Thực Chất của Hồ Chí Minh

Nguyễn Thuyên
 

(trích "Bộ Mặt Thật của HCM" của Nguyễn Thuyên)

Ngày 18 tháng Giêng năm 1919, một hội nghị hòa bình được triệu tập tại Versailles (Pháp), đặc biệt có sự tham dự của Tổng Thống Hoa Kỳ lúc đó là Thomas Woodrow Wilson. Nguyễn Ái Quốc/Hồ chí Minh (HCM) đã len lỏi tới Hội nghị, đích thân trao một "Bản Yêu Sách gồm 8 điểm" như sau :

1. Ân xá cho tất cả các chính trị phạm bản xứ.

2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách ban bố cho người bản xứ cũng được bảo đảm về pháp lý như người Âu châu, xóa bỏ hoàn toàn và triệt để các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố và áp bức đối với bộ phận trung thực nhất trong dân An Nam.

3. Quyền tự do báo chí và ngôn luận.

4. Quyền tự do lập hội và hội họp.

5. Quyền tự do xuất ngoại và đi du lịch ngước ngoài.

6. Quyền tự do giáo dục và thành lập các trường Kỹ Thuật chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ.

7. Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.

8. Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị Viện Pháp để giúp Nghị Viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.

Nhân danh cuộc tranh đấu cho quyền sống của dân tộc Việt, HCM đã đòi hỏi 8 điều căn bản trên. Nhìn lại giai đoạn này của lịch sử, ai cũng nhận thức được và tán dương lý tưởng của người thanh niên ái quốc này. Và chắc chắn một điều là sau khi "Bản Yêu Sách 8 điểm" được công bố, mọi người Việt cả trong lẫn ngoài nước đều tin rằng sau này, nếu HCM giành được độc lập tự do từ thực dân Pháp, thì nhất định nước ta sẽ có một chế độ dân chủ. Nhưng, như chúng ta đã thấy, thực tế rất phũ phàng. Lúc chưa nắm được quyền hành, HCM đã hô hào đòi hỏi các quyền tự do căn bản cho người dân, nhưng khi đã cầm quyền, một điều nhỏ trong Bản Yêu Sách cũng không có, nói chi đến 8 điều ! Thiết tưởng cũng nên duyệt qua từng điểm trong Bản Yêu Sách để thẩm định xem HCM và đám lâu la ở Bắc Bộ Phủ về sau có thực hiện được điểm nào hay không, và nếu có thì họ đã thực hiện một cách ngay thẳng hay vòng vèo hoặc bằng những xảo thuật ma quỷ !

1. Điểm thứ nhất - ÂN XÁ CHO TẤT CẢ CHÍNH TRỊ PHẠM.

Sau ngày miền Bắc VN rơi hẳn vào tay của HCM và đảng CSVN, số phận của các tù binh chiến tranh ra sao ? Tất cả binh sĩ từ binh nhì cho đến sĩ quan chẳng may bị quân CS bắt trong cuộc giao tranh đều bị giam giữ, đày ải trong các trại tập trung khổ sai tận các miền rừng núi âm u giá lạnh suốt khoảng thời gian trên dưới 20 năm. Nếu Liên Xô có địa ngục Tây Bá Lợi Á thì HCM cũng có trại âm phủ Lý Bá Sơ để giam cầm, đày đọa, không cần xét xử, không cần bản án. Một anh lính quèn cũng không tha, nói gì tới chuyện ân xá các chính trị phạm, vốn đã được HCM và các đồ đệ liệt vào hạng phản động cần phải nhốt lại đó chờ ngày tiêu diệt, bất chấp công pháp quốc tế, bất chấp những lời kêu gọi khẩn thiết của Hội Ân Xá Quốc Tế ! Từ sau ngày đám môn đệ của HCM cưỡng chiếm Miền Nam VN, tình trạng tù đày trở nên khủng khiếp hơn vạn lần. Những người bị VC coi là "Ngụy quân" hay "Ngụy quyền" đã bị lùa vào các trại lao động khổ sai từ ngày ấy, đến nay (1990) vẫn còn có người chưa được thả về với gia đình. Tất cả chỉ vì cái tội đi lính, làm việc trong "chế độ cũ" hay có lý tưởng Quốc Gia. Trại cải tạo mọc lên đầy khắp nước, từ đỉnh Lào Kai sát biên giới Trung Cộng, tới tận mũi Năm Căn, Sông Ông Đốc, đầm lầy đỉa lội như bánh canh. Đâu đâu cũng có những người tù "Ngụy" gò lưng kéo gỗ súc hoặc cúi đầu kéo cày thay trâu !

Dưới thời Pháp thuộc, CS kêu gào ân xá cho đồng bào ruột thịt đấu tranh cho dân tộc bị Pháp bắt giam vì tội chống lại nhà nước Lang Sa. Trong thâm tâm, CS chỉ muốn thu phục cảm tình của đồng bào để dọn đường cho các hoạt động khuynh loát của chúng về sau này. Điều này đã được chứng minh là sau khi CS nuốt trọn cả nước VN, chúng không hề dung tha cho những người bất đồng chính kiến, những người đã từ chối chấp nhận ý thức hệ CS. Dù gì đi nữa thì đây cũng là những đồng bào ruột thịt của mình, cùng da vàng máu đỏ, cùng ngôn ngữ, cùng tổ tiên, cùng chủng tộc, sao lại nỡ nhẫn tâm đày ải cho chết dần chết mòn trong các trại tập trung lao động khổ sai gớm ghiếc ? Trong khi HCM và đám môn đệ giả nhân giả nghĩa yêu sách thực dân Tây trả tự do cho những người Việt đấu tranh chống Pháp, thì họ lại không hề nương tay một chút nào đối với đồng bào của mình. Đã không ân xá, lại còn dựng thêm nhiều trại tù để giam cầm không cần xét xử đủ loại tù : tù chính trị, tù kinh tế, tù trí thức, tù tôn giáo, tù chụp mũ, tù vì không đủ tiền nộp thuế, tù vượt biên, v.v...

Tình hình lao tù ở VN do đó trở nên khủng khiếp đến độ làm rúng động lương tâm nhân loại. Hội Ân Xá Quốc Tế đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi Phạm văn Đồng xét trả tự do cho những tù chính trị đã bị VC giam cầm vô hạn định. Trước áp lức của công luận thế giới, và cũng để phần nào xoa dịu mức độ căm phẫn, CSVN buộc lòng phải nhân nhượng đôi chút, nhưng sau đó thì đâu lại vào đấy. Chúng lật lọng tráo trở, sáng tha tối bắt lại, và cứ thế tiếp tục giam giữ không ấn định hạn tù, mãi cho đến hôm nay (1990). Hội Ân Xá Quốc Tế, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, các Hội Đoàn tôn giáo ở các nước Âu-Mỹ, nói chung là các quốc gia tôn trọng quyền sống của con người, đều đã bất lực trước thái độ ngoan cố của HCM và đám đê. tử của hắn. Đảng CSVN không hề đếm xỉa gì đến nhân quyền và dân quyền của người dân VN !

2. Điểm thứ hai - CẢI CÁCH NỀN CÔNG LÝ Ở ĐÔNG DƯƠNG BẰNG CÁCH CHO NGƯỜI BẢN XỨ ĐƯỢC HƯỞNG NHỮNG BẢO ĐẢM VỀ MẶT LUẬT PHÁP NHƯ NGƯỜI ÂU CHÂU, BÃI BỎ CÁC TÒA ÁN ĐẶC BIỆT DÙNG LÀM CÔNG CỤ KHỦNG BỐ VÀ ÁP BỨC ĐỐI VỚI BỘ PHẬN TRUNG THỰC NHẤT TRONG NHÂN DÂN AN NAM. HCM đòi có những bảo đảm pháp luật cho người dân An Nam, nhưng khi Hồ lên cầm quyền thì người dân VN được Hồ ban bố cho những bảo đảm pháp luật nào ?

- Công an VC bắt người không cần lệnh của Tòa Án, giam giữ người không cần xét xử.

- Bị cáo không có quyền biện hộ vì không có hệ thống luật sư (chỉ mới sau này, sau khi "đổi mới tư duy", mới có luật sư, nhưng là luật sư do nhà nước chỉ định, cãi theo chỉ thị đã viết sẵn).

- Lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là một, không có ranh giới bất khả xâm phạm. Ông Bí thư ra "luật" và tùy ý thi hành luật ấy hay không vì khi có phiên "tòa án nhân dân" thì cũng chính ông ta ngồi ghế chánh án ! Tình hình "bao thầu" này rất phổ biến từ cấp xã, huyện lên đến tỉnh và thành phố.

- Nơi nào có tổ chức Kiểm Sát nhân dân, Tòa án nhân dân thì thành phần xử án chữ nghĩa chẳng đầy... lá mít. Những quan chánh án đẳng cấp như Năm Nhọn, Hai Lá, Sáu Phèn, v.v... đều chỉ học tới lớp 5, lớp 6 hay chỉ học xong tiểu học là cùng !

- Người dân VN chỉ được quyền sinh sống, lao động dưới sự "bảo vệ chặt chẽ" của một đám công an mặt mày lúc nào cũng hậm hực, đằng đằng sát khí. "Hộ khẩu" là phương thức "quản lý con người" hữu hiệu nhất. Con cái đến thăm nhà cha mẹ, ở lại đêm, không đến Phường đăng ký tạm trú một đêm, chắc chắn sẽ được công an chiếu cố.

- Luật ở "tù lây" cũng được ban hành ! Mỗi nhà được lệnh phải "dòm chừng" hàng xóm và phải kịp thời báo cáo những sinh hoạt "mờ ám" của họ, nếu không, khi công an phát giác được, sẽ bị coi như đồng lõa và đi tù... lây !

- Ban đêm đi đường vắng, bị du đảng trộm cướp tấn công, kêu la rát cổ họng, chẳng thấy công an nào tới can thiệp, nhưng khi nhà có giỗ, có tiệc cưới, hỏi, thôi nôi đầy tháng, là có công an tới xét hỏi giấy phép tổ chức tiệc tùng.

- Nền "công lý ba số năm" pháp triển khắp nơi và từ từ leo thang thành "công lý chỉ và cây" !

Trên đây chỉ kể sơ qua vài "bảo đảm luật pháp" mà HCM và đảng CSVN đã ban cho đồng bào VN ruột thịt ! Cũng trong yêu sách này, HCM đã nhấn mạnh đến việc người Pháp phải dẹp bỏ các Tòa Án Đặc Biệt được dựng lên với mục đích đàn áp và khủng bố những người đấu tranh chống Pháp. Nhưng đến khi HCM nắm quyền thì họ Hồ và đảng CSVN đã quên mất lý tưởng đó. Hồ đã thay thế hệ thống Tòa Án Đặc Biệt của Tây bằng những "Tòa Án Nhân Dân" lưu động, muốn xử án chổ nào thì dọn gánh đến chỗ đó, xử bằng thủ đọan "cò mồi" từ phía sau thúc dục dân đưa tay biểu quyết kết án. Hình thức Tòa Án nhân dân ghê rợn nhất là Tòa Án Cải Cách Ruộng Đất, một phương tiện để đảng CSVN thực hiên những cuộc đấu tố "cày đứt đầu, chôn sống, tra tấn đến chết" dã man nhất trong lịch sử nhân loại.

HCM và đảng CSVN chủ trương xây dựng một nền "công lý" sắt máu để bôi xóa những liên hệ vợ/ chồng, cha mẹ/con cái, anh/em ruột thịt truyền thống của dân tộc VN. Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, cang thường đạo lý cơ hồ tan nát dưới hệ thống luật rừng của HCM và những người CSVN.

3. Điểm thứ ba - TỰ DO BÁO CHÍ VÀ TỰ DO NGÔN LUẬN.

Lịch sử nhân loại đã ghi lại nhiều chế độ tàn bào : Tần Thủy Hoàng, Néron, Hitler... nhưng xét cho cùng, chưa có chế độ nào vô nhân đạo bằng chế độ CSVN ! Các chế độ độc ác như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Néron đã dùng bạo lực để bịt miệng người dân, riêng CSVN thì ngoài bạo lực cường quyền, họ còn dùng đủ trăm phương nghìn kế để bóp chết tiếng nói phẫn uất của người dân. Khi các chế độ tàn ác thời xưa dùng bạo lực, người dân còn khôn khéo lòn lách được, còn vận dụng mưu chước, mánh khóe để phổ biến tư duy của mình được, nghĩa là vẫn tìm được lối thoát cho ngôn luận. Với CSVN, vốn bản chất thâm hiểm và nhờ đã từng sống len lỏi với dân như những tế bào trong một cơ thể, nên chúng đã biết những mánh khóe, phương pháp lợi dụng "kẽ hở luật pháp" của người dân. Do đó, những người dân can đảm, lợi dụng kẽ hở luật pháp để nói lên tiếng nói của người dân mất nhân quyền/nhân phẩm trong chế độ bạo tàn của CSVN thường không đem lại những kết quả như ý, mà chỉ thấy những hậu quả nguy hiểm cận kề. Thật vây, nói về sử dụng mánh khóe và thủ đoạn ma giáo thì người dân VN làm sao đọ lại với những tên ma đầu CSVN ?

Cho nên, ngay từ khi vừa nắm quyền sinh sát tại miền Bắc, HCM đã chiếu chỉ cho các đồ đệ áp dụng ngay chính sách "văn nghệ chỉ huy". Nhà văn chỉ cầm bút viết, còn cái đầu tư duy là của đảng. Phải viết theo lệnh, theo đơn đặt hàng của đảng. Nghệ sĩ trình diễn là những con rối, ca sĩ phải hát những bài ca của đảng, nội dung các bài ca phải là... "bước lên đầu thù, uống máu quân thù, trèo lên nóc nhà, thừa thắng xốc tới... ", thậm chí đến cả giọng hát cũng phải là loại... "xe lửa rú còi" của đảng. Trái tim của người nghệ sĩ không được ấp ủ những cảm tình êm ái dịu dàng, thiết tha, mà phải là loại tim Lênin luôn luôn rực lửa căm thù !

Nói đúng ra, vào thời gian đầu nắm quyền, tập đoàn HCM đã nhượng bộ báo chí phần nào, tạm chấp nhận một vài hình thái "ngôn luận có chừng mực". Sở dĩ vậy là vì lúc Hồ mới nắm quyền, việc tổ chức còn bề bộn, phải dành nhiều thì giờ cho các việc quan trọng hơn. Lại nữa, quan thầy Nga sô phái đặc sứ Mikoyan sang Hànội để dạy HCM và đám em út phải làm những gì trong thời gian đầu để củng cố chính quyền, đặc biệt là phải biết "nới tay". Hai diễn biến nối tiếp tại Trung cộng - Mao Trạch Đông công bố chính sách "Trăm Hoa Đua Nở" - và tại Ba Lan, công nhân nổi loạn tại Poznan - đã khiến họ Hồ lúng túng, nên VC chưa dám đẩy mạnh cuộc tẫy não văn nghệ sĩ và báo chí.

Lợi dụng kẽ hở nới tay trong lúc ban đầu này, một vài tờ báo tư nhân như tờ Thời Mới vẫn cố tiếp tục xuất bản ngày nào hay ngày nấy. Dù đang sống thoi thóp, tờ báo vẫn can đảm nêu ra một số vấn đề để mời đọc giả tham luận, với dụng ý biếm nhẽ một vài lề thói sinh hoạt của CSVN. Chẳng hạn vấn đề "yêu nhau có cần tiêu chuẩn hay không ?", rõ ràng nhằm dụng ý đả phá tệ đoan lấy chồng chỉ nhắm vào tiêu chuẩn "cán bộ bốn túi" (cán bộ cao cấp VC mặc áo bốn túi, cán bộ cấp thấp mặc áo hai túi).

Nhưng khai mào cho cả một chiến dịch chỉ trích đường lối của đảng, công đầu phải dành cho "Giai Phẩm Mùa Thu" ra đời vào tháng 8 năm 1956, qui tụ những cây viết có khuynh hướng đối kháng chủ nghĩa CS như Phan Khôi, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Nguyễn Mạnh Tường, Quang Dũng, Phùng Quán, Hữu Loan... Sau "Giai Phẩm Mùa Thu", nhóm này ra luôn "Nhân Văn Giai Phẩm", có định kỳ hẳn hoi. Phấn khởi trước phong trào đối kháng, giới sinh viên đại học bắt đầu xôn xao sôi nổi, xuất bản tờ báo chống đảng "Đất Mới". Tuần báo "Trăm Hoa" của nhà thơ Nguyễn Bính cũng gia nhập phong trào !

Tư tưởng phê phán, chỉ trích các tệ đoan dần dần lan tới hệ thống báo đảng như các tờ "Cứu quốc", "Mặt Trận Tổ Quốc" và "Nhân Dân". Các tờ báo này cũng bắt đầu "có ý kiến" đối với những hành động tệ hại trong hàng ngũ cán bộ, nhất là những vụ tham ô cửa quyền. Tuy nhiên, vì muốn giữ chút thể diện của con nhà làm báo mà đám gia nô này ti toe đôi chút chứ kỳ thật đám này vẫn một lòng một dạ với đảng.

Bằng chứng là sau một vụ phanh phui chỉ trích nào đó, câu kết luận bao giờ cũng là : "Đó chỉ là cá biệt, nhất thời, chứ bác và đảng bao giờ cũng sáng suốt !".

Nhằm dọn đường cho việc đóng cửa vĩnh viễn báo chí tư nhân, bịt miệng tất cả văn nghệ sĩ đối kháng, HCM đã ra lệnh cho các cán bộ đảng CSVN áp dụng các thủ đoạn sau đây :

- Khủng bố ngầm.
- Chụp mũ.
- Đóng cửa báo chí tư nhân.
- Đấu tố các văn nghệ sĩ.

HCM đã ra lệnh cụ thể như sau :

1. Cấm các cơ sở mậu dịch bán giấy in báo cho các báo đối kháng. Thủ đoạn này không hiệu quả vì đồng bào ủng hộ những tờ báo đối kháng nên đã giúp họ tiền để mua giấy chợ đen.

2. Khủng bố giới phát hành báo tư nhân. Ngày 5/11/1956, báo Nhân Văn số 4 đã tố cáo sự việc như sau : Một "khách hàng" vào hiệu sách khu Hồng Quảng hỏi :

- Ở đây có báo Nhân Văn không ? Ông chủ hiệu trả lời :
- Có, nhưng báo Nhân Văn đã "chết" rồi !
Thủ đoạn này cũng chẳng thành công vì báo Nhân Văn được sinh viên và học sinh mang đi bán.

3. Bưu điện không được gởi phân phối báo Nhân Văn. Hành động đê tiện này của HCM và đồng bọn đã bị báo Nhân Văn phản pháo bằng một câu châm chích "biết đâu mấy ông bưu điện thích Nhân Văn nên giữ lấy để đọc một mình".

4. HCM và cán bộ đảng CSVN khủng bố cả đọc giả những báo đối kháng. Hàng loạt cán bộ VC được tung ra khắp phố phường, tự tiện xông vào từng nhà một giải thích rằng báo Nhân Văn là báo của bọn "phản động". Vụ này báo Nhân Văn cũng nói cho đọc giả biết là cán bộ được lệnh đi nói xấu báo NV, lại đi lầm vào nhà một nhà văn trong nhóm NV, vợ của nhà văn đó đã trả lời nhiều câu đanh thép khiến mụ cán bộ phải câm họng.

5. Ngoài ra, HCM còn chỉ thị cho cấp lãnh đạo công đoàn phải uy hiếp công nhân các nhà in, buộc họ không được in báo "phản động". Tuy nhiên, báo Nhân Văn vẫn được phát hành đều, không bị gián đoạn vì công nhân nhà in không tuân lệnh họ Hồ.

Khủng bố và phá hoại ngầm không có kết quả, HCM và các cán bộ đảng CSVN xoay qua đòn vu khống và chụp mũ. Chúng cáo buộc tất cả văn nghệ sĩ chủ trương báo Nhân Văn là tay sai của địch. Tờ Nhân Dân của đảng dựng đứng chuyện "Chính phủ Miền Nam triển lãm báo Nhân Văn ở Sàigòn". Sự thực thì lúc bấy giờ, ở Miền Nam không có ai đọc được một số Nhân Văn nào cả. Chỉ sau khi báo Nhân Văn bị đóng cửa, đồng bào ở Sàigòn mới đọc được vài số Nhân Văn do kiều bào ở Paris (Pháp) gởi về. Có lẽ báo Nhân Dân chỉ nghe thoáng rồi đoán mò về việc chính phủ Miền Nam có tổ chức vào tháng 6 năm 1956 một cuộc triển lãm những tài liệu tố cáo CS Bắc Việt không tôn trọng Hiệp Định Genève tại Phòng Thông Tin Sàigòn ở đường Catinat.

Sau vụ dựng đứng này, có lẽ HCM và đảng CSVN cũng biết mình hố, nhưng ỷ lại vào lý lẽ của kẻ mạnh, nên vẫn nhất quyết rằng các văn nghệ sĩ báo Nhân Văn là tay sai của địch, của phòng nhì Pháp, của CIA Mỹ tung vào để phá rối chế đô. CSVN, v.v...

Sau đó, HCM và đảng ra lệnh tổ chức những cuộc học tập khắp nơi. Tất cả những đoàn thể, cán binh, và cả sinh viên học sinh phải ký vào một Bản Kiến Nghị "lên án" nhóm Nhân Văn và "yêu cầu chính phủ" phải có biện pháp trừng trị thích đáng. Rồi dựa vào những Bản Kiến Nghị của các "tầng lớp nhân dân" đó, HCM và đảng CSVN ra lệnh đóng cửa báo Nhân Văn, tịch thu tất cả các số báo đã phát hành. Kể từ đó, HCM áp dụng chế độ sắt thép đối với báo chí.

Ngày 15 tháng 12 năm 1956, HCM ký một "Sắc lệnh" tước hết quyền Tự do Ngôn luận của báo chí. Kể từ đấy, báo chí bắt buộc phải phục vụ chính quyền chuyên chính vô sản. Mọi vi phạm sẽ bị phạt tù từ 5 năm tới chung thân khổ sai và tài sản, nếu có, sẽ bị tịch thu.

Ngày "Sắc lệnh Báo chí" của HCM được ban hành là ngày các báo "Đất Mới", "Trăm Hoa", "Nhân Văn Giai Phẩm" đồng loạt chết không cần cáo phó. Sau khi ban hành "Sắc lệnh" tước đoạt quyền tự do ngôn luận của người dân VN, HCM ra lệnh cho các cán bộ đảng CSVN bắt đầu phát động chiến dịch "đấu tố văn nghệ sĩ".

Công tác đầu tiên của chúng là đưa các văn nghệ sĩ đi "chỉnh huấn". Cũng như trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, một số văn nghệ sĩ bị đưa đi chỉnh huấn phải viết những tờ kiểm thảo theo sự chỉ đạo của cán bộ quản giáo, không sai lầm nhưng quản giáo nói sai lầm cũng phải ghi là sai lầm.

Đợt chỉnh huấn đầu tiên gồm tất cả 304 văn nghệ sĩ nhưng có 4 người cự tuyệt không đi là : Phan Khôi, Trương Tửu, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang.

HCM ra lệnh bắt giam Thụy An và Nguyễn Hữu Đang vào nhà pha Hỏa Lò Hànội. Trương Tửu bị cách chức giáo sư ở trường Đại Học Văn Khoa, vợ bị rút giấy phép buôn bán. Riêng cụ Phan Khôi, vì đã 73 tuổi, lại là người có nhiều uy tín trong nước, nhất là đối với giới trí thức Miền Nam, nên được để yên. Tuy nhiên, cụ bị cô lập không được tiếp ai và cấm không cho ai tới nhà thăm cụ.

Trong số người bị đày ải trong đợt "chỉnh huấn" đầu tiên này có Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, nay đã 81 tuổi (1990), người vừa trả lời một cuộc phỏng vấn của báo QUÊ MẸ tại Paris vào cuối năm 1989, khi luật sư Tường được CS Hànội cho phép sang Pháp thăm thân nhân vài tháng. Nhắc lại vụ Nhân Văn Giai Phẩm bị đàn áp, khủng bố, cụ cho biết bản thân cụ bị tước hết mọi chức "hờ" đang có lúc đó như Giám Đốc Đại Học Luật Khoa, Phó Giám Đốc Đại Học Văn Khoa, Chủ nhiệm Câu lạc bộ trí thức, bị cắt bỏ hết mọi thứ phiếu lương thực và bị cô lập mấy chục năm không ai dám tới gặp gở, thăm viếng hay tiếp xúc. Có thể cụ Tường là nạn nhân và nhân chứng duy nhất trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm được phát biểu trong một nước tự do nhân chuyến "đi phép" vừa qua của cụ tại Paris (Pháp).

Thực tế, các văn nghệ sĩ không phải đi "chỉnh huấn" hay học tập lao động mà là bị đưa đi "an trí", được giao cho các chính quyền địa phương quản thúc như những tên tù khổ sai để cho muỗi mòng chích, cho họ có đủ lượng vi trùng sốt rét trong người bởi chính HCM đã nói rằng... "từ chín năm nay, lá lách của những người đã anh dũng chống Pháp tuy có sưng nhưng chưa... rụng" !

Bây giờ, họ bị đưa trở lại những vùng rừng thiêng nước độc mà họ đã lặn lội qua những năm kháng chiến chống Pháp vì cái tội dám... tự do ăn nói !

HCM và đảng CSVN đã áp dụng các biện pháp quyết liệt và tàn bạo như trên để bảo đảm rằng sẽ không còn báo chí đối lập mà chỉ còn báo của đảng, viết theo lệnh hay đơn đặt hàng của đảng.

Không có bút mực nào có thể mô tả hết tâm trạng đau xót cùng cực của những văn nghệ sĩ bị tước quyền tự do tư duy và ngôn luận. Họ nghĩ, họ đã hy sinh tất cả cho sự nghiệp kháng chiến chống Pháp, họ đã đem lại thắng lợi cho những người CSVN, nhưng khi CS đã đạt được mục đích thì họ bị HCM và đảng CSVN đưa họ trở lại những chiến khu xưa để sống nốt những ngày tàn. Các chế độ phong kiến ngày xưa cũng chưa bao giờ bội bạc với công hầu quá thể như vậy.

Đó là tình hình "tự do ngôn luận" hơn ba mươi năm trước. Hơn ba mươi năm sau (1990) quyền tự do ngôn luận vẫn còn trong vòng kềm tỏa của đảng CSVN. Bọn nô bộc văn nghệ vẫn được đảng dành cho độc quyền thủ đài cho đến lúc gần đây, Nguyễn văn Linh khai mào "đổi mới tư duy" mới có những bài viết "nhẹ nhàng chỉ trích" các tệ đoan xã hội và nạn tham ô cửa quyền, v.v... Từ thời điểm mới này, người dân mới có đôi chút hứng thú khi đọc báo, bởi nó chứa đựng được đôi chút phản kháng, nói lên được phần nào nổi lòng ấm ức của người dân đã bị áp bức quá lâu.

Tiếp nối sự nghiệp ngôn luận của Nhân Văn Giai Phẩm, đã bị bóp chết hơn 30 năm trước của những Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán... nay những Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Mậu Lâm, Trần Hữu Hải, Hoàng An Hợp, Nguyễn Hữu Thu, Nguyễn Đại Giang, và gần đây nhất có Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo đã tập hợp nhau lại thành một đạo quân Nhân Văn Giai Phẩm mới đầy hùng khí.

Trong các tác phẩm đối kháng có chiều sâu, lên án gay gắt tính phi nhân của chế độ CSVN, đáng kể nhất là "Tướng Về Hưu" của Nguyễn Huy Thiệp, "Những Thiên Đường Mù" của Dương Thu Hương và "Ly Thân" của Trần Mạnh Hảo.

Tin tức về phong trào đối kháng vừa mới hồi sinh trong nước đã bay ra hải ngoại và đã được các văn nghệ sĩ tự do chào đón với niềm phấn khởi lớn lao.

Bọn nô bộc văn nghệ của đảng, tất nhiên đã được lệnh mở chiến dịch bài bác, chụp mũ, vu khống đoàn quân Nhân Văn Giai Phẩm mới này bằng những lời cáo buộc cũ rích như "phản động, phản cách mạng, hay phản quốc", v.v...

Sử dụng lực lượng văn nô đông đảo để đàn áp phong trào đối kháng không hiệu quả, nhà nước CS xoay qua biện pháp đàn áp vũ lực, bắt người và tịch thu tác phẩm.

Sau khi đọc một bài tham luận nẩy lửa, đả kích việc nhà cầm quyền cấm đoán tự do ngôn luận, tự do tư tưởng tại Đại Hội Nhà Văn ngày 20 tháng 10 năm 1989, nhà văn Dương Thu Hương đã bị Lê Đức Thọ ra lệnh cho công an bắt ngay sau khi bà rời Hội trường Ba Đình trên đường về nhà. Cho đến hôm nay (biên khảo này được in giữa năm 1990) người ta chưa biết tình trạng bà Dương Thu Hương ra sao, CS đã giam bà ở đâu, và đã làm gì bà.

Các đồng hương đi đoàn tụ ở Úc cho biết, tác phẩm Ly Thân của Trần Mạnh Hảo, sau khi phát hành được vài ngày, đã bị tịch thu vì tập truyện gói ghém nội dung chửi rủa chế độ, các lãnh tụ và cả chủ thuyết CS một cách cạn tàu ráo máng. Tuy nhiên, cho đến nay (1990), nhà văn Trần Mạnh Hảo vẫn chưa bị bắt. Có thể, Mai Chí Thọ e ngại, sau vụ bắt Dương Thu Hương, giờ lại bắt thêm một nhà văn nữa, không khéo cuộc chiến văn nghệ đối kháng sẽ nổ to, trăm lần bất lợi cho chế độ vào thời điểm đang có những biến chuyển bất lợi trong toàn khối CS.

Nói tóm lại, điều mà HCM đòi hỏi về tự do báo chí, tự do ngôn luận lúc chưa nắm quyền, đã không hề được Hồ ban bố trong suốt khoảng thời gian dài cầm quyền cho đến lúc Hồ xuôi tay nhắm mắt. Và hơn 20 năm sau, đám đệ tử của Hồ cũng không hé mở chút tự do tư tưởng nào, có chăng chỉ là lớp sương mỏng màu mè có tác dụng dỗ dành mà thôi.

Điều này chứng tỏ CSVN rất sợ báo chí, sợ tự do ngôn luận, bởi đó là lực lượng có khả năng sách động hữu hiệu nhất, là một thứ đòn bẩy tư tưởng vô cùng lợi hại cần phải khống chế. Bởi vậy, thay vì ban bố tự do báo chí, Luật Báo Chí của CSVN qui định hai Điều 1 và 11 như sau :

Điều 1 - "... Báo chí là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân..."
Điều 11 - "... Cơ quan chủ quản báo chí là tổ chức của đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đứng tên xin phép thành lập cơ quan báo chí..."

Tính chất phi dân chủ đã lộ rõ qua hai điều luật ghi trên đồng thời, người ta cũng thấy quá rõ độc quyền thông tin và độc quyền ngôn luận của đảng.

Tại một trại cải tạo ở Lào Cai, sát ranh giới với tỉnh Vân Nam, một cán bộ tư tưởng của đảng CSVN đã nói với ký giả Dương Tử trong một cuộc phỏng vấn : "Ngòi bút của các anh còn nguy hiểm hơn cả một sư đoàn".

Thế nên, người ta không còn lấy làm lạ tại sao HCM đã đòi hỏi tự do báo chí lúc chưa cầm quyền nhưng không dám ban bố tự do ngôn luận cho người dân VN khi đã nắm quyền hành trong tay.

4. Điểm thứ tư - QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI VÀ HỘI HỌP.

Lừa bịp, lật lọng, dối trá là sở trường của những người CSVN. Họ nói trắng tức là đen hay ngược lại. Lúc còn ở Pháp, HCM đã đến Hội nghị Versailles để trao "Yêu sách 8 điểm" mà Điểm thứ 4 đòi hỏi Pháp phải cho nhân dân Đông Dương quyền "tự do lập Hội và hội họp".

Sau này, khi HCM về nước và cướp được chính quyền thì thay đổi hẳn lập trường. HCM đã "đòi" như vậy nhưng sự thực không "muốn" như vậy. Dưới "chế độ Búa và Liềm", bất cứ ai tự ý lập Hội hay tự ý hội họp sẽ tức khắc bị bắt đi tù ! Hệ thống công an của đảng CSVN ngày đêm rình rập và chụp mũ khi cần để bắt những phần tử mà HCM và Bộ Chính trị nghĩ là có khuynh hướng đối lập. Những người bị bắt đều bị đưa đi "an trí" rải rác tại những nơi xa xôi hẻo lánh, bị giam cách biệt nhau, để rồi bỏ thây nơi những vùng mạn ngược, rừng thiêng nước độc, rắn rết muỗi mòng, hay bị giam tại ngục Lý Bá Sơ, tay xích chân xiềng, không có mảnh áo che thân, mình trần truồng như nhộng.

Chế độ ngục tù của CSVN đã nói lên bản chất bạo tàn, ác độc của HCM, trong mục đích củng cố chính quyền CS do Hồ cầm đầu. Cho đến ngày nay (1990) nhà ai có đám ma, đám giỗ, lễ hỏi, lễ cưới, sinh nhật, thôi nôi, đầy tháng, cần mời khách từ năm bảy người trở lên đều phải làm đơn xin phép chính quyền địa phương, chứ không được tự do nhóm họp dù chỉ nằm trong phạm vi quan hôn tang tế.

Còn chuyện lập Hội lập Đảng thì đừng bao giờ nghĩ tới dưới chế độ HCM. Ngoài đảng CS của Hồ ra, Điều 4 trong hiến pháp của Hồ không chấp nhận một đảng phái nào khác. Còn Hội đoàn thì có nhiều nhưng là những Hội đoàn nằm trong hệ thống đảng CSVN, kỳ dư không có Hội đoàn tư nhân nào cả. Đây là một điều tuyệt đối cấm kỵ trong chế độ CSVN.

5. Điểm thứ năm - QUYỀN TỰ DO XUẤT NGOẠI VÀ ĐI DU LỊCH NƯỚC NGOÀI.

Ngày trước, HCM đã yêu cầu Pháp ban bố tự do cho đồng bào mình, nhưng đến khi trở thành Chủ tịch của nước CHXHCNVN thì chính HCM kà kẻ đã tiêu diệt mọi quyền tự do của người VN !

Dưới thời Pháp thuộc, HCM đòi hỏi nhà cầm quyền Pháp phải dành cho người dân bản xứ quyền tự do xuất ngoại và quyền tự do đi du lịch nước ngoài. Đó là một đòi hỏi chính đáng thuộc phạm vi nhân quyền.

Nhưng cũng như các đòi hỏi ghi trên, đòi hỏi của Hồ cũng bị chính Hồ xóa bỏ khi nắm quyền trong tay. Chế độ áp bức của CSVN được gọi là chế độ "sau bức màn tre". Dù là màn tre, nhưng mức độ kềm tỏa không thua gì bức màn sắt, nếu không muốn nói là ghê gớm hơn. Một con muỗi cũng không được lọt qua, đừng nói chi là con người. CSVN rất sợ thế giới bên ngoài biết được những gì đang xảy ra đằng sau bức màn tre, cho nên tất cả các biện pháp gắt gao nhất đã được huy động để ngăn chận mọi thông tin không cho lọt ra ngoài. Con người, nhất là con người sống trong chế độ CS là một nguồn thông tin lớn lao. Như thế, làm sao CSVN có thể cho họ tự do xuất ngoại được ?

Vốn đa nghi hơn Tào Tháo, CSVN nhìn quanh mình, thấy đâu đâu cũng là "địch" và "điệp". Họ sợ "điệp" từ ngoài vào, họ sợ "địch" từ trong ra. Cho nên, chuyện tự do xuất ngoại là chuyện không thể có được trong chế độ CSVN. Kể cả chuyện xuất dương du học tại các nước ngoài quỉ đạo CS cũng là chuyện không tưởng (1990). Ngay cả chuyện du học tại các nước "XHCN anh em" cũng rất hạn chế, bởi lẽ CS luôn luôn chủ trương ngu dân, dân càng học ít càng dễ trị, cán bộ càng ít học càng dễ điều động, khiển dụng. Ai còn lạ gì chủ trương "chỉ có đảng mới có quyền có trí tuệ" của đảng CSVN !

Dưới sự thống trị của HCM và đảng CSVN, sự đi lại trong nước, từ tỉnh này sang tỉnh nọ, từ địa phương này sang địa phương khác cũng không phải là chuyện dễ dàng, huống hồ chi chuyện ra nước ngoài dù bất cứ lý do gì.

Trong những năm gần đây, vì những áp lực từ các tổ chức ở hải ngoại, đòi hỏi CSVN phải thực thi nhân quyền tại VN, vì tình trạng kinh tế của VC suy sụp đến mức không còn cách nào khác hơn là hé mở bức màn tre, bất đắc dĩ phải chấp nhận sự tới lui ra vào, mới mong kiếm được chút ngoại tệ và chiêu dụ nguồn đầu tư của người ngoại quốc, vì VC vừa "chợt tỉnh cơn mê", hiểu rằng các bộ óc già nua, giáo điều và thiển cận trong Bắc Bộ Phủ không đủ kiến thức để lèo lái VN trong thời đại kỹ thuật này, cần phải đào tạo những cán bộ trẻ "có khả năng" lãnh đạo đảng trong tương lai, nên CSVN bị bắt buộc phải nới nang đôi chút trong vấn đề "đi nước ngoài".

6. Điểm thư sáu - QUYỀN TỰ DO GIÁO DỤC VÀ THÀNH LẬP CÁC TRƯỜNG KỸ THUẬT CHUYÊN NGHIỆP Ở TẤT CẢ CÁC TỈNH CHO NGƯỜI BẢN XỨ.

Về quyền tự do giáo dục, thời Pháp cai trị toàn cõi Đông Dương, không đến nổi có sự cưỡng ép giáo dục theo một khuôn thức nào. Nhà nước Pháp không hẳn giữ độc quyền mở trường dạy học. Bằng chứng là, ngoài hệ thống các trường của nhà nước, vẫn có ít nhiều học đường của tư nhân hay các tổ chức tôn giáo như : Trường các Sư Huynh (École des Frères/Taberd), Trường các Sơ (Providence), Trường các Bang Hội Trung hoa (Quảng đông, Phúc Kiến, Triều châu, v.v... ), Lycéum Nguyễn văn Khuê, v.v...

Riêng chuyện thiết lập một trường kỹ thuật và chuyên nghiệp tại mỗi tỉnh thì nhà cầm quyền Pháp đã thiết lập tại các tỉnh quan trọng như Cần Thơ, Mỹ Tho, Long Xuyên, Biên Hòa. Riêng tại Sàigòn và Hànội, Pháp đã mở nhiều trường đại học như : Đại học Y Khoa, Dược khoa, Luật khoa, Văn khoa.

Tuy nhiên, chúng ta đều nhận thấy là thực dân Pháp không đẩy mạnh chính sách nâng cao dân trí cho người dân thuộc địa. Họ chủ trương mở mang kiến thức người dân đến mức độ vừa đủ để phục vụ cho chế độ thực dân tại Đông Dương mà thôi.

HCM đã thấy thực dân Pháp không có thực tâm cho người dân các thuộc địa học hành tới nơi tới chốn nên đã nêu ra yêu sách trên, không ngoài mục đích mưu cầu học vấn dồi dào cho người dân VN. Đó là một lý tưởng đáng khen.

Nhưng tiếc thay, khi ngồi trên tuyệt đỉnh của quyền lực, HCM quay lại phản bội lý tưởng của mình. Sau này, người dân VN mới biết HCM không thể làm khác hơn vì ông ta chỉ là một công cụ, tay sai của Cộng sản Quốc tế. Nhiệm vụ của Hồ là thực hiện việc xích hóa toàn cõi Đông Dương và cho vết dầu đỏ loang dần khắp vùng Đông-Nam-Á. CS chủ trương ngu dân, ngu cán bộ để giảm thiểu nguy cơ đối kháng và bảo đảm mức độ phục tòng. Điều này ai cũng rõ là HCM đã cấm không cho các trường tư mở cửa. Nên sau khi CSVN chiếm trọn miền Nam, VC đã đóng cửa các trường tư và dùng các cơ sở này làm nơi ăn ở cho cán bộ.

Tác giả quyển sách này đã bị CS buộc phải ký biên bản bàn giao hai trường trung học :

1. Trường Trung học Tư Thục Đệ Nhất và Đệ Nhị Cấp HƯNG ĐẠO, toạ lạc tại số 22, đại lộ Lê Lợi, Huế.

2. Trường Trung học Tư Thục THIÊN BÌNH, tọa lạc số 9 đường Hòa Bình, thành nội Huế.

Rồi sau đó, VC sử dụng các cơ sở này vào những mục đích khác. Bên ngoài, CSVN không đóng cửa các trường công lập, không giới hạn mở thêm các phân khoa đại học, nhưng CSVN tìm cách kìm hãm mức phát triển học vấn qua chính sách gạn lọc lý lịch trong các kỳ thi, bỏ bê trường sở trong tình trạng hư nát, lơ là đối với lời kêu đói của tập thể giáo chức, v.v....

Tất cả những thủ thuật này, cộng thêm tình hình kinh tế đói khát đã tạo thành một thứ động lực thôi thúc học sinh bỏ học. HCM không quan tâm tới chuyện càng ngày số học sinh càng ít đi, trái lại còn rất vừa ý vì tình trạng này hợp với chủ trương thâm độc của chủ nghĩa CS là đảng phải nắm độc quyền trí tuệ. Bởi vậy, người hiểu được bản chất CS đã không lấy làm lạ tại sao khi nắm quyền cai trị, HCM đã không thực hiện những điều mà họ Hồ đã đòi hỏi thực dân Pháp phải làm như "Thiết lập tại mỗi tỉnh một Trường kỹ thuật và chuyên nghiệp".

Mặc khác, đảng cũng nắm luôn độc quyền giáo dục. Không một tư nhân nào có quyền xen vào hay chia sẻ quyền giảng dạy cả. Không có một hệ thống trường tư nào được chấp nhận. Không một giáo án, giáo trình, phương pháp, đề tài nào, môn học nào được giảng dạy mà không có sự kiểm soát ưng thuận của đảng.

7. Điểm thứ bảy - THAY THẾ CHẾ ĐỘ RA SẮC LỆNH BẰNG CHẾ ĐỘ RA CÁC ĐẠO LUẬT.

Dưới thời thực dân Pháp đô hộ toàn cõi Đông Dương, viên Toàn quyền cai trị ba nước này bằng các sắc lệnh. Điều này có nghĩa là ông ta có toàn quyền ban hành các pháp lệnh mà không cần phải tham khảo và thông qua hay xin được phê chuẩn bởi bất cứ một cơ quan lập pháp dân cử nào, tức là không hề có chế độ dân chủ cho thuộc địa Đông Dương. Người dân bị trị không được quyền có tiếng nói, không được quyền có ý kiến đối với những pháp lệnh do một cá nhân cầm quyền ban ra. Trong khi đó, tại chính quốc Pháp, nước Cộng Hòa Pháp phải trụ hình trên một nền tảng dân chủ chặt chẽ với sự phân quyền rõ rệt : Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp. Trong một phạm vi nào đó, Tổng thống Pháp được quyền ký sắc lệnh nhưng trong đa số các trường hợp, Sắc lệnh của Tổng thống phải thông qua Quốc hội, tức là phải có sự phê chuẩn của người dân qua các đại diện của mình tại cơ quan lập pháp này. Chế độ đạo luật qui định rằng các đại biểu dân cử cũng có quyền soan thảo các đạo luật, sau khi đã tham khảo ý kiến người dân, và các dự luật này cũng phải qua tiến trình phê chuẩn tại Quốc Hội trước khi trở thành luật, và trao cho Tổng thống ban hành. Tiến trình dân chủ này không được áp dụng tại các nước thuộc địa. Số phận người dân bị trị hoàn toàn tùy thuộc vào quyền cai trị độc nhất của một cá nhân, nhân đức thì nhờ, độc ác thì chịu. Khi chưa cầm quyền, HCM đã đòi hỏi thực dân Pháp phải hủy bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, và thay thế bằng chế độ đạo luật để người dân có được chút quyền bày tỏ ý kiến đối với những biện pháp liên quan trực tiếp tới đời sống của mình. Nhưng khi HCM đã là chủ nhân ông ở miền Bắc thì Hồ và đám môn đệ chẳng những đã hoàn toàn xóa bỏ lý tưởng đó mà còn bóp chết dân chủ tự do bằng một chế độ công an độc tài sắt máu. HCM và đảng CSVN đã cai trị bằng những sắc lệnh và một lực lượng công an vô cùng hung ác, lúc nào cũng ghìm súng sau lưng người dân. Mọi ý niệm về dân chủ nghị viện đều bị HCM và những người CSVN bóp chết từ trong trứng nước. Thực ra, chế độ của Hồ cũng có cái Quốc hội để tô chút phấn son dân chủ nghị trường, nhưng thực tế ai cũng biết rõ là những kẻ được bầu vào cái Quốc hội đó đều đã được đảng CSVN chọn trước. Tóm lại, đã không ban bố tự do dân chủ, HCM và đảng CSVN còn tìm mọi cách bóp chết nó bằng một chế độ công an trị sắt máu. Một lần nữa, HCM đã phản bội lại những gì mình đã kêu gào đòi hỏi.

8. Điểm thứ tám - CÓ ĐẠI BIỂU THƯỜNG TRỰC CỦA NGƯỜI BẢN XỨ DO NGƯỜI BẢN XỨ BẦU RA TẠI NGHỊ VIỆN PHÁP ĐỂ GIÚP NGHỊ VIỆN BIẾT ĐƯỢC NGUYỆN VỌNG CỦA NGƯỜI BẢN XỨ. Ở điểm thứ bảy, HCM đã yêu cầu thực dân Pháp cai trị bằng chế độ đạo luật là nhằm dụng ý chuyển tiếp sang đòi hỏi thứ tám yêu cầu cho dân bản xứ được bầu đại diện của mình vào Nghị viện Pháp. HCM muốn Pháp ban bố chút quyền dân chủ cho ba nước Đông Dương. Sự hiện diện thường trực của người bản xứ tại cơ quan lập pháp cũng bảo đảm được phần nào quyền lợi của người dân trong vùng bị cai trị. Đòi hỏi của Hồ vô cùng chính đáng. Nó tiêu biểu cho tinh thần thượng tôn dân chủ. Nhưng buồn thay, khi HCM và tập đoàn CSVN nắm quyền cai trị đồng bào ruột thịt của mình, thì tinh thần thượng tôn dân chủ dó nơi con người HCM không còn nữa. Cứ nhìn thành phần đại biểu trong cái gọi là Quốc hội nước CHXHCNVN thì rõ. Chỉ gồm toàn thành phần đảng viên trung kiên, hay tối thiểu cũng phải là những đoàn viên hoặc đối tượng đảng. Còn nữa, sinh hoạt chính trị của đám đại biểu Quốc hội này tại diễn đàn nghị viện có thể thu gọn lại có mỗi một động tác duy nhất là "đưa tay biểu quyết" theo lệnh ngầm và nhịp nhàng ăn khớp với những cánh tay cò mồi đưa lên. Tuyệt nhiên, không có đại diện chân chính của người dân thấp cổ bé miệng. Như vậy, có khác gì Nghị Viện Pháp không có đại diên dân cử của người bản xứ. Thêm một lần nữa, điều mà HCM đòi hỏi thực dân Pháp ban bố, lại chính là điều mà Hồ từ chối thực thi khi nắm trọn quyền hành.

Nói chung, tất cả 8 điều trong Bản Yêu Sách mà HCM đã đòi thực dân Pháp phải thi hành, HCM và đảng CSVN không thi hành được một điều nào cả, không ban bố một chút quyền tự do dân chủ sơ đẳng nào cho chính đồng bào ruột thịt của mình. Như thế, bản chất lật lọng và giả nhân giả nghĩa của con người gian hùng ấy đã tự phơi bày rõ mồn một dưới ánh sáng mặt trời. Nói cho đúng, Bản Yêu Sách 8 điểm không phải là sáng kiến và ý tưởng của HCM mà thực sự là của cụ Phan Văn Trường. Cụ Phan đã soạn thảo bản Yêu Sách 8 điểm trên đây dựa theo "Đường Hướng Dân Chủ 14 điểm" của Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson. Nguyễn Tất Thành (HCM) - lúc ấy được phép xử dụng bí danh chung là Nguyễn Ái Quốc - là người được "Hội Những Người An Nam Yêu Nước" ủy thác việc chuyển Bản Yêu Sách đến Hội Nghị Versailles. Dẫu sao, thời gian này Thành vẫn còn mang lý tưởng tranh đấu vì quốc gia dân tộc, chưa bị chủ thuyết CS lung lạc bao nhiêu, cho nên nội dung Bản Yêu Sách 8 điểm nhất định Thành phải nắm vững và hoàn toàn tán đồng. Nói như vậy để nhấn mạnh là, dù không phải là tác giả đề xướng, HCM đã hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của việc mình làm, hiểu rõ lý tưởng dân chủ lồng trong "Bản Yêu Sách 8 Điểm". Vậy mà khi đã nắm quyền sinh sát trong tay, HCM đã trắng trợn phản bội lý tưởng ấy, và nhân dân Việt Nam, đã bị áp bức dưới chế độ thực dân Pháp, nay trong tay HCM và đảng CSVN, mức độ áp bức càng tăng gấp bội, người dân không được hưởng một chút quyền tự do dân chủ nào cho đến ngày hôm nay (1990).

Nguyễn Thuyên
(2006)

[Năm 1990, tuần báo Chuông Sài Gòn ở Úc cho xuất bản cuốn Bộ mặt thật của Hồ Chí Minh. Tác giả Nguyễn Thuyên cũng là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo này với bút hiệu Nguyễn Thành Nhân, nguyên là giáo sư toán từng là giám đốc và hiệu trưởng 2 trường trung học Hưng Đạo và Thiên Bình tại Huế trước 1975]
 

www.geocities.ws/xoathantuong