HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp

* Chương 08 *
 

SOPHIE QUINN-JUDGE và Ho Chi Minh, the missing years
 


Sophie Quinn-Judge, nữ tiến sĩ người Anh, ít được biết ngoài giới độc giả của tạp chí Kinh Tế Viễn Đông trong hai thập kỷ trước. Nhưng với tác phẩm Hồ chí Minh: The Missing Years, 1919- 1941 (1), bà đã đem sở trường của mình về môn Nga văn ra kéo chú ý của những nhà nghiên cứu lịch sử vùng Viễn Đông.

Được tổ chức John D. and Catherine T. MacArthur Foundation và Quỹ Sưu Tầm Trung Ương của trường đại học Luân Đôn tài trợ, bà đã dành gần chục năm nghiên cứu các tài liệu mới được giải mật của Trung Tâm bảo tồn và tài liệu lịch sử hiện đại Nga, trước kia từng mang tên Viện Mác-Lênin và kho tài liệu tình báo hải ngoại Pháp tại Aix-en-Provence. Đó là những nguồn tài liệu chính yếu để dựa vào đó đưa ra những nhận định về Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam. Dĩ nhiên bà cũng đọc nhiều tác phẩm khác của các học giả, sử gia hay các nhà viết tiểu sử mà bà liệt kê trong thư mục thường được coi như nguồn tài liệu thứ yếu.

Theo bà, các tác giả đi trước, tả cũng như hữu, khi viết về Hồ Chí Minh đã nói quá đáng về nhân vật này, coi là nhân vật quan trọng của Quốc Tế Cộng Sản và là người trách nhiệm về tất cả công hay tội của Cộng sản Việt Nam. Tác giả có tham vọng đưa ra nhận định cân bằng và sát thực hơn, căn cứ vào những chứng liệu mới.

Sách gồm 7 chương chia theo thứ tự thời gian:

1– Từ 1919-1923: Sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc với 8 điểm yêu sách tại hội nghị Hòa Bình ở Paris và một giải pháp cấp tiến.

2– Từ 1923-1924: Thành viên mới trong Quốc Tế Cộng Sản. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên, vai trò Hồ Chí Minh trong Quốc Tế Cộng Sản, đại hội V Quốc Tế Cộng Sản và chủ trương mặt trận thống nhất tại Trung Quốc, nhiệm vụ được giao.

3– Từ 1924-1928: Hoạt động tại Quảng Đông, phong trào nông dân tại đây, tổ chức Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, sự sụp đổ của mặt trận thống nhất tại Trung Quốc.

4– Từ 1927-1919: Từ đường hướng cũ tới đường hướng mới, những chuyến đi, đại hội VI Quốc Tế Cộng Sản, hoạt động tại Xiêm, sự phát triển và rạn nứt của tổ chức Thanh Niên.

5– Từ 1930-1931: Cao trào cách mạng với những cán bộ được huấn luyện tại Liên Xô quay về nước, sự thống nhất đảng, những cuộc nổi dậy trong Năm Mới, những nhiệm vụ mới của Hồ Chí Minh và sự củng cố quyền lực của Trần Phú.

6– Từ 1931-1938: Chết ở Hồng Kông và chôn tại Mạc Tư Khoa? Hồ bị bắt, được thả rồi trở lại Liên Xô dự hội nghị VII Quốc Tế Cộng Sản, Mặt trận thống nhất tại Đông Dương.

7– Từ 1937- 1941: Trở về với con đường dẫn tới hội nghị trung ương kỳ 8, tình hình thế giới thay đổi, hội nghị Trung Ương kỳ 6 và những cuộc nổi dậy năm 1940, Hồ tiến gần biên giới và hội nghị Trung Ương kỳ 8.

Thoạt nhìn tựa sách The misssing years, người đọc hy vọng tác giả sẽ tập trung vào mấy năm từ trước vốn ít được nói tới, như thời gian trước 1917 là năm Hồ Chí Minh từ Anh sang định cư ở Pháp, hay thời gian từ 1934 đến 1938 là lúc Hồ bị cầm chân ở Liên Xô, nhất là lý do khiến ông bị (hay được?) sống, học tập thêm và làm việc tại đây trong một thời gian dài như vậy. Ngay những năm thụ huấn tại trường đại học Lênin cũng không được tác giả nói đến.

Nhưng có vẻ những tài liệu bằng Nga ngữ mà tác giả được tiếp cận đã không giúp bà xác quyết được điều gì quan trọng về "những năm thiếu vắng" hay chưa được biết đến này. Cho nên bà đã ghi rõ con số 1919-1941 sau mấy chữ The missing years của nhan sách và đã dành 257 trang sách để nói về hoạt động của Hồ Chí Minh chỉ trong vòng 22 năm đó.

Tác phẩm cũng cho thấy Quinn-Judge đã phải dùng đến rất nhiều tư liệu thuộc nguồn thứ cấp và nói đến những sự kiện mà các nhà viết tiểu sử Hồ Chí Minh đã nói cả rồi. Vì thế, những điều gọi là mới mẻ quan trọng không có bao nhiêu.

Dường như sự đáng tiếc này khởi từ tình trạng những tài liệu về tình báo của bộ Pháp quốc Hải ngoại mà tác giả tiếp cận không thể bao quát cả thời gian 22 năm của Hồ Chí Minh đồng thời cũng có giới hạn của nó: Làm sao có thể tin báo cáo của các mật báo viên là chính xác? Và những lời cung khai của các nghi can đáng tin cậy đến chừng mực nào?

Còn về văn khố của Liên xô cũ nay được giải mật có lưu trữ đầy đủ những văn kiện lịch sử không? Trên thực tế, tại Liên Xô thường có những cuộc thanh trừng đẫm máu, phe nọ chống phe kia. Liệu những kẻ "phản loạn", "phản cách mạng", hay những nhà độc tài có dừng tay trong việc thiêu hủy hay vô hiệu hóa, hoặc ngụy tạo một số văn kiện để cố lấy lẽ phải về mình không?

Khi tài liệu không còn nguyên vẹn, những phần còn lại có thể cho người nghiên cứu kết luận một cách xác quyết không? Đó là chưa kể nhiều báo cáo được ký nhiều bí danh khác nhau, nhà nghiên cứu khó biết đích xác đó là của ai. Về việc một số tài liệu bỗng dưng biến mất, chỉ xin nêu ba trường hợp được chính tác giả xác nhận:

Thứ nhất, trang 88 chương 3, bà cho biết hầu hết (most) trong số 11 thư của Quốc Tế Nông Dân gửi Quốc, và Quốc báo cáo nhận đầy đủ, không tìm thấy bản sao trong hồ sơ của Quốc Tế Nông Dân, mục thư từ với Hồ Chí Minh.

Thứ hai, trang 177 chương 5, "giữa 23-7 và 2-9 (1930), Hồ bảo đã gửi cho FEB (Viễn Đông Vụ) 6 lá thư. Nhưng chỉ có một lá ngày 2-9 được tìm thấy trong văn khố của Quốc Tế Cộng Sản." Hồ nói dối? Hay có người giấu những lá thư đó đi? Bà không dám xác quyết nhưng dùng động từ "claimed" cho người đọc có cảm tưởng bà không tin Hồ lắm.

Thứ ba, trang 203 chương 6, nói về đại hội 7 Quốc Tế Cộng Sản tác giả cho biết Hồ đã phê bình Đông Dương Cộng Sản Đảng và viết nhiều báo cáo nhưng không tìm thấy trong văn khố Liên Bang Nga.

Vì vậy, Quinn-Judge hay dùng các động từ có nội dung thiếu tính xác quyết như "claim, appear, seem, suggest, assume, would, might, would seem to show..." hoặc những câu nghi vấn "It is unclear, it was not known, one can not tell, I am not sure, we do not know for certain, it is hard to know, if it were correct, remain in the realm of conjecture..." Tuy nhiên nói vậy không có nghĩa tác phẩm không cung cấp được một số dữ kiện hữu ích để nhận dạng Hồ Chí Minh đầy đủ hơn.

Cuối chương 1, tác giả cho biết trong thập niên 20, Hồ Chí Minh từng gia nhập hội Tam Điểm, nhưng theo đường lối đại hội IV Quốc Tế Cộng Sản đã cắt đứt liên hệ với tổ chức này.

Riêng chuyện Hồ Chí Minh dưới tên Nguyễn Ái Quốc trình thỉnh nguyện thư cho hội nghị Hòa Bình ở Versailles thì hầu hết các sử gia đều đã nói trước.

Chương 2, tác giả nhắc lại điều các sử gia đã viết là Hồ Chí Minh đến Liên Xô tham dự đại hội I Quốc Tế Nông Dân (Krestintern), được bầu vào trong số 11 ủy viên ban chấp hành Krestintern. Tác giả trưng dẫn văn kiện của Hồ muốn về Đông Dương qua ngả Trung Quốc, và đề nghị Quốc Tế Cộng Sản cấp nguyệt phí 100 Mỹ Kim để có thể làm nhiệm vụ thu lượm tin tức và công tác tuyên truyền. Tác giả cũng nói đến sách lược (tactics) mặt trận thống nhất mà Quốc Tế Cộng Sản định áp dụng tại Trung Hoa, bắt nguồn từ đề cương về các vấn đề thực dân và dân tộc của Lênin được thảo luận gay gắt tại đại hội V Quốc Tế Cộng Sản. (2)

Trong đoạn nói về Hồ Chí Minh và vị thế trong Quốc Tế Cộng Sản, tác giả cho biết không thấy văn kiện chính thức nào xác nhận Hồ Chí Minh học ở trường Lao Động Đông Phương, tức Trường Stalin cho đến năm 1936. Theo bà, nhà văn Nga Yevgeny Kobelev xác nhận chính Hồ Chí Minh đã thuật lại việc học tại trường này. Lãnh tụ Cộng Sản Ấn Manabendra N. Roy cũng cho biết Hồ có học tại đây. Nhưng bà không tin những người này mà cho rằng có thể (it is possible) Hồ chỉ tham dự một lớp huấn luyện nào đó về tổ chức nông dân trong thời gian ở đây, vì ông ta gắn bó với Krestintern.

Chỉ dựa vào việc không thấy các văn kiện chính thức trong văn khố để phủ nhận lời của các nhân chứng tên tuổi như Kobelev và Roy cũng khó thể coi là hợp lý.

Về sách lược mặt trận thống nhất được thảo luận tại đại hội V Quốc Tế Cộng Sản, sau khi cho biết Manuilski là phát ngôn viên quan điểm của Stalin, tác giả kể việc Hồ Chí Minh khuyên nên điều tra xem Nguyễn Thế Truyền vào đảng Cộng Sản chưa, nếu ông ta đã là cộng sản thì nên ra lệnh cho "xâm nhập nhóm Lập Hiến ở Paris để ‘noyauter’, tức làm "nhân" thao túng." (3) Như vậy, ngay hồi ấy (1924) Hồ Chí Minh đã lãnh hội hoàn toàn tính sách lược giai đoạn của Lenin trong mặt trận thống nhất là Xâm nhập tổ chức địch để "noyauter".

Liền sau đó, tác giả nói đến vai trò Quốc Tế Cộng Sản trong mặt trận thống nhất tại Trung Quốc. Mỉa mai là mặt trận thống nhất này lại thực hiện từ trên, nghĩa là giữa các cấp lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân Đảng và các lãnh tụ Cộng sản Trung Quốc. Maring là người trong năm 1922 đã thành công trong việc thuyết phục 5 lãnh tụ cộng sản Trung Quốc chấp nhận sách lược mặt trận thống nhất giữa hai phe Quốc – Cộng Trung Hoa. Sau đó là hiệp ước Joffe- Sun, ký kết giữa Adolf Joffe, đại diện Liên Xô và Tôn Dật Tiên, lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng, theo đó Liên Xô sẽ viện trợ có điều kiện cho Trung Quốc. Cùng lúc đó (đầu năm 1923) Viễn Đông Vụ trực tiếp dưới quyền chỉ huy của ban chấp hành trung ương Quốc Tế Cộng Sản được thành lập tại Trung Quốc. Giữa năm 1923 phái đoàn Borodin đến Quảng Châu, thủ phủ của Quảng Đông.

Theo tác giả, Hồ Chí Minh đến Quảng Đông khoảng 11/11/1924, với một sự hỗ trợ nhỏ bé. Đưa ra một số sự việc và trưng dẫn vài lá thư của Hồ, tác giả kết luận:

Người ta có thể nói khá chắc chắn rằng Hồ được phái đến Quảng Đông không phải để làm phụ tá hay thư ký cho Borodin như đã từng nghe nói. Tuy nhiên đúng là vị thế và sự liên hệ của ông đối vớí Quốc Tế Cộng Sản trong 2 năm 1923-1924 vẫn còn là một cái gì đó rắc rối khó hiểu. (4)

Tác giả cũng trưng dẫn một lá thư của Hồ Chí Minh gửi Petrov, người đứng đầu Cục Phương Đông trong Quốc Tế Cộng Sản để chứng minh dù được cảm tình của Manuilsky, Hồ Chí Minh vẫn không được ưu đãi. Trong thư có đoạn: "Trong 3 tháng Chạp, Giêng và Hai, tôi ở phòng số 176, trong đó luôn có 4 hay 5 người. Ban ngày luôn ồn ào không sao làm việc được. Đêm đến thì bị rệp cắn không sao ngủ." (5)

Chương 3 nói về hoạt động của Hồ tại Quảng Đông nhằm tạo dựng hạt nhân cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đến đây lúc 3 đảng viên của đảng Cộng Sản Trung Quốc được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương của Trung Hoa Quốc Dân Đảng và 6 người khác trong đó có cả Mao Trạch Đông là ủy viên dự khuyết.

Như vậy, đường lối của Quốc Tế Cộng Sản trong giai đoạn này đã tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh hoạt động một cách hết sức dễ dàng trong lòng đối phương. Việc Hồ làm được thì hầu hết các tác giả khác đã nói. Điều quan trọng là xâm nhập, lũng đoạn, thao túng, và phá hủy các tổ chức yêu nước khác chính kiến, không tán thành chủ nghĩa Cộng Sản.

Trong đoạn về phong trào nông dân Quảng Đông, tác giả cho biết vào tháng 8/1925 Quốc Tế Nông Dân (Krestintern) gửi cho Hồ 5000 rubles (khoảng 2500 MK lúc ấy) qua tài khoản của Borodin trong ngân hàng Viễn Đông và yêu cầu Hồ dùng số tiền này để thi hành 4 việc:

1- Sản xuất bích chương và các tập sách mỏng về vấn đề nông dân.
2- Gửi đại diện tới các tỉnh để tổ chức nông hội.
3- Phái một đồng chí Trung Hoa đáng tin cậy tới Mạc Tư Khoa để làm việc trong Quốc Tế Nông Dân.
4- Cung cấp cho Liên Xô những tin tức và tài liệu về phong trào nông dân ở Trung Quốc.

Hồ trả lời sẽ làm đúng theo yêu cầu, trừ điều 3, vì không có ai đủ khả năng ngoại ngữ.

Tác giả cho biết Hồ nhận được tất cả 11 lá thư của Quốc Tế Nông Dân. Nhưng hầu hết những thư đó không thấy trong hồ sơ của Quốc Tế Nông Dân liên quan đến thư từ của Hồ. (6)

Tác giả không nói về lý do bị mất những lá thư này và cũng không tỏ ý nghi ngờ thư có thể bị giấu hoặc hủy do ghi lại những vấn đề nào đó.

Cũng trong đoạn này, tác giả thuật lại biến cố 20/03/1926 nhưng không cho biết lý do tại sao Tưởng Giới Thạch hạ lệnh bắt giữ khoảng 50 người trong số ủy viên chính trị cộng sản tại Hoàng Phố (?). Các cố vấn Xô Viết cũng bị giam lỏng tại nhà. Trước sự trấn áp, Borodin phải nhượng bộ theo yêu cầu của Quốc Dân Đảng, hạn chế vai trò của đảng viên Cộng Sản trong Quốc Dân Đảng. Từ đó, số đảng viên Cộng Sản trong các ủy ban của Trung Hoa Quốc Dân Đảng chỉ còn giữ tỷ lệ một phần ba và đảng viên Cộng Sản bị loại khỏi các chức chưởng cơ quan trong chính quyền Quốc Dân Đảng.

Về hoạt động của Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tác giả dựa vào văn khố Tình Báo Hải Ngoại Pháp tiết lộ: Hồ thường nhận được những món tiền ủng hộ tổ chức Thanh Niên từ trong nước gửi ra, trong đó có Diệp Văn Kỳ, Khánh Kỳ (một thợ chụp hình, trước kia từng quen Hồ ở Paris) và cả Bùi Quang Chiêu lãnh tụ đảng Lập Hiến, (sau này bị Việt Minh thủ tiêu thời 1945-46). Tác giả cũng nhắc báo cáo 5 điểm của Hồ gửi về Liên xô mà hầu hết các tiểu sử gia đã đề cập. Trong số 5 năm điểm đó có điểm 5 đặc biệt là đã thành lập được một trường Tuyên Truyền. Trong cùng đoạn này, tác giả nói đến vai trò quan trọng của Jacques Doriot trong Quốc Tế Cộng Sản đối với Hồ Chí Minh. Nhân vật này triệt để ủng hộ sách lược mặt trận thống nhất loại liên hiệp Quốc Cộng Trung Hoa và khuyên Hồ Chí Minh: "Nhân dân Đông Dương chỉ có thể đi theo một con đường, nếu thực sự muốn thay đổi tình thế: đó là con đường đấu tranh cho Độc Lập". Tác giả cho biết Doriot nhấn mạnh công nhân và nông dân là lực lượng đấu tranh chủ yếu nhưng cần gia tăng sự ủng hộ mặt trận thống nhất. Doriot viết tiếp:

Đừng quên rằng dưới sự đô hộ của bọn đế quốc, toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, thương nhân và trí thức) chỉ trừ một thiểu số, vài phần tử đầu cơ trục lợi, đều muốn đánh đuổi đế quốc. Đừng coi nhẹ bất cứ cố gắng nào để lôi cuốn họ hàng ngày đứng vào tổ chức đấu tranh. Đừng từ khước sự hợp tác của họ. (7)

Tác giả cũng trích dẫn nguồn tin của Trung Tâm Lưu Trữ và Nghiên Cứu Tài Liệu Lịch Sử Nga, cho biết Hồ Chí Minh có đệ trình Quốc Tế Cộng Sản một ngân sách một năm lên đến 40 ngàn nhân dân tệ Trung Quốc. Ngân khoản này dùng chi về di chuyển và đào tạo 100 cán bộ tuyên truyền ở Quảng Đông. Cộng thêm một ngàn rưởi cho hoạt động toàn thời gian của 10 cán bộ tuyên truyền và thêm 8 ngàn rưởi nữa cho công tác xuất bản phát hành, giao thông liên lạc... Ngoài ra còn một số chi phí cần thiết khác, kể cả dự trữ cho những khoản bất thường. (8)

Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng hoạt động tuyên truyền và đào tạo cán bộ tuyên truyền nên đã dồn ngân khoản do Quốc Tế Cộng Sản cấp để làm việc đó.

Về sự sụp đổ của mặt trận thống nhất, tác giả nói đến việc Tưởng Giới Thạch tấn công Cộng Sản Trung Quốc ngày 12/04/1927 khiến sách lược mặt trận của Liên Xô phá sản. Bà không cho biết lý do khiến Tưởng hành động như vậy, có lẽ vì không thấy tài liệu nào trong văn khố Nga về lý do đó.

Riêng các tài liệu Trung Hoa Dân Quốc cuối thập niên 1950 cho biết đầu năm 1927 nhà cầm quyền Trung Quốc bắt được một mật thư của tòa đại sứ Nga gửi cho Trung Cộng xúi

"dùng mọi biện pháp thúc đẩy quần chúng bài ngoại, khiêu khích người ngoại quốc trả thù. Muốn đạt mục đích này, không được lùi bước trước bất cứ thủ đoạn nào, ngay cả cướp bóc, tàn sát. Và khi có sự xô xát giữa người Âu và người Trung Hoa thì phóng đại ra để khuấy động dân gây rối loạn."

Sau đó Quốc Dân Đảng lại bắt được một mật điện do Borodin gửi ủy viên quân sự Nga Dorosky ra lệnh cho ông này phá hoại kế hoạch Bắc tiến. (9)

Bà cũng cho biết, mặc dù có vụ Quốc Dân Đảng Trung Hoa tấn công Cộng Sản tháng 4-1927, tổ chức Thanh Niên của Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở Quảng Đông, "nhờ liên hệ với phong trào giải phóng dân tộc không cộng sản, kể cả với nhóm tả phái trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa." (10)

Ba tháng sau biến cố tháng 4, trung ương Quốc Tế Cộng Sản ra tuyên bố kết án Quốc Dân Đảng Trung Hoa là phản động, và chỉ thị Cộng Sản Trung Quốc cảnh giác. Nhưng, tác giả trích Harold Isaacs,

"(Quốc Tế Cộng Sản) vẫn khuyên (Cộng Sản Trung Quốc) hãy ở lại trong Quốc Dân Đảng bằng cách áp dụng sách lược mặt trận thống nhất từ dưới, nghĩa là hành động trong quần chúng vô sản ... xây dựng những tổ chức lao động... tăng cường các nghiệp đoàn ... chuẩn bị quần chúng lao động hòng chuẩn bị cho những hành động quyết định... vũ trang cho công nhân và nông dân... tổ chức một bộ máy đảng đấu tranh bất hợp pháp có trình độ. (11)

Qua trưng dẫn trên, dù biết rõ "kẻ thù" là phản động, Quốc Tế Cộng Sản vẫn khuyên đồng chí không xa lìa mà cần ở lại tổ chức địch để tổ chức và tăng cường lực lượng của mình. Hồ Chí Minh đã thực thi đúng sách lược đó ở Hoa Nam với tổ chức Thanh Niên vào thời gian này và gần hai chục năm sau tại Việt Nam: Liên hiệp với các đảng đối lập dùng uy tín của họ củng cố lực lượng mình, tiêu diệt lực lượng địch. Sách lược thống nhất và liên hiệp với phong trào giải phóng dân tộc chỉ là diệu kế để tiêu diệt các tổ chức không cộng sản.

Chương 4, tác giả dựa vào tài liệu của Trung Tâm Lưu Trữ Tài Liệu Liên Bang Nga cho biết:

"Tháng 9-1927, Quốc Tế Cộng Sản ra huấn thị cho công việc tương lai của Hồ và phái ông ta sang Paris vào tháng 11 để phối hợp kế hoạch với ủy ban Thuộc địa của đảng Cộng Sản Pháp. Lúc này đảng Pháp Cộng lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng cộng sản ở Đông Dương, nhưng trong thực tế các thành viên của đảng CS Pháp làm việc dưới sự kiểm soát chặt chẽ từ Mạc Tư Khoa." (12)

Liền sau đó tác giả nói rõ:

"Mặc dầu Quốc Tế Cộng Sản đã hết ảo tưởng với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, những huấn thị mà Hồ Chí Minh mang theo sang Paris đã phản ánh sách lược mặt trận thống nhất với các lực lượng dân tộc. Bản huấn thị hai trang ghi "Quốc phải giúp hợp nhất các người cách mạng dân tộc trong số di dân Đông Dương (trước tiên ở Paris, rồi trên cả nước Pháp), bằng cách tạo ra một cái nhân cộng sản trong số những phần tử dân tộc đó..." (13)

Tác giả có vẻ muốn chứng minh Hồ ít liên hệ và ít được Quốc Tế Cộng Sản giúp đỡ nên đưa ra những trường hợp Hồ chí Minh không được ưu đãi hay ủng hộ, tuy nhiên những điều này lại cho thấy Hồ Chí Minh luôn lệ thuộc Quốc Tế Cộng Sản. Chẳng hạn trong đoạn đầu chương 4, tác giả viết:

"Mùa đông năm ấy (1927) Quốc Tế Cộng Sản quá bận rộn vì những vấn đề quan trọng hơn chuyến đi của Hồ Chí Minh... Nhưng đến tháng 4 Hồ vẫn chẳng nhận được tin tức gì của Mạc Tư Khoa hay của Doriot. Quốc Tế Nông Dân cũng chẳng giúp được gì. Ông ta phải hỏi xin họ cấp 500 Mỹ Kim và cho một "kế hoạch tổ chức thực tiễn để tôi có thể hoạt động hữu ích" (14)

Dù muốn dù không, mấy hàng trên đã chứng minh khá rõ sự lệ thuộc của Hồ Chí Minh vào Liên Xô, từ tài chính đến kế hoạch hoạt động.

Hơn 40 trang chương 5 dành bàn về cao trào cách mạng trong 2 năm 1930 và 1931. Đoạn đầu nói tới sự trở về của các cựu học viên trường Stalin trong đó tác giả nhấn mạnh vai trò của Trần Phú để chứng minh Hồ Chí Minh không phải đại diện duy nhất của Quốc Tế Cộng Sản trong việc thống nhất đảng Cộng Sản Đông Dương. Cuối cùng tường thuật những việc làm của Hồ để thực hiện việc thống nhất này, tác giả viết:

"Hai ngày sau khi tới Hồng Kông, Hồ viết cho các lãnh tụ phe phái trong Đông Dương Cộng Sản Đảng để giải thích về sứ mạng mà Quốc Tế Cộng Sản đã trao cho mình nhằm thành lập một đảng cộng sản tại Việt Nam....Ông ta yêu cầu phe Đông Dương Cộng Sản gửi hai đại diện sang gặp ông ta ở Hồng Kông. Hồ cũng viết cho Viễn Đông Vụ (FEB) để loan báo sự có mặt của mình tại Hồng Kong và đệ trình những đề nghị. Theo Dương Hắc Định thì Hồ đã xin một khoản lương hàng tháng là 240-300 tiền Trung Hoa, trả qua ủy ban Quốc Dân Đảng của đảng Cộng Sản Trung Quốc." (15)

Về cuộc bột phát cách mạng tại Trung Quốc và vùng Nam Hải, tác giả viết:

"Hồ Chí Minh lúc này xem ra đã lên tới tột điểm uy quyền trong Quốc Tế Cộng Sản dường như đã trở lại Hồng Kong để giải quyết một tình thế ngoài vòng ảnh hưởng của ông ta." Rồi trích dẫn một tài liệu của Hồ liên quan đến việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy vũ trang: "Ông Hồ nói một cách rõ ràng: "Nhiệm vụ quân sự của đảng bao gồm: huấn luyện quân sự cho các đảng viên; tuyên truyền vận động quần chúng trong quân đội; tổ chức những toán bảo vệ công nhân và nông dân". Ông ta dành hầu hết sự chú tâm của mình cho công việc tuyên truyền và khuấy động trong quân đội". (16)

Giải thích tại sao Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến tuyên truyền trong quân đội, tác giả viết:

"Hồ nói: binh sĩ bản xứ bị bắt vào quân đội xuất thân từ những làng mạc, nên đừng đối xử với họ như "tất cả đều là chó săn" của đế quốc. Ông ta chỉ rõ: Trong một cuộc biểu tình tại Chợ Lớn, nông dân đã phạm lỗi lầm xỉ vả binh sĩ, thay vì tuyên truyền vận động họ."

Đây là điểm đặc biệt quan trọng chứng tỏ Hồ thấu đáo sách lược Lenin trong vấn đề thuộc địa và dân tộc nhưng tác giả có vẻ ít quan tâm, nếu không muốn nói là không có ý nghĩ gì về vấn đề. Tác giả viết tiếp:

Ông Hồ nói: "Trong công tác tuyên truyền khuấy động quần chúng, đảng phải truyền bá chương trình ‘cách mạng dân chủ tư sản’ trong đám binh sĩ, và dùng tình cảm dân tộc để làm cho họ tán thành phong trào cách mạng của công nhân và nông dân và chấp nhận sự lãnh đạo của đảng".

Mấy chữ "chấp nhận sự lãnh đạo của đảng" có nghĩa là chấp nhận quyền lãnh đạo độc tôn tuyệt đối của Cộng Sản và như thế thì cái gọi là cách mạng dân chủ tư sản (mà Hồ bảo phải truyền bá) chỉ còn là sự lừa phỉnh.

Áp chót chương 5, tác giả nói về cuộc hôn phối giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai với các từ seems (2 lần), assume, apparently, unknown... Nhưng theo bà, trường hợp Minh Khai là một trong hai trường hợp rõ ràng nhất vì có chứng từ hẳn hoi. Trường hợp kia là Tăng Tuyết Minh. Đoạn trích dịch dưới đây được tác giả đặt trong ngoặc đơn:

(Những nguồn tài liệu của Pháp liên quan đến Minh Khai khiến người ta có thể tin rằng cô này đã có nhiều mối tình với các đồng chí trong thập niên 1930-1940. Ví dụ, năm 1932 sở cảnh sát tin chắc cô ta là người tình của Trần Ngọc Danh, em (tổng bí thư) Trần Phú. Năm 1933 họ lại chặn bắt được một lá thư viết từ Hồng Kông, hình như (seemingly) để cự tuyệt một kẻ theo đuổi mình, trong thư đó nàng tuyên bố "tôi không còn bị ám ảnh bởi ý tưởng lấy chồng hay làm mẹ... Người chồng duy nhất của tôi là Cách Mạng Cộng Sản." Nhưng khoảng cuối năm 1934, khi đã ở Mạc Tư Khoa, nàng viết mình đã lấy chồng là Lin, bí danh của Hồ lúc ấy. Những tiểu sử gia Việt Nam nói Minh Khai kết hôn với Lê Hồng Phong tại Mạc Tư Khoa vào năm 1935, nhưng không có tài liệu nào thời đó chứng minh.) (17)

Cuối chương 5 bàn về hội nghị trung ương tháng 03/1931 do Trần Phú điều khiển với một nghị quyết cứng rắn mang tính giai cấp rõ rệt đã dẫn đến một cuộc thanh trừng nội bộ. Những phần tử trí thức, những kẻ còn giữ xu hướng quốc gia dân tộc đều bị loại khỏi đảng. Tác giả viết:

"Bản nghị quyết ghi: Một trong những mối nguy to lớn nhất là đảng viên vẫn chưa hiểu rõ vị thế của giai cấp vô sản trong cách mạng và các nhiệm vụ của đảng…Cần phải dần dần thay thế đại diện của trí thức và những phần tử bảo thủ trong các cơ quan lãnh đạo bằng những công nhân và bần nông. Đảng nhận chỉ thị phải điều tra các nông hội và loại những phần tử không liên hệ với bần nông và công nhân thành thị. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn cần được mở rộng và mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc phải được phá hủy tận gốc rễ…" (18)

Sau đó tác giả thuật lại cuộc thanh trừng nội bộ và diễn biến của Xô Viết Nghệ Tĩnh khiến hàng ngàn "chỉ điểm viên" hay những nông dân muốn ngăn chặn phong trào bị tàn sát, để rồi sau đó Pháp có cớ mở các cuộc tảo thanh bắt giữ và xử tử hàng trăm đảng viên Cộng Sản. Từ đó kết thúc cao trào cách mạng.

Chương 6 mang tựa đề "Chết ở Hồng Kông, chôn tại Mạc Tư Khoa" bàn về hoạt động của Hồ Chí Minh từ 1931 đến 1938. Nói về thời gian bị tù tại Hồng Kông, tác giả cho biết Hồ Chí Minh đã theo chiến thuật bào chữa được Quốc Tế Cộng Sản cổ võ, khai là một người yêu nước đấu tranh cho vua và tổ quốc Việt Nam, dù trong hộ chiếu ghi là người Trung Hoa! Tháng 07/1931, tổ chức Viện Trợ Quốc Tế Đỏ (International Red Aid) xếp đặt để một luật sư đoàn tài giỏi do Frank Loseby lãnh đạo bào chữa cho Hồ. Ít hàng sau bà nói đến một cuộc vận động cánh tả trong khắp thế giới nhằm ủng hộ cho một Noulens bí nhiệm đã khiến vụ án Hồ Chí Minh được chú ý nhiều hơn. (19)

Theo tác giả, tháng 07/1934 Hồ Chí Minh mới đến Mạc Tư Khoa và tháng 10 được vào trường Lênin. Thời gian đó Đông Dương chỉ riêng Hồ Chí Minh học trường này. Kirsanova, giám đốc trường mô tả đây là lò rèn duy nhất (the only forge) rèn luyện cán bộ cho Quốc Tế Cộng Sản và được coi như viện đào tạo lãnh tụ cộng sản ngoại quốc. Nhưng Hồ Chí Minh bị đối xử như một phần tử thất sủng. Tác giả cũng cho biết Hà Huy Tập đã giới thiệu Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Quốc tham dự đại hội 7 Quốc Tế Cộng Sản cùng với Lê Hồng Phong và chính Khai cũng khai mình đã thành hôn với Lin, là bí danh của Hồ lúc ấy. Nhưng Hồ Chí Minh không khai chuyện này trong hồ sơ lý lịch nhập học trường Lênin.

Về đại hội 7 Quốc Tế Cộng Sản, tác giả cho biết Hồ Chí Minh đã viết bản phê bình các thất bại của Đảng Cộng Sản Đông Dương hai năm 1930-1931, và còn nhiều báo cáo khác nữa, nhưng những báo cáo này không thấy trong văn khố liên bang Nga! Trong bản phê bình, Hồ Chí Minh nhắc đến "cách mạng dân chủ tư sản" và bảo cán bộ chẳng hiểu gì về ý nghĩa mấy từ đó. Vì vậy Hồ đề nghị biên soạn một loạt sách mỏng đơn sơ dễ hiểu về bản Tuyên Ngôn Cộng Sản, lịch sử Quốc Tế Cộng Sản, vấn đề chủ nghĩa dân tộc, vấn đề ruộng đất và kết thúc bằng "cách thành lập mặt trận thống nhất" và những nghị quyết của Quốc Tế Cộng Sản về vấn đề thuộc địa. Bà viết:

"Hồ biết cách lựa đúng lúc để trưng dẫn Stalin. Ông ta viết: "Stalin nghìn lần có lý khi nói: "Lý thuyết cho các đồng chí ... quyền lực chỉ huy, tương lai trong sáng, đức tin trong việc làm và sự xác tín về lẽ tất thắng của chính nghĩa."

Tác giả cũng cho biết sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, được thả rồi sang Liên Xô, uy tín của Hà Huy Tập đã tăng nhanh. Hà Huy Tập đã tố cáo Trần Văn Giàu và Hồ Chí Minh trong báo cáo gửi Đệ Tam Quốc Tế nên thời gian đại hội 7 có lẽ Hồ Chí Minh mất tín nhiệm thê thảm nhất. (20)

Khi Hồ Chí Minh và Lê Hồng Phong đều ở Mạc Tư Khoa, đại hội I Đông Dương Cộng Sản Đảng ở Ma Cao cho Hà Huy Tập quyền điều khiển đảng. Đại hội chỉ cho Hồ Chí Minh làm ủy viên trung ương dự khuyết. Trái lại Hà Huy Tập tự dành địa vị trong Hải Ngoại Vụ là cơ quan có quyền hướng dẫn trung ương đảng về chính trị. Cuối bản báo cáo đọc trước đại hội, Hà Huy Tập đã tố cáo Hồ Chí Minh và kết luận: "Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin phải đích thân viết một cuốn sách nhỏ tự phê chính mình và những sai sót đã qua." (21)

Tác giả nhắc việc Hà Huy Tập cáo buộc Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm về hàng trăm đảng viên bị bắt ....(như phần đông các tác giả trước đã viết) và còn cho biết Hà Huy Tập quả quyết chính tổng bí thư cộng đảng Xiêm, từng theo chân Hồ cũng nói trước 1930 Hồ không phải là cộng sản. Theo tác giả, Hồ đã bị điều tra bởi bộ ba gồm Manuilsky, Kang Cheng và Vera Vasilieva. Manuilsky trung lập, Kang Cheng đòi hành quyết, còn Vera thì bênh, viện lẽ Hồ sai lầm chỉ vì thiếu kinh nghiệm.

Về đại hội VII, Quốc Tế Cộng Sản, tác giả nhắc lại việc đưa ra đường lối ủng hộ một liên minh với cánh tả dân chủ xã hội nhằm chống Phát Xít tại Âu châu và cho là Hồ đã đi trước thời đại khi muốn nhìn lại những thất bại trong 2 năm 1930-1931 liên quan đến sự hiểu lầm "cách mạng dân chủ tư sản".

Như đã biết, sau đại hội VII mặt trận Bình Dân (hay dân tộc) ra đời tại Pháp và sách lược mặt trận thống nhất dân tộc được áp dụng trở lại. Do đó trung ương Đông Dương Cộng Sản đảng cũng có những chỉ thị, lời kêu gọi và thư ngỏ cổ võ liên hiệp giữa các phe phái nhằm thống nhất "phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương".

Chương 6, tác giả cho biết sau đại hội VII, Hồ Chí Minh tiếp tục theo học tại trường Lenin tới hết năm 1935. Năm 1936 ông sang trường Stalin làm việc chung với Vera Vasilieva, phụ trách giảng dạy các học viên Việt Nam. "Làm việc với Lin thật thích thú..." Vera nói vậy! Vera là người từng bênh vực Hồ và là người cùng với lãnh tụ Manuilsky đặc trách các vấn đề Đông Dương trong Quốc Tế Cộng Sản.

Cuối năm 1936, Vera đưa kế hoạch lập trường huấn luyện tại Trung quốc và phái Hồ sang đó để tổ chức và điều khiển trường này. Bà dự trù một ngân sách 3000 Mỹ Kim để đào tạo 10 học viên cho mỗi 2 tháng. Nhưng cuối cùng dự án bị hủy bỏ nên Hồ tiếp tục ở lại Liên Xô cho đến 1938.

Tác giả cũng nêu sự kiện trong khi Hồ chỉ làm việc phiên dịch và dạy cho học viên người Việt theo một thứ bậc thấp, Nguyễn Khánh Toàn được cử làm giảng viên thực thụ. Tác giả viết về hoàn cảnh và vị thế chênh vênh của Hồ trong giai đoạn này như sau:

"Khó tưởng tượng nổi một đảng viên kỳ cựu như Hồ Chí Minh có thể tiếp tục hoạt động qua thời kỳ điên loạn này. Nhưng tháng 1-1938 ông vẫn còn đang dịch những lá thư hiếm hoi từ Đông Dương gửi tới. Việc ông sống sót qua những năm kinh khủng nhất của thời kỳ thanh trừng thường được coi là dấu chỉ của sự bảo vệ mà một cán bộ cao cấp sống sót là Manuilsky đã dành cho ông. Nếu không phải vậy thì chỉ vì ông là một kẻ theo chủ nghĩa Stalin trung thành mà thôi."

Cuối cùng Hồ cũng được cho rời khỏi trường và chẳng bao lâu sau trở lại Trung Quốc.

Chương 7, Hồ Chí Minh trở lại Trung Quốc mùa thu 1938, khi Liên Xô và Trung Hoa Quốc Gia tái lập liên minh với hiệp ước bất tương xâm được một năm và Mặt Trận Bình Dân ở Pháp đã sang năm thứ hai. Sự liên minh mới này dẫn đến tái lập mặt trận thống nhất dân tộc giữa Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng Trung Quốc nhằm chống Phát Xít.

Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bí mật mà Hồ nhận từ Quốc Tế Cộng Sản – gồm 8 điểm phải học thuộc lòng, như tác giả ghi rõ – để đem về áp dụng là đưa đảng Cộng Sản Đông Dương vào một "mặt trận dân chủ dân tộc rộng rãi" gồm cả những Pháp kiều tiến bộ và giới tư sản dân tộc. (22) Xin lưu ý mấy chữ nhiệm vụ bí mật mà Hồ nhận từ Quốc Tế Cộng Sản.

Mùa xuân năm trước, 1937, Minh Khai và Hoàng Văn Nọn cũng học thuộc lòng huấn thị của Quốc Tế Cộng Sản để mang về Hồng Kông, chuyển giao cho Hải Ngoại Vụ của Quốc Tế Cộng Sản. Theo tác giả, huấn thị này rất gần với huấn thị 8 điểm mà Hồ đã mang theo.

Lại xin lưu ý mấy chữ học thuộc lòng và nhớ lại Hồ Chí Minh cũng học thuộc lòng 8 điểm chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản. Học thuộc lòng tức không có văn bản mang theo. Các tổ chức bí mật, tổ chức đen, Mafia thường chỉ ra lệnh miệng. Những việc tàn ác tầy trời của Cộng Sản Việt Nam cũng như Cộng Sản thế giới phần nhiều do lệnh miệng của lãnh tụ. Nếu theo nguyên tắc pháp lý của chế độ dân chủ Tây Phương để xét hành động của Cộng sản, nhất là Cộng Sản Trung Hoa và Cộng Sản Việt Nam e là khó tránh lầm lạc. Tác giả viết:

"Tháng 4-1938, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dương đã thỉnh cầu Quốc Tế Cộng Sản gửi đều đặn huấn thị về các vấn đề chính trị, tổ chức và mỗi 5 hoặc 6 tháng, phái một đồng chí lãnh đạo mang những huấn thị đó cùng với tài chính viện trợ. Thêm vào khoản tiền ứng trước 5000 MK để in sách, họ cũng xin gửi cố vấn và ngân khoản để mở một trung tâm huấn luyện hợp pháp tại Trung Quốc theo đường lối những năm 1926-1927. Có thể Hồ Chí Minh được phái sang Trung Quốc lần này là thể theo lời thỉnh cầu đó." (23)

Tuy nhiên, tình hình Đông Dương lúc ấy không giống tình hình Trung quốc. Cho nên việc thực hiện sách lược mặt trận dân tộc dân chủ năm 1939 đã gây tranh luận giữa các lãnh tụ Đông Dương Cộng Sản Đảng như Phan Văn Tạo, người từng dự đại hội VI Quốc Tế Cộng Sản, Lê Hồng Phong, nguyên tổng bí thư và từng đại diện Đông Dương Cộng Sản Đảng tại đại hội VII Quốc Tế Cộng Sản và Nguyễn Văn Cừ, tổng bí thư lúc ấy. Theo tác giả, lập trường của Nguyễn Văn Cừ trong cuốn Tự Phê tóm lại là:

"Chính sách của đảng là ủng hộ việc thành lập mặt trận dân chủ – nhưng mặt trận này phải thành lập trong phạm vi những phong trào đấu tranh quần chúng mạnh mẽ. Mặt trận dân chủ phải là một hình thức đấu tranh giai cấp cũng như kháng chiến chống đế quốc".

Về hoàn cảnh của Hồ Chí Minh, tác giả viết:

"Khi đọc những bài báo của Hồ Chí Minh trên tờ Notre Voix, người ta thấy hoàn cảnh của ông ở giữa cuộc chiến Hoa – Nhật là một thế giới riêng biệt khác hẳn Sài Gòn với các cuộc bầu cử lúc ấy. Ông đã dấn thân vào công việc tuyên truyền ủng hộ Trung Quốc, xây dựng niềm tin vào khả năng kháng Nhật của nó. Tháng 8 và tháng 9-1939, tình hình quốc tế thay đổi đã đưa Đông Dương Cộng Sản Đảng vào những cuộc tranh luận nội bộ gay gắt: Ngày 23-8, hiệp ước Molotov-Ribbentrop bỗng đặt những người cộng sản theo Liên Xô vào chung chiến tuyến với Đức Quốc Xã. Và, chiến tranh bùng nổ tại Âu châu, khi Đức tiến đánh Ba Lan ngày 1-9-1939. Ngày 28-9, toàn quyền Pháp ở Đông Dương đặt đảng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật và suốt trong một năm cộng sản đệ tam cũng như đệ tứ đều bị lùng bắt."

Về hội nghị trung ương kỳ VI và những cuộc nổi dậy năm 1940, tác giả cho biết đa số cán bộ lãnh đạo Đông Dương Cộng Sản Đảng tán thành nổi dậy để phản ứng lại tình hình thay đổi lúc ấy bằng cách thành lập mặt trận thống nhất phản đế cuối năm 1939. Lúc ấy giải phóng dân tộc trở thành mục tiêu chính. Trong một thông tư phổ biến tháng 12-1939, Đảng Cộng Sản kêu gọi các lực lượng đấu tranh của vô sản, nhân dân lao động các nước nhược tiểu "hãy đoàn kết với Liên Xô". Hãy vùng lên đấu tranh "để dập tắt ngọn lửa chiến tranh bằng cách loại trừ tận gốc là hệ thống đế quốc tư bản." (24)

Nhưng cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ đã thảm bại, dẫn đến hàng trăm đảng viên bị bắt và bị hành quyết. Theo Trần Huy Liệu, có tới 100 cán bộ lãnh đạo bị giết. Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Hữu Tiến tất cả đều bị hành quyết trong tháng 8-1941. Lê Duẩn và nhiều đảng viên cộng sản khác như Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo ngồi tù cho tới khi Nhật đầu hàng năm 1945. Riêng Lê Hồng Phong chết trong tù năm 1942.

Từ đó Hồ trở nên lãnh tụ danh chính ngôn thuận (nguyên văn: legitimate leader). Ngay Trường Chinh cũng phải được Hồ chấp thuận mới được giữ chức tổng bí thư. (25)

Đoạn cuối chương 7 và cũng là đoạn chót của tác phẩm, trước khi tóm tắt để kết luận:

"Tháng 10-1940 Hồ Chí Minh và đám cận thần từ Côn Minh đến Quế Lâm. Đây chính là thời điểm cộng sản hải ngoại quyết định dùng cái vỏ (26) Việt Minh cho mặt trận dân tộc của mình. Đây cũng chính là tổ chức đã được thành lập tại Nam Kinh năm 1936 bởi Hồ Học Lãm, Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng, Phi Vân, Nguyễn Hải Thần và một số người khác. Vì tổ chức này là tổ chức được chính thức đăng ký ở Trung Quốc nên trở thành cơ cấu thích hợp cho những mục tiêu của Hồ Chí Minh." (27)

Tác giả cũng nhắc đến "Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Đồng Chí Hội" (28) của Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần thành lập năm 1941 và bảo cái nhân (nucleus) của nó là Việt Minh. Như vậy Việt Minh vừa là cái vỏ của đảng Cộng Sản vừa là cái nhân của tổ chức của Trương Bội Công. Điều lạ là tác giả không nói đến việc Hồ Chí Minh lập Mặt Trận Việt Minh tại Pác Bó và cũng không kể chi tiết về tổ chức của Trương Bội Công.

Tác giả nhấn mạnh sự kiện hội nghị 8 trung ương Đông Dương Cộng Sản Đảng do Hồ Chí Minh chủ tọa sau ngày trở lại Trung Quốc và dựa theo báo cáo của mật báo viên bí danh "Ursule" tìm thấy trong văn khố Pháp Quốc Hải Ngoại (AOM), để khẳng định hội nghị này được tổ chức ở Tĩnh Tây, Quảng Tây, chứ không phải ở trong quốc nội. Ủy ban trung ương đảng họp trên lầu, còn ủy ban Bắc Kỳ họp ở tầng trệt. Hồ Chí Minh dự cả hai, sáng với trung ương và chiều với địa phương. Trong hội nghị kỳ 8, Trường Chinh được chính thức xác nhận là tổng bí thư đảng. Tác giả nêu lên thành tích của ông Hồ trong việc sát nhập Đông Dương Cộng Sản Đảng vào mặt trận thống nhất với Trung Hoa Quốc Dân Đảng và các đảng phái quốc gia Việt Nam có đại diện ở biên giới.

Cuối chương 7, tác giả cho biết "mặc dầu Liên Xô đã trở lại với liên minh thế giới chống Phát Xít vào tháng 6-1941, nhưng lúc này hoàn toàn bị thu hút vào cuộc chiến sinh tử với quân Đức, nên không còn chú ý đến Á châu được." Tác giả bảo Quốc Tế Cộng Sản chính thức tuyên bố giải tán ngày 22-5-1943. Bà nói là từ đó cho đến năm 1947, không có bằng chứng cho thấy Cộng Sản Việt Nam đã nhận được chỉ thị hướng dẫn hay ngân khoản từ Mạc Tư Khoa.

Tác giả viết về hội nghị trung ương kỳ 8:

"Các chính sách đưa ra trong hội nghị trung ương kỳ 8 đã trở thành khuôn thước cho các hoạt động thời chiến của Việt Minh. Nhưng, như những cuôïc nghiên cứu về sự nắm chính quyền của Việt Minh vào tháng 8-1945 cho thấy, những chính sách đó không được phổ biến đồng đều trong nước; cũng không được toàn thể đảng viên chấp nhận. Trong những năm sau đó, con người thực dụng Hồ Chí Minh tiếp tục phải đương đầu với sự chống đối giữa nội bộ đảng trong cố gắng xây dựng một liên hiệp các phần tử yêu nước."

Qua đoạn này, tác giả cố chứng minh là Hồ Chí Minh bắt đầu điểu khiển đảng đã phải đơn thương độc mã quyết định chính sách và không nhận được viện trợ từ Quốc Tế Cộng Sản, đồng thời còn bị chống đối từ nội bộ đảng. Nhưng Hồ vẫn cương quyết chủ trương lập một liên minh với các phần tử quốc gia yêu nước, để tranh đấu cho nền độc lập của tổ quốc.

Từ lập luận đó, tác giả kết luận: "Coi Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương thuần túy là sản phẩm của Quốc Tế Cộng Sản là một sự xuyên tạc vĩ đại" (29) và "Chính tài năng của Hồ Chí Minh... đã bảo đảm cho ông địa vị của một lãnh tụ thành công nhất trong cuộc tranh đấu dành độc lập." (30) Lời kết luận dù mang tính quả quyết vẫn không đủ sức dập tắt tiếng nói cất lên từ các sự kiện được chính tác giả trưng dẫn về sự lệ thuộc của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Đông Dương vào Quốc Tế Cộng Sản. Đó là những lần Hồ Chí Minh hay đồng chí báo cáo công tác, dự thảo kế hoạch trình lên các cơ quan phụ thuộc của Quốc Tế Cộng Sản, hay những nhân vật đầu não của tổ chức này như Manuilsky chẳng hạn, để xin duyệt và chấp thuận, nhất là những lá thư xin tiền, đề xuất ngân sách cho các chương hành động.

Tác giả đã cho biết trong thời gian thực thi sách lược mặt trận thống nhất dân tộc giữa Đảng Cộng Sản và Quốc Dân Đảng Trung Hoa tại Trung Quốc, Quốc Tế Cộng Sản đã đặt văn phòng Viễn Đông Vụ (FEB) để giải quyết các vấn đề của vùng này gồm cả Đông Dương. Vậy, dù có lúc không liên lạc trực tiếp được với Quốc Tế Cộng Sản ở Mạc Tư Khoa, không có nghĩa là không nhận được sự giúp đỡ và chỉ thị của tổ chức (qua trung gian FEB hay Đảng Cộng Sản Trung Quốc). Tác giả cũng không nói về liên hệ của Hồ Chí Minh với Noulens tuy nhắc đến tên nhân vật này hai lần. Chính mối liên hệ với Noulens mới quan trọng, chứ không phải liên hệ với Borodin. Vì việc Hồ Chí Minh được cử làm phụ tá và thông dịch cho Borodin chỉ là vỏ bọc cho những công tác quan trọng hơn nhận từ nhân vật đại diện Quốc Tế Cộng Sản, Hilaire Noulens, dù Noulens với tên thực Jakov Rudnik chỉ giữ vai trò trưởng phòng giao thông liên lạc tại Thượng Hải.

Có lẽ tác giả đã bỏ sót tài liệu của Duiker và Hồng Hà kể lại nhiệm vụ đích thực của Hồ Chí Minh chỉ có vợ chồng Borodin biết. Tác giả cũng tỏ ra ít quan tâm tới một điểm quan trọng trong chiến lược sách lược đấu tranh của Cộng Sản do Lênin và Stalin đề ra là các hình thức mặt trận thống nhất, mặt trận dân tộc, mặt trận dân chủ, mặt trận phản đế vv... dù nhắc đến rất nhiều lần, kể cả mặt trận thống nhất mà Liên Xô chủ trương tại Trung Quốc, để hai đảng Quốc-Cộng liên minh trong thế liên minh Xô-Trung.

Liên minh này không xảy ra một lần mà còn tái diễn. Đã có lần cộng đảng bị tảo thanh, đàn áp, nhưng họ vẫn mượn cớ kháng Nhật tiếp tục liên minh với "kẻ thù giai cấp" để có cơ hội lợi dụng thanh thế của Quốc Dân Đảng tìm cách tuyên truyền, vận động, lôi kéo quần chúng nhập cuộc đấu tranh giai cấp của Quốc Tế Cộng Sản. Đây cũng là phương thức mà Hồ Chí Minh đã triệt để áp dụng đối với các đảng phái quốc gia Việt Nam tại Hoa Nam và sau này tại quốc nội mà hậu quả là không biết bao nhiêu nhà ái quốc tên tuổi, không biết bao nhiêu người yêu nước vô danh đã bị đảng cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo thủ tiêu, hãm hại, xô đẩy vào chỗ chết. Tất nhiên không thể bảo phương thức này chỉ cần thiết cho việc giành độc lập tổ quốc chứ không vì quyền lợi của Quốc Tế Cộng Sản.

Sophie Quinn-Judge có vẻ thích thú về ý nghĩ là Hồ Chí Minh không được Quốc Tế Cộng Sản ưu đãi, thậm chí còn bị ngược đãi tới mức có lúc gần như bị giam lỏng, nhưng nhờ biết vận dụng thời cơ, có tài trí ứng phó với thời cuộc, nhất là vì yêu nước thực sự khiến nhân dân triệt để ủng hộ nên đã thành công. Một chứng cớ được đưa ra trưng dẫn cho tình trạng trên là thư của Hồ Chí Minh than phiền phải ở một căn phòng chật chội ồn ào, đầy rệp... tại "khách sạn" Lux, một thứ nhà tập thể. Nhưng cũng chính thời gian đó, tại đại hội đầu tiên của Quốc Tế Nông Dân, Hồ Chí Minh đã được bầu làm một trong 11 ủy viên trung ương. Giữa vị thế quan trọng được xác định và điều kiện cư trú tồi tàn thì vấn đề sau không có ý nghĩa gì. Vả lại, nhiều tài liệu cho biết chính Borodin cũng tạm trú tại khách sạn Lux nên có thể hiểu đó là do tình trạng kinh tế lúc ấy ở Liên Xô.

Một dẫn chứng khác là việc Hồ Chí Minh bị cầm chân hơn 4 năm tại Liên Xô chưa hẳn là do bị ngược đãi mà có thể là do được biệt đãi cho theo học trường Lenin là trường lúc ấy chỉ có riêng Hồ Chí Minh là người Đông Dương duy nhất được học. Sau đó Hồ Chí Minh còn được tham gia thành phần huấn luyện viên của trường Stalin. Thực ra, tác giả gần như không cho biết về công việc của Hồ Chí Minh tại trường Lenin cũng như trường Stalin, dù nhan sách nhằm nói về những năm thiếu vắng trong tiểu sử Hồ Chí Minh mà những năm có mặt tại hai trường này chính là những năm thiếu vắng đó.

Rất có thể Hồ Chí Minh bị lưu lại Liên Xô một thời gian dài do cần điều tra về một số nghi vấn trong khi hoạt động tại Hoa Nam vì sơ sót để bị bắt hoặc vì lý do được nhà cầm quyền Anh tại Hương Cảng phóng thích dễ dàng, đồng thời cũng có thể do mục đích chỉnh huấn, tái tạo giúp Hồ Chí Minh có đủ bản lãnh trở thành một cán bộ đầu não để sau này lãnh đạo đảng Cộng Sản Đông Dương.

Việc được phái trở lại Hoa Nam sau khi mặt trận thống nhất Quốc, Cộng Trung Hoa tái lập chứng tỏ Hồ Chí Minh phải được tin cậy về khả năng vận dụng sách lược mặt trận của Lenin đã thấm nhuần từ đầu và thấu triệt hơn sau khóa học 1935-1936 tại trường Lenin.

Trên thực tế, những việc làm khởi từ đó đã chứng tỏ Hồ Chí Minh mới là người theo chủ nghĩa Lenin thuần thành hơn hẳn các đồng chí như Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ ... và một số đông khác về sự hiểu thấu ý nghĩa và công dụng của sách lược mặt trận thống nhất dân tộc, dân chủ...

Tác giả cho biết chỉ căn cứ vào sự kiện và chỉ nêu những sự kiện có chứng từ lấy từ văn khố Nga và Pháp là chính và cho biết có nhiều chứng từ đã bị mất. Thực ra, dù có đầy đủ cũng không thể quên rằng bên cạnh những chứng từ giá trị luôn luôn không thiếu những chứng từ ngụy tạo về những điều không có thực, trong khi toàn bộ sự nghiệp và con người của một nhân vật nào đó không thể bao quát chỉ bằng những sự kiện có chứng từ. Chỉ dựa vào các sự kiện có chứng từ để nhận diện một nhân vật lịch sử là nền tảng hoàn toàn bất ổn, nhất là với một nhân vật có quá nhiều nghi vấn. Cuối cùng, tác phẩm của Sophie Quinn-Judge cũng không vượt xa hơn nhiều tác phẩm đã có mặt vì chỉ phản ảnh những suy luận chủ quan dựa trên một số chứng từ hạn chế.

___________________________________________________

DCVOnline: Bài do tác giả gởi; DCVOnline biên tập, minh hoạ và đề tựa. Chú thích của tác giả. Nguồn: Hồ Chí Minh, Nhận định tổng hợp, Minh Võ, Nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Tái bản lần 1, Virginia, 2006.

(1) Tạm dịch Hồ Chí Minh, những năm chưa biết đến, 1919-1941, University of California Berkeley, Los Angeles 2002.
(2, 3, 4, 6) SĐD tr. 46-48, 59, 64-66, 88
(5) Bức thư tìm thấy trong hồ sơ Trung Tâm lưu trữ tài liệu Liên Bang Nga (RC, 495, 154, 594...)
(7) SĐD tr 102. Tác giả dẫn tài liệu của Trung Tâm lưu trữ tài liệu Nga số RC, 495, 154, 555, p. 5.
(8) SĐD tr. 103.
(9) Sách lược Xâm Lăng của CS – Minh Võ, Sài Gòn 1970, tr. 25.
(10) SĐD tr. 108.
(11) SĐD tr. 110. Về hai chữ từ dưới, xin nhắc lại là đã có lúc tác giả nói đến thống nhất từ trên, nghĩa là thống nhất giữa các cấp lãnh đạo 2 bên.
(12) SĐD tr. 111.
(13) SĐD tr. 116. Chúng tôi nhấn mạnh mấy chữ sách lược và cái nhân, để lưu ý độc giả đến âm mưu của Quốc Tế Cộng Sản chỉ muốn dùng người yêu nước như bình phong, cái vỏ bề ngoài để che giấu và củng cố cái cốt lõi cộng sản của họ ở bên trong. Không có cái vỏ "sách lược mặt trận dân tộc", thì không tạo được cái nhân, hoặc không bảo vệ được cái nhân cộng sản.
(14) SĐD tr. 119, 275. Chú thích số 17, chương 4, của tác giả ghi: RC, 535,1, 42, p. 68, thư (của Quốc) từ Berlin, ngày 16-12-1927.
(15, 17, 18, 19, 20) SĐD tr. 155, 182-183, 185-186, 192-193, 204.
(16) Xin lưu ý mấy hàng trên đây liên quan đến vấn đề tuyên truyền.
(21)) SĐD tr. 205, trích thư Hà Huy Tập ngày 31-3-1935, và nói bản Nga ngữ không có trong văn khố.
(22) SĐD tr. 222, trích dẫn thư của Hồ nhắc lại các huấn thị và sự kiện này vào tháng 7-1939, tìm thấy trong văn khố Nga mang số RC, 495, 10a, 140, p. 106
(23, 24, 25) SĐD tr. 227, 236 tác giả trích Văn Kiện Đảng, II: 1930-1945 tr. 389, 245-246
(26) Tác giả dùng từ mantle có nghĩa là cái áo khoác bên ngoài. Nếu quan niệm đây là một hoạt động bí mật loại gián điệp, tình báo, thì có thể dùng hai chữ "vỏ bọc" (cover). Chúng tôi tạm dịch bằng chữ "vỏ", để đối lại với cái nhân (nucleus) được giấu ở bên trong.
(27, 30) SĐD tr. 246, 250- 251
(28) Tác giả để nguyên văn danh xưng bằng tiếng Việt trong ngoặc đơn.
(29) Nguyên văn: "To view Ho Chi Minh and the ICP as purely the creations of the Comintern would be a great distortion"
 

Minh Võ

Bài viết này từ DCVOnline. Ngày: 01-07-2008
http://www.dcvonline.net/php//modules.php?name=News&file=article&sid=5191

Ý kiến Bạn đọc
(DCVOnline không chịu trách nhiệm về nội dung của những ý kiến đóng góp từ bạn đọc)

(Chúng tôi chọn một số ý kiến của bạn đọc để đăng lại trong phần sau. xtt)


Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (I)
2008-06-29 23:04:11

Nhat Ngo


Khốn khổ cho dân tộc Việt.Hồ Chí Minh và cái Đảng CS của ông ta cứ tưởng
rằng mình đã đưa đất nước đi đúng đường hướng để phục vụ dân tộc.Hãy nhìn
kỹ xem Việt Nam ngày nay ra sao???một đất nước BĂNG HOẠI hết chỗ nói!!

Việt Nam Minh Chủ Trời Nam

MỘT GIẢ ĐỊNH VỀ HỒ CHÍ MINH lúc mới qua Pháp :-) !
2008-06-30 05:39:01

Lại Mạnh Cường


Theo Wikipedia :

*** Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, ông đã viết "Yêu sách của nhân dân An Nam" gồm tám điểm được viết bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles. Từ đó ông dùng tên Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.

Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc.

Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.

*** Cũng theo Wikipedia thì ngày tháng năm sinh của ông HỒ khộng rõ ràng, từ nhều nguồn thay đổi từ năm 1890 đến 1895.

Theo tôi nếu ông sang Pháp làm bối bếp trên một tàu buôn vào năm 1911, thì có lẽ ông phải sinh từ năm 1890 đến 1892-1893.

Từ 1911 đến 1917 ông Hồ sống khổ cức rày đây mai đó và ở các nước không nói tiếng Pháp. Cuối cùng ông phải tìm đường vê Pháp.
Tôi cho là trong thòi gian đó ông chỉ lo sống còn để tồn tại chứ chả làm gì khác hơn được. Chữ Anh ông bẻ đôi không được một chữ, lại xứ lạ quê người ... Chỉ có ở Pháp, nhất là kinh đô ánh sáng PARIS trước thế chiến thứ nhất mới là nơi sinh hoạt nở hoa về mọi mặt như ta rõ. Chính vì thế mà ông Hồ phả lầm mò về Paris để học họi và có môi trường hoạt động. Vả chăng cộng đồng người Việt ở Pháp nói chung và Paris nói riêng mạnh nhất so với các nơi khác.
 

MỘT GIẢ ĐỊNH VỀ HỒ CHÍ MINH lúc mới qua Pháp :-) !
2008-06-30 05:47:59

Lại Mạnh Cường


*** Tôi lại nghĩ thêm chính các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền là thày dạy hay ít ra đàn anh của ông Hồ trong sự nghiệp chính trị ban đầu của ông Hồ.

Theo Wikipedia ta thấy sự nghiệp học hành và làm cách mạng của cụ Phan Tây HỒ cực kỳ lẫy lừng:

Phan Châu Trinh sinh năm 1872, tại Quảng Nam. Thân sinh là Phan Văn Bình, một võ quan nhỏ, từng tham gia phong trào Cần Vương.

Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng (kém ông 4 tuổi).

Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc.
Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông bỏ quan, hoạt động cứu nước.

Ông kết giao vơi nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước.
Năm 1905, ông sang Nhật Bản rồi sang Pháp chủ trương dựa vào Pháp để tiến hành cải cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc.

Năm 1906, ông bí mật sang Nhật Bản gặp Phan Bội Châu, khởi xướng duy tân, cải cách nước nhà. Sau khi về nước, ông ra sức tuyên truyền chủ trương cải cách của mình và đã trở thành một trong những người lãnh đạo xu hướng cải lương hồi đầu thế kỷ 20.

Tháng 7-1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp.

Năm 1908, vụ Hà thành đầu độc ở Hà Nội và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ nổ ra và bị thực dân Pháp đàn áp, ông bị bắt đày ra Côn Đảo.
Đến năm 1910, nhờ có Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả lại tự do, nhưng bị quản thúc tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.

Sang Pháp, ông ở nhà luật sư Phan Văn Trường, mở một hiệu sửa ảnh, sống thanh bạch (Nguyễn Tất Thành cũng từng làm việc tại cửa hiệu của ông). Ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh Nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Ông cũng có những cuộc tiếp xúc với các nhóm Việt kiều và các đảng phái tiến bộ, thảo luận vấn đề độc lập, tự do, dân chủ. Năm 1914, ông lại bị bắt giam vì tình nghi có liên hệ với nước Đức. Nhờ sự can thiệp của Đảng Xã hội Pháp, nên ông mới được thả ra.

Ngày 19 tháng 6 năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn "Bản Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại nước Pháp.

Năm 1922 khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội Khải Định 7 điều và
Re: MỘT GIẢ ĐỊNH VỀ HỒ CHÍ MINH lúc mới qua Pháp :-) !
2008-06-30 14:49:21
Tàng


Đọc đoạn viết của anh Lại Mạnh Cường (xin trích)
.......Đến năm 1910, nhờ có Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả lại tự do, nhưng bị quản thúc tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.

... thế mới biết dù cho Pháp có là tên 'đế quốc " đại gian đại ác, nhưng cũng còn tôn trọng quyền của con người hơn cái bọn "VC cầm quyền" hiện nay ....
Sic ... ở VN bây giờ mà nó quản chế ở đâu thì đừng hòng mà ...không chấp nhận ..... chỉ có mà mơ ngủ.

MỘT GIẢ ĐỊNH VỀ HỒ CHÍ MINH lúc mới qua Pháp :-) !
2008-06-30 06:16:15

Lại Mạnh Cường


*** Câu hỏi lớn đặt ra ở đây, tại sao lại để cho Nguyễn Tất Thành vào ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, viết "Yêu sách của nhân dân An Nam" gồm tám điểm bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), dưới tên Nguyễn Ái Quốc và gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles. " ???

Giải thuyết:

Phải có bạn bạc kỹ lưởng hay/và có nhũng thâm ý sâu sắc gì ở trong biến cố trên, tôi cho là như thế.

Những nhân vật trọng yếu của nhóm, mât thám của giặc đã biết mặt biết tên và để mắt dè chừng, như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Phan Văn Trường lại là luật sư, người cho cả đám nương dựa; Phan Chu Trinh còn có con đi theo; Nguyễn Thế Truyền là một lý thuyết gia giỏi, kể cả tiếng Pháp.

Nói rõ hơn, trước việc làm "lành ít dữ nhiều", nên cần đưa ra một anh kém thớ nhất đám ra mắt tranh đấu. Nhất là đó là thả một trái banh thăm dò dư luận chính giới phương Tây trong hội nghị hòa bình Versailles, hơn là đánh động dư luận quần chúng hồi đó (làm gì mà văn minh và hiểu biết như hiện nay), có lẽ nên đưa một tân binh hay khinh binh đi dọ đường vẫn hơn.

Không ngờ gây được tiếng vang và vì thế ngưòi ta chỉ biết đến Nguyễn Tất Thành qua danh sưng Nguyễn Ái Quốc (Nguyen Le Patriot) !

*** Chính các ông trên dẫn đường cho Hồ vào tham gia trong đảng Xã Hội cùng các tổ chức lớn nhỏ khác.
Phải có ngưòi môi giới có uy tín mới lọt vào đó khi Hồ mới vào Pháp trở lại từ năm 1917.

Được đà từ "Yêu sách của nhân dân An Nam" năm 1919 Hồ "dứt đường tơ" với các đồng chí hay người thày cũ để chọn hướng đi riêng của mình. Từ xã hội thành CS, rồi đi Nga ....
Cũng có thể ông còn vương vấn với họ một thời gian cho khi đi Nga lân đầu vào năm 1923.


Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (I)
2008-06-30 06:15:01

HaiNa


Trích:
“Mùa đông năm ấy (1927) Quốc Tế Cộng Sản quá bận rộn vì những vấn đề quan trọng hơn chuyến đi của Hồ Chí Minh... Nhưng đến tháng 4 Hồ vẫn chẳng nhận được tin tức gì của Mạc Tư Khoa hay của Doriot. Quốc Tế Nông Dân cũng chẳng giúp được gì. Ông ta phải hỏi xin họ cấp 500 Mỹ Kim và cho một “kế hoạch tổ chức thực tiễn để tôi có thể hoạt động hữu ích” (14)


Thế mới hay...muốn làm "Cách Mạng Vô Sản" bác Hồ nhà ta cũng cần có trong túi "Đô La Tư Bản" !
Các Hậu Duệ của HCM phải học tập tư tưởng này nhé.....phải luôn luôn..."Đô La Đầy Túi" ....không kể cả hành động "Tham Nhũng".

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 18:35:40

Lê Văn


"... ông ta [...] vẫn sẽ còn được coi là nhà cách mạng lớn VN, có tàn bạo, nhưng thành công".

Nói rõ: HCM được "quốc tế" coi là "nhà cách mạng" lớn của thế giới (thế kỷ 20) - nhưng không phải là nhà cách mạng lớn của Việt Nam. (Khác với Mao, Mao - và Tôn Dật Tiên - là người thay đổi diện mạo của Trung Hoa)

Thế nhưng ông Hồ thật sự làm gì cho "thế giới" - ngoài việc đánh Pháp rồi đánh Mỹ? Thật sự có thể nói là chuyện "lớn". Nhưng cũng phải hỏi thât sự la AI đã "đánh". Đó là nhân dân Việt Nam - với sự hỡ trợ của Tàu và của khối CS Đông âu.

Công của ông Hồ là làm môi giới để dân Việt đánh Mỹ hộ Liên Xô. Đó là công lớn, nhưng là công đối với chủ nghĩa quốc tế (Internationalism) tức CS...

Ngoài ra ông Hồ làm được gì cho người dân Việt?

CCRĐ trực tiếp giết gần nửa triệu người dân miền Bắc (khiến ai cũnhg khiếp sợ).

Nhưng dân miền Nam không biết - mà cũng không tin - cho đến khi sau 1975, CS chiếm được miền Nam tịch thu tài sản dân chúng, gời toàn bộ thanh niên trí thức vô trại cải tạo lúc đó dân miền Nam mới.. tỉnh người!

Bây giờ thì mọi khá rõ ràng .. trừ ông XT? ;o)

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 01:21:01

nguyen3112


Ai mang tâm lý kẽ bại trận,kẽ có tội với quê hương?! Phải chăng là ĐCSVN!
PVĐỒNG: "Chúng tôi đã thắng trong chiến tranh,nhưng thua trong hoà bình"(có nghĩa là cuối cùng là thua,sau khi đem khoảng 2 triệu thanh niên Miền Bắc phơi xác,nướng cho chiến tranh! Trong khi nước Đức không tốn 1 giọt máu mà thống nhất,lại THỐNG NHẤT KHÔNG CS!)
Từ ngày LÃO HỒ mở mắt vào đời thì đã có tham vọng làm tai sai ngoại bang(xin học trường thuộc địa Pháp),không được thì làm tai sai Nga(tài liệu đầy trên internet,thời mở cửa),cuối cùng thì được ĐẠI HÁN CHU ÂN LAI thâu nhận và cấy "sinh tử phù" bằng cách gã TĂNG TUYẾT MINH cho!
Và từ đó cho tới hôm nay,với cái chết của VÕ VĂN KIỆT xem như CHỆT PHÙ đã hoàn thành nhiệm vụ cấy "sinh tử phù" !
LÊ DUẨN muốn thoát ra,bằng cách xin làm tai sai cho NGA,cuối cùng GORBACHEV hất nhào NGUYỄN VĂN LINH theo đuôi NGA,thì ĐỖ MƯỜI lại xin đội háng CHỆT cho tới hôm nay. Và muốn vậy phải loại trừ những người còn có chút tinh thần VN như VÕ NGUYÊN GIÁP,NGUYỄN CƠ THẠCH,TRẦN XUÂN BÁCH,... và người cuối cùng là VÕ VĂN KIỆT!
*(GIÁP thì như "gỗ mục",KIỆT thì nói nhiều.lại liên hệ với GIÁP! KỲ ĐÀ KIỆT ngăn trở việc phá di tích LÊ,LÝ,TRẦN và "mở rộng Hà Nội" thì tình báo Tàu phải ra lệnh cho TAI SAI NGỤY HÁN csvn loại KIỆT!
KIỆT từ HÀ NỘI về ngày 21/5 thì 23/5 lâm bệnh phổi,mà Tây Y không tìm ra nguyên nhân!
Trước đây,tôi có công tác bên Tàu,anh thông dịch viên tiếng Tàu của tôi cũng y chang trường hợp ông KIỆT! Bệnh PHỔI mà Y KHOA CANADA không tìm ra nguyên nhân! Nhẹ thì làm "thực vật" chờ chết,nặng thì đi ngay vậy mà tốt! (1 loại độc dược của Tàu,mà Tây Y không tìm ra giấu tích??!))
@Mỹ thì có thương gì VN hay anh ngợm "tưởng thú" DŨNG(CHỆT dùng Baton khống chế thì Mỹ dùng Carotte đánh đcsvn),ngôn từ hay ngoại giao chỉ là phương tiện đưa ngợm làm trò xiếc mà thôi!(cái trò đi dây hết thời rồi!)
Có 1 Lê chiêu Thống đã khổ,có 1 Trần thiện Khiêm VNCH làm tai sai cho C.I.A đã khổ;mà bây giờ có cả 1 đảng NGUỴ HÁN CSVN làm tai sai cho ĐẠI HÁN CHỆT thì VN chỉ còn...CHỜ CHẾT!!

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 08:52:49

Ho Hui


Rất rõ ràng là trong những năm được gọi là "...the missing years" hay nói theo kiểu Kim Dung là lúc đó giáo chủ đã vắng bóng trên giang hồ , đó cũng chính là lúc người được "sư tổ" gọi về bắt phải "bế môn luện công" hầu chờ ngày tái xuất .
Còn nói theo thực tế thì trong khoảng thời gian này ,Hồ Chí Minh được ém tại Nga để trau dồi thêm kỹ năng cho hoạt động Gián Điệp, và đúng như yêu cầu của đảng CS Liên Sô ,cũng tức là Quốc Tế CS đảng , ông Hồ Chí Minh đã trở thành một GIÁN ĐIỆP THƯỢNG THẶNG với đầy đủ các đặc tính cần có là :
Mưu lược và Bạo Tàn cộng với những kỹ năng chuyên môn như :
-Kỹ thuật khuynh loát để khuynh loát và khuynh đảo các tổ chức ,đảng phái không cs hầu tiếm dụng các đảng phái ,tổ chức này và chuyển nhân sự ,tài chính sẵn có thành của đảng cs .
-Kỹ thuật khích động ,gây bạo loạn để dùng trong việc Cướp Chính Quyền
-Kỹ thuật khủng bố
-Kỹ thuật tuyên truyền
....

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 17:43:59

Trúc Lê


Bàn về công, tội của ông Hồ Chí Minh là một đề tài kéo dài hình như bất tận. Có lẽ nó chỉ giảm bớt khi đất nước ta được thực sự tự do, dân chủ và những sai lầm nguy hại của ông được khắc phục dần dần. Tác giả Minh Võ đã đào trúng mỏ “vàng” HCM nên tha hồ khai thác, viết bài lia chia. Xin chúc mừng tác giả.
Hôm qua tôi nghe cuộc phỏng vấn của phóng viên Tường Thắng với cựu Đại Tá Quân Đội Nhân Dân VN, ông Phạm Quế Dương, trên Web Vietnam Exodus. Khi được hỏi về ông Hồ, Đại Tá về hưu PQD đã nói đại khái rằng, theo ông, ông HCM là người yêu nước nhưng đã phạm nhiều tội lớn, như đem chủ nghĩa cộng sản vào VN, gây ra hai cuộc chiến tranh đẫm máu chống Pháp và chống Mỹ mà thực chất cuộc chiến sau là một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn đã làm thiệt mạng hàng triệu dân, đánh phá trí thức văn nghệ sĩ qua vụ Nhân văn Giải phẩm, giết dân oan uổng qua vụ Cải Cách Ruộng Đất, phá hoại kinh tế VN trong vụ đánh phá Công Thương nghiệp Miền Bắc v.v…
Có lẽ ý kiến của ông Phạm Quế Dương là ý kiến chung của nhiều người trí thức Miền Bắc quan tâm đến lịch sử VN thời cận và hiện đại. Riêng tôi trong ý kiến này tôi chỉ xin phép được bàn luận thêm về câu hỏi: Ông Hồ Chí Minh có yêu nước hay không?
Trước khi trả lời câu hỏi này, ta cần phải trả lời câu hỏi khác là “yêu nước là gì? Làm thế nào thì được coi là yêu nước?”. Theo tôi, “yêu nước” điều đầu tiên là muốn cho đất nước được tồn tại trường cửu, lãnh thổ hải phận của đất nước được bảo toàn không bị mất mát, nhân dân được no ấm, tự do, hạnh phúc và Tổ quốc được giàu mạnh, quốc gia được độc lập, tự chủ không còn bị ngoại bang đô hộ, áp bức hay khinh khi.
Thế nhưng, công bằng và khách quan nhìn lại lịch sử VN từ năm 1945 cho đến năm 1969 là ngày ông Hồ nhắm mắt lìa đời để được “cái quan định luận”, thì ta thấy ông Hồ đã làm được những gì để thỏa mãn các điều trên về lòng yêu nước? Trước hết, là một người tin tưởng vào chủ nghĩa quốc tế cộng sản và thế giới đại đồng, chủ trương xóa bỏ ranh giới quốc gia và đấu tranh giai cấp, tức là theo đường dài, mục đích của ông Hồ là sẽ không còn nước VN nữa trong thế giới cộng sản (đại đồng). Như thế, ông Hồ (trên nguyên tắc và tâm tư sâu kín nhất) không muốn nước VN tồn tại trường cửu. Từ đó vấn đề bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và hải phận của VN không còn là ưu tư của ông. Bằng cớ là ngay sau Hiệp định Genève năm 1954, khi được Pháp hoàn trả Miền Bắc (vĩ tuyến 17), việc đầu tiên của ông Hồ là giao đảo Bạch Long Vĩ cho TQ quản lý hành chánh.

(còn tiếp)

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 17:47:31

Trúc Lê


Thử hỏi hy sinh biết bao nhiêu xương máu của nhân dân để giành lại được đất đảo của Tổ quốc từ tay thực dân Pháp, sao ông đành lòng giao một phần thiêng liêng của Tổ quốc vào tay người như thế? Phải chăng ông cho rằng đảo Bạch Long Vĩ, cũng như lãnh thổ VN trong tay ông, là lãnh thổ của phe xã hội chủ nghĩa, nên giao cho Tàu hay để cho ta quản ly cũng thế thôi ? Năm 1956, ông Mao Trạch Đông đã chiếm Ải Nam Quan, ông Hồ hoàn toàn im lặng không phản đối. Năm 1958, khi Quốc Vụ Viện TQ tuyên bố chủ quyền của TQ trên Hoàng Sa, Trường Sa (và 80% Biển Đông) ông Hồ đã ra lệnh cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết công hàm gửi ông Chu Ân Lai thừa nhận và cam kết tôn trọng quyết định này của TQ.
Về lãnh vực cuộc sống tự do, hạnh phúc của nhân dân VN, thử hỏi trong thời gian ông Hồ còn sống và toàn quyền lãnh đạo, nhân dân Miền Bắc đã có cuộc sống thế nào? Có ấm no, tự do, hạnh phúc hay không? Điều này chắc ai cũng biết rồi, khỏi cần nhắc lại ở đây. Còn dưới sự lãnh đạo của ông Hồ đất nước ta có thực sự độc lập, tự chủ hay chăng hay là mọi quyết định lớn nhỏ và tai hại đều do Trung Quốc, Liên Xô sai khiến? Như vụ Cải Cách Ruộng Đất thì ngay từ năm 1952 (khi ông Hồ còn đang làm cuộc chiến “thần thánh” chống Pháp) chính ông đã gửi thư xin chỉ thị của Stalin về CCRĐ. Ai đã tố cáo Tàu giật dây chia cắt VN trong Hiệp định Genève 1954 nếu không phải là đảng CSVN của ông Hồ? Nếu ta thực sự độc lập tự chủ, tại sao ta lại chịu nghe theo sự quyết định vô lý, ác độc này của ngoại bang? Ai đã điều khiển và đánh trận Điện Biên Phủ cho ông Hồ? Các tướng tàu Vi Quốc Thanh và nhóm cố vấn quân sự Tàu hay Đại Tướng “cầm quyền chị em” Võ Nguyên Giáp? Vậy là tự chủ, độc lập ư? Còn quốc gia VNDCCH của ông Hồ (trước 1975) và hậu thân của nó là CHXHCN VN ngày nay có giàu mạnh, được thế giới kính nễ hay không, hay là bị tụt hậu thua kém mọi nước, bị coi rẻ khắp nơi?
Tóm lại, qua những tiêu chuẩn thông thường và dễ hiểu của hai chữ yêu nước nêu trên, và qua các “đóng góp lịch sử” kể trên của ông Hồ, liệu ta nên coi ông Hồ là người yêu nước hay chăng? Hỏi tức là đã trả lời.

Trân kính,
Trúc Lê

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 18:56:30

Ho Hui


Trúc lê luận về hai chữ "yêu nước" cho trường hợp của ông Hồ rất hay ; Nếu bà Sophie Quinn-Judge viết một cách hồ đồ rằng :"Coi Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương thuần túy là sản phẩm của Quốc Tế Cộng Sản là một sự xuyên tạc vĩ đại” ...thì ta có thể viết mà không sợ sai rằng :

"Coi Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản VN thuần tuý là những người yêu nước Việt Nam thì là MỘT SỰ XUYÊN TẠC VĨ ĐẠI !!!!" (*)

(*) Họ yêu tổ quốc (nước) nhưng phải là tổ quốc XHCN và (nói cho đúng) là bất cứ tổ quốc nào ,miễn đó là XHCN ( của CS) ...Tổ quốc của họ là Liên Xô vĩ đại ,là Trung quốc vĩ đại.v.v...theo cách nói : "Bên kia biên giới cũng là quê hương ...." (thơ của một đại thi...nô) .
Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 19:18:27
XuânTrường


"Chú " Lê Văn của ai...

Này "chú," khi ấy 1955
em còn ngây thơ; chỉ
khi em vô ĐL, mới thấm
mùi CầnLao và "trọ trẹ."

 
Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-01 19:58:22
Lê Văn


Nếu vậy thì chẳng biết gì thật (học hết trung học, rồi vô ĐL thì nhiều lắm giỏi đánh giặc... "tư cách" gì mà nói chuyện chính trị chính em... HCM, NĐD?) !!!.

Ông Nhu gốc trường quản thủ thư viện bên Tây, đọc sách nhiều (nhưng giới hạn vài thứ) - chỉ biết rành Personalisme ... Ổng nghĩ giản dị miền Bắc có "thân tượng" HCM, thì miền Nam phải có "lãnh tụ anh minh" NĐD, bên kia có bửu bối Marxisme, thì ta phải có thuyết Nhân Vị v.v. để đối đầu lại...

Nhưng đó là lối suy nghĩ nông cạn và sai lầm (tai hại)!

Theo tôi đáng lẽ, chẳng hạn để đối đầu với chiến lược thần thánh hóa cá nhân ông Hồ của CS miền Bắc, ta càng phải tránh việc thần thánh hóa ông Diệm (cũ Diệm vốn là cái may mắn lớn cho phe quốc gia) - tự khắc dân chúng sẽ nhớ ơn cụ Diệm đời đời.

Đàng này ông Nhu lại bắt dân thờ .. sống ông Diệm - khiến nhiều người đang mến yêu ông Diệm đổi ra thành ghét ... (chốn chạy HCM lại gặp ông Diệm!)

Đảng Cần Lao đa số là những tên sôi thịt vô đó để kiếm chác... thiệt là vô dụng!

"Thắng" Mã Lai, Singapore, Thai Lan, Phi, Indonesia .. lúc đó đều bị đe dọa bởi "giặc" CS chứ có phải riêng VNCH đâu? CS o Ma Lai, Phi, nhất la Indo lúc đó "to" hơn cai MTDTGPMN nhiều lắm!

Các ông làm ăn ra sao mà chúng nó ngày càng mạnh ra? Thât phu hữu trách ... sao bây giờ còn nói lăng nhăng?

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-02 06:26:32
Ho Hui


Trích Lê Văn :
"Thắng" Mã Lai, Singapore, Thai Lan, Phi, Indonesia .. lúc đó đều bị đe dọa bởi "giặc" CS chứ có phải riêng VNCH đâu? CS o Ma Lai, Phi, nhất la Indo lúc đó "to" hơn cai MTDTGPMN nhiều lắm! "

Nhưng những "thằng" mà bác Lê Văn kể đã không có được cái "diễm phúc" như "MTGPMN/VN" là có được miền Bắc là Hậu Phương vững mạnh ở ngay trên cùng giải đất mà hàng ngày ,hàng giờ tuồn người và vũ khí vào "chi viện" cho ,lại nữa ,những "thằng" ấy lại không được hân hạnh ở gần người vừa là đồng chí ,vừa là anh em là Trung Quốc vĩ đại sẵn sàng "chống Mỹ tới người VN cuối cùng" ....
cái MTGPMN tuy nó bé như cái ...dé ,thế nhưng cái thằng bố của nó thì lại to như con voi ,mà con voi này lại được bác Hồ rước vào trong nhà từ những năm 45 lận .

Cho nên bác Lê Văn mà so sánh miền Nam VN với mấy cái "thằng" kia là hơi bị Khập Khiễng đấy . Than ơi !!!

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-02 07:51:59
Bạn đời của dân hèn


Nhận xét của ông Văn về Ngô đình Nhu, đúng bong bóc. Anh Nhu dân Tây, mà cãi lương. Suy nghĩ quá đơn giãn, cho rằng dân VN thời đó đại đa số còn...ăn lông, ở lổ, cho nên phải Cần lao, Nhân Vị, Suy tôn Ngô tổng thống để...dạy dân, cạnh tranh tuyên truyền theo kiểu rẽ tiền của cs.

Ông ấy quên bén đi cái lợi thế từ hơn mộy triệu người VN từ Bắc tị nạn cs vào Nam. Những người này, bỏ lại sau lưng tất cả, hy sinh tất cả để được tự do. Chỉ sự kiện ấy thôi, cũng đủ nói lên họ tỡm cs Hồ chí Minh cở nào, mới đi đến quyết định như thế.

Ấy là chưa nói đến việc cs Hồ chí Minh giết dân lành, cướp của trong cãi cách ruộng đất, giết đồng chí trong sữa sai, lừa bóp cổ tiếng nói của người dân qua vụ trăm hoa đua nở...

Ngô đình Diệm không cần phải được suy tôn...theo kiểu 6 câu vọng cổ...

Ông Nhu thương anh, muốn cũng cố địa vị tổng thống, mà vô tình hại anh, bị phãn tuyên tuyền...
Sĩ phu VN thời ấy, coi như không có, (ngoại trừ ông Diệm), chẳng có ai hết lòng vì quê hương, dân tộc để can ngăn...

Thương ôi, cả hai anh em đều bị thãm sát...

VN đành đi vào địa ngục.

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-02 16:55:42
Lê Văn


Bác Hồ Hụi nói chẳng sai, nhưng thất bại nào mà chả có muôn nghìn nguyên do! Nhưng vấn đề cho đến nay, theo tôi, là chính "ta" vẫn chưa tìm ra phương cách để thắng kẻ địch, cho dù "nó" có yếu... xìu, hay "bố" của "nó" có tan xác (như... Đông Âu)...

Theo tôi, thảm kịch Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn đó vì... "ta" vẫn chưa có "lời giải" mà thôi!

Nghe bàn thảo về Obama v/s McCain cũng thấy câu hỏi của người Việt là ứng cử viên nào lên làm TT sẽ chú ý đến "vấn đề" Việt Nam hơn!

Còn chúng ta làm gì, con đường (tình) ta đi là đâu?

Thân

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-02 00:56:52

xtt


Viết về Hồ Chí Minh quan trọng nhất là viết sự thật về ông ta, với các chứng cớ có thể kiểm chứng được.

Sự thật ông Hồ là người cộng sản, quốc gia VN nếu có trong đầu ổng thì chỉ là thứ yếu. Chính ông Hồ và đảng CSVN cũng đã công nhận Mác-Lênin là tổ tiên của mình: "Bác đã về với tổ tiên, Mác-Lênin thế giới người hiền" (Tố Hữu). Ông Hồ, trong di chúc, cũng đã chỉ muốn đi gặp "cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác". Nói hay viết ngược lại những điều hiển nhiên này là viết láo.

Sự thật ông Hồ có con rơi, con rớt. Nói ông Hồ vì nước mà quên bản thân là nói bậy. Nguyễn Tất Trung còn đang sống ở VN đấy chứ có ở trên mặt trăng đâu mà kiểm chứng không được. Còn Nông Đức Mạnh, Tổng Bí Thư, nữa. Đảng CSVN càng che dấu thì khi sự thật được người ta biết càng làm cho người ta tức giận. Điều gì sẽ xẩy ra cho đảng CSVN và cho xác ông Hồ thì làm sao mà biết được.

Đã có con thì phải có vợ hoặc tình nhân: Tăng Tuyết Minh, Nguyễn/Nông thị Xuân, Nông thị Trưng, ... chứng cớ nó đầy ra đấy.

Sự thật ông Hồ không muốn bị giam xác ông ta ở Ba Đình mà muốn được hỏa thiêu. Di chúc ông Hồ ghi rành rành mà đảng CSVN vẫn ngang nhiên coi lời nói của ông Hồ không ra gì. Bây giờ chính đảng CSVN cũng công nhận là ông Hồ muốn được hoả táng sau khi chết ("Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là 'hoả táng'" - xin coi HCM toàn tập, tập 12, trang 507, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000). Hỗn láo, phỉ báng ông Hồ thì đám đàn em của ông Hồ phải cho đứng đầu bảng.

Sự thật về ông Hồ còn là vụ Cải Cách Ruộng Đất. Bao nhiêu người bị chết trong oan ức, nhục nhã. Ai cũng có thể chửi ông bà, cha mẹ mình là thằng là con nếu hợp ý đảng CSVN. Văn hóa nào ông Hồ đã du nhập vào VN?

Bao nhiêu xương máu người dân hai miền đã đổ ra cho tham vọng bành trướng chủ nghĩa CS. Bây giờ tiền bạc, đất đai vào tay ai?

Sự thật về đảng CSVN, đám đàn em của ông Hồ, là 65 000 người bị hành quyết sau khi cưỡng chiếm miền nam. Histoire du Viêt Nam - Lịch sử VN [fr.wikipedia.org]

... de 1975 à 1982, 65 000 personnes furent exécutées au Viêt Nam et plus d'un million furent envoyées en « camps de rééducation » ou dans les « nouvelles zones économiques ».

Từ 1975 tới 1982, 65 000 người bị hành quyết ở VN và hơn một triệu người bị vào "trại cải tạo" hay đi "vùng kinh tế mới".

...

Sự thật về ông Hồ nó phũ phàng lắm. Rồi tất cả mọi người dân sẽ biết được điều này.

*
Cám ơn tác giả về bài viết này. Chúng tôi cũng mạn phép tác giả để đăng lại toàn bộ cuốn "HỒ CHÍ MINH, Nhận Định Tổng Hợp" trong website của chúng tôi.

xtt

Re: Về “Ho Chi Minh, the missing years” (Kết)
2008-07-02 10:32:04

nguoivehuu


Rất cám ơn tác giả về loạt bài này.
Tôi nghĩ BBT nên cho đăng lại bài này dịp đầu tháng 8/2008, trước đợt "kỷ niệm 19/8"), rất có giá trị.
Trân trọng

--//--
 

www.geocities.ws/xoathantuong