem như một thứ vi khuẩn đục khoét khống chế phá hoại cân não nhân loại. Cuộc Cách mạng Tháng 10 của Nga đã bị chính người Nga chế diễu phỉ nhổ và ném vào sọt rác lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là không biết điều đó, nhưng họ không còn thứ gì khác để bám víu, đành phải gượng gạo đem cuộc Cách mạng Mùa thu 1945 ra thay thế và bịa ra “Tư tưởng Hồ Chí Minh” để vá víu vào lỗ hổng của chủ nghĩa Mác-Lênin.

Giáo sư Tôn Thất Thiện, trong bài Luận bàn về “tư tưởng Hồ Chí Minh” (viết ở Ottawa, Gia Nã Đại, ngày 1-6-1996 và được đăng trọn trong Tin Nhà số 27 tháng 4 năm 1997), cũng cho rằng Quyết định của Đại hội VII của Đảng là mệnh lệnh, cho nên: “Các cán bộ cao cấp, vì tinh thần kỷ luật hoặc vì muốn lấy điểm, đều đổ xô vào việc mổ xẻ, giải thích tư tưởng của Bác. Từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 8 năm 1994 trong Tạp chí Cộng sản, tạp chí tư tưởng của Đảng, có 27 bài được đăng về vấn đề này.

Giáo sư Tôn Thất Thiện liệt kê một danh sách dài những cán bộ cao cấp tuân hành lịnh Đảng trong chiến dịch chế tác tư tưởng Hồ Chí Minh, cả những đảng viên lão thành về hưu đã lâu cũng được Đảng động viên để viết về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Giáo sư Tôn Thất Thiện viết:

“Điều nổi bật khi ta đọc những tác phẩm trên, rõ ràng là ở Việt Nam mọi người đều mù tịt về “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Không ai trả lời dứt khoát được câu hỏi “tư tưởng Hồ Chí Minh” là gì? Những giải thích trong nhóm lãnh đạo, các bài nghiên cứu của những lý thuyết gia, những bài bình luận của các cơ quan tuyên truyền mơ hồ, lộn xộn, thiếu chính xác về sự kiện, và không vững chắc về lý luận, trình bày không có phương pháp, rất khác biệt nhau hay mâu thuẫn nhau. Có bài thiếu đứng đắn, có tính cách nói đại, nói bừa, hết sức vớ vẩn.”

Tìm lá Diêu bông hay mò kim đáy biển

Chúng ta có câu mò kim đáy biển (sau lại có thêm đề tài Tìm lá Diêu bông) để ví von với một việc làm vô cùng khó khăn hầu như không thể thực hiện được. Khi Đảng ra lịnh cho các đảng viên ưu tú viết về “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, xin Dân tộc hãy an tọa trên bờ nhìn xem họ hì hục lặn xuống đáy biển để mò tìm và vớt lên được món gì! Tham khảo bài “Luận bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh” của giáo sư Tôn Thất Thiện, chúng ta thấy họ tìm được những “món” mà Đảng đặt tên là “Tư tưởng Hồ Chí Minh” như sau:

Đào Duy Tùng (Ban Bí thư đảng phụ trách văn hóa tư tưởng) viết trong Tạp chí Cộng sản, 5-1991: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam… Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn bộ cuộc đời cách mạng của Bác.”

Lời bàn: Chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị chính dân Nga vất vào sọt rác lịch sử rồi, thì làm sao tư tưởng Hồ Chí Minh là phó sản tùy thuộc vào chủ nghĩa đó, dầu cho sáng tạo lại tài ba cách mấy đi nữa, tránh sao cho khỏi bị cùng chung một số phận!

Hà Huy Giáp trong Tạp chí Cộng sản, 5/1992 viết: “Những suy nghĩ, những việc làm của Bác để đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác… tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Lời bàn: Lại cũng dùng vật liệu đã bị phế thải là chủ nghĩa Mác-Lênin! Nói tới thắng lợi tức là những lợi lộc hàng tỷ USD của các đảng viên cao cấp trong Bộ Chính trị còn Dân tộc trở lại kiếp sống nô lệ, nghèo đói, mất tự do, còn tệ hại hơn thời Pháp thuộc!

Hoàng Tùng (Tổng biên tập nhật báo Nhân dân) trong Tạp chí Cộng sản, 4-1992 viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là con đường cách mạng, hệ tư tưởng chỉ đạo của Dân tộc và nhân dân Việt Nam. Thế giới quan của hệ thống tư tưởng này là chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, kết hợp với tư tưởng chính trị và văn hóa truyền thống của người Việt Nam.”

Lời bàn: Thì cũng y như Đào Duy Tùng và Hà Huy Giáp, thì cũng chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin là sản phẩm đã bị thế thải rồi! Lại còn dám nói đến văn hóa truyền thống của người Việt Nam! Một chế độ tiêu diệt văn hóa truyền thống, người đi làm thủy lợi thì bảo “Thằng Trời đứng ra một bên - Để cho thủy lợi đứng lên thay trời!”, trẻ con năm sáu tuổi thì gọi những lão ông lão bà là “con nầy thằng kia” để chứng tỏ mình thuộc giai cấp vô sản! Văn hóa truyền thống còn đâu! Hồ Chí Minh đã phá nát cả rồi!

Nguyễn Văn Linh phát biểu ở Đại hội VII: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta…”. Lời bàn: Thì cũng lại dùng vật liệu phế thải! Lại cũng chủ nghĩa Mác-Lênin!

Đỗ Mười, đến 1995, cũng bổn cũ soạn lại: “Chủ nghĩa Mác-Lê là cơ sở chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.” Lời bàn: Chúng ta khỏi cần bàn!

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quyển Tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb Sự Thật, Hà Nội, 1993, được giáo sư Tôn Thất Thiện trích khá dài, nhưng chỉ là những khẩu hiệu thật kêu mà rỗng bộng. Nhưng có một ý thật lạ: “Phải kiên quyết ngăn chận bệnh sida tư tưởng! Phương thuốc thần diệu để ngăn chận căn bệnh đó là tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Lời bàn: Kính thưa Đại tướng Người hùng Điện Biên Phủ, kể từ 1945 Dân tộc đã quá no khẩu hiệu nhưng rất đói và khao khát những kế hoạch ích nước lợi dân chân thật không lừa phĩnh! Khi tỉnh cơn say Đảng và tàn giấc mê Hồ, bừng mắt dậy bỗng thấy Việt Nam tụt xuống tận cùng vực sâu nghèo đói của loài người, chỉ còn hơn một vài nước Phi Châu! Đại tướng bảo phải kiên quyết ngăn chận bệnh sida tư tưởng bằng tư tưởng Hồ Chí Minh! Nhưng Đại tướng không bảo bệnh sida tư tưởng là bệnh gì và phương cách làm sao để nặn ra Tư tưởng Hồ Chí Minh! Nếu thật sự có cái gọi là Tư tưởng Hồ Chí Minh, và Đảng xử dụng hệ tư tưởng đó để đánh phá Dân tộc thì Tư tưởng Hồ Chí Minh có phải là Sida Tư tưởng hay không, thưa Đại tướng?!

Giáo sư Tôn Thất Thiện kết luận như sau: “Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một từ ngữ vô nghĩa vì nó không có nội dung. Nó không chỉ định một hiện thực nào cả. Nó chỉ được tạo một cách dối trá để lường gạt hàng ngũ đảng Cộng sản Việt Nam, dân chúng Việt Nam, và dư luận ngoại quốc.”

Xin nhắc lại chuyện vui Mò kim đáy biển, câu chuyện chưa chấm dứt, xin được tiếp tục. Khi Đảng bảo phải mò cho được cây kim quý đó, thì đảng viên phải nhảy xuống biển, lặn xuống cho thật sâu, và cố gắng mò cho ra cây kim của Đảng. Có người mò được vỏ sò, có người vớt lên được một mảnh san hô, có người tìm ra một đồng tiền cổ của một chiếc tàu bị đắm ngàn năm trước, có vị lấy lên được một mảnh xương hóa thạch. Như chuyện đi tìm lá Diêu bông trong thi văn, chuyện Mò kim đáy biển của Đảng cũng chỉ hoài công vô vọng! Hồ Chí Minh làm gì có Tư tưởng mà đi tìm!

Kế hoạch quy mô “THÁO GỠ” của Cựu hoàng

Dân tộc đứng trên bờ nhìn mãi việc đảng mò kim đáy biển rồi cũng chán, xin mời sang Paris Kinh đô Ánh sáng để tham dự buổi nói chuyện thân mật giữa Võ sư Vovinam Trần Huy Quyền và Cựu hoàng Bảo Đại. Thời điểm tháng 10-1991. Võ sư Trần Huy Quyền, tức ký giả Chu Văn, từ Melbourne ở Úc Châu sang Paris tìm gặp Cựu hoàng và thực hiện được một cuộc phỏng vấn để đời (Trích bài Cựu hoàng Bảo Đại, tuần báo Việt Nam Thời Nay, ngày 17-10-1991). Nói là phỏng vấn cho có vẻ quan trọng, nhưng qua cách tường thuật của ký giả Chu Văn, chúng ta như được dự thính một buổi trà đàm thân mật giữa công dân Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy và công dân Trần Huy Quyền. Qua câu chuyện trao đổi, dần dà thân tình chợt nảy sinh, công dân Huy Quyền đặt một câu hỏi có vẻ hóm hỉnh, một câu hỏi thuộc loại “Này Bạn, nếu Trời cho Bạn trúng số độc đắc thì Bạn sẽ làm gì?” Câu hỏi của công dân Huy Quyền như sau: “Nếu được nhân dân mời về thì nhà vua sẽ về với danh xưng là Hoàng đế, Quốc trưởng, hay Tổng thống?” Công dân Vĩnh Thụy lắc đầu đáp lại ngay, và đây cũng là Những lời vàng ngọc của Cựu hoàng:

“Nghĩ như vậy là bậy. Bởi vì vấn đề bây giờ không phải là vậy. Vấn đề bây giờ là một đề án, một kế hoạch quy mô tháo gỡ hết những rối ren do biết bao sai lầm trong quá khứ để lại… Vấn đề bây giờ là làm sao đáp ứng thực sự nguyện vọng của dân. Từ 1945 tới nay, mọi quyết định quan trọng thay đổi trên đất nước Việt Nam đều là sự áp đặt, sự ép buộc ngoài ý dân. Những gì đã xẩy ra đều trái với ý muốn của toàn dân. Bây giờ vấn đề phải làm sao cho thật ý dân. Ý dân là ý trời. Trái ý dân thì trước sau gì cũng thất bại. Còn vua, tổng thống hay chủ tịch thì đã có cả rồi đó. Vấn đề bây giờ là làm sao cho mọi người có cơm ăn việc làm không bị đè nén, đe dọa, áp bức rồi hiệp sức với nhau xây dựng lại đất nước và làm cho xã hội hết rối ren hỗn loạn… Có độc lập, có thống nhất mà nhân dân chia rẽ, đói khổ thì cũng như không có gì cả! Thời bây giờ không thể đẩy thành phần này chống đối thành phần khác để mà cai trị…”

Thật là những Lời vàng ngọc, những Lời tâm huyết của Cựu hoàng! Cựu hoàng đề cao ý dân là ý trời. Cựu hoàng nhận xét rằng Dân tộc chưa xử dụng được Quyền Dân tộc tự quyết. Và nhất là Cựu hoàng cho rằng phải có một kế hoạch quy mô THÁO GỠ hết những rối ren gây ra bởi những sai lầm trong quá khứ. Trong quá khứ có quá nhiều sai lầm, không phải từ 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập dối trá ở Hà Nội, mà ngay từ năm 1924, khi Hồ Chí Minh trở thành Quốc tế ủy của Đệ tam Quốc tế (tức là Kominternchik của Komintern), ngay từ năm 1925, khi Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, và về sau, khi đoạt được chính quyền thì xây dựng Chế độ Thực dân bản địa (Autocolonialisme), một chế độ tham tàn và ác độc hơn chế độ Thực dân Pháp để cai trị đồng bào của mình. Cựu hoàng dùng từ THÁO GỠ thật rất chính xác.

Cựu hoàng chính là nhân vật lịch sử có uy tín nhất trong toàn Dân tộc nói đến chuyện THÁO GỠ, bởi lẽ ngày 25-8-1945, chính Cựu hoàng đã vì quý trọng Dân quyền, vì có tư tưởng Dân vi quý, mà đã tự THÁO GỠ nền Quân chủ của Triều đại Nguyễn Phúc để được làm công dân tự do của một nước độc lập và dân chủ.

Xin nhắc lại chuyện xưa, ngày 25-8-1945, khi Cựu hoàng ban Chiếu thoái vị, tức là những Lời tâm huyết trong viễn kiến cứu Dân tộc thoát khỏi cơn binh lửa, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng đã không học “bài học đoàn kết để xây dựng” tức Điều 2 trong Chiếu thoái vị của Cựu hoàng. Chính vì thế chiến tranh đã tàn phá đất nước triền miên. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, Đảng muốn bịt miệng Dân tộc nhưng nào có được! Dân tộc đã biết Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì cả! Hồ Chí Minh đã chết, hãy để ông yên nghỉ! Đảng cố nặn ra cái gọi là Tư tưởng Hồ Chí Minh để làm gì! Chỉ để cho nữ sĩ Dương Thu Hương có dịp gọi Đảng là Bọn dâm thi, tức là bọn mắc chứng bịnh Thác loạn tình dục chờ đêm xuống bốc mả những người đẹp chết vừa mới chôn để làm tình với tử thi chưa sình thối! Bây giờ, Dân tộc xin Đảng hãy suy ngẫm ý tưởng THÁO GỠ của Cựu hoàng! Hãy kính cẩn học bài học THÁO GỠ của Cựu hoàng! Hãy THÁO GỠ và vất vào sọt rác lịch sử những thứ gì làm cản bước tiến của Dân tộc: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một! Có quý gì mà cứ giữ mãi!

Tin thật buồn cho Dân tộc!

Ngày 7-1-2007, Bộ Chính trị Đảng CSVN vừa ký ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW thúc đẩy dân chúng cả nước học tập về “Tư tưởng Đạo đức Hồ Chí Minh”. Thời gian học tập là 4 năm bắt đầu từ ngày 3-2-2007 đến ngày 3-2-2011 và dùng thời điểm 19-5 là ngày sinh nhật Hồ Chí Minh để kiểm điểm kết quả hàng năm!

Cuối cùng, trên tột đỉnh của tội ác, Đảng Cộng sản đã mang chuyên chính vô sản vào phạm vi tư tưởng của Dân tộc. Vào năm 2001, Cựu Trung tướng Trần Độ, người đảng viên của thế hệ 1945 đã tự mình mở mắt và đã viết những dòng tâm tình cho những đảng viên thế hệ trẻ sau ông được mở mắt như ông (Trích Nhật k‎ý Rồng rắn):

“Sự chuyên chính tư tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là “lưu manh tư tưởng”. Chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói… Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất cả các trí thức không dám suy nghĩ gì. Thực ra nền chuyên chính vô sản này đã làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một Dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên l‎‎ý bảo thủ, giáo điều. Nó làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động Nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng, nó làm cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch. Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài”.

Tiếp theo những lời dẫn giải chính xác trên, Cựu Trung tướng Trần Độ nói lên những hậu quả vô cùng tai hại của “Chuyên chính tư tưởng” mà người viết xin được tô đậm nét: “Nó tàn phá cả một Dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Xét cho cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người mà nó hủy hoại cuộc sống của rất nhiều người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư tưởng của cả một Dân tộc. Nó đang làm hại cả một nòi giống.”

Người viết xin chân thành lặp lại: Hãy kính cẩn học bài học THÁO GỠ của Cựu hoàng! Hãy THÁO GỠ và vất vào sọt rác lịch sử những thứ gì làm cản bước tiến của Dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một, có qu‎ý gì mà cứ giữ mãi.

Xin đừng TRÓI BUỘC Dân tộc thêm nữa!!!

Viết tại Sydney,Úc Châu
Mùa Bịt miệng 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney

Chương 7
Hồ Chí Minh, Con Vẹt Của Stalin

Chống Cộng hay không chống Cộng?

- Anh có phải là người chống Cộng không?

- Không.

Đoạn vấn đáp cụt ngủn trên đây đến đột ngột với Vũ Thư Hiên khi ông vừa từ Paris sang thăm Hoa Kỳ khoảng đầu năm 2000, chuyến viếng thăm ông đã tường thuật trong bài Một thoáng Hoa Kỳ. Hiển nhiên, người đặt câu hỏi và người trả lời đều đứng trên lập trường vững chắc của mình.

Người phỏng vấn Vũ Thư Hiên “Anh có phải là người chống Cộng không?” là phóng viên của đài Little Saigon Radio, một đài phát thanh uy tín phục vụ cho cả triệu thính giả là thuyền nhân, là cựu tù nhân học tập cải tạo ở diện HO, là thân nhân được bảo lãnh theo diện đoàn tụ gia đình, tất cả toàn là nạn nhân Cộng Sản. Lý tưởng chống Cộng là ưu tiên hàng đầu của miền Nam, kể từ ngày Cựu hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh với danh vị quốc trưởng, qua Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau cùng đến Đệ Nhị Cộng Hòa với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Người dân miền Nam trên phân nửa đất nước từ sông Bến Hải đến tận Cà Mau và Hà Tiên đã xây dựng được một nền dân chủ tuy còn non trẻ nhưng đã có đủ các quyền tự do: Tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do hội họp, tự do đi lại, tự do xuống đường, tự do kinh doanh, tự do tôn giáo, tự do lập đảng. Trong khoảng thời gian đó, người dân miền Bắc sống trong thiên đường xã hội chủ nghĩa mà thực chất chỉ là CÁI BÁNH VẼ CỦA HỒ CHÍ MINH. Lời bình phẩm về hai chính sách cai trị với sự đề cao chế độ của miền Nam được trích từ Chương 1 DẪN (trang 21) trong quyển Vụ án siêu nghiêm trọng T2-T4, tác giả là Tâm Việt của nhóm Bùi Tín. Thực vậy, người dân miền Nam đã sống và được hưởng Những ngày tháng năm đẹp của thế kỷ 20 và thành quả đó là nhờ nỗ lực chống Cộng để ngăn chận Làn sóng đỏ từ phương Bắc của Quân Dân Cán Chính miền Nam. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi người phóng viên của đài hỏi Vũ Thư Hiên “Có chống Cộng hay không?”, tuy câu hỏi thật đột ngột ngay trong lần sơ ngộ.

Tiếng trả lời “Không” cụt ngủn đầy khí phách của Vũ Thư Hiên cũng không phải là không phát xuất từ một lập trường vững chắc. Có một thời trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, khái niệm Cộng sản được hiểu như thực thi công bình xã hội, phân chia miếng cơm manh áo đồng đều cho tất cả mọi người để cho ai ai cũng đều được ấm no hạnh phúc. Thật sự, đó là giấc mơ đẹp có sức quyến rũ tất cả mọi người, những triết gia, những nhà trí thức, những văn thi sĩ, những bậc giáo sư quý trọng của các trường đại học khắp nơi trên thế giới...

Chống loại Cộng Sản nào*?

Trong bài Một thoáng Hoa Kỳ, Vũ Thư Hiên tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, quyển hồi ký kiệt xuất mà anh cẩn thận ghi chú trong dấu ngoặc (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), đã nói lên lập trường của mình về Cộng Sản như sau:

“Tôi là một người dân chủ có suy nghĩ. Tôi đã thích chủ nghĩa Cộng Sản. Như bố tôi đã thích. Như mẹ tôi đã thích. Vào cái thời thanh niên của ông bà, trong cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc. Vào thời tôi, khi trước mặt tôi là quân xâm lược, sau lưng là tổ quốc phải bảo vệ. Rồi tôi không thích nó nữa, cái chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi đã thấy trong thực tế. Ở nước ta. Ở Trung Quốc. Ở Liên Xô. Ở tất cả các nước gọi là xã hội chủ nghĩa khác. Nó là sự tàn bạo khoác áo nhân từ. Là sự cưỡng đoạt với bộ mặt cho của bố thí. Là sự đạo đức giả trơ trẽn.”

Lời bình của Vũ Thư Hiên về chủ nghĩa Cộng Sản còn dài, nhưng xin ngưng trích để nói vài dòng về anh. Vũ Thư Hiên sinh năm 1933, tại Hà Nội, trong một gia đình yêu nước. Cha anh là Vũ Đình Huỳnh, một nhà cách mạng lão thành, thành viên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1930, nhiều lần ngồi tù Hỏa Lò và Sơn La, làm bí thư cho Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao. Mẹ anh cũng là đảng viên đảng Cộng Sản kỳ cựu, đã từng nuôi nấng, cung cấp tiền, và vào các nhà lao để thăm nuôi các đồng chí bị Pháp bắt trong thời gian Đảng còn hoạt động bí mật. Ông Vũ Đình Huỳnh về nghỉ hưu với huân chương Kháng Chiến Hạng Nhất, được 3 năm thì tai họa giáng xuống gia đình. Theo đơn khiếu nại của bà Vũ Đình Huỳnh thì đêm 18-10-1967, công an ập vào nhà bắt ông đi biệt giam, không có án lệnh. Vài tháng sau, trong mùa Giáng Sinh năm đó, đến phiên người con Vũ Thư Hiên cũng bị công an theo dõi bắt cóc đi mất.

Vào lúc đó, Vũ Thư Hiên đã lập gia đình và đã có hai con. Tiểu gia đình của anh cùng với đại gia đình gồm cha và mẹ anh là nạn nhân của Đảng Cộng sản trong một vụ án thường được gọi là Vụ án Xét lại - chống Đảng. Cùng bị bắt như hai cha con ông Vũ Đình Huỳnh và Vũ Thư Hiên là hàng chục cán bộ cao cấp khác. Danh sách thật dài, toàn là những đảng viên kỳ cựu đã vào sanh ra tử đóng góp mồ hôi và xương máu để đưa Kháng chiến đến thành công và đưa Hồ Chí Minh từ vùng rừng núi Việt Bắc về Phủ Chủ tịch ở Hà Nội. Những uẩn khúc của Vụ án Xét Lại - chống Đảng, nguyên do vì sao có vụ án, các nạn nhân bị tù đày chết chóc ra sao, hậu quả là Đảng đã ban hành những điều cấm kỵ nào không được phép bàn đến, tất cả những ẩn tình khúc chiết đó được Nguyễn Minh Cần tường thuật trong chương 5 nhan đề Những trang sử đầm đìa nước mắt còn chưa chấm hết của quyển Công lý đòi hỏi (trang 85-126) và nhất là trong đại tác phẩm tố cáo Đêm giữa ban ngày dài 767 trang của tác giả Vũ Thư Hiên là nhân chứng vừa là nạn nhân.

Đầu đuôi câu chuyện của vụ án ở Hà Nội năm 1967 lại bắt nguồn ở tận Mạc Tư Khoa, thủ đô của nước Nga. Nguyên nhân là 3 năm sau khi Stalin chết, trong kỳ Đại Hội 20 của đảng Cộng Sản Liên Xô tháng 2 năm 1956, Khrushchev đã vạch trần tệ nạn sùng bái cá nhân, phơi bày tội ác kinh khủng của tên Đại đồ tể Stalin. Do đó, thần tượng Stalin bị sụp đổ sau hàng chục năm được tôn sùng. Thật là éo le trái khoáy, vì vào thời điểm đó, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vẫn còn được tôn sùng như thánh sống, nhất là ở miền Bắc Việt Nam, trên bàn thờ tổ tiên vẫn ngự trị ảnh của những Mác-Lê-Xít-Mao-Hồ.

Hai cha con Vũ Đình Huỳnh và Vũ Thư Hiên cùng những nạn nhân trong vụ án Xét Lại - Chống Đảng gặp tai nạn y như câu "Tai bay họa gởi" dân gian thường nói. Thật đúng vậy, nạn nhân thì ở Hà Nội, mà tai họa thì từ Mạc Tư Khoa gởi về, từ Bắc Kinh bay xuống phủ chụp những cán bộ nhiều tuổi đảng dày công kháng chiến khiến họ vô phương cầu cứu. Có Hồ Chí Minh chễm chệ trong Phủ Chủ Tịch cũng bằng như không!

Về chủ nghĩa Cộng sản, Vũ Thư Hiên viết tiếp: “Tôi không thích nó từ trước khi bị nó ném vào xà lim để dạy dỗ cho tôi tình yêu đối với nó. Trong nhà tù của nó tôi hiểu nó thêm. Và ghét nó hơn. Nhiều người đã đi qua đoạn đường ấy. Như tôi. Thích rồi không thích. Yêu rồi ghét.”

Lúc Vũ Thư Hiên viết những dòng chữ trên, tức đầu năm 2.000, thì anh đã sống đời tỵ nạn Cộng sản trên đất Pháp được 4 năm, sau khi nhận thấy không thể ở Nga được vì công an từ Hà Nội sang tìm cách bịt miệng anh. Chạy qua Ba Lan cũng không ổn, anh phải chọn nước Pháp làm đất dung thân. Nhưng khi luôn mang nặng trong lòng bài học Đạo bằng hữu phải cho có thuỷ chung trong sách Giáo khoa thư ngày xưa, nên về những người bạn còn ở Việt Nam, anh đã viết những dòng chữ thật đẹp:

“Hiện vẫn còn những người đang đi trên đoạn đường mà chúng tôi đã đi. Họ chưa đi hết. Họ chưa hiểu nó như tôi hiểu. Nhưng không phải vì thế mà họ là kẻ thù của tôi. Họ vẫn còn là bạn của tôi. Là những người tôi yêu mến. Những người tôi muốn vẫy gọi. Tôi tin: hiểu rồi, họ sẽ đi cùng tôi. Tôi không muốn họ hiểu lầm tôi. Tôi thấy cần phải rạch ròi trong những khái niệm. Tôi không muốn những người tốt, nhưng có điều chưa hiểu, trạnh lòng.”

Vũ Thư Hiên đã nói: “Tôi đã thích chủ nghĩa Cộng sản”, rồi liền sau đó anh nói tiếp: “Rồi tôi không thích nó nữa, cái chủ nghĩa Cộng sản mà tôi đã thấy trong thực tế.” Vũ Thư Hiên đã thích chủ nghĩa Cộng sản rồi anh lại không thích, đã yêu rồi lại ghét, nhưng anh không mâu thuẫn với chính anh. Không, hoàn toàn anh không mâu thuẫn, bởi vì cái thứ Cộng sản anh đã thấy trong thực tế hoàn toàn không phải là lý tưởng Cộng sản chủ trương công bình xã hội, phân chia miếng cơm manh áo đồng đều cho tất cả mọi người. Cái thứ Cộng sản mà Vũ Thư Hiên không thích là cái anh đã thấy trong thực tế ở miền Bắc đau thương. Đó là sự tàn bạo khoác áo nhân từ. Là sự cưỡng đoạt với bộ mặt cho của bố thí. Là sự đạo đức giả trơ trẽn. Đó chính là cái Chế độ Cộng sản mà Hồ Chí Minh đã dùng tất cả sự xảo trá gian dối cùng mưu đồ sách lược từng giai đoạn để mang về thực thi cho bằng được trên đất Việt thân yêu của chúng ta!

Hoàng Khoa Khôi xuất hiện

Thời điểm Vũ Thư Hiên nhận xét “trong thực tế” rằng có hai thứ Cộng sản khác nhau, một thứ anh thích và một thứ anh không thích, là cuối thập niên 60, như thế thì cũng đã quá trễ! Hơn hai mươi năm trước, vào đầu thập niên 40, lúc Hồ Chí Minh vừa về nước “làm việc”, thì ở trên đất Pháp có gần 20 ngàn người Việt Nam làm lính thợ và lính chiến phục vụ nước Pháp trong Đệ nhị Thế chiến. Cộng đồng người Việt đó, nhờ ở trên đất Pháp được thông tin đầy đủ và được hướng dẫn đúng định hướng, nên đã sớm biết phân biệt Cộng sản. Xin đọc nhận xét của Hoàng Khoa Khôi, một lão chiến sĩ Đệ tứ Trotskist đã 80 tuổi, viết trong Lời giới thiệu (trang XXIII) cho quyển Người Việt ởPháp 1940-1954, do tác giả Đặng Văn Long sưu tầm và xuất bản ở Paris năm 1997:

“Ngày nay, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, chế độ Liên Xô và Đông Âu băng hoại, có ai biết cách đây năm mươi năm, trong cộng đồng người Việt ở Pháp, có một đoàn thể đã sớm biết đánh giá Stalin là kẻ độc tài có bàn tay đẫm máu những người vô tội, trong lúc dư luận thế giới coi ông ta như một nhà lãnh tụ “vĩ đại”? Có ai hay những người đó đã biết nhận định những gì diễn ra ở Liên Xô và các xứ Đông Âu không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa mà chỉ là những chế độ ngụy tạo?”

Theo Hoàng Khoa Khôi, đoàn thể đó là công chiến binh, tức là những lính thợ và lính chiến nói trên, và phong trào công chiến binh đã chấp nhận chủ nghĩa Mácxít là chủ nghĩa của mình, được giảng dạy và thảo luận thấu đáo, và họ đã ấn hành được bộ sách gồm 3 tập để làm sách gối đầu lưu hành trong các căn trại (Ghi chú thêm: sau ngày nước Pháp được giải phóng, tức 1944, giấy mực vô cùng khan hiếm, có tiền cũng không mua được, cho nên việc ấn hành một bộ sách 3 tập đó là một cố gắng và hy sinh phi thường). Kính thưa anh Vũ Thư Hiên, chủ nghĩa Mácxít mà phong trào công chiến binh ở Pháp quý trọng như vậy, phải chăng đúng là thứ lý tưởng Cộng sản mà anh đã thích. Hoàng Khoa Khôi viết tiếp thêm rằng:

“Nó hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa Mácxít của đảng Cộng sản Việt Nam! Mácxít của công chiến binh là Mácxít nhân bản, tôn trọng dân chủ và nhân quyền, chứ không hề là thứ Mácxít bị xuyên tạc, bị pha trộn bởi chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao.”

Hoàng Khoa Khôi cho rằng chủ nghĩa Mác của công chiến binh là chủ nghĩa Mác nhân bản, tôn trọng dân chủ và nhân quyền và phát biểu thêm: “Có ai biết Nhóm Đệ tứ Việt Nam khi thành lập (năm 1943) mới có 6 đảng viên, thì con số đó đã trở thành 519 vào năm 1952 và họ đã tham gia tích cực và đắc lực, cùng các đại biểu quốc gia khác, vào việc điều khiển và bảo vệ các tổ chức công chiến binh.”

Như vậy thì Cộng sản cũng có ba bảy đường Cộng sản khác nhau. Qua những điều vừa trình bày thì chủ nghĩa Mác nhân bản tôn trọng dân chủ và nhân quyền của Vũ Thư Hiên và của nhóm Công chiến binh hoàn toàn khác xa với Chế độ Cộng sản của Stalin, tức là thứ Cộng sản ngụy tạo thừa kế từ đảng Bolshevik của Lênin mà tên rất thông dụng là Đệ tam Quốc tế (Komintern), và một tên khác nữa là nhóm Staliniens. Nó cũng hoàn toàn khác xa với thứ Cộng sản do Hồ Chí Minh vận dụng tất cả sự xảo trá và mưu đồ sách lược từng giai đoạn để thực thi cho bằng được trên Đất nước thân yêu của chúng ta. Vào thập niên 40, nhóm Công chiến binh ở Pháp đã chọn đúng định hướng trên con đường Cộng sản là nhờ sự lãnh đạo của Nhóm Đệ tứ. Trước đó khoảng hơn 10 năm, vào thập niên 30, ở miền Nam nước Việt xuất hiện hai nhóm Cộng sản: nhóm Đệ tam là Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Bạch Mai,… còn nhóm Đệ tứ Quốc tế còn gọi là Tả đối lập, là những người Cộng sản theo đường lối cách mạng của Trotsky, do Tạ Thu Thâu lãnh đạo cùng với Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch… Trong thời gian đó, Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Ái Quốc và vẫn “cứ khư khư cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội”, như nguyên văn bức thơ của Phan Châu Trinh đề ngày 18-2-1922 gởi cho ông để khuyên ông về Việt Nam hoạt động.

Hồ Chí Minh không nghe theo lời khuyên của Phan Châu Trinh, ông không về nước vội. Cộng nghiệp bất hạnh của Dân tộc phối hợp với Định mệnh khắc nghiệt của cá nhân ông đã đưa bước chân “Kách mệnh” của ông đi sang Nga, sang Tàu, xuống Xiêm, lại về Tàu, về Nga, rồi lại sang Tàu, về Việt Nam “làm việc” ở hang Pắc Bó tháng 2 năm 1941, lại sang Tàu, rồi sau cùng mới về Việt Nam. Hơn hai mươi năm dài, ông đã học hỏi kinh nghiệm để trở thành một người Cộng sản chuyên nghiệp, đã dự nhiều khóa huấn luyện của KGB và chính ông cũng là huấn luyện viên để đào tạo biết bao nhiêu là cán bộ, nên khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam thì ông đã là tên Cộng sản số một, là Quốc tế ủy của Đệ tam Quốc tế, tức là Kominternchik của Komintern. Cho nên bộ hạ ông thường hãnh diện cho rằng cấp bậc của ông trong hàng ngũ Quốc tế Cộng sản cao hơn Chủ tịch Mao Trạch Đông ở Trung Quốc!

Nhìn lại ba thập niên 20, 30, và 40, một vấn đề vô cùng quan trọng đặt ra là Dân tộc có tìm đúng định hướng trên con đường tranh thủ độc lập cho Đất nước hay không? Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, Dân tộc đã thấu rõ Con đường Bác đi theo Đệ tam Quốc tế, theo Lênin, theo Stalin, và sau cùng theo Mao là Con đường vô cùng bi đát. Chúng ta thử xem định hướng của nhóm Đệ tứ và những hoạt động của lãnh tụ Đệ tứ là Tạ Thu Thâu như thế nào trên con đường cứu quốc.

Cuộc đời nhà cách mạng Tạ Thu Thâu

Tiểu sử của nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, từ lúc đi học đến khi làm cách mạng tranh đấu chống Pháp, khi tổ chức biểu tình chống Pháp ở Paris hay khi làm báo ở Sài Gòn được tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ tường thuật trong quyển Nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, 1906-1945.

Tạ Thu Thâu sinh năm Đinh Mùi, nhằm ngày mùng 5-5-1906, tại xã Tân Bình, quận Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên, trong một gia đình lao động, nghèo nàn, đông con (sáu anh em cả thảy). Cha ông là Tạ Văn Sóc, làm nghề thợ mộc. Ông thợ mộc Hai Sóc thường đi vắng nhà ba bốn tháng, để lãnh đồ làm ở quanh vùng gần đó (trang 24 sđd). Nhà rất nghèo, nhưng Tạ Thu Thâu rất thông minh và học rất giỏi. Kỳ thi sơ học, Thâu đậu hạng 1 và lãnh hết 8 phần thưởng của tỉnh nhà.

Nhờ sự khuyến khích và lo thủ tục nạp đơn thi cùng quà tặng 20 đồng bạc Đông Dương làm lộ phí của ông Tổng thơ ký Hội Khuyến học Long Xuyên là Nguyễn Quang Lạc, Thâu mới có phương tiện lên Sài Gòn để thi. Ông Lạc làm việc ở Bưu điện Long Xuyên và số bạc 20 đồng vào thuở đó bằng nửa tháng lương của ông. Thâu đã đậu hạng 3 vào trường Bổn quốc (sau là trường Chasseloup Laubat và đến Đệ nhất Cộng hòa đổi tên lại là Lê Quý Đôn).

Trong suốt thời gian ông học trung học ở Sài Gòn, cha ông chỉ cho ông 2 đồng mỗi tháng, nhưng ông Lạc đều đều gởi giúp, khi thì 3 đồng khi 5 đồng. Ông đã viết thơ cảm tạ ân nhân của mình và chỉ xin gởi 3 đồng là nhiều lắm rồi, đừng gởi 5 đồng (trang 44 sđd).

Ông học ở trường Bổn quốc 2 năm rồi được đưa sang trường Sư phạm gần Sở thú. Ở miền Nam không phải đến thập niên 50 mới có phong trào «học nhảy», tỷ như một học sinh đang học lớp Đệ ngũ ở trường công, có thể ghi tên học song song lớp Đệ tứ ở trường tư. Cuối năm nếu anh ta thi đậu bằng Trung học Đệ nhất cấp, anh ta có thể ghi tên học lớp Đệ nhị để thi Tú tài phần một, như vậy anh ta nhảy được 2 lớp Đệ tứ và Đệ tam và rút ngắn được 2 năm. Đọc sách xưa mới biết ở thập niên 20 đầu thế kỷ, Tạ Thu Thâu cũng đã học nhảy như vậy. Trường hợp của Thâu, ông đã nhảy lớp 4è Année tức là lớp Đệ tứ. Cuối năm 3è Année, lúc ông được 17 tuổi, đi thi chung với những thí sinh lớp 4è, ông đã đậu bằng Tốt nghiệp Diplôme và đậu luôn cả bằng Brevet Elémentaire.

Với bằng Brevet Elémentaire, giá trị cao hơn bằng Diplôme, ông có thể xin vào ngạch giáo sư để dạy trường công, nhưng vì chưa đủ tuổi, nên ông lại dự thi lấy học bổng để vào Ban Trung học Bổn xứ để thi bằng Brevet Supérieur. Cuối năm đó, Tạ Thu Thâu đậu phần một và phần hai, và sang năm sau là năm 1925, lúc ông được 19 tuổi, ông đậu phần ba của bằng Brevet Supérieur. Năm đó, đề thi thật khó, bao nhiêu sĩ tử, cả Pháp lẫn Nam, rơi rụng như lá mùa thu, Tạ Thu Thâu lại đậu cao. Do đó, ông Chánh chủ khảo người Pháp tên Grandjean, thạc sĩ Sử địa, thấy Thâu có tài, học giỏi, mới khuyến dụ Thâu vào làm giáo sư chánh ngạch ở Ty Giáo huấn và hứa sẽ đỡ đầu để nhập Pháp tịch cho được lương cao.

Điểm khác biệt đầu tiên giữa Hồ Chí Minh và Tạ Thu Thâu

Theo dõi cuộc đời học sinh của Tạ Thu Thâu, ta thấy có điểm lạ là Thâu nhiều lần muốn bỏ học để đi làm phụ giúp gia đình vì nhà quá nghèo. Hai lần Thâu muốn bỏ học và cả hai lần ông Hai Sóc cha Thâu dọa sẽ tự tử nếu Thâu bỏ học. Điều lạ lùng là khi Tạ Thu Thâu đã đậu bằng Brevet Supérieur, có thể làm giáo sư chánh ngạch, lại được Chánh chủ khảo Grandjean đỡ đầu vào Pháp tịch để được lương cao, thì ông lại khước từ. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ chỉ ghi lại rằng (trang 68 sđd): “Khuyến dụ thế nào, Thâu vẫn từ chối địa vị cao lợi ấy, để tự chọn con đường cho mình đi.”

Cuộc đời công chức thời Pháp thuộc được hưởng cao lợi với “tối rượu sâm banh sáng sữa bò” đậm đà mùi đỉnh chung không làm mềm lòng Tạ Thu Thâu, người thanh niên 19 tuổi yêu nước của tỉnh Long Xuyên. Nhưng với Hồ Chí Minh thì khác. Nhắc lại chuyện hồi năm 1911, lúc Hồ Chí Minh còn mang tên Nguyễn Tất Thành, vừa mới đặt chân lên đất Pháp thì đã nạp đơn xin học trường Thuộc địa. Vì quá ham, nên Bác đã viết hai lá đơn gởi đến hai chỗ: một gởi cho trường và một gởi cho Tổng thống Pháp! Trong đơn Bác viết sai một lỗi chính tả tiếng Pháp, đơn không được cứu xét, Bác đành phải tìm con đường tiến thân khác. Đây là điểm khác biệt đầu tiên giữa Hồ Chí Minh theo Đệ tam Quốc tế và Tạ Thu Thâu thuộc nhóm Trotskist. Hồ Chí Minh muốn tiến thân trên con đường hoạn lộ của Chế độ Pháp thuộc nhưng không được toại nguyện. Ngược lại, con đường đó mở rộng thênh thang cho Tạ Thu Thâu nhưng ông lại không vào.

Con đường Tạ Thu Thâu tự chọn cho mình là không phục vụ chính quyền Thuộc địa. Ông đi làm giáo sư dạy các trường trung học tư thục như trường Nguyễn Phan Long và trường Nguyễn Xích Hồng (sau đổi tên lại là Nguyễn Trọng Kỳ). Ông nổi tiếng là dạy giỏi nên các trường tư cố mời cho được ông giảng dạy ở trường mình.

Vào năm 1925, khi Tạ Thu Thâu thi đậu bằng Brevet Supérieur, miền Nam vô cùng sôi động. Vốn yên lặng từ mấy chục năm qua, đùng một cái phong trào ái quốc Nguyễn An Ninh nổi lên với tờ báo tiếng Pháp La Cloche fêlée (Tiếng Chuông rè) và các cuộc diễn thuyết Cao vọng Thanh niên tại Hội Khuyến học Nam Kỳ cùng với cuộc nói chuyện của Phan Châu Trinh về Luân lý và đạo đức Đông Tây và một lần khác về đề tài Quân trị dân trị. Sau đó, thêm vụ cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt ở Thượng Hải giải về xử tại Hà Nội. Cả nước bùng nổ một phong trào tranh đấu quyết liệt ủng hộ và xin ân xá cụ Phan. Do đó, chính quyền Thuộc địa Pháp nhượng bộ, chỉ phê chuẩn một án treo và đưa cụ an trí ở Huế.

Qua năm 1926, cụ Phan Châu Trinh từ trần. Đồng bào toàn quốc cử hành lễ truy điệu rất long trọng. Vì lễ truy điệu cụ Phan mà nảy ra phong trào học sinh và sinh viên bãi khóa suốt từ Nam chí Bắc. Người Pháp phản ứng vụng về nên nhiều sinh viên đã bỏ học để tìm cách xuất ngoại tham gia phong trào cách mạng ở Tàu, ở Pháp, ở Nga.

Đến năm 1927, lại xảy ra biến cố bãi khóa ở Huế. Nguyên do có một giáo sư người Pháp dạy trường Quốc học ở Huế, trong lúc la rầy một học sinh, lại chửi mắng cả Dân tộc và nhục mạ cụ Phan Bội Châu, lúc đó đang bị an trí tại Huế. Cuộc bãi khóa phản đối vị giáo sư kỳ thị chủng tộc này có tầm rộng lớn lôi cuốn học sinh hai trường khác ở Huế là trường Đồng Khánh và trường Pellerin. Nhân vụ này cũng có một số học sinh bỏ trường tìm đường xuất ngoại để tham gia cách mạng kháng chiến chống Pháp.

Từ 1925 đến 1927, Tạ Thu Thâu vừa dạy học ở các trường tư thục ở Sài Gòn, vừa đọc sách nghiên cứu và âm thầm hoạt động với nhiều anh em đồng chí. Vốn ngưỡng mộ Thánh Gandhi bên Ấn Độ với phong trào The Young India, Tạ Thu Thâu âm thầm tổ chức một đảng thanh niên lấy tên là Đảng Jeune Annam. Đảng Jeune Annam ra đời, Thâu nắm ban tổ chức, với thành phần thanh niên yêu nước bồng bột như Trịnh Hưng Ngẫu, Nguyễn Văn Số, Bùi Công Trừng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Ngọc Danh, v.v... Theo gương Nguyễn An Ninh đã sáng lập tờ “Tiếng Chuông rè”, Đảng Jeune Annam của Tạ Thu Thâu thành lập báo “Nhà quê” cũng là tờ báo tiếng Pháp, cũng theo đường lối của Nguyễn An Ninh, chỉ trích mạnh, hô hào nhiều. Càng nói mạnh, càng chỉ trích, báo càng bị tịch thu và bị bắt bớ nhiều, vì thế chỉ ra có mấy số là hết vốn, phải ngưng xuất bản (trang 80 sđd).

Sau đó, Tạ Thu Thâu tìm cách xuất ngoại sang Pháp du học. Tác giả Phương Lan, trong chương Đại bàng tung cánh tường thuật như sau (trang 84 sđd): “Tạ Thu Thâu nhờ dạy kèm con cho những ông nhà giàu, họ cảm đức độ, tài học Thâu, nên họ nhờ Thâu làm người hướng dẫn, giám hộ, dìu dắt, trông nom con họ du học theo Thâu. Họ tín nhiệm Thâu, giao gần 20 đứa trẻ, cho Thâu đưa đi Pháp học. Tất nhiên sở phí đi về, ăn học, họ phải chung nhau đài thọ cho Thâu, để Thâu nhận trách nhiệm lo lắng, dạy dỗ con họ khi ở đất khách quê người.”

Đến Pháp, Tạ Thu Thâu lo chỗ ăn chỗ học cho gần 20 học sinh đó, rồi mới lên Paris tìm gặp Nguyễn Thế Truyền, mà Thâu được biết tên lúc còn ở trong nước khi đọc qua những bài báo đầy tâm huyết của ông. Tạ Thu Thâu có ghi tên học chứng chỉ Toán đại cương. Ngoài giờ học, Thâu thường đến bàn luận chánh trị với Nguyễn Thế Truyền, một già một trẻ rất là tương đắc.

Người mang biệt danh “Nguyễn Văn Marx”

Theo tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ, Nguyễn Thế Truyền đã theo đảng Cộng sản, nhưng nhận rõ chủ nghĩa đó không đúng sở thích và đường lối của người Việt Nam, nên Truyền ly khai, tách ra lập Việt Nam Độc lập đảng, viết tắt là P.A.I theo tiếng Pháp “Parti Annamite de l’Indépendance” (trang 90 sđd). Đến khi Nguyễn Thế Truyền về nước hoạt động cùng với Nguyễn An Ninh, ông mới bàn giao VNĐL đảng lại cho Tạ Thu Thâu lãnh đạo. Thâu lại được Hội Tiếp rước Du học sinh Việt Nam biết tiếng, nghe danh, mới mời Thâu làm đại diện cho hội tại Paris. Thâu bị cuốn hút vào chính trị cho nên bỏ học. Thâu đọc nhiều, nghe diễn thuyết nhiều, tranh luận nhiều nên rất nổi tiếng ở Paris. Có câu chuyện Thâu đến dự thính ở diễn đàn Madeleine, Paris, khoảng đầu năm 1930 (trang 120 sđd), Thâu đứng lên chất vấn nhiều vấn đề, làm cho diễn giả là nhà văn Jean Guéhenno khó trả lời thông suốt. Sự lúng túng, trả lời không chính xác của diễn giả, do những câu hỏi hóc búa của Thâu, làm cho các bạn bè Thâu hết sức ngạc nhiên, không ngờ Thâu đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx một cách tinh vi, sâu đậm đến thế. Do đó, Thâu nổi tiếng với biệt danh là “Nguyễn Văn Marx” trong giới du học sinh, nhà văn, nhà báo và chính trị gia. Một nhà báo tên tuổi là Luc Durtain cũng đã viết về Thâu là “Nguyễn Văn Marx” trong quyển sách của ông nhan đề Dieu blanc, homme jaune. Càng lậm vào chủ nghĩa Marx, Thâu càng đả phá lý thuyết Marx. Tác giả Phương Lan đã viết về Tạ Thu Thâu và lý thuyết Marx như sau (trang 123 sđd):

“Tánh đơn thuần, nhơn hậu, giàu tình cảm đã sẵn có trong dòng máu Thâu, từ ngày ra đời, đối với gia đình là người con chí hiếu, với bạn bè là người bạn thủy chung, đối với Dân tộc là người hết lòng binh vực, nâng đỡ, thì Thâu đâu có thể theo chủ nghĩa Marx với đường lối của Staline được. Vì những lý do đó, càng biết nhiều về Marx, Thâu càng xa đảng Cộng sản bấy nhiêu.”

Trong chương Vì sao Thâu là Trotskyste, tác giả Phương Lan viết (trang 120 sđd): “Rồi vô tình, hay định mạng đưa đàng dẫn lối, nhơn vụ Yên Bái xảy ra, mười ba vị liệt sĩ bị Pháp kêu án tử hình, Thâu tình cờ đọc được một bài trong báo La Vérité của nhóm Trotskystes, một nhóm không đông, độ 10 người trông nom xuất bản, có nêu lên những lý thuyết nói về thuộc địa rất hay, hạp theo đúng lý tưởng của Thâu. Rồi Thâu thích và xin nhập đảng nầy, dù từ lâu Thâu từ chối không vào đảng Cộng sản Pháp hay sang Nga du học như phần đông sinh viên thuở ấy.”

Điểm khác biệt thứ hai giữa Hồ Chí Minh và Tạ Thu Thâu

Đến đây, ta tìm thêm được một điểm khác biệt giữa Tạ Thu Thâu và Hồ Chí Minh. Thâu thấu đáo chủ nghĩa Marx đến độ được gán cho biệt danh là Nguyễn Văn Marx. Nhưng càng hiểu nhiều về Marx, Thâu càng xa đảng Cộng sản bấy nhiêu và Thâu không thể nào theo chủ nghĩa Marx với đường lối của Stalin được. Thâu cũng không gia nhập đảng Cộng sản Pháp và cũng không sang Nga du học như phần đông sinh viên thuở ấy.

Nhưng Hồ Chí Minh thì khác hẳn. Trong sách Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh đặt chuyện rằng có “một người quen với ông Nguyễn ở Pa-ri” thuật cho Trần Dân Tiên rằng: “Lúc ấy, ông Nguyễn (tức là Hồ Chí Minh lúc còn mang tên Nguyễn Ái Quốc) là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả cho Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng… Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết.” Khi trả lời nữ đồng chí Rose về lý do vì sao ông tán thành gia nhập Đệ tam Quốc tế, ông đáp: “Tôi không hiểu thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản… Nhưng tôi hiểu rõ một điều: “Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng Dân tộc.” Đã thú nhận ít hiểu biết về chính trị và kém tiếng Pháp như vậy thì làm sao đọc và hiểu được Luận cương về chủ nghĩa Dân tộc và chủ nghĩa Thực dân của Lênin? Trong bài Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh viết: “Một đồng chí trao cho tôi đọc Luận cương… của Lênin được công bố trên tờ Nhân đạo (L’Huma-nité)… Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là thứ cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!” Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế Thứ ba”. Khi bắt gặp bản Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh quá đỗi vui mừng! Đến bây giờ xét lại và đánh giá sự vui mừng đó, thật sự đó là sự vui mừng của riêng “ông Nguyễn” đã tìm được phương cách tiến thân cho đời mình! Thật đúng vậy, mối lợi đầu tiên là 1000 quan đảng Cộng sản Pháp cấp cho “ông Nguyễn” làm lộ phí cho ông sang Nga (Trích bài Giáo sư Tôn Thất Thiện, đăng chung với 9 tác giả trong quyển Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, trang 62). Số tiền đó khá lớn, một sinh viên du học có thể sống trong 5 tháng. Thế rồi như một vị khách du lịch sang trọng, với tiền do đảng Cộng sản Pháp cung cấp, “ông Nguyễn” rời Pháp sang Nga năm 1923 để học nghề làm Cộng sản, để trở thành Kominternchik, và sau đó về Việt Nam tàn phá Đất nước và giết hại Dân tộc!

Cuộc Cách mạng đã bị phản bội

Tình hình chánh trị của Liên Xô sau khi Lênin từ trần và Stalin lên thay thế đột nhiên có nhiều biến chuyển to lớn. Quyển Cuộc Cách mạng bị phản bội của Leon Trotsky viết năm 1936 được Nhóm Nghiên cứu ở Pháp dịch sang tiếng Việt năm 1992 với Lời giới thiệu của Hoàng Khoa Khôi, một lão chiến sĩ Đệ tứ. Lời giới thiệu dài 10 trang sách, xin tóm lược và trích những ý chính như sau:

“Cuộc Cách mạng Tháng Mười đã bị phản bội. Kể từ 1925 nền dân chủ Xô viết mà Cách mạng 1917 khai trương, không còn nữa. Lợi dụng giai đoạn thoái trào quần chúng, một tầng lớp quan liêu, do Stalin đứng đầu, đã cấu kết nhau, nhảy ra lũng đoạn các cơ quan đảng, Nhà nước, nghiệp đoàn, cùng các tổ chức quần chúng. Chúng tước đoạt quyền hành của lao động, loại trừ và giết hại các chiến sĩ cách mạng, xuyên qua những vụ án bịa đặt, đẫm máu.”

“Để thiết lập nền độc tài một đảng, quyền lực một lãnh tụ, Stalin và đẳng cấp quan liêu đã thi hành luật lệ và các biện pháp thu hẹp quyền dân chủ. Thanh niên bị tước đoạt quyền chính trị. Trí thức, văn nghệ sĩ bị bịt mồm, bịt miệng. Dân chúng bị kiểm soát từng lời nói, ý nghĩ, việc làm. Xã hội đầy rẫy những kẻ nịnh hót, tham ô, đầu cơ, trục lợi. Bọn hãnh tiến ngoi lên. Người trung thực bị trù dập. Đảng và Nhà nước lựa chọn những người đại diện cho mình, không lựa chọn theo khả năng mỗi người mà chỉ dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất: trung thành với Stalin và với đảng. Kết cục: chỉ lựa chọn một lũ người cơ hội và giả dối.”

Lời giới thiệu vừa trình bày bên trên của Hoàng Khoa Khôi cũng là Bản Cáo trạng của Trotsky tố cáo Stalin độc tài phá hư cuộc Cách mạng Tháng Mười, đồng thời nó cũng tô vẽ bức tranh xã hội bi thảm của đất nước Liên Xô dưới sự thống trị của Stalin và Tập đoàn của ông. Một xã hội Liên xô bi thảm như vậy, nếu nó cưu mang Hồ Chí Minh thì nó chỉ nuôi dạy ông thành người hãnh tiến, cơ hội, trục lợi, giả dối, và nịnh hót Stalin mà thôi. Cùng với sự thống trị của Stalin nảy sinh một danh từ mới là Staliniens. Tuy hai từ Đệ tam Quốc tế và Nhóm Staliniens chỉ là một thực thể, nhưng từ Staliniens có nội hàm hẹp hơn vì nó không mang ý nghĩa “quốc tế rộng rãi theo địa lý” mà nó có nghĩa thu hẹp là “Phe nhóm Stalin và Tập đoàn của ông”. Do đó ta phải hiểu rằng Đệ tam Quốc tế không thật sự là quốc tế gì cả mà chỉ là của chính Stalin mà thôi! Thật vậy, Đệ tam Quốc tế đã bị một mình Stalin quyết định khai tử vào tháng 6-1943 theo nhu cầu của Liên Xô. Vào lúc đó, Liên Xô bị Đức tấn công mãnh liệt cho nên Stalin cần Hoa Kỳ viện trợ để chống trả, cho nên phải giải tán Đệ tam Quốc tế để cho Hoa Kỳ yên tâm.

Lời trối của nhà Cách mạng Nguyễn An Ninh

Nhân nói đến từ Staliniens, thì nên tìm đọc lại Lời trối của nhà Cách mạng Nguyễn An Ninh. Nhắc lại giai đoạn cuối thập niên 30, khi Đệ nhị Thế chiến sắp sửa bùng nổ, Thực dân Pháp ra tay trước bằng cách bắt những người Việt hoạt động chính trị Đệ tam, Đệ tứ, và cả Nguyễn An Ninh đem giam ngoài Côn Đảo. Đến khi Nhật đảo chánh Pháp, thì các chính trị gia mới được tự do. Nhưng Nguyễn An Ninh đã chết ngoài Côn Đảo ngày 14-8-1943 và Tạ Thu Thâu là người huynh đệ nhỏ vừa là người thân cận nhất của Nguyễn An Ninh trong những ngày cuối của đời ông. Khi được tự do về được đất liền, Tạ Thu Thâu tâm sự với Đỗ Bá Thế tự Minh Hải là người em kết nghĩa của ông như sau (Trích Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu của tác giả Phương Lan, trang 324):

“Lúc anh Ninh ở Sài Gòn còn mập mạnh, ra Côn Đảo vài năm sau sức khỏe anh xuống quá nhiều. Anh đau ốm liên miên. Trong lúc đó, bọn anh Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng để khủng bố tinh thần anh, chúng nó lập tiểu tổ để phê bình những người không cùng chánh kiến. Anh đây cũng bị chúng nó áp đảo tinh thần suốt mấy năm trời trong lao.”

“Đã nhiều lần anh cố khuyên anh Ninh rán chịu đựng! Nhưng sức khỏe của ảnh quá kiệt quệ, bịnh thiếu sinh tố càng làm cho ảnh xuống tinh thần nữa. Đến một hôm không còn hy vọng gì kéo dài cuộc sống tù tội, ảnh có nói một câu: “Thâu, em có về được đất liền nhờ nói với con anh, bảo chúng nó phải phòng ngừa bọn Xít-ta-liên-niên.” Ảnh chết! Chết vì quá mòn mỏi! Khi anh em chôn cất ảnh xong, anh thức gần mấy tháng trời suy nghĩ về câu nói của anh Ninh”.

Lời trối của Nguyễn An Ninh “Phải phòng ngừa bọn Xít-ta-liên-niên” không đến được với gia đình ông, thì làm sao đến với Dân tộc để Dân tộc biết mà đề phòng! Còn Tạ Thu Thâu khi bị Việt Minh Cộng sản sát hại ở Quảng Ngãi vào khoảng tháng 9 năm 1945 thì đã mang Lời trối ấy xuống tuyền đài! Bây giờ, Dân tộc còn biết được Lời trối ấy, xin tri ân tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ và nhà xuất bản Khai Trí của ông Nguyễn Hùng Trương đã hoàn thành và xuất bản quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 ngày 5-1-1974 ở Sài Gòn. Thật quá trễ!

Một đoạn đối thoại lý thú

Vào năm 1930, Tạ Thu Thâu gặp Hồ Hữu Tường ở Marseille. Lúc đó, Tạ Thu Thâu là đại diện Hội Tiếp đón Du học sinh Việt Nam ở Paris và là thủ lãnh Việt Nam Độc lập đảng, còn Hồ Hữu Tường vừa đậu tú tài và ghi tên học một phân khoa ở Marseille. Làm xong công việc của Hội Tiếp đón, hai người kéo nhau ra quán cà phê “Du Chapitre” trụ sở của Hội để tâm tình. Qua mẩu đối thoại ngắn, ta biết được định hướng chính trị của hai vị đáng được gọi là “trí thức ưu thời mẫn thế” vào thuở đó, tuy họ còn rất trẻ: Tạ Thu Thâu 24 tuổi và Hồ Hữu Tường 19. Sinh viên Hồ Hữu Tường hỏi ý kiến bậc đàn anh Tạ Thu Thâu (Trích Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu, tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 270).

- Nếu muốn làm việc, nên đọc sách gì?

- Quyển “Le Matérialisme historique” (Duy vật Sử quan) của Boukharine.

- Tôi đọc rồi.

- Vậy thì đọc thêm “Questions fondamentales du Marxisme” (Vấn đề căn bản của chủ nghĩa Marx).

- Tôi cũng đọc rồi.

- Vậy thì đọc “Précis d’Économie politique” (Kinh tế chính trị yếu lược) của Ostrialow.

- Cũng rồi nữa.

- Thì đọc bộ “Capital” (Tư bản) của Marx.

- Tôi đương đọc.

- Mầy có vào đảng Cộng sản không?

- Không

- Sao vậy?

- Vì tôi nhận thấy hiện nay nước Nga tiến vào con đường khác hơn là đường lối của Marx

- Tao cũng vậy. Tao đọc sách ít hơn mầy, song thường nghe tranh biện ở Paris hơn, tao cũng biết việc xứ Nga tiến vào một con đường khác. Vì lẽ đó tao nhận thấy hoạt động cho đảng P.A.I, cho Dân tộc, còn hơn là chui đầu vào một chiếc tàu mà mình biết không ghé cái bến mà mình trông mong.

Con đường “Bác đi” trở thành “bi đát”

Hai nhà trí thức Tạ Thu Thâu và Hồ Hữu Tường đáng được gọi là “thức thời” vào thuở đó nên không chọn con đường sang Liên Xô để theo Stalin. Nhưng Hồ Chí Minh đã chọn con đường đó. Con đường “Bác đi” trở thành “bi đát” bởi vì Bác đã đi theo “Cuộc Cách mạng đã bị phản bội”. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, nhìn lại con đường dẫn Hồ Chí Minh đến Lênin và Stalin, tuyệt nhiên đó không phải là con đường Giải phóng Dân tộc. Trên con đường đó, “ông Nguyễn tức Hồ Chí Minh” cho rằng đã gặp “mặt trời rực sáng soi đường dẫn lối tới thắng lợi cuối cùng, tới xã hội chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa”. Nhưng thật sự trên con đường đó, Hồ Chí Minh vào lúc chưa đuổi được hổ, thì đã rước hai con hùm vào nhà rồi. Trên con đường “Bác đi trở thành bi đát” đó, cuối cùng Hồ Chí Minh đã xây dựng được một chế độ mà Trần Độ miêu tả trong Nhật ký Rồng rắn (được viết từ ngày 14-11-2000 đến ngày 7-5-2001, tức là từ năm Canh Thìn tới năm Tân Tỵ): “Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ Phát xít, độc tài”.

Nhưng Trần Độ nào phải là một khuôn mặt xa lạ đối với Đảng*! Ông là một đảng viên kỳ cựu, gia nhập Đảng từ năm 1940. Trong quân đội ông là Trung tướng. Trong chính trị ông là Ủy viên Trung ương giữ chức Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ. Trong Quốc hội ông đảm trách chức vụ Phó Chủ tịch. Ông cũng là một nhà văn đã sáng tác Lòng tin (1953), Kể chuyện Điện Biên (1964), Nhật ký Rồng rắn (2001, bị Đảng tịch thu). Khi về hưu, tướng Trần Độ nhiều lần đề nghị đổi mới và dân chủ hoá, nhưng không được đáp ứng mà còn bị chỉ trích, vu khống. Sau cùng, Trung tướng Trần Độ bị Đảng khai trừ (1-1999). Đến khi ông qua đời (ngày 9-8-2002), Đảng vì dị ứng với ý tưởng dân chủ của ông nên mới bày trò nhục mạ vong linh ông và làm khó dễ tang gia trong việc tống táng chỉ với chủ đích răn đe và khủng bố những bạn bè thân hữu của ông đang đứng trong chiến tuyến tranh thủ tự do dân chủ cho Dân tộc. Do vậy, Đảng không những tàn bạo và dã man như Cố Trung tướng Trần Độ đã phê bình, mà còn nhục mạ vong linh ông và gây khó dễ cho tang gia, thì Đảng thật hèn hạ và thô bỉ vô cùng!

Bây giờ, xét lại chuyện cũ hơn 70 năm về trước, chúng ta mới nhận thấy nhà cách mạng Đệ tứ Trotskist Tạ Thu Thâu với biệt danh Nguyễn Văn Marx đã rất sáng suốt không gia nhập đảng Cộng sản và không đi qua Nga du học. Còn Hồ Chí Minh học lực kém, tiếng Pháp không giỏi, không được nhận vào học trường Thuộc địa của Pháp, kiến thức về chính trị thường thường bậc trung như ông đã thú nhận, ông không có gì đặc sắc trong số người Việt trên đất Pháp vào thuở đó, nên ông đã vội vàng chụp lấy cơ hội đi qua Nga học nghề làm Cộng sản để di họa cho Dân tộc không biết bao nhiêu đời. Như vậy, Hồ Chí Minh đúng là người theo “cơ hội chủ nghĩa”, chữ của Cộng sản thường dùng để bêu xấu mạ lỵ đối thủ của họ, ở đây, xin hoàn trả lại cho “Bác Hồ” của chúng!

Đệ tam và Đệ tứ “đi chung đánh riêng”

Thời điểm đầu năm 1933 ở miền Nam, sau khi mãn tù, Nguyễn An Ninh nhìn thấy cảnh “Ngao cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi” nên mới dùng uy tín của mình để liên kết Tạ Thu Thâu và Nguyễn Văn Tạo thành một nhóm có tên là Nhóm Tranh đấu với chủ trương là “Đi chung đánh riêng”, tức là không chống đối và giết hại nhau, chỉ đánh thực dân Pháp bằng đường lối riêng của từng nhóm. Họ chung nhau xuất bản tờ báo “La Lutte” tranh đấu trong vòng hợp pháp, có xu hướng chánh trị binh vực giới nông dân thợ thuyền. Nhưng tờ báo lại là tờ báo Pháp ngữ, bài vở viết bằng tiếng Pháp vì vào thuở đó rất khó xin được giấy phép ra báo tiếng Việt. Thế là báo “La Lutte” ra đời, bán 6 xu một số, mỗi tuần ra một lần, ba nhóm cùng nhau viết bài, nhóm Đệ tam của Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, nhóm Đệ tứ của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, và nhóm Quốc gia Trung hòa Tiến bộ của Nguyễn An Ninh.

Tình hình trong thế giới Cộng sản vào lúc đó thì Đệ tam Quốc tế và Đệ tứ đều coi nhau như thù nghịch, thù nghịch tới mức còn nghiêm trọng hơn giữa Cộng sản và Tư bản. Nhưng trong tác phẩm của Phương Lan về Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945, ta đọc được những dòng chữ thật đẹp về sự hợp tác của Đệ tam và Đệ tứ ở miền Nam nước Việt như sau (trang 156 sđd):

“Sự thù nghịch như thế đó, đối nghịch nhau như thế đó, xu hướng khác nhau như thế đó, mà hôm nay tại cái miền Nam nước Việt nầy, hai phe thù nghịch không đội trời chung lại nhân nhượng nhau, hợp tác nhau trong một nhóm, trong một tờ báo mang tên La Lutte. Nghĩ cũng lạ thường hơn người ta. Nguyên nhân lạ thường có một không hai đó, một phần là do nơi bản chất người Việt Nam, một phần do nhu cầu cần thiết cho cả hai phe Tam và Tứ trong lúc đó đòi hỏi.”

Tác giả Phương Lan còn viết thêm rằng do nơi Nguyễn An Ninh, người đàn anh cách mạng, đứng giữa hai phe, đã dùng lối trung dung, khuyến khích, làm môi giới cho hai phe cùng chung thống nhứt lực lượng chống đế quốc thực dân. Dù lâu, dù mau, nhưng giai đoạn hợp đoàn phản đế, cũng gây được tiếng vang trên thế giới. Sau rồi, khi mỗi nhóm được mạnh tiến, chia rẽ cũng chẳng làm sao. Chớ một sự hợp tác như vậy là một việc thật ngoại lệ, đặc biệt, có một không hai trong thế giới Cộng sản, trên tinh thần kỷ luật sắt của họ.

Trong tác phẩm Phan Văn Hùm, Thân thế và sự nghiệp, tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu cũng có đôi dòng ca ngợi sự hợp tác giữa hai phe Cộng sản như sau (trang 57):

“Trong chiều hướng cùng nhau tranh đấu chống kẻ thù chung của đất nước là Thực dân Pháp, Nguyễn An Ninh đã thực hiện được ở miền Nam một liên minh giữa những người Cộng sản theo xu hướng Staline và những người Cộng sản theo xu hướng Trotsky. Trong khi đó trên hầu khắp thế giới, các đảng Cộng sản theo xu hướng Staline đã được chỉ thị phải vu cáo, chửi rủa, mạ lỵ cánh Cộng sản Tả đối lập theo đường lối Trotsky. Đây là một liên minh duy nhất trên thế giới, đã được các sử gia như Daniel Hémery để tâm nghiên cứu về sau nầy. Liên minh đó đã tồn tại được ba năm. Liên minh đã thỏa thuận không đá động đến xu hướng Staline hay Trotsky, các bài báo sẽ không có ký tên tác giả, tránh bàn đến xu hướng đối nghịch, chỉ cố cùng nhau quảng bá cơ sở lý luận chung của tư tưởng Karl Marx.”

Stalin chửi Trotsky, Hồ Chí Minh lặp lại

Nhưng sự hợp tác thân hữu giữa hai phe Tam Tứ ở miền Nam đất Việt không kéo dài được lâu. Sự tan rã đó lại bắt nguồn từ Mạc Tư Khoa vì sau Đại hội 7 của Liên Xô năm 1935, Stalin quyết định triệt hạ cho bằng được Trotsky và các đồng chí Đệ tứ của ông. Trong quyển hồi ký chính trị Mặt thật, tác giả Bùi Tín trích dẫn bài viết của Stalin đăng trên báo Sự thật Pravda ở Mạc Tư Khoa ngày 14-3-1937 như sau (Mặt thật, trang 113):

“Chủ nghĩa Trốt-kýt dùng phương pháp đấu tranh hèn hạ nhất, nhơ bẩn nhất, khốn nạn nhất. Nấp trong bóng tối, đàn chó Trốt-kýt tụ tập những kẻ không còn tính người, sẵn sàng gây mọi tội ác… Khủng bố cá nhân là phương pháp hành động của đàn chó săn Trốt-kýt”.

Đó là những lời Stalin chửi rủa nhóm Đệ tứ Trotskist từ Mạc Tư Khoa năm 1937. Đến năm 1939, Hồ Chí Minh ở Hoa Nam cũng đã viết lại những lời chửi rủa như trên vào trong ba bức thư gởi về Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Hai nhà tranh đấu kiệt xuất cho Tự do, Dân chủ, và Dân quyền là Bùi Tín và Nguyễn Minh Cần đã tham khảo ba bức thư đó trong Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3, trang 97-100). Tác giả Nguyễn Minh Cần đã viết trong quyển Đảng Cộng sản Việt Nam (trang 97) như sau:

“Nổi bật là những lời rất mạnh của Nguyễn Ái Quốc chống chủ nghĩa Trotsky và những người Trotskistes, ông buộc cho họ tội phản bội, gián điệp, tay sai đế quốc, hoàn toàn rập khuôn lời lẽ của cơ quan tuyên truyền của Stalin. Có người cho rằng ông ta nghĩ như thế thật với lòng cuồng tín của một đồ đệ của Stalin, với lối lu loa, vu khống, sỉ nhục, thóa mạ họ một cách rất “Stalin”. Đọc lại ba bức thư ông viết cho Đảng Cộng sản Việt Nam hồi năm 1939, thấy đầy rẫy những lời chửi bới: “Chúng là một lũ bất lương” - “Những con chó săn của chủ nghĩa phát xít Nhật và phát xít quốc tế” - “Đàn chó Trotskistes” - “Những kẻ đầu trâu mặt ngựa” - “Những đứa không còn phẩm giá con người” - “Những tên sẵn sàng gây mọi tội ác” - “Kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ” - “Bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”

Đọc lại những lời Hồ Chí Minh chửi bới những người Trotskist Việt Nam như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh… chúng ta quá ngỡ ngàng trước trận phun nhả ngôn từ vô cùng điêu ngoa, bẩn thỉu, và hèn hạ. Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Phan Văn Hùm, Thân thế & sự nghiệp cũng có nhận xét tương tự (trang 354):

“Đối với một người vốn đã hấp thụ văn hóa Đông phương Khổng Mạnh như ông Hồ Chí Minh, ngôn từ quá thô được xử dụng trong ba văn kiện kể trên quả là một bất ngờ khó hiểu được, ngoại trừ phải được coi như là một ngôn ngữ dịch từ các bản văn của Stalin.”

Thật vậy, những người bị Hồ Chí Minh chửi như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch… là những người tranh đấu chống Pháp không tỳ vết, đã nêu tấm gương yêu nước trong sáng làu làu cho Dân tộc và cho các thế hệ tương lai. Họ là những vị rất xứng đáng được Dân tộc ngưỡng mộ, tôn vinh, và noi gương. Bởi thế cho nên câu “sáng Đảng mà mù tình Dân tộc” áp dụng rất đúng với Con rối Hồ Chí Minh (“Con rối” chữ của Minh Võ và Dương Thu Hương). Hiển nhiên vì sáng Đảng nên BÁC đã quá mù tình Dân tộc. BÁC thật trọn vẹn là Con vẹt của Stalin. Đã cam tâm làm Con vẹt của Stalin, BÁC còn nhẫn tâm làm Cánh tay vươn dài của Stalin sát hại Dân tộc! TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI BỊ BÁC CHỬI NĂM 1939, THÌ ĐẾN NĂM 1945 ĐỀU BỊ BÁC GIẾT SẠCH!

Sự thật về vụ án Moscow 1936-1938

Đây là chuyện Hồ Chí Minh đã tự mình vạch bộ mặt vô cùng ghê tởm của ông! Trong quyển Mặt thật, tác giả Bùi Tín cũng khảo sát về những lời chửi bới của Hồ Chí Minh như tác giả Nguyễn Minh Cần. Nhưng Bùi Tín còn trích thêm Lời khuyên của Hồ Chí Minh gởi về cho các đồng chí ở Việt Nam (trang 113): “Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc Bản xử án bọn Trốt kýt ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt ky và bọn Trốt kýt”.

Lời Khuyên tưởng rằng có thể dạy khôn, nhưng không ngờ Hồ Chí Minh đã xúi dại. Việc đời cứ lặp đi lặp lại y như lời người xưa diễn tả “Gậy ông đập lưng ông” và “Ngậm máu phun người, trước dơ miệng mình”. Bây giờ, đi tìm chân lý trong lịch sử, chúng ta mới biết Stalin đã phản bội cuộc cách mạng và Bản án Moscow hiện nguyên hình là bức bình phong đầy man trá và tàn bạo do Stalin dàn dựng lên để sát hại những người cách mạng chân chính đối lập với ông. Cho nên Bản xử án Moscow đã vạch “bộ mặt vô cùng ghê tởm” không phải của Trotsky mà là của chính Stalin và Tập đoàn của ông trong đó có Hồ Chí Minh.

Nhắc lại lúc Stalin lên cầm quyền thì nền dân chủ trong Đảng đã bị hủy bỏ, Stalin càng trở nên độc tài thì sự chống đối càng quyết liệt. Cánh Tả đối lập thành hình do hàng ngàn đảng viên cùng lên tiếng chống đối việc hủy bỏ nền dân chủ Liên Xô, việc cưỡng bách tập thể hóa, kế hoạch ưu tiên phát triển kỹ nghệ (Một dẫn chứng: dùng võ lực tàn bạo tận thu thóc lúa của nông dân để xuất cảng 18 triệu tạ thóc lấy ngoại tệ nhập cảng máy móc, gây nên nạn đói giết chết 6 triệu nông dân), cùng sự hưởng đặc quyền đặc lợi của các Quan chức đỏ… Giáo sư Vadim Z. Rogovin, một sử gia chuyên về lịch sử nước Nga thời Liên Xô, có bài thuyết giảng tại Đại học Melbourne ngày 18-5-1996 về đề tài Cơn Đại khủng bố của Stalin: Nguyên nhân và hậu quả (Quyển Two lectures, ấn quán Labour Press Books, Sydney, 1996). Giáo sư Rogovin có đề cập đến Cương lĩnh Riutin (Riutin Platform), một bản văn 100 trang tương tự như Nhật ký Rồng rắn 88 trang của tướng Trần Độ. Riutin nguyên là đảng viên Bolshevik đã từng ủng hộ Stalin ở thập niên 20, cũng y như Cựu Trung tướng Trần Độ đã từng ủng hộ Hồ Chí Minh. Sau cùng vì nhận xét chính sách của Stalin sai lầm trên nhiều mặt, Riutin tìm cách liên minh với cánh Tả đối lập, với những người Trotskysts. Nhóm Riutin phát hành Cương lĩnh nêu rõ những khủng hoảng về kinh tế và chính trị đang xảy ra khắp nước và trên mọi khía cạnh. Stalin sợ phong trào chống đối lan rộng nên không cho phổ biến Cương lĩnh trong Chính trị bộ và ra lịnh khai trừ Riutin, đồng thời phát động một cuộc tàn sát địch thủ chính trị khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Đó là cuộc Đại Khủng bố, hay Đại Thanh trừng.

Viết về Đại Khủng bố hay Đại Thanh trừng, giáo sư Rogovin tường thuật rằng đó là một biến cố độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người: “Hàng trăm ngàn người bị bắt giam vào ngục, bị tra tấn dã man, bị bắt phải thú nhận những tội mà họ không hề phạm, rồi bị thủ tiêu hoặc bị lưu đày trong những trại tập trung Gulag ở khắp Liên bang Xô viết.” Trong cùng thời gian đó, hàng ngàn người Trotskyist, vốn là đảng viên cao cấp tài năng đang bị giam cầm hoặc bị lưu đày, phải viết bản tự khai tự kiểm để được phục hồi địa vị. Giáo sư Rogovin thuật lại rằng Stalin cho triệu hồi về Moscow hàng tá và hàng tá những người đối kháng, định đưa ra xử trong Phiên toà Đầu tiên năm 1936. Stalin ra lịnh bảo họ viết Bản Tự thú về những tội họ không hề làm, nhưng không người nào chịu viết, do đó họ bị thủ tiêu trong lần hỏi cung trước khi bị đem ra xử. Trong Phiên tòa Thứ nhất, hai bị cáo là Zinoviev và Kamenev bị kết tội âm mưu với ngoại bang để lật đổ chính phủ và bị xử tử vào tháng 8 năm 1936. Trong Phiên tòa Thứ hai năm 1937, Radek bị kết án 10 năm tù về tội phản động, nhưng đã chết trong tù năm 1939. Trong Phiên tòa Thứ ba ngày 13-3-1938, hai bị cáo Rykov và Bukharin bị kết tội làm gián điệp cho nước ngoài để lật đổ chánh quyền và bị xử tử ngày 14-3-1938.

Giáo sư Rogovin, căn cứ vào nguồn sử liệu xác đáng, đã viết rằng trong suốt thời Xô viết ở Nga, có khoảng 4 triệu người bị kết án chống Chính phủ, trong số đó bị xử bắn từ 700.000 đến 800.000 người. Để cảm nhận sự khiếp đảm trong thời Đại Khủng bố, chỉ trong hai năm 1936 và 1938, Stalin đã đưa ra “pháp trường cát” để xử bắn một số tử tội 6 lần nhiều hơn so với trọn cả thời gian lịch sử Xô viết. Hơn nữa, kể từ 1953 là năm Stalin từ trần, trong 40 năm sau đó gần như không có tội phạm chính trị nào bị xử bắn cả! Và cũng thật may mắn cho nước Nga, một cơn Khủng bố mới đang được Stalin chuẩn bị để phát động thì liền bị các người kế vị của ông dập tắt ngay sau khi ông chết!

Đến năm 1988 dưới thời Gorbachev, Tối cao Pháp viện Xô viết cứu xét lại các vụ án 1936-1938 và huỷ bỏ tất cả các phán quyết. Các phán quyết được huỷ bỏ, các bị cáo kể như được trắng án, thì ra Stalin đã đạo diễn các phiên toà theo lối chuyên chính phi pháp chỉ để giết người hữu công vô tội. “Tôi khuyên ai chưa đọc thì nên tìm đọc Bản xử án bọn Trốt kýt ở Liên Xô và làm cho bạn bè cùng đọc. Nó sẽ giúp cho thấy bộ mặt đáng ghê tởm của chủ nghĩa Trốt ky và bọn Trốt kýt”, Lời Khuyên của Hồ Chí Minh như vậy tất nhiên đã vạch bộ mặt vô cùng ghê tởm của Tập đoàn Stalin và của chính mình! Tưởng rằng dạy khôn, không ngờ Hồ Chí Minh đã xúi dại!

Cuộc Đại Thanh trừng trong Hồng quân

Chúng ta đã biết Stalin là người rất đa nghi như việc Hồ Chí Minh có xin Stalin k‎ý tên vào một tạp chí, nhưng sau đó Stalin sai mật vụ lẻn vào phòng Hồ Chí Minh đánh cắp tờ tạp chí ấy lại. Việc Hồng quân Liên Xô trải qua biến cố Đại Thanh trừng năm 1937 cũng do tánh đa nghi của Stalin mà ra! Chuyện kể vào 15-5-1937, Stalin nhận được từ cơ quan Phát xít Đức Quốc xã qua trung gian tòa Đại sứ Nga ở Tiệp Khắc những Bức thư giả tạo của Thống tướng Tukhatchevski trao đổi với các nhân viên cao cấp của Bộ Chỉ huy Đức. Điều uẩn khúc trong vụ án này là do đâu mà có các Bức thư giả tạo đó? Đó là một nghi vấn lớn. Chúng ta sẽ rất phân vân khi biết rằng “Các cơ quan Đức cũng bị cơ quan mật vụ NKVD của Liên Xô lũng đoạn” như quyển Hắc thư cề chủ nghĩa Cộng sản tiết lộ (trang 292). Bất luận oan ưng thế nào, Thống tướng Tukhatchevski, người có công hiện đại hóa Hồng quân và lúc đó đang giữ chức Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng, ông cùng 7 vị tướng lãnh cũng đã bị kết án tử hình về tội phản bội và gián điệp và bị hành quyết ngày 11-6-1937.

Trong vòng 2 năm, từ 1937 đến 1938, cuộc Đại Thanh Trừng trong Hồng Quân đã loại:

- 3 trong số 5 Thống tướng

- 13 Đại tướng trong số 15 người

- 8 Đô đốc Hải quân trong số 9 người

- 50 Tướng Quân đoàn trong số 57 người

- 154 Tướng Sư đoàn trong số 186 người

- 16 Chính ủy cấp Quân đội bị loại tất cả

- 25 Chính ủy cấp Quân đoàn trong số 28 người

Tổng kết cuộc Đại Thanh trừng trong Hồng quân, quyển Hắc thư ước tính (trang 292) “khoảng 30.000 sĩ quan trên tổng số 178.000 người và cho rằng trong chiến trận giữa Nga và Đức, cuộc Đại Thanh trừng nhất là ở các cấp cao đã là một sự thua thiệt nặng nề cho Hồng Quân”. Về phần Thống tướng Tukhatchevski, đến thời Tổng bí thư Khruschchev, thì uy tín ông dần dần được phục hồi và đến năm 1961, ông được Tòa án phán quyết hủy bỏ tội danh “Phản bội và gián điệp” mà Stalin gán cho ông!

Bình luận về biến cố “Gậy ông đập lưng ông - Quân ta giết quân mình” xảy ra cho Hồng quân Liên Xô, Vũ Cao Quận có nhận xét (Trích quyển Gửi lại trước khi về cõi, xuất bản năm 2006, trang 49): “Dù chiến tranh khốc liệt đến mấy, kẻ thù của chủ nghĩa Mác cũng không thể tiêu diệt có hiệu quả và khủng khiếp các lãnh tụ, tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp cùng là đồng chí trong phe chủ nghĩa xã hội như Stalin và Mao đã đối xử tàn bạo với các “đồng chí” của mình. Suốt mấy nghìn năm lịch sử chưa có cuộc tự hủy diệt nội bộ nào lớn hơn những vụ do chính các “học trò vĩ đại nhất” của Mác đã làm. Tội ác trời không dung đất không tha trên không thấy nêu ai phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Kỳ lạ thật!”

Lời bình luận của nhà Nghiên cứu Nguyễn Minh Cần, tuy ngắn gọn hơn, nhưng nói lên được tính chuyên quyền và nghi kỵ của Stalin cùng sự thanh trừng sâu sát của chế độ. Trong quyển “Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong Phong trào Cộng sản Quốc tế”, quyển nghiên cứu rất công phu mà tác giả khiêm tốn chỉ gọi là bài, tác giả Nguyễn Minh Cần viết (trang 47): “Stalin đã tiêu diệt đảng Cộng sản của Lênin và dựng lên đảng Cộng sản của mình”

Bạn đọc thân mến ơi, xin hãy “trông người mà nghĩ đến ta”, cuộc Đại Thanh trừng Hồng quân ở Liên Xô rùng rợn như thế đấy, cuộc CCRĐ ở vùng đất sông Hồng nào có thua kém ai đâu, khủng khiếp hơn là đằng khác! Người viết xin được viết lại lời của Người Lính Già Vũ Cao Quận: “Tội ác trời không dung đất không tha này không thấy nêu ai phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Kỳ lạ thật!”

Lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho Sài Gòn

Sau khi chiếm trọn miền Nam 30-4-1975, Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1976 đã làm y như đàn anh Liên Xô đã làm vào năm 1924 và 1925. Năm 1924 sau khi Lênin từ trần, Liên bang Xô viết đã thay tên Petrograd thành tên mới là Lêningrad để tôn vinh Lênin. Qua năm sau là năm 1925, thừa thắng xông lên, Stalin “nấu chè xôi” sửa tên thành phố Volgograd thành Stalingrad để tự tôn vinh mình mà không kịp chờ cho đến khi qua đời! Thì ra những “Chủ tịch đảng Cộng sản tự xưng là Kách mệnh” mà cũng hành xử như các bậc vua chúa thời phong kiến và cũng muốn tên tuổi mình trường tồn với thời gian theo lối “Thánh thượng vạn vạn tuế” ngày xưa.

Đàn anh Liên Xô tôn vinh Lênin và Stalin thì đàn em Cộng sản Việt Nam không dại gì mà không tôn vinh Hồ Chí Minh! Con vẹt của Stalin mà lại! Cho nên đến năm 1976, Cộng sản Việt Nam cũng “nấu chè xôi” hủy bỏ tên Sài Gòn, tên đã có lịch sử 300 năm, để đặt cho tên mới là Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng Thiên bất dung gian, tên tuổi của những tên đồ tể Cộng sản Liên Xô cùng chế độ thối tha của chúng lập ra nào có trường tồn được đâu! Đến năm 1961, Stalingrad trở lại thành tên cũ là Volgograd và đến năm 1991, sau khi khối Cộng sản Đông Âu và Liên bang Xô viết sụp đổ, thì Lêningrad, thành phố mang tên Lênin trở lại thành Petrograd như xưa! Đây Bảng tổng kết về tuổi thọ:

Liên bang Xô viết: 1917–1991 = 74 năm

Thành phố Lêningrad: 1924–1991 = 67 năm

Thành phố Stalingrad: 1925–1961 = 36 năm

Chế độ Xã hội chủ nghĩa mà người Cộng sản xưng tụng là dân chủ hơn chế độ tư bản gấp triệu lần, tại sao mà yểu mệnh như vậy!? Làm sao mà dám sánh với tuổi thọ của những “Ông Già Ba Tri” ở tỉnh Bến Tre của Việt Nam được tiếng là trường thọ! Lại càng không thể sánh với chế độ tư bản tôn trọng dân chủ và nhân quyền của các nước Anh, Pháp, Mỹ… Cựu đại tá Trần Văn Kha, cựu sinh viên khóa 5 Võ bị Đà Lạt (khóa Hoàng Diệu), bàn về sự sụp đổ của Xã hội chủ nghĩa như sau: “Liên bang Xô viết và các nước Đông Âu tan rã không phải vì dân nổi loạn, mà vì cấp lãnh đạo Cộng sản kịp nhận ra rằng ý thức hệ Cộng sản sẽ đưa quốc gia của họ đến chỗ diệt vong, nên họ đã đào lỗ chôn Cộng sản.” Đại tá Kha nhận xét như trên với báo Giao Điểm năm 1993 và lặp lại Lời tuyên bố đáng tự hào của Gorbachev về Cộng sản và tư bản. Lời Tuyên bố lịch sử đó như sau: “Ba mươi năm sau khi Nikita Khrushchev đoán rằng Cộng sản sẽ chôn vùi tư bản, thì tôi, Gorbachev nói rằng Cộng sản đang tự chôn chính mình.”

Rõ ràng chưa! Thiên bất dung gian! Những thứ mang nhãn hiệu Cộng sản mất nhân tính, thất nhân tâm, phản tiến bộ, phản cách mạng, phản nhân loại có bền được đâu! Chúng ta chờ xem Thành phố Hồ Chí Minh mang tên xác chết đến năm nào mới chết để cho tên Sài Gòn được sống mãi muôn đời!

Chuyện Stalin chết mấy lần?

Nếu chúng ta trở lại thập niên 20, 30 hoặc 40 và liệt kê những lời chúc tụng và ca ngợi Stalin, chúng ta mới hiểu được Sách lược thần thánh hóa lãnh tụ của Cộng sản! Tác giả Trần Văn Kha đã lược thuật bài báo nhan đề Thượng Đế đã chết, Stalin muôn năm của 2 tác giả Branko Lazitch và Christian Jelen đăng ở L’Express ngày 4-3-1983 trong tác phẩm Tranh đấu do tác giả tự xuất bản năm 1987. Những lời ca tụng Stalin được tác giả Trần Văn Kha liệt kê trong quyển Tranh đấu (trang 131) như sau:

Vinh dự muôn năm cho Stalin vĩ đại
Nhà dìu dắt bất diệt của nhân loại
Ánh sáng của chúng ta
Nhà xây dựng vĩ đại chủ nghĩa Cộng sản
Người kế tục tài ba của Marx, Engels và Lênin
Đại vĩ nhân của mọi thời đại
Nhà tư tưởng vĩ đại, nhà hành động vĩ đại
Vị thầy không ai có thể so sánh được của chủ nghĩa khoa học Mác xít
Bộ óc mạnh mẽ nhất của thời đại
Chúa tể của các dòng sông
Nguồn gốc ánh sáng và năng lực của chúng ta
Người bạn tốt nhất của Do Thái
Sự khôn ngoan, vinh dự, và lương tâm của thời đại
Người lèo lái
Một khối óc thông minh tuyệt vời, giải đáp mọi thắc mắc của thời đại
Một khối óc thiên tài, gom góp được tất cả mọi kinh nghiệm tranh đấu của vô sản từ 100 năm nay
Mặt trời của Sự Thật
Cầu vồng của nhân loại Cộng sản

Đó là những lời ca ngợi Stalin khi ông còn sống, tác giả Trần Văn Kha đoan chắc rằng còn thiếu sót rất nhiều. Đến khi Stalin chết ngày 5-3-1953 thì sự ca tụng ông lên đến tuyệt đỉnh vì ông được thần thánh hóa đến mức ngang hàng với Thượng Đế. Cho nên các tín đồ không thể tin được rằng Thượng Đế của họ có thể chết được! Từ khắp nơi trong thế giới Cộng sản vang lên những bài thơ cùng điếu văn thương khóc Thượng đế Stalin của họ! Tờ Nhân Loại (L’Humanité) phát hành ở Mạc Tư Khoa ngày 9-3-1953: “Một con sông mới trong sạch, làm bằng nước mắt của hàng trăm triệu người khóc, trên khắp vũ trụ, trong những ngày đau đớn này.” Ở Budapest, thủ đô Hung Gia Lợi, phụ họa theo: “Nước mắt tràn ngập trên mặt toàn thể dân chúng Hung. Không một con đê nào có thể ngăn chận những giọt nước mắt đau đớn ấy.”

Lẽ tất nhiên, chế độ Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh cũng không bỏ lỡ cơ hội thương khóc Thượng đế Stalin để lấy điểm. Hồ Chí Minh ra lịnh cho cả nước phải để tang và thi sĩ Tố Hữu đóng góp bài thơ Đời đời nhớ Ông có những câu như sau:

………………

Sta-lin! Sta-lin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin
………………

Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương Ông thương mười!

Về bài thơ Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu, trong quyển Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, nhà sưu tầm Mạc Định viết: “Lời thơ của ông rất hay, nhưng vì ông chuyên dùng ý thơ để ca tụng lãnh đạo nên cũng như những loại thơ ca tụng khác, độc giả cảm thấy tinh thần thấp hèn của người làm thơ”. Người làm thơ tuy có “tinh thần thấp hèn” thật, nhưng sau khi sáng tác bài thơ vào tháng 5-1953 thì qua năm 1954, ông không còn là Ủy viên dự khuyết nữa mà đã trở thành Ủy viên Trung ương thực thụ! Có câu chuyện được kể sau ngày 30-4-1975 do một trại viên học tập cải tạo. Anh thuật rằng ở trong tù anh em chuyền tay nhau đọc thi tập của Tố Hữu. Nhưng ấn bản đó không còn có bài thơ ca ngợi lãnh tụ Stalin và bài thơ nâng bi bác Hồ nâng bi bác Mao một cách trâng tráo mà Đảng không còn muốn phổ biến nữa. Không có thì anh em làm cho có: anh em chép tay thêm vào và giấu ở cuối cuốn sách. Hóa ra đó là những bài thơ anh em rất thích và chuyền tay nhau để đọc. Đảng Cộng sản Việt Nam không còn muốn ca ngợi lãnh tụ Stalin nữa, thì bài thơ Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu kể như bị khai tử! Đảng bỏ bài thơ đó thật đúng bởi vì bấy giờ người dân miền Nam gọi nó là “Bài thơ bợ đít Xít-Ta-Lin”. Miền Bắc nói “nâng bi”, miền Nam nói “bợ đít”, cả hai đều là tiếng Việt.

Theo tác giả Trần Văn Kha, nhà Đại Độc tài Liên Xô Stalin đã chết 2 lần (trang 138 sđd):

1- Stalin con người chết năm 1953

2- Stalin Thượng đế chết năm 1956

Để phụ họa theo, chúng ta có thể kể thêm Stalin chết lần thứ 3 và lần thứ 4:

3- Stalingrad, thành phố mang tên Stalin chết năm 1961

4- Bài thơ “Khóc Stalin” của Tố Hữu chết sau năm 1975!

Đến bây giờ là năm 2007, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam hiểu được “Dân vi quý”, hiểu được “Ý Dân là ý Trời”, hiểu được “thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”, cũng như Đảng đã hiểu và tự khai tử bài thơ khóc Stalin Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu, thì Đảng nên hiểu và tự khai tử tên Thành phố Hồ Chí Minh để trả tên Sài Gòn lại cho Dân tộc. Cái gì của Dân tộc thì trả lại cho Dân tộc, Đảng có mất mát chi đâu! Đảng chiếm đoạt làm chi cho bị mang tiếng! Đảng mà sáng suốt như vậy thì là thượng sách.

Bằng không được như vậy, khi Liên Xô ca ngợi Stalin thì Việt Cộng ca ngợi Hồ Chí Minh, khi Liên Xô hạ bệ Stalin thì Việt Cộng hạ bệ Hồ Chí Minh, cứ theo thói quen làm con vẹt bắt chước y như Liên Xô, không cần biết “thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong” gì cả, chỉ cần biết bắt chước như con vẹt thôi thì cũng có thể gọi là trung sách được.

Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, những “kẻ sáng Đảng mà mù tình Dân tộc” đã bị lỡ chuyến tàu lịch sử rồi, nên không còn có thể hành xử theo thượng sách hay trung sách gì nữa cả. Bây giờ cũng không còn hạ sách nữa mà chỉ có thất sách mà thôi! Khi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ phất cao ngọn cờ chính nghĩa PHONG TRÀO QUỐC DÂN ĐÒI TRẢ TÊN SÀI GÒN phát động khắp cả năm châu làm phấn khởi lòng người dân Việt khắp nơi nơi, quốc nội cũng như quốc ngoại, thử xem đảng Cộng sản Việt Nam hay đúng hơn Bộ Chính trị với hơn 100 Ủy viên tìm phương cách nào để ứng xử với Dân tộc 80 triệu người cho thuận tình nghĩa và hợp đạo lý.

Chuyện ba người tù

Đây là câu chuyện bàn về ba chế độ lao tù khác nhau để cho chúng ta biết rõ thêm về Xã hội chủ nghĩa và Chế độ lao tù do Hồ Chí Minh xây dựng. Người tù thứ nhất là Hồ Chí Minh bị bắt ở Hương Cảng và ở Liễu Châu. Người tù thứ hai là Tạ Thu Thâu bị Pháp bắt giam ở Khám Lớn và Côn Đảo. Nhưng thê thảm nghiệt ngã nhất là người tù thứ ba, là nhà sư Tuệ Minh bị chế độ Hồ Chí Minh bắt giam và hành hạ đến chết trong tù.

Người tù thứ nhất: Hồ Chí Minh

Trong cuộc đời làm “Kách mệnh”, Hồ Chí Minh bị bắt ở tù hai lần. Lần đầu, Hồ Chí Minh bị chính quyền Anh bắt ở Hương Cảng ngày 5-6-1931, và đến đầu năm 1932, sau 6 tháng bị giam thì Bác được phóng thích. Hãy xem lại lịch sử đến thời điểm đó Bác đã hoàn thành công tác nào cho Đệ tam Quốc tế:

1- Thành lập được đảng Cộng sản Xiêm và đảng Cộng sản Mã Lai,

2- Hợp nhất ba chi phái Cộng sản ở Việt Nam thành đảng Cộng sản Đông Dương,

3- Thực hiện sách lược Đấu tranh Giai cấp với phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh để thành lập những Xô viết đầu tiên trên đất Việt.

Ngần ấy công lao hẳn Hồ Chí Minh đã lọt được vào biệt nhãn của Stalin nên Đệ tam Quốc tế mới huy động những đảng ngoại vi hết lòng lo cho giải cứu Bác để hòng xử dụng về sau.

Bác là người tù “có số đẻ bọc điều”. Bác được Đệ tam Quốc tế chỉ thị cho Liên minh Quốc tế Chống chủ nghĩa Đế quốc sách động công nhân tận bên Anh quốc làm áp lực với chính phủ Anh để phóng thích Bác. Đệ tam Quốc tế lại còn chỉ thị cho Hội Cứu tế Quốc tế đỏ mời Luật sư người Anh Frank Loseby biện hộ cho Bác. Bác chỉ ở tù 6 tháng. Trong lần vào tù ra khám ở Hương Cảng nầy, điều gì cần giấu thì Bác giấu, việc nào cần khoe thì Bác khoe. Hãy xem Bác khoe qua miệng lưỡi của Trần Dân Tiên:

“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo sấy và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho ông ăn thịt bò, cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang… Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù. Một là được ra khỏi xà lim được một lúc, cái xà lim nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì bọn trùm mật thám thường hỏi cung ông, mời ông hút thuốc lá Anh.”

Khi Bác bị bịnh, chúng đưa Bác vào bịnh viện ngay: “Ông có một cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói cả đời chưa bao giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này.”

Người tù Hồ Chí Minh thật tốt số. Ngồi tù ở Hương Cảng bên trời Đông, mà các công nhân Anh Quốc tận Thái Tây bên Luân Đôn biểu tình làm áp lực chính phủ Anh để ủng hộ ông. Đó là điều Hồ Chí Minh cần giấu. Nếu ông không phải là Quốc tế ủy được Stalin đào luyện để xử dụng về sau, thì làm sao ông nhận được sự ưu ái như vậy. Thảo nào ông đã bỏ Dân tộc để cúc cung tận tụy phục vụ Quốc tế Cộng sản và Stalin.

Lần ở tù thứ 2, từ hang Pắc Bó đi sang Tàu vào tháng 8-1942, Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 và bị giải về giam trong hang đá Độc Đăng Sơn ở Liễu Châu. Ông bị bắt vì ông đã mang trong mình ba thứ Chứng minh thư của các cơ quan thông tin tuyên truyền của Trung Cộng đã bị Chính quyền Dân quốc của Tưởng Giới Thạch đóng cửa. Hơn nữa, người dẫn đường ông trên đất Trung Hoa lại là một cán bộ Trung Cộng nằm vùng không có Chứng minh thư. Ông bị tình nghi là Cộng sản và gián điệp của Nhật. Lần nầy, Hồ Chí Minh cũng gặp may mắn nhờ sự phát giác của một đảng viên VNQDĐ là Lý Thái Thư (Trích bài Một thoáng mong manh còn nhớ mãi để tưởng niệm 50 năm ngày mất của nhà văn Khái Hưng 1947-1997, tác giả L‎ý Thái Thư, bài đăng trong Đặc san Việt Quốc, VNQDĐ Xứ bộ Úc Châu, Khu bộ Victoria xuất bản). Khi gặp Lý Thái Thư vào trong hang động Độc Đăng Sơn thăm mình, Hồ Chí Minh lúc đó mang tên Lý Thụy mừng rỡ, tha thiết cầu khẩn: “Vì tình đồng hương, đồng bào ruột thịt, năn nỉ với Tổng hội can thiệp dùm, vì trong chiến tranh Hoa-Nhật, chính phủ Trung Quốc có quyền nghi ngờ hết thảy và gán cho mọi người là CS hoặc làm gián điệp… Vậy quý ông trình bày dùm cho. Ơn ấy chúng tôi chẳng bao giờ dám quên…”

Lý Thái Thư về báo cáo với Chủ tịch Trương Bội Công và cụ Nguyễn Hải Thần là những vị lãnh đạo Tổng hội VNCMĐMH, và nhờ sự bảo lãnh của hai vị này, Hồ Chí Minh tức Lý Thụy được thả ngày 10-9-1943. Tính ra Hồ Chí Minh bị giam giữ 12 tháng 12 ngày. Trong lần ở tù này, ông được quản lý theo chế độ nghi can chính trị, có thể đọc sách báo, ăn uống đầy đủ, và không bị lao dịch. Ông hẳn là một người tù tốt số, bị bắt ở tù hai lần mà lần nào cũng gặp quới nhân trợ giúp và được hưởng chế độ lao tù thật tốt đẹp.

Người tù thứ hai: Tạ Thu Thâu

Nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người tù thứ hai trong câu chuyện. Ông không tốt số như Bác vì ông là tù nhân của Thực dân Pháp. Một cách sơ lược về cuộc đời tù tội của Tạ Thu Thâu: ông bị Pháp bắt tất cả 7 lần, 30 lần ra tòa trong đó có nhiều lần ông tự biện hộ bằng tiếng Pháp thật điêu luyện, 3 lần tuyệt thực để phản đối, có lần tuyệt thực dài 12 ngày (vụ tuyệt thực của ông thánh Gandhi ở Ấn Độ chỉ dài 8 ngày), có lần bị phạt 500 quan tiền vạ. Lần ở tù sau cùng, ông bị tiêm một mũi thuốc gây cho ông mê man bất tỉnh trong hai ngày và do đó cánh tay phải của ông bị hoàn toàn tê liệt cho đến ngày chết. Tác giả Phương Lan viết về mảnh hình hài còn sót lại của Tạ Thu Thâu sau một đời làm cách mạng:

“Nhiều lần vào tù ra khám như bao nhiêu người dân yêu nước. Rồi lần ở tù chót, bị chích tê liệt cả thân người, được Pháp thả về nhà, sống với thân hình tàn phế, tay chân rút co quắp lại, sống một cách khổ sở, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm, chỉ nằm chờ ngày chết, không còn năng lực gì nữa.”

Có một nhân chứng là Nguyễn Văn Thiệt tường thuật những giây phút cuối cùng của Tạ Thu Thâu. Lúc đó anh Thiệt đi xe lửa tới Quảng Ngãi thì phải ngừng lại nghỉ đêm. Trong lúc ngồi ở quán nước, hỏi thăm bà bán quán về người bạn tên Lê Xán là một người yêu nước theo cụ Phan Bội Châu, bị Pháp bắt đày đi Lao Bảo. Không ngờ khi Pháp thả ra, thì Lê Xán bị Việt Minh bắt lại và bị xử tử. Anh Thiệt vì muốn biết tin bạn nên cũng bị Việt Minh bắt và bị buộc tội “đến Quảng Ngãi để giải vây cho Lê Xán.” Nhờ thế, anh là chứng nhân và viết được bài Tôi thấy Tạ Thu Thâu chết (đăng trong quyển Người Việt ở Pháp 1940-1954 do tác giả Đặng Văn Long sưu tầm, trang 477). Theo lời anh Thiệt thì Ủy ban tỉnh Quảng Ngãi cũng không biết Tạ Thu Thâu bị tội gì, chỉ nhận được điện tín của Trần Văn Giàu đánh ra cho các tỉnh ra lệnh gặp Tạ Thu Thâu thì bắt. Khi Ủy ban tỉnh báo cho Trần Văn Giàu đã bắt được Tạ Thu Thâu thì Giàu ra lịnh hãy xử tử. Khi đem ra sát trường thì Tạ Thu Thâu trần tình cùng mấy người lính. Ông nói hay và đúng quá nên không ai nỡ bắn, có người còn cảm động rơi lệ nữa. Lại đánh dây thép về Sài Gòn hỏi xem có giết lầm không. Và đã hai lần như thế, Trần Văn Giàu đánh dây thép ra bảo giết. Theo lời anh Thiệt, đến lúc đó họ nhận được lệnh riêng của Cụ Hồ ở Hà Nội điện vô khiển trách Ủy ban bất tuân thượng lệnh. Nhưng đội hành quyết vẫn động mối từ tâm không nỡ bắn. Anh Thiệt thuật lại rằng anh mừng đến rơi lệ khi họ dẫn Tạ Thu Thâu về, nhưng liền sau đó “một người trai trẻ mặc áo nâu quần sọt trắng ra vẻ học trò, tuổi lối mười bảy, mười tám, hung hăng nhảy ra, rút cây dao găm dắt ở lưng đâm vào vai Tạ Thu Thâu, miệng vừa hét “Đồ Việt gian phản động”, rồi đạp Tạ Thu Thâu vào bụng cho ngã quay ra đất, đoạn đấm đá túi bụi.” Mắt anh Thiệt đẫm lệ nên không thấy được tường tận nhưng còn nhớ hình ảnh của một đám đông người bao quanh một bóng trắng đang quằn quại giữa vũng máu và nghe giọng the thé rất trong của người thiếu niên: “Các đồng chí hèn quá, một thằng Việt gian cũng không dám giết.”

Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ cũng tường thuật tương tự như thế trong sách của bà (trang 440): “Thâu từ Huế vào Quảng Ngãi thì bị bắt tại Sông Vệ, thuộc quận Tư Nghĩa. Khi Thâu vừa để chân đến đấy, là cán bộ địa phương hay liền Thâu là thành phần Đệ tứ Quốc tế, họ báo động với nhau, và liền bủa vây bắt ngay Thâu, giải ra xã Ba Lá, ở phía bắc Sông Vệ, giao cho cấp lãnh đạo tỉnh là Tư Ty. Tư Ty ra lịnh chém.”

“Như lời các chứng nhân kể lại, Thâu binh vực mình, Thâu thuyết phục rằng mình vô tội, mình có công hơn là có tội. Không ai chịu ra tay giết Thâu cả. Có người mắt ven tròng rướm lệ là khác. Hai lần như thế, đi không về không. Tới lần thứ ba, cũng thế, đội hành quyết sững sờ đứng yên, Tư Ty phải tự tay dùng súng lục giết Thâu, một cách hèn nhát là đứng phía sau lưng Thâu bắn tới…”

Nhắc lại giai đoạn lúc Thực dân Pháp mới chiếm Nam Kỳ, có biết bao nhà ái quốc tự động nổi dậy chống Pháp, trong số đó có Nguyễn Trung Trực. Ông chỉ huy nghĩa binh đánh quân Pháp nhiều nơi, nổi bật nhất là chiến công đốt phá chiến thuyền Espérance do trung uý Parfait của Pháp chỉ huy vào ngày 11-2-1861 tại rạch Vàm Cỏ làng Nhật Tảo. Nhưng rồi thế cùng lực tận, ông bị bắt ở Kiên Giang, ông nhất quyết không chịu hàng nên bị tử hình ngày 27-10-1868. Người dân thương nhớ và ghi công ông trong câu đối được truyền tụng như sau: “Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa. Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”

Lịch sử ghi lại rằng khi đem ông Nguyễn Trung Trực ra “sát trường”, không một người lính Việt Nam nào chịu ra tay chém ông. Pháp phải ra dùng một đao phủ người Miên mới hành quyết được. Lịch sử là những biến cố thường được lặp đi lặp lại. Sau đó 77 năm, vào “Mùa thu Kách mệnh” của Hồ Chí Minh năm 1945, nhà cách mạng yêu nước Tạ Thu Thâu cũng gặp hoàn cảnh tương tự. Ba lần mang Tạ Thu Thâu ra “sát trường”, cả ba lần đội hành quyết không đành lòng ra tay giết, mà có người còn khóc vì thương ông nữa. Sau cùng, tên Tư Ty, một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi mới rút súng bắn ông từ sau lưng. (Xin mở ngoặc, trong đoạn văn nầy người viết dùng chữ sát trường mà không dùng chữ pháp trường, bởi lẽ kẻ hành quyết chỉ có mục đích sát hại chứ không xử theo pháp luật nào cả).

Trên sân khấu lịch sử, tấn tuồng sát hại nhà ái quốc Nguyễn Trung Trực do Thực dân Pháp diễn xuất năm 1868, thì vào “Mùa thu Kách mệnh” năm 1945, đạo diễn Hồ Chí Minh cùng với sự cộng tác của Trần Văn Giàu cũng dàn dựng một vở tuồng y hệch như thế để giết nhà cách mạng yêu nước Tạ Thu Thâu. Trong vở tuồng mới, cũng có những đao phủ xót thương người trung nghĩa nên không chịu ra tay, cũng có tên Việt Cộng Tư Ty rất xuất sắc trong vai đao phủ người Miên ác độc, còn phản tặc Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu đã đóng trọn vẹn lại vai Thực dân Pháp ngày xưa! Đến đây, xin một phút mặc niệm cho nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu bằng đôi dòng hồi tưởng của học giả Nguyễn Hiến Lê trong quyển Hồi ký của ông. Vào mùa Thu năm 1945, học giả Nguyễn Hiến Lê trên đường tản cư từ Sài Gòn về Long Xuyên, đã nghe tin Phan Văn Hùm bị giết, nên trong Hồi Ký Tập 1 ông viết (trang 318):

“Cũng ngày đó chúng tôi lại được tin Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng Nam trên đường từ Huế về Sài Gòn. Tôi xúc động mạnh, vì tôi rất quý ông ta. Ông gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị, bình dân, khắp thành phố không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là giới thợ thuyền. Căn nhà của ông ở gần Cầu máy, một khu lao động, tuy bằng gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí”.

Xin nhắc lại trong vở tuồng sát hại nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu thủ diễn vai Thực dân Pháp rất xuất sắc. Tạ Thu Thâu hiển nhiên là nhà cách mạng yêu nước chống Pháp, nhưng ông lại bị Hồ Chí Minh và Trần Văn Giàu chống và giết hại. Tình trạng “dùi đánh đục, đục đánh săng” đó được tác giả Dennis J. Duncanson trong quyển Government and Revolution in Vietnam diễn tả bằng nhóm từ “almost anti-anticolonial”. Theo văn phong của tác giả Duncanson thì Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Đảng Cộng sản để chống những người yêu nước chống Thực dân Pháp. Dưới bàn tay ác độc của Hồ Chí Minh, những người con thân yêu của Đất nước như Tạ Thu Thâu và biết bao nhà ái quốc khác nữa bị sát hại như vậy. Suy ra, không những Hồ Chí Minh đã làm Con vẹt của Stalin, mà ông còn làm lợi cho Thực dân Pháp nữa.

Người tù thứ ba: nhà sư Tuệ Minh

Người tù thứ ba là sư Tuệ Minh, người tù của Việt Minh Cộng sản, một người tù vô cùng bất hạnh như số phận Dân tộc Việt Nam dưới chế độ Hồ Chí Minh. Xin nhắc lại Việt sử đời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành truyền ngôi cho con thứ ba là Thái tử Lê Long Việt. Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị em là Long Đĩnh sát hại. Giết anh xong, Lê Long Đĩnh lên làm vua và trở thành vì vua tàn ác nhất trong lịch sử. Ông trị vì chỉ có 4 năm (1005-1009) thọ 24 tuổi. Xin trích Việt Nam Sử Lược của tác giả Trần Trọng Kim:

“Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò chơi: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bắt tù trèo lên cây rồi ở dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ rồi thỉnh thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế lấy làm vui cười.”

Một ngàn năm trôi qua nhanh. Nước ta trải qua nhiều triều đại: Lý, Trần, Lê, Hồ, Hậu Lê với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đến nhà Nguyễn Tây Sơn ngắn ngủi và sau cùng là nhà Nguyễn Phúc của vua Gia Long. Biết bao vị minh quân tài ba đức độ, võ công hiển hách thay nhau trị vì để bảo vệ biên cương, mở mang bờ cõi, chỉnh đốn việc cai trị, phát triển Văn học…

Đến đời nhà Lý, vua Lý Thái Tổ dời đô về thành Thăng Long để được rộng rãi mà phát triển. Vua Lý Thái Tông ra lịnh cấm mua hoàng nam làm nô lệ (hoàng nam là thanh niên từ 18 tuổi trở lên). Vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu để thờ đức Khổng Tử và các bậc tiên hiền. Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam Trường và thiết lập Quốc Tử Giám và bổ những người Văn học vào dạy.

Đời nhà Trần võ công thật là hiển hách. Vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái Học Sinh (như Tiến sĩ) và khoa thi Tam Giáo (Nho, Thích, Lão) và có công phá tan được cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Mông Cổ. Đến đời vua Trần Nhân Tông, quân Mông Cổ lại hai lần đem quân sang đánh nước ta, nhưng đều bị bại dưới tay đức Trần Hưng Đạo.

Đời nhà Lê, vua Lê Thái Tổ định phép Quân Điền để lấy công điền công thổ mà chia cho mọi người từ quan đại thần cho đến những người già yếu cô quả, ai cũng có một phần ruộng khiến cho sự giàu nghèo trong nước khỏi chênh lệch lắm. Vua Lê Thái Tông cho mở khoa thi Tiến sĩ và cho khắc tên những người thi đỗ vào bia đá. Khởi đầu từ đó, các Tiến sĩ được khắc tên vào bia ở Văn Miếu. Vua Lê Thánh Tông cho lập nhà Tế Sinh để nuôi dưỡng những người đau yếu. Về việc sửa sang phong tục, nhà vua đặt ra 24 Điều Lễ Nghĩa dạy dân để chấn hưng đạo đức. Về việc canh nông, nhà vua đặt quan để trông coi việc cày cấy, tìm những đất bỏ hoang và đốc dân phu khai khẩn. Ngài lập ra cả thảy 42 Sở Đồn Điền, khiến cho dân thoát khỏi cảnh đói khổ. Nhà vua lại sai quan nghiên cứu luật pháp đời Chu, đời Đường bên Tàu và sửa chữa lại cho phù hợp với xã hội của ta làm thành bộ Lê Triều Hình Luật, tức là bộ luật đời Hồng Đức. Đây là bộ luật được các luật gia theo Tây Học ngày nay đề cao là rất cấp tiến và dân chủ: một điểm son trong Lịch Sử Tư Pháp Việt Nam.

Dưới đời Hậu Lê, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Giang cho khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm không cho mua sách in bên Tàu nữa. Chúa Trịnh Cương cho hũy bỏ điều luật chặt các ngón tay trỏ hoặc bàn tay để đổi thành tội Đồ, tức là tội lưu đày ở các châu xa mà các tội nhân được giữ vẹn cơ thể. Chúa Trịnh Cương lại cho mở Võ Trường để dạy võ, mùa xuân mùa thu thì dạy võ nghệ, mùa đông mùa hạ thì học võ kinh. Chúa Trịnh Doanh cho lập Võ Miếu để thờ Tôn Võ Tử, Quản Tử, đức Hưng Đạo Đại Vương… , cứ Xuân Thu hai kỳ tế lễ. Đến đời nầy, đất nước ta có cả Văn Miếu lẫn Võ Miếu.

Trong khi các chúa Trịnh giữ vững biên cương ở phía Bắc, thì các chúa Nguyễn ở Đàng Trong lo mở mang bờ cõi về phương Nam, công nghiệp thật là quan trọng. Các vì chúa đã vô cùng khôn khéo trong việc chiêu mộ những người nghèo khổ ở trong nước đưa đi khai khẩn những vùng đất phì nhiêu bỏ hoang, chính sách thu phục và phong chức cho các cận thần của Chiêm Thành, và nhất là sự tiếp nhận ưu ái các thuyền nhân trung thành của nhà Minh trốn chạy sự thống trị của nhà Mãn Thanh và cho phép họ định cư ở vùng đất vừa chiếm được. Từ dinh Ái Tử ở Thuận Hóa là mảnh đất đầu tiên mà Nguyễn Hoàng tức chúa Tiên vào trấn nhậm (năm 1558), đến chín đời sau là đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (năm 1744), thì lãnh thổ Đàng Trong gồm đến 12 dinh, trải dài đến tận Hà Tiên và Cà Mau bây giờ.

Đời nhà Nguyễn Tây Sơn tuy ngắn ngủi (1788-1802) nhưng võ công thật là hiển hách. Công cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, một chiến công vô cùng oanh liệt trong Việt sử được sánh ngang hàng với chiến công của Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hai lần đánh thắng quân Mông Cổ và cuộc Lam Sơn Khởi Nghĩa trong mười năm đánh đuổi giặc nhà Minh của Bình Định Vương Lê Lợi. Tấm lòng Cầu Hiền của vua Quang Trung khiến nhà vua thân đến núi La Sơn nhiều bận để thỉnh cầu La Sơn Phu tử là vị ẩn sĩ Nguyễn Thiếp ra giúp nước thật là một tấm gương sáng đáng cho các lãnh tụ đời nay noi theo.

Vua Gia Long triều đại Nguyễn Phúc có công thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài, một cuộc Thống nhất thật đẹp. Nhà vua xuống chỉ tha dân một vụ thuế, phong tước cho con cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ giao dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ cúng tổ tiên. Ngài chỉnh đốn việc cai trị, sửa sang phong tục, nghiêm dụ quan lại không được sách nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo giao hiếu với nước Tàu, nước Xiêm, nước Chân Lạp, khiến cho đất nước lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị. Từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy một nước Việt Nam “cường đại” như thế (“cường đại” chữ của sử gia Trần Trọng Kim).

Đọc lại lịch sử một ngàn năm tự chủ, qua nhiều triều đại, biết bao nhiêu nét đan thanh rực rỡ, biết bao nhiêu vị minh quân đức độ cùng bầy tôi lương đống, trong nề nếp văn hóa vàng son, thật xứng đáng làm mẫu mực cho Dân tộc noi gương và tự hào. Tuyệt nhiên chỉ có một hôn quân (xin lặp lại chỉ có một) là vua Lê Long Đĩnh còn gọi là Lê Ngọa Triều là vì vua tàn ác, lấy sự hành hạ giết hại dân kể cả những bậc tu hành, làm trò vui thú để tiêu khiển. May mắn thay, trong một ngàn năm đó, tuyệt nhiên chỉ có MỘT vì vua Lê Ngọa Triều mà thôi. Mãi cho đến 1945, Đất nước không còn vua nữa, nhưng lại quá bất hạnh, nảy sanh CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, tự xưng là “Kách mệnh”, mà lại tàn ác nham hiểm giết hại dân lành gấp trăm gấp nghìn lần hơn vua Lê Ngọa Triều.

Trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim đã viết: “Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt Trụ ngày xưa”. Cựu tướng Trần Độ, người Cộng sản lão thành tận tụy phục vụ đảng gần 60 năm, sau cùng đã phản tỉnh và trước khi qua đời, ông đã viết trong Nhật ký Rồng rắn đại ý rằng cái chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay, nó tàn bạo hơn cả chế độ của Tần Thủy Hoàng và dã man của chủ nghĩa phát xít Hitler. Nhưng ai đã xây dựng cái chế độ xã hội chủ nghĩa dã man tàn bạo đó, chính là Hồ Chí Minh chứ còn ai khác. Cho nên lời phê bình của Cựu tướng Trần Độ chủ ý nói rằng Hồ Chí Minh là kẻ tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng và dã man hơn Hitler! Nói tóm lại, trong lịch sử Việt Nam, trong thời gian dài 1.000 năm từ 1005 đến 1945, độc ác và sát hại dân chỉ có HAI: Vua Lê Long Đĩnh và Chủ tịch Hồ Chí Minh!

Triều vua Lê Long Đĩnh chỉ có 4 năm ngắn ngủi, còn Chế độ Hồ Chí Minh kéo dài cho đến bao giờ? Thật khốn khổ thay cho Dân tộc và Tổ quốc Việt Nam!

Chúng ta đã đi qua một chặng dài 1.000 năm đẹp của lịch sử trước khi đến cảnh Ngục tù do Hồ Chí Minh xây dựng để tìm gặp nhà sư Tuệ Minh bất hạnh bị giam cầm và tra tấn ở đấy cho đến chết! Nhà sư là nhân vật xuất hiện ở chương chót trong tác phẩm Địa ngục sình lầy của tác giả Trần Nhu. Tác giả cũng là một người tù bất hạnh, bạn đồng tù với nhà sư Tuệ Minh. Sau đây là đôi dòng về tác giả Trần Nhu, trích trang bìa sau quyển Địa ngục sình lầy:

“TRẦN NHU sinh năm 1938 tại Tiên Lãng, Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Trước 1958 đi học và sáng tác Văn học. Năm 1958 bị tù vì vượt biên qua Lào quốc và sáng tác Văn học. Ra tù năm 1960. Bị bắt lại năm 1961 vì tranh đấu cho nhân quyền. Ra tù 1978. Vượt biên cuối 1981. Định cư tại Hoa Kỳ 1982.”

Như thế đó, phải vượt thoát khỏi đất Việt và đến tuổi ngũ tuần, Trần Nhu mới được Nữ thần Tự do trao cây viết lại để anh hoàn thành tác phẩm Địa ngục sình lầy. Quyển sách được xuất bản năm 1990 lúc tác giả 52 tuổi! Trong Lời nói đầu, ta đọc được tâm tình thật cảm động của tác giả:

“Tôi viết để làm dịu đi những gay gắt, cam go ác liệt, để làm nhẹ vơi đi niềm ô nhục, làm yên ổn lương tri bị hành hạ của hàng triệu con người. Tôi viết để gột rửa trong đáy mắt những bà mẹ dòng lệ xót. Tôi viết cho hàng triệu nạn nhân đã chết, tôi viết cho những người còn sống nhưng không được quyền ăn nói, tôi viết cho quê hương đã bị vắt kiệt, tôi viết về quê hương đang bị đè nặng bởi những cái bóng vĩ đại, những cái bóng đã xô đẩy cả Dân tộc tôi xuống vực thẳm, đã đổ bóng tối lên cả một vùng trời”.

Thật đẹp vô cùng, sứ mạng của cây viết Trần Nhu! Như đã trình bày ở trên, Vũ Thư Hiên cũng giống như Trần Nhu, hai người cùng một cảnh ngộ, một số phận hẩm hiu như nhau trong “Thiên đường mù”. Vũ Thư Hiên cũng phải đào thoát khỏi Việt Nam, sống lưu vong ở Pháp, không bị công an bịt miệng, mới hoàn thành xong Đại hồi ký Đêm giữa ban ngày để làm món quà trân quý trao tặng cho thế hệ tương lai.

Xin trở lại chuyện người tù là nhà sư Tuệ Minh. Một buổi chiều cuối hạ năm 1965, khi Trần Nhu chuyển từ trại Xuân Giang đến trại Hoàng Xu Phì ở đông bắc tỉnh Hà Giang, thì đã gặp sư Tuệ Minh bị giam ở đấy không biết từ năm nào. Trại Hoàng Xu Phì thật xứng đáng là Ngục tù mẫu mực của Chế độ Hồ Chí Minh. Ở Cổng Hậu sát bìa rừng có Nhà Xác, địa điểm được chọn lựa quá khéo rất thuận lợi cho việc kéo xác tù đi chôn. Nhà Xác lại đối diện với Nhà Giáo Dục, lại một thiết kế rất khôn ngoan. Trong Nhà Giáo Dục bày ngổn ngang những dụng cụ tra tấn như kìm búa, dùi sắt, dùi tre, mũ gò bằng tôn sắt, loại tôn dày, vài cuộn dây rừng, v.v… Về mùa nóng cũng như mùa lạnh, nhà này có một lò than luôn luôn cháy đỏ, dùng để nung dùi và mũ sắt. Mũ này người tù ở trại gọi là “mũ cụ”. Mũ gõ bằng loại tôn sắt giống như chiếc mũ cối của bộ đội, mũ được nung đỏ, rồi trói tù lại chụp lên đầu, làm cho người tù kêu rú, rống lên. Theo tiếng rú khiếp đảm của những người tù xấu số, lũ chuột rừng kéo vào hàng đàn chạy lăng xăng qua lại giữa Nhà Giáo Dục và Nhà Xác chờ được thưởng thức bữa tiệc thịt người do Quản giáo Việt cộng thết đãi!

Trong văn phong của Trần Nhu, nhân dáng hình hài của sư Tuệ Minh còn sót lại sau những năm dài trong ngục tù của chế độ Hồ Chí Minh như sau:

“…Chợt tôi thấy một cảnh vệ và hai tù nhân trong ban Trật tự của trại, nhưng họ ở bên hình sự, lôi kéo xền xệt trên mặt đất, một người gầy nhom, bẩn thỉu, tanh hôi vào cửa buồng và giao cho Buồng trưởng. Người tù bò bốn chân, quần để tuột xuống hẳn ống cẳng chân, làm cả khoảng bụng, đít phơi trần truồng. Manh áo nhuộm máu đã khô, che không kín lưng, phía dưới để hở rõ bộ xương sườn xám đét, khô đầu trơ sọ tráng loét xuống tận cổ, hai tai bị cắt cụt, đôi mắt trũng sâu như lỗ đáo, dòi bọ bò lêu nghêu khắp thân thể. Tự nhiên một cảm giác ớn lạnh luồn vào cơ thể chạy suốt chân. Tôi nhìn người tù, không còn ra hình dáng con người nữa, nó méo mó biến dạng một cách khủng khiếp.”

Nhưng thật lạ! Ở nhà sư Tuệ Minh, thân thì “những vết rạch ngang dọc trên đầu, trên mặt, cổ và bộ ngực. Tai không còn nghe rõ, miệng không còn đọc kinh niệm Phật, thân thể không còn nguyên vẹn như xưa, lột hết cả áo tu hành, con người trần trụi.” Ở nhà sư Tuệ Minh, ở bộ xương còn biết cử động ấy, dường như có một dấu hiệu lạ, toát ra một phong độ kiên hùng, vững chắc. Trần Nhu thuật tiếp rằng sư Tuệ Minh bình tĩnh tưởng như không có chuyện đau đớn thể xác, không rên xiết, hoàn toàn không. Rồi những ngày sống kế tiếp, Sư lẳng lặng ngồi tư thế tụng niệm của đức Phật, vẫn không một tiếng rên xiết, tuyệt nhiên không. Trần Nhu hỏi một lão tù già về sư Tuệ Minh, qua giọng thều thào như nghẹt ở cuống họng, lão kể lể từng câu, ngừng năm, mười phút, rồi thuật tiếp, chuyện kể luôn đứt đoạn, câu nghe được cũng rất khó hiểu: “Sư khừ khừ… bị a… khừ khừ… a… kỷ luật a… vì a… khừ khừ… nghỉ ngày a… Phật đản a… Rồi a… Ban Giám thị a… khừ khừ a… cắt tai… khừ khừ… gọt đầu a… khừ khừ… sư… khừ khừ… bằng mảnh chai a… khừ khừ… dùi nung đỏ a… khừ khừ… sư… a… sư!”

Nhà sư Tuệ Minh chết trong trại giam Hoàng Xu Phì. Mãi sau này, Trần Nhu mới biết rõ pháp danh ngài là Tuệ Minh, quê Thiện Hóa, thuộc xứ Thanh. Ngài xuất gia đầu Phật lúc tuổi mười lăm, với sư cụ Thích Thiện Hòa tại chùa Thiên Phúc bên dòng sông Đáy tỉnh Sơn Tây, nơi mà ngày xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đắc đạo. Nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh có mặt trong đoàn Đại biểu tỉnh Sơn Tây, đến Hà Nội ngày 2-9-1945 để tham dự buổi mừng Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Ngài tham gia phong trào Phật tử Yêu nước theo truyền thống của tiền nhân, theo Tự tình Dân tộc.

Rồi nhà sư Tuệ Minh bị kết tội “lừa dối nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng” và bị bắt giam ở trại Hoàng Xu Phì cho đến chết. Rất cần nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh tháp tùng Phái đoàn Yêu nước tỉnh Sơn Tây đến Hà Nội trong Ngày Lễ mừng Độc lập 2-9-1945 để nghe Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Vườn Hoa Ba Đình. Đến bây giờ là Mùa Bịt miệng 2007, không còn thời “Đêm giữa ban ngày” nữa, Dân tộc đã rất “rạch ròi trong những khái niệm” (chữ của Vũ Thư Hiên), Dân tộc biết rất rõ rằng “ngoài miệng Hồ Chí Minh Cha già Dân tộc” thì tuyên bố những ngôn từ đẹp đẽ như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, bình đẳng về quyền lợi v.v… như những công dân các nước Anh, Pháp, Mỹ được hưởng. Nhưng khốn khổ cho Dân tộc, “trong tâm địa Hồ Chí Minh Quốc tế ủy Kominternchik” thì toàn là những vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, cải cách ruộng đất, đấu tranh giai cấp sắt máu… Chính Hồ Chí Minh mới là kẻ lừa dối Nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng, chứ không phải nhà sư Tuệ Minh.

Cùng phát biểu y như trên, tác giả Trần Nhu, người tù nhân 20 năm của Việt Cộng, viết trong đoạn kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy của ông với lời văn như sau:

Ngày ấy, sư Tuệ Minh mang ý niệm tôn kính cụ Hồ như những bậc vĩ nhân yêu mến loài người. Khi cụ nói:

- Mọi người đều được dựng lên “bình đẳng” trong đó có quyền sống, quyền được hưởng tự do, quyền tín ngưỡng, và dĩ nhiên không thiếu sót một thứ quyền nào cả.

Với lời lẽ trịnh trọng như một Washington, cụ hỏi:

- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?

Tất cả xúc động, đồng thanh:

- Thưa cụ, rõ!

Nhưng lời hứa… Đó chỉ là lời hứa! Còn phải có thời gian… Rồi thời gian trôi đi. Mười năm sau. Đốt kinh, phá chùa, bắt tăng ni… cũng vẫn bộ mặt ấy! Vẫn ông cụ ấy! Vẫn thằng chọ chọe ấy! Bá ngọ, thằng cuội xứ Nghệ!

Đó là nguyên văn Trần Nhu viết để kết luận cho quyển Địa ngục sình lầy. Sách được viết xong ngày 8-7-1988 và tác giả tự xuất bản năm 1990. Bây giờ, người viết cũng xin mượn đoạn văn trên của tác giả Trần Nhu để kết luận cho chương “Hồ Chí Minh, Con vẹt của Stalin” này.

Người viết chỉ xin thêm: “Miệng lưỡi Hồ Chí Minh Cha già Dân tộc” thì thật HOÀN TOÀN TRÁI NGƯỢC với “Tâm địa Hồ Chí Minh Quốc tế Uỷ Kominternchik, Con vẹt của Stalin”!

Nếu Stalin phá hoại cuộc Cách mạng Tháng Mười của Liên Xô, thì Hồ Chí Minh, Con vẹt của Stalin, đã làm hư cuộc Cách mạng Mùa thu 1945 của Dân tộc. Chính vì vậy mà sinh ra Đại họa Hồ Chí Minh, cơn Quốc nạn của Dân tộc Việt Nam!

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Ngày Quốc hận 30-4-2008
Nhóm Tâm Việt Sydney

Nguồn: www.tvvn.org

Kính mời xem tiếp tập 3
 

www.geocities.ws/xoathantuong