TRUNG
THẦN THỜI PHONG KIẾN
VÀ
CỘNG SẢN
Trong
quá khứ, Trung Hoa và Việt Nam đều theo chế độ phong kiến.
Trong chế độ phong kiến thì có những nghịch thần phản
bội cũng như có những trung thần trung thành với vua. Nói
là trung thần, có nghĩa là trung với vua, nhưng cũng có
những trung thần biết can gián vua khi vua làm điều gì có
hại đến đất nước. Trung thần đúng nghĩa là khi vua có
lầm lỗi, phải liệu cách can ngăn mà đưa vào điều thiện;
khi mình có điều hay, phải tìm đường bày tỏ một cách
thành thực. Trên thì thành thực một lòng, dưới thì không
a dua vào bè, kết đảng với ai: những sự tốt lành yên vui
thì để phần vua thưởng, những điều oán thù lo lắng thì
mình hứng đựng. Có làm được như thế mới đáng gọi là
trung thần. Đó là những trung thần sáng suốt, luôn đặt
quyền lợi của đất nước lên trên hết, chứ không phải
thứ ngu trung, chỉ biết mù quáng theo vua dù vua làm những
chuyện sai trái, có hại đến đất nước quê hương. Trong
thời chế độ Cộng sản ở Việt Nam có sản sinh ra một
thứ trung thần, chỉ biết trung với Đảng cầm quyền, mù
quáng và mê muội ủng hộ người cầm quyền dù người cầm
quyền chủ trương làm những hành động phản quốc, hại
dân. So sánh hai thứ trung thần xưa và nay thì có thể rút
ra những bài học bổ ích, những cách xử sự đáng ghi nhớ
để làm gương cho hậu thế mai sau.
Có hai câu chuyện trung
thần can vua có thể kể ra đây để thấy sự sáng suốt của
người trung thần can gián vua khi thấy vua làm điều sai trái.
Sách “ Cổ học tinh
hoa” của Nguyễn văn Ngọc và Trần lê Nhân có câu chuyện
“ Can vua bỏ rượu “ như sau:
“ Vua Cảnh-công
nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm ngày,
xao lãng cả việc nước. Huyền Chương can, nói:
“ Nhà vua
uống rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà vua không
nghe, hạ thần xin tự tận.”
Ngay
lúc ấy Án tử vào yết kiến vua. Vua bảo, “ Huyền Chương
can ta bỏ rượu, không thì y tự tận.
Nếu
ta mà nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, lỡ Huyền Chương
chết thì cũng đáng tiếc.”
Án tử
nói, “ May lắm! May Huyền Chương gặp được nhà vua, chớ
như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống
được đến bây giờ nữa ! “
Cảnh
công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu. Án –Tử
Xuân- Thu (Sách “Cổ học tinh hoa“ tập 1, trang 27)
Viên trung thần
Huyền Chương đã nhìn thấy cái gương hai vua tàn bạo, độc
ác Kiệt, Trụ vì say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến
nỗi mất nước, nên quyết dùng mạng sống của mình để
can vua Cảnh công, đúng là một bầy tôi trung, sẵn sàng can
gián tính xấu say rượu của vua vì lợi ích xã tắc, sơn
hà. Cũng nhờ có Án tử nói khéo vào, gợi cái lòng tự phụ
, uyển chuyển lèo lái lối suy nghĩ cùng bụng dạ của vua,
làm vua Cảnh công tỉnh ngộ mà bỏ tật xấu say sưa. Có cái
can đảm của quan trung thần Huyền Chương kèm với lời nói
phụ họa khéo léo của Án tử đã làm cho vua tỉnh ngộ mà
bỏ được tính xấu uống rượu. Vua không còn say sưa thì
sẽ cai trị quốc gia hữu hiệu hơn. Xem truyện mới thấy
cái công can gián của Huyền Chương không phải là nhỏ. Huyền
Chương đúng là một trung thần đúng nghĩa, không phải lúc
nào cũng a dua về hành động sinh hoạt của vua,mà thẳng thắn
lên tiếng phê phán và sẵn sàng hy sinh cả mạng sống của
mình để mong vua từ bỏ thói hư tật xấu say sưa, hầu có
thể an dân trị nước có kết quả hơn.
Chuyện thứ hai là chuyện
“ Chết mà còn răn được vua “ của Gia Ngữ có nội dung
như sau:
“ Cừ Bá
Ngọc là người hiền mà vua Linh-công nước Vệ không dùng.
Di-tử Hà là người dở mà vua lại dùng.
Sử Ngư thấy
thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghe. Lúc ông có bệnh,
sắp mất, dặn con rằng:
“ Ta làm quan tại
triều nước Vệ, không hay tiến được Cừ Bá Ngọc, thoái
được Di tử Hà, thế là bầy tôi không khuyên răn nổi vua,
thì khi ta nhắm mắt, không được làm đủ lễ. Cứ để thây
ta dưới cửa sổ, thế là xong việc cho ta.”
Lúc ông mất, người
con cứ làm theo lời dặn. Vua Linh công đến viếng thấy vậy,lấy
làm ngạc nhiên. Người còn đem lời di chúc của cha tâu lại.
Vua thất sắc nói rằng:
“ Ấy là cái
tội của quả nhân ! “
Rồi sai người
đem xác ông Sử Ngư vào nhà, bắt khâm liệm và mai táng cho
đủ lễ.
Sau quả nhiên vua
Linh công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi Di tử Hà
Đức Khổng
Tử nghe truyện ấy, nói :
“ Đời cổ những
gián quan đến lúc chết là hết cả mọi việc, chưa có ai
được như Sử Ngư chết rồi mà còn dùng xác để can vua
làm cho vua phải cảm động mà nghe mình. Thế chẳng là trung
trực lắm ư ! “ Gia Ngữ ( Trích trong sách
"Cổ học tinh hoa “
tập 1 trang 31)
Nếu quan trung
thần Huyền Chương can được vua bỏ rượu lúc Huyền Chương
còn sống thì quan trung thần Sử Ngư còn ngoạn mục hơn,
dù đã chết vẫn can được vua không dùng người dở Di tử
Hà mà nên dùng người giỏi Cừ Bá Ngọc. Nhân chuyện
Sử Ngư khuyên vua dùng người tài bỏ người dở,lại nhớ
đến chuyện Quản Trọng khi gần mất đã khuyên vua Tề hoàn
công nên dùng người tài và nên tránh xa kẻ xấu như Dịch
Nha, Thụ Điêu. Vua Tề Hoàn Công vì tình tình yếu đuối bạc
nhược không nghe lời can gián, khuyên nhủ của trung thần
Quản Trọng nên rốt cuộc bị bọn gian thần phá nát cả
vương triều. Phần Tề Hoàn Công khi biết ra thì đã muộn,
khi chết xác không được chôn, bị giòi bọ đục khoét rất
thê thảm. Dù là đời quân chủ chuyên chế, có những
gián quan như Huyền Chương và Sử Ngư tìm cách hạn chế được
quyền vua, can vua bỏ điều xằng, khuyên vua làm điều hay.
Họ cho rằng nếu can vua không được là coi như họ không
làm hết trách nhiệm của người trung thần. Can vua lúc còn
sống, lúc chết rồi vẫn không quên nhiệm vụ can gián. Thật
là đáng khen cái tâm cái chí dũng liệt sâu sa bền chặt ấy.
Đó là những gương sáng tận tâm với chức vụ để cho hậu
thế soi gương.
Nhà hiền
triết Mặc tử cũng có những nhận xét chí lý về nhiệm
vụ của một trung thần. Ông khuyên bề tôi phải biết can
gián vua ( Công Mạnh 1). Trung thần không phải là hạng bề
tôi vua “ bảo cúi thì cúi, bảo ngửa thì ngửa, không khác
gì cái bóng: không gọi thì im lặng, gọi thì thưa, không khác
gì tiếng vang”, mà phải biết trình bày mưu hay với vua,
sửa chỗ bậy của vua, dâng vua điều thiện ( Lỗ vấn 9)
( Trích từ sách “ Mặc học “ của Nguyễn hiến Lê trang
199).
Khi đã là trung thần thì không phải lúc nào cũng cúc cung
tận tụy theo lệnh vua mà phải sáng suốt và can đảm chỉ
ra những sai trái của vua để vua sữa chữa hầu làm cho việc
quốc thái , dân an được thành tựu . Huyền Chương, Sử Ngư,
Quản Trọng xứng đáng được coi là những trung thần sáng
suốt đáng làm gương cho hậu thế soi chung.
Riêng ở nước Việt Nam cũng có một gương trung thần là
ông Chu văn An. Dưới triều vua Trần dụ Tông, vua mang tật
rượu chè, chơi bời, xây cung điện, đào hồ đắp núi, rồi
lại cho gọi những người nhà giàu vào trong điện để đánh
bạc. Chu văn An là một danh nho thời bấy giờ và đang làm
quan tại triều, thấy chính trị bại hoại, ông làm sớ xin
chém bảy người quyền thần. Vua không nghe, ông bỏ quan về
ở núi Chí Linh. Nhà Trần ngày càng suy yếu để rồi sau đó
mất ngôi vào tay Hồ quý Ly. Quan Trung thần Chu văn An
đã không may gặp một ông vua hôn quân bạo chúa là Trần
dụ Tông nên sự can gián không có kết quả. Nhưng tấm
lòng trung trinh với quê hương đất nước của quan trung thần
Chu van An vẫn là tấm gương sáng cho đời sau.
Sau này
đất nước trải qua thời Cộng sản mà thực chất là một
thứ triều đình phong kiến không hơn không kém. Ông tổ Cộng
sản Việt Nam là Hồ chí Minh đã dạy dỗ đảng viên
cán bộ “ Trung với Đảng, hiếu với dân. Nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng.” Trung với vua thời phong kiến được Hồ chí
Minh đổi lại thành “ trung với Đảng” . Đảng thực sự
đã đóng vai trò của một ông vua, Đảng biến thành một
triều đình phong kiến thời đại mà đảng viên có bổn phận
phải phục tùng và trung thành một cách mù quáng không điều
kiện.
Trong
những năm gần đây, dư luận người Việt trong và ngoài nước
hết sức phẫn uất trước sự kiện Đảng Cộng sản Việt
Nam với những tên lãnh đạo tài hèn, trí đoản như Lê khả
Phiêu, Lê đức Anh, Đỗ Mười, Trần đức Lương, Nông đức
Mạnh đã cam tâm bán những thước đất đẫm bao xương máu
của cha ông cho kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa. Đứng trước
việc làm sai trái và ngu xuẩn của bọn bán nước lãnh đạo
Đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam, đã có những thứ
“ trung thần “ như Trần bạch Đằng không lên tiếng nổi
một lời can gián Đảng về chuyện bán nước, dâng biển,
trái lại còn phụ họa vỗ tay cho chuyện làm bán nước
khốn nạn tày trời này.
Trong bài viết “ Đối thoại với ông Trần bạch Đằng về
ải Nam quan “ nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Khuê đã vạch
ra cái một mặt hèn hạ, khốn nạn của cựu bí thư thành
ủy Sài Gòn Trần bạch Đằng trong bài viết “ vuốt đuôi
“ Đảng của ông ta về chuyện bán nước tồi bại
khốn nạn của Đảng và nhà nước Cộng sản. Xin trích dẫn
nhiều đoạn chính trong bài viết của Trần Khuê như sau:
“ Hóa
ra là bài “ Ải Nam Quan và những kẻ “ đốt đền “ của
Trần bạch Đằng đăng trên báo Công An, TPHCM ngày 7- 9 –
2002. Sở dĩ có người nhầm, phần vì chưa đọc hoặc đọc
chưa kỹ bài tôi viết, phần vì lối chơi đòn phủ đầu
“ lập lờ đánh lận con đen “ của một cây bút đầy mình
kinh nghiệm ở đoạn mở bài :
“ Lẽ ra,
bạn đọc không cần bận tâm với những gì tôi sắp nói,
song gần đây, các nhóm chống Việt Nam lưu vong ở ngoài nước
hè nhau dùng đủ mọi phương tiện để loan truyền cái mà
chúng gọi là “ chính quyền Cộng sản Việt Nam dâng đất
cho Trung Cộng “, lấy cớ từ bài viết ngớ ngẩn của một
Trần Khuê nào đó có nội dung liên quan đến hội đàm và
thỏa thuận biên giới trên bộ và trên biển giữa hai nước.”
( Trích bài của Trần bạch Đằng)
Trần Khuê
nhận định về chuyện bán nước của Đảng Cộng sản Việt
Nam như sau :
“ Lý
do tồn tại của Đảng Cộng sản trên đất nước này là
để lãnh đạo nhân dân đứng dậy giành độc lập và tự
do. Nó không thể tồn tại để quan liêu, tham nhũng, ức hiếp
quần chúng hoặc tùy tiện ký nhượng đất đai sông biển
của Tổ Quốc. Việc Bộ Chính Trị Lê khả Phiêu ký hai hiệp
ước biên giới bất bình đẳng đã làm thiệt hại quyền
lợi chung của Dân tộc Việt Nam và làm hại uy tín thể diện
của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ký hai hiệp ước bất bình
đẳng này, vô tình hay hữu ý, những người lãnh đạo Đảng
Cộng sản Trung quốc đã đẩy người anh em đồng chí của
mình ra trước vành móng ngựa của Tòa Án Nhân Dân và Tòa
Án Lịch Sử. Một bên tự vạch áo cho thiên hạ thấy mình
là kẻ theo chủ nghĩa sô-vanh nước lớn, còn một bên trở
thành kẻ tội đồ bán nước.” ( Trích bài của Trần Khuê)
Rõ ràng,
tôi nói sai lầm và trách nhiệm của hai Bộ Chính Trị ( BCT)
chứ không nói về hai Đảng. BCT Lê khả Phiêu làm sai thì
nên đứng ra nhận tội trước Đảng và Nhân Dân, không nên
trút tội lỗi đó cho toàn Đảng hoặc cho Quốc hội. Tôi
tin rằng nếu dám đưa ra trưng cầu ý kiến toàn Đảng thì
tất cả những ai là đảng viên trung thực, liêm khiết và
có bản lĩnh cũng sẽ không bỏ phiếu thuận cho hai Hiệp định
phản bội dân tộc này. Tôi tin rằng nếu có đưa ra bàn công
khai tại Quốc Hội thì các đại biểu cũng không ai dám giơ
tay biểu quyết thông qua hai Hiệp định bán nước này.
Về kiến
thức lịch sử – địa lý, ông Trần bạch Đằng chê ông
TK-HN bảo Ải Nam Quan của Việt Nam tọa lạc trên lãnh thổ
Việt Nam là sai. Ông lập luận rằng:
“ Nếu Ải
Nam Quan là của Việt Nam thì cửa ải phải mang tên là “
Ải Bắc Quan “ ( cửa ải Bắc ) chứ sao cửa ải Việt Nam
lại ngó về phía Nam .”
Ông còn đưa thêm một lý lẽ của một tác giả cũng đang
sống ở hải ngoại ( Úc) để “ bảo lãnh “ cho lập luận
của mình thêm vững chắc :
“ Ông Hoàng
nguyên Nhuận đã dí dỏm “ chọc quê “ Trần Khuê : “ Nếu
Việt Nam quả có một cửa ải gọi là Nam Quan thì cửa ải
đó phải được đặt ở rừng U Minh”
Ông cũng chê
nhân dân ta từ xưa đến nay vẫn nhầm lẫn :
“ Từ trước
tới nay chúng ta thường nói: Nước Việt Nam dài từ ải Nam
Quan đến mũi Cà Mau. Câu này đương nhiên thiếu chính xác,
nhưng nhân dân ta đã quen dùng, dẫn đến một đinh ninh rằng
ải Nam Quan thuộc lãnh thổ Việt Nam” ( !?)
Thế là chỉ
có ông Hoàng nguyên Nhuận, ông Trần bạch Đằng và những
người ký Hiệp Định Biên Giới Việt Trung hiểu chính xác.
Còn tất cả mọi người từ xưa đến nay đều hiểu sai tuốt
tuột. Trong số hiểu sai này, có cả Ban soạn Hiến Pháp năm
1959, có nhà thơ Hoàng Cầm ( Ông Trần bạch Đằng có trích
dẫn thơ Hoàng Cầm ). Tất nhiên cả ông Tố Hữu cũng
nhầm khi bài thơ “ Ta di” nổi tiếng của ông được đưa
vào sách giáo khoa có câu:
“ Ta đi tới không thể gì chia cắt
Từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau “
Và cả
Cụ Hồ nữa ? Chẳng lẽ khi cụ nói, “ Như việc xây dựng
lại con đường sắt Hà Nội – Mục Nam Quan mà nhân dân Việt
Nam gọi là “ Con đường hòa bình, hữu nghị “ chính là
một thành tích rõ rệt nhất .” thì cụ cũng nhầm nốt chăng?
Không tin mời ông cứ xem lại báo Nhân Dân số 482 ngày 28-
6- 1955, hoặc tiện nhất là tra cứu ngay trong Hồ chí Minh toàn
tập , tập 8 , trang 8.
Tôi mạn phép hỏi hai ông Hoàng nguyên Nhuận và Trần bạch
Đằng, và hỏi luôn cả Ban Đàm phán về Hiệp ước Biên
giới Việt- Trung: Các ông hiểu Ải Nam Quan thuộc lãnh thổ
Trung Quốc là từ hồi nào? Hồi các ông còn học bậc Tiểu
học ? Hay sau khi Hiệp Định Biên giới Việt _ Trung được
ký kết , các ông mới đạt được sự hiểu “ chính xác
“ như thế ? Chính mình nhầm lại còn cứ cao giọng chê nhân
dân “ thiếu chính xác”.
Theo tôi, việc hai ông chê ông TK-HN hiểu Nam quan nằm trên
lãnh thổ Việt Nam là sai, thì hai ông có lý. Nhưng hai ông
và cả cái Ban đàm phán về biên giới lại hiểu rằng ải
Nam Quan ở trên lãnh thổ Trung Quốc thì rõ ràng cũng là hiểu
sai, hoàn toàn sai.
Muốn
biết chính xác ải Nam Quan tọa lạc ở đâu xin các ông vui
lòng giở lại sử nước ta và cẩn thận hơn thì nên giở
lại cả mấy trang sử Tàu có quan hệ đến sử Ta.
Nếu tôi không
nhầm, đến thời Hồ, Nam Quan vẫn được gọi tên là ải
Pha Lũy. Mãi đến khi giặc Minh lấy cớ phù Trần nhằm xâm
lược nước ta ( thế kỷ 15), Minh Thành Tổ mới đặt tên
cho ải Pha Lũy là Trấn Nam Quan để tỏ uy quyền và cả dã
tâm của họ : cửa ải đè nén phương Nam.
Như thế tức
là không thể đặt vấn đề “ Nam Quan “ hay “ Bắc Quan”
vì tên này do Tàu đặt chứ không phải ta. Cái nhầm của
hai ông có một phần lỗi của giới nho sĩ và những người
làm sử nước ta. Các cụ đã bỏ tên Pha Lũy rồi nói theo,
viết theo tàu nên Trấn Nam Quan thành tên thông dụng. Còn trên
thực tế cửa ải này không nằm trên đất Ta và cũng không
nằm trên đất Tàu.
Nam Quan nằm
trên làn ranh phân chia địa giới giữa VN và TQ
Bao đời
nay đã như thế và bây giờ lẽ ra vẫn phải như thế !
Lịch sử
đã chứng minh rằng : Các đạo quân xâm lược của Trung Quốc
đều đi qua cửa ải này khi thua trận, bị dân Nam ta đánh
đuổi cũng rút chạy qua cửa ải này. Rồi thời nào yên bình
giao hiếu thì cả đôi bên vẫn mặc nhiên thừa nhận ải
Pha Lũy – trấn Nam Quan là cái mốc phân ranh giới giữa Bắc
Quốc và Nam Bang.
Trấn Nam Vương
Thoát Hoan thì phải chui vào ống đồng cho quân sĩ kéo xe chạy
mới thoát qua ải Pha Lũy mà về nước.
Minh sử thì ghi
việc rút quân của Tổng binh Vương Thông qua Trấn Nam Quan.
Thanh sử thì ghi
Tổng đốc Tôn sĩ Nghị chạy từ Thăng Long mất 7 ngày 7 đêm
mới tới Nam Quan và qua ải mới dám dừng lại nghỉ ngơi
ăn uống..
...Đó là
sự kiện năm 1955 Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt
Nam do Chủ tịch Hồ chí Minh sang thăm nước XHCN anh em Trung
Quốc . Chủ tịch Mao trạch Đông đã thay mặt nhân dân Trung
Quốc xin lỗi nhân dân Việt Nam vì trong lịch sử, bọn phong
kiến Trung Quốc đã nhiều lần sang xâm lược Việt Nam. Chủ
tịch Mao cũng quyết định từ nay đổi tên Trấn Nam Quan (
cửa ải trấn áp phương Nam) thành Mục Nam Quan ( cửa ải
sống hòa thuận với phương Nam ). Từ đó chủ tịch Hồ chí
Minh cũng quyết định đổi tên cửa ải này thành Hữu Nghị
Quan.
Như vậy tức
là từ thời phong kiến cho đến thời XHCN thì Nam Quan vẫn
được hai nhà nước Việt Nam và Trung Quốc công nhận là
một cái mốc chính phân chia ranh giới Việt – Trung. Vừa
qua, thứ trưởng ngoại giao Lê công Phụng lại giải thích
trên truyền hình rằng vì cột mốc số 0 ở Mục Nam Quan bị
di chuyển nên khi đàm phán thì hai bên lại nhất trí để
Mục Nam Quan chạy tụt sang đất Trung Quốc 0.8 km.
Thế là ông
Lê công Phụng không hiểu rằng trong cuộc xung đột ở biên
giới Việt – Trung năm 1979, một số cột mốc biên giới
có thể bị chuyển dịch về phía này hay phía kia, nhưng còn
Nam Quan – cái mốc đặc biệt – thì chẳng bên nào có khả
năng chuyển dịch.
Do đó hiện nay
không bên nào có thể nói rằng cái cửa ải Nam Quan là nằm
trên lãnh thổ của nước mình. Nếu lại có sự thỏa
thuận rằng Nam Quan thuộc lãnh thổ Trung Quốc , thậm chí
lại đẩy vạch biên giới lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam
ở đoạn này tới 0.8 km thì hoàn toàn vô lý. Dù lập luận
kiểu nào cũng là trái với thực tế lịch sử và hiện tại,
những người có lương tri đều không thể chấp nhận.
Ông Hoàng
nguyên Nhuận không hiểu điều này. Ông Lê công Phụng vô
tình hay cố ý không hiểu điều này. Chẳng lẽ nhà nghiên
cứu Trần bạch Đằng cũng lại không hiểu điều này.
... Nói là
“ vừa ký “ nhưng thực tế cũng đã ký với nhau cách nay
đã 3 năm rồi. Vâng, chắc ông Trần bạch Đằng cũng biết,
riêng Hiệp ước Biên giới trên đất liền ký với nhau từ
ngày 30- 12- 1999 thế mà giữ bí mật tới ngày 30- 8- 2002 mới
đăng công khai trên nhật báo Nhân Dân. Và cũng chỉ đăng
văn bản chứ không đăng bản đồ kèm theo. Còn Hiệp ước
về biển thì đến này vẫn chưa công bố.
Thế nghĩa là thế
nào, thưa nhà nghiên cứu Trần bạch Đằng?
Ông cho rằng, sở
dĩ có, “ một số người, nếu không mang động cơ không
hay mà bực dọc chuyện khác – thiếu gì chuyện bực dọc
hàng ngày, đủ cấp số – hoặc nhẹ dạ, không nhiều lắm,
lặp lại luận điệu của Trần Khuê, thậm chí viết thành
kiến nghị gởi cho lãnh đạo nước ta, là do nguyên nhân:
Có lẽ
cơ quan thông tin của ta sơ sót khi không trình bày rõ trên
các phương tiện thông tin đại chúng về toàn bộ sự thật
chẳng phải bí mật quốc gia gì cả .”
Ô hay
! Một sự kiện quan trọng tày trời như sự kiện ký Hiệp
Định Biên giới Việt – Trung mà các cơ quan thông tin của
ta phải im như thóc mấy năm trời và cho đến hôm nay vẫn
còn được lệnh không được đăng những bài bình luận xung
quanh vấn đề này. Thế mà ông Trần bạch Đằng lại đổ
lỗi cho “ cơ quan thông tin” và đài báo của ta thì thiệt
tình ông đúng là “ người không thích đùa. “
Nếu hai Hiệp
định Biên giới quả thật không có điều gì mờ ám,
khuất tất, và theo ông Trần bạch Đằng cũng "chẳng
phải bí mật quốc gia gì cả “ thì tôi xin mạn phép hỏi:
Vì sao có sự giấu kín, không công khai đưa tin ngay, thậm
chí cũng không dám đưa ra Quốc hội để bàn bạc và biểu
quyết ?
Về điểm
này thì đúng là cả ông Trần bạch Đằng và BCT Lê khả
Phiêu đều thuộc dạng “ những người thích đùa “. Vâng,
sự thật chứng minh rằng các vị đang đùa cợt trên vận
mệnh quốc gia.
Vừa đùa, vừa
cao giọng “ chụp mũ “ kẻ này” động cơ không hay “,
mỉa mai kẻ khác “ nhẹ dạ”
Vừa đùa lại
vừa bạo tay,bạo gan bắt bớ quản chế người này, xử tù
người khác.
Đúng là “ chuyện
đùa “ có một không hai của thế kỷ, và độc nhất vô
nhị trong lịch sử dân tộc.
Dư luận ngạc
nhiên khi thấy vấn đề Hiệp ước Biên giới nghiêm trọng
như thế mà mấy ông sử gia tầm cỡ như Trần quốc Vượng,
Phan huy Lê, Đinh xuân Lâm, Hà văn Tấn, đều im lặng. Hăng
hái như ông Dương trung Quốc cũng im lặng. Mà trách các ông
làm gì thêm tội nghiệp. Ngay cả giáo sư anh hùng Trần văn
Giàu còn ngoảnh mặt làm ngơ, nói gì đến lớp sử gia đệ
tử gan nhỏ thiếu hẳn khí phách anh hùng. Nhà thơ sông Vị
có tái sinh chắc cũng đành lắc
đầu :
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo
Sử xanh phủ nhận sạch trơn rồi
Đúng
là đạo lý ông bá, kỷ cương phép nước đến hồi lộn
xộn, đảo điên. Lãnh thổ đất đai của tổ tiên từ ngàn
xưa để lại, binh hỏa bao phen, một tấc không hề suy suyển.
Thế mà giữa buổi yên bình lại để mất đi hàng ngàn cây
số vuông đất, hàng chục ngàn cây số vuông biển. Thật
là kỳ quái không tưởng tượng nổi !
... Ông Trần
bạch Đằng còn đưa ra lập luận “ chẳng ai cho không cái
gì “. Chẳng lẽ ông đã vội quên mấy trang sử triều Nguyễn.
Vua Tự Đức nhà Nguyễn “ cho “ luôn thực dân xâm lược
Pháp 6 tỉnh Nam Ký là đổi lại sự giữ yên ngai vàng của
dòng họ Nguyễn. Vậy mong ông hỏi giúp xem BCT Lê khả Phiêu
nhượng hẳn cho Trung Quốc hàng ngàn cây số vuông địa giới
và hải giới thì họ được đổi lại những gì ?
Trong
khi cả hai bên rêu rao 16 chữ, trong đó có 4 chữ “ láng giềng
hữu nghị “ chưa ráo mực thì người anh em phương Bắc đã
chơi trò bắn những loạt đạn thật ở Biển Đông. Ông bà
xưa đã dạy “ bán anh em xa, mua láng giềng gần “ . Giờ
đây, họ lại nỡ “bán “ cả láng giềng lẫn anh em, thử
hỏi nhà nghiên cứu Trần bạch Đằng có đoán được thâm
ý của họ không?
... Tôi tin
chắc rằng tất cả đồng bào Việt Nam yêu nước dù đang
sống trên quê hương hay hải ngoại đều không chấp nhận
một hận Nam Quan mới. Và những ai đã liều lĩnh tạo ra cái
hận mới này hẳn nhân dân sẽ dành cho họ một bản án lịch
sử tương xứng với tội trạng .”
Đọc xong bài trả lời trung thần trung với Đảng Trần bạch
Đằng của Trần Khuê, ta nhận thấy có mấy điểm như sau:
Dĩ nhiên là
một cán bộ Cộng sản cao cấp, Trần bạch Đằng biết Trần
Khuê là một người tranh đấu cho dân chủ đang sống ở Sài
Gòn nhưng trong bài viết của Trần bạch Đằng, ông ta cứ
vờ vịt nói đến một ông Trần Khuê ở hải ngoại. Có lẽ
Trần bạch Đằng sợ đụng chạm và đối chất với một
ông Trần Khuê ở quốc nội chăng? Chỉ một điều này thôi
cũng nói lên được cái hèn, cái gian của Trần bạch Đằng.
Trần
bạch Đằng giả vờ ngây thơ làm như ông ta không biết Ải
Nam Quan ở đâu. Dĩ nhiên là ông muốn chạy tội bán nước
của Đảng Cộng sản Việt Nam vì sau Hiệp định Biên Giới
thì Ải Nam Quan bị mất vào tay Trung Cộng .. Câu nói trong
những bài lịch sử địa lý dạy cho con em ngày xưa “ Nước
Việt Nam hình cong như chữ S, chạy dài từ Ải Nam Quan đến
mũi Cà Mau.” giờ đây Đảng Cộng sản cho sửa lại là nước
Việt Nam kéo dài từ Đồng Đăng đến mũi Cà Mau cho đúng
với hiện trạng bây giờ. Mấy năm trước đây tên tay sai
Cộng sản Tú Gàn ở hải ngoại cũng bày đặt ra chuyện kinh
tuyến vĩ tuyến để “ chứng minh” nước Việt Nam kéo dài
từ Đồng Đăng chứ không phải từ Ải Nam quan để bào chữa
tội ác bán Ải Nam Quan cho Tàu của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đứng trước tội ác bán nước của Đảng Cộng sản
Việt Nam, thứ trung thần tay sai như Trần bạch Đằng không
dám lên tiếng phản kháng tội ác tày trời của Đảng mà
lại còn lươn lẹo bao che, thật là vô liêm sỉ và khốn nạn
cùng cực. Đó là thứ trung thần “ trung với Đảng “ dù
Đảng làm bậy cũng cứ trung thành một cách ngu xuẩn, mù
quáng. Còn Hoàng nguyên Nhuận là một thứ tay sai Cộng sản
hải ngoại thì chuyện ông ta bênh vực chuyện bán nước của
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là chuyện dễ hiểu thôi. Đảng
đánh rắm thì trung thần và tay sai của Đảng ở hải ngoại
phải hít hà khen thơm rối rít ! Thật đáng kinh tởm cho bọn
mặt người dạ thú này. Chúng không còn có lương tâm của
một người Việt Nam yêu nước, chỉ biết đui mù ủng hộ
Đảng dù Đảng cam tâm bán nước cho kẻ thù truyền kiếp
Trung Hoa.
Đối
với Cộng sản Việt Nam, trung với Đảng có nghĩa là phải
trung thành và theo Đảng trong bất kỳ mọi hành động của
Đảng. Người Đảng viên không có được ý thức phân biệt
chuyện làm của Đảng có lợi hay có hại đối với quê hương
dân tộc. Đây là một loại trung thành mù quáng như con chó
trung thành với chủ một cách vô điều kiện. Hễ có lời
nói hay hành động di ngược lại chủ trương và dường lối
của Đảng thì bị coi là phản động, phản quốc.
Ở trong nước
Trần bạch Dằng chỉ còn biết trích dẫn lời lẽ bênh vực
Đảng của thứ tay sai Cộng sản hải ngoại như Hoàng nguyên
Nhuận chứ không còn biết trích dẫn tài liệu lịch sử nào
khác để làm sáng tỏ thêm vấn đề Đảng bán nước cho
Trung Cộng. Tần số vuốt ve nịnh bợ Đảng của thứ trung
thần đui mù trong nước như Trần bạch Đằng và thứ tay
sai Cộng sản hải ngoại Hoàng nguyên Nhuận đều giống nhau:
bênh vực cho tội ác bán nước của Đảng bằng mọi giá,
dù Đảng đang phạm tội ác tày trời với tổ quốc, nhân
dân.
Trần Khuê trách móc những sử gia tên tuổi của chế độ
như Trần văn Giàu, Trần quốc Vượng, Hà văn Tấn đã không
dám lên tiếng phản đối chuyện bán nước của Đảng. Thật
ra về vấn đề sử chuyên môn, họ hiểu rõ vấn đề nhưng
không dám lên tiếng phản đối sợ bị trù dập. Ngay cả
Trung tướng Trần Độ và Khai quốc công thần Đại tướng
Võ nguyên Giáp cũng không dám lên tiếng phê phán chuyện bán
nước tồi tệ của Đảng thì làm sao đám sử gia dám lên
tiếng ! Tìm kiếm một người trung thần quân tử dám ăn thẳng
nói thật quả thật là hiếm hoi như trăng sao đêm ba mươi
tết !
Rồi còn mấy
trăm đại biểu quốc hội vốn là những ông “ nghị gật
“ cũng im thin thít không hé lộ nổi một lời trước tội
ác bán nước của Đảng và nhà nước.. Thật ra mấy ông
“nghị gật”này vào Quốc hội thông qua trò hề “ Đảng
cử dân bầu” nên mấy ông chỉ có quyền vỗ tay nhất trí
ủng hộ Đảng chứ không dám phản kháng. Đặt vấn đề
với Đảng là bị coi là phản động và có nguy cơ bị trù
dập bôi bẩn.. Đó là không khí sinh hoạt chính trị hiện
nay ở Việt Nam,, Và hiện nay Quốc hội cũng đang chuẩn bị
một mùa bầu cử mới để kiếm những ông “ nghị gật”
mới làm tay sai cho Đảng.
Dĩ nhiên là một người nghiên cứu chính trị chuyên nghiệp,
Trần bạch Đằng biết rõ tội ác bán nước của Đảng.
Nhưng ông ta không lên tiếng phản đối vì sợ sẽ bị mất
bổng lộc mà Đảng đang dành cho ông. Ông đã a dua đồng
tình với chuyện bán nước bằng cách ngụy biện lịch sử
để chạy tội cho Đảng. Đảng đã đào tạo ra thứ trung
thần mê muội như Trần bạch Đằng, không có một trí tuệ
sáng suốt để nhận định vấn đề biên giới cũng như không
có một tấm lòng yêu mến đất nước quê hương, để từ
đó dẫn đến chuyện Trần bạch Đằng viết bài chạy tội
bán nước của Đảng là một tất yếu phải xảy ra.
Để trả lời cho chuyện Trần bạch Đằng hầu như không
biết gì về Ải Nam Quan, xin trích dẫn bài thơ “ Trấn Nam
Quan “ của Đại thi hào Nguyễn Du đã làm khi đại diện
cho triều đình Gia Long đi sứ sang Trung Quốc. Trên đường
đi sứ, cụ đã đi qua Ải Nam Quan nên làm bài thơ ghi lại
tình cảm và hoàn cảnh lịch sử của ải này.
TRẤN NAM QUAN
( 1)
Lý Trần cựu sự yểu
nam tầm
Tam bách niên lai trực
đáo câm ( kim) (2)
Lưỡng quốc bình phân
cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn
vạn sơn tâm
Địa thiên mỗi vị
truyền văn ngộ
Thiên cận tài tri giáng
trạch thâm ( 3)
Đế khuyết hồi đầu
bích vân biểu ( 4)
Quân thiều nhĩ bạn
hữu dư âm ( 5)
NGUYỄN DU
Trấn Nam Quan
Việc cũ thời Lý Trần
mờ mịt khó tin
Cửa ải này cho đến
nay đã trải ba trăm năm
Hai nước phân chia bằng
mặt lũy lẻ loi này
Một cửa ải hùng vĩ
trấn giữa lòng muôn vạn núi
Nơi hẻo lánh thường
nghe lời đồn sai
Ở gần trời mới biết
ơn mưa móc thấm sâu trên ban xuống
Quay đầu nhìn về cửa
khuyết ở ngoài mây biếc
Bên tai còn nghe văng
vẳng tiếng nhạc quân thiều.
( Băng Đình dịch
nghĩa )
Trấn Nam Quan
Lý Trần khó kiếm tích
xưa
Ải quan sừng sững
tuổi vừa ba trăm
Giới ranh phân cách
Bắc Nam
Một tòa hùng vĩ giữa
ngàn núi mây
Lời đồn thường vẫn
đơn sai
Gần trời mới hiểu
mưa này thấm sâu
Biếc mây cửa khuyết
quay đầu
Quân thiều còn vẳng
nhạc chầu quốc vương
( Băng Đình dịch
thơ )
Qua bài
thơ trên cụ Nguyễn Du đã nhắc nhở cho thấy Ải Nam Quan(
Trấn Nam Quan ) đã có 300 tuổi. Chỉ có thứ trung thần
ngu dốt của Đảng như Trần bạch Đằng, Lê công Phụng,
thứ việt kiều tay sai như Hoàng nguyên Nhuận, Tú Gàn mới
không biết đến di tích lịch sử biên giới này. Đối với
những tên việt gian vô liêm sỉ khốn nạn này, chúng sẵn
sàng xuyên tạc lịch sử để bênh vực cho tội ác bán nước
bỉ ổi của Đảng. Chúng không có cái trí tuệ của một
người thức giả cũng như lương tâm của một con người
yêu nước. Hành động dối trá của chúng đáng bị phỉ nhổ
và lên án thẳng tay. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự hào
là một Đảng chống ngoại xâm. Mỉa mai thay, đến bây giờ
mới thấy chúng là kẻ bán nước nhục nhã và thô bỉ nhất.
Đáng buồn là giờ này còn có những trung thần đui mù như
Trần bạch Đằng và Lê công Phụng tìm cách bào chữa tội
ác bán nước nhục nhã của Đảng một cách hèn hạ
bằng cách nói dối trá và vô lương tâm.
Một
trung thần thứ hai cũng hăng hái bênh vực Đảng là cựu Đại
sứ Nguyễn Trung. Trong những năm gần đây những nhà tranh
đấu yêu nước đều phấn đấu yêu cầu Đảng phải hủy
bỏ điều 4 hiến pháp, nghĩa là hủy bỏ độc quyền cai trị
để thành lập một chế độ đa đảng có sự tham dự của
nhiều đảng phái trong chuyện điều hành quốc gia đất nước.
Là một đại sứ sống nhiều năm ở nước ngoài, Nguyễn
Trung đã có cơ hội nhìn thấy những thể chế chính trị
dân chủ lành mạnh trong đó bộ máy nhà nước bao gồm nhiều
đảng phái khác nhau. Thế nhưng Nguyễn Trung vẫn cổ súy cho
chế độ độc đảng để “ vuốt đuôi” luận điệu chuyên
chính vô sản của Đảng.
Trong bài viết “ Làm gì để nâng năng lực lãnh đạo của
Đảng “ , Nguyễn Trung viết :
“ Tôi
đã nói và xin nhắc lại rõ ràng : đa nguyên đa đảng để
dẫn tới “ da cam da quýt “ với bao nhiêu hỗn loạn, làm
đổ vỡ nền kinh tế, đẩy đất nước vào thảm họa như
đã từng xảy ra ở một số nước, thì công dân đảng viên
Nguyễn Trung dứt khoát chống lại “
Thưa ông Nguyễn
Trung, xin ông nêu cụ thể nước nào có đa nguyên đa đảng
đưa đến sự hỗn loạn, làm đổ vỡ nền kinh tế hay ông
chỉ “ nói lấy được “ để bênh vực một cách vô duyên
cho Đảng Cộng sản của ông. Hãy nhìn những nước Cộng
sản còn lại trên thế giới như Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba
và Việt Nam vì đi theo chế độ độc đảng nên kinh tế khó
khăn triền miên, đời sống tinh thần tín ngưỡng của dân
chúng bị kiểm soát khắt khe tàn bạo. Tới giờ phút này
mà trung thần Nguyễn Trung còn cổ súy cho chuyện độc đảng
thì rõ ràng ông Trung là một con người không có trí mà cũng
chẳng có tâm, chỉ biết đui mù tung hê Đảng một cách lố
bịch và ngu xuẩn.
Nguyễn Trung phải biết rằng từ độc đảng sẽ sinh ra độc
quyền, độc tài, độc ác và tình cảnh kinh tế trì trệ,
giáo dục, đạo đức trên đà phá sản là do tệ nạn độc
đảng độc tài của Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra. Hô
hào chủ trương độc đảng, Nguyễn Trung đã chứng tỏ là
một trung thần tận tụy với Đảng, nhưng hành động ngu
xuẩn, trí tuệ trì trệ của Nguyễn Trung đã cản trở cho
bước tiến đi lên của đất nước và đây là một tội
lỗi của Nguyễn Trung đối với dân tộc. Nguyễn Trung trung
với Đảng để được Đảng ban ơn mưa móc, bổng lộc nhưng
Nguyễn Trung đã thực sự hại nước vì tiếp tục ủng hộ
Đảng cai trị độc tài đã trở thành một hòn đá tảng
đè nặng trên con đường phát triển đất nước.
Nói chung hai trung thần Trần bạch Đằng và Nguyễn Trung giờ
này còn tiếp tục bênh vực Đảng dù Đảng bán nước và
duy trì sự độc quyền cai trị tệ hại. Hai ông làm như thế
để “ vuốt đuôi” Đảng nhằm bảo đảm quyền lợi bổng
lộc của Đảng dành cho hai ông, nhưng luận điệu bênh vực
trái với lẽ phải và quy luật phát triển của thời đại
đã biến hai ông thành một thứ ngu trung đáng khinh bỉ và
nguyền rủa. Cho dù Đảng có nhiều thứ ngu trung như hai ông
hò hét bênh vực sự sai trái của Đảng thì Đảng cũng không
thể sống còn vì vận mệnh Đảng cũng phải đi theo quy luật
của thời đại. Mọi cố gắng bám víu quyền lực của Đảng
rồi cũng bị lịch sử đào thải vì những sai lầm về kinh
tế và chính trị không thể cứu vãn nổi.
Đối với
thứ trung thần trung với Đảng như Trần bạch Đằng và Nguyễn
Trung thì chúng nó chỉ biết trung thành tuyệt đối với mọi
chủ trương đường lối của Đảng, dù chủ trương bán nước
. Sự ủng hộ mù quáng của chúng dành cho Đảng sẽ không
làm cho Đảng mạnh thêm mà làm cho Đảng suy yếu vì làm những
chuyện phản quốc hại dân đáng nguyền rủa. Đáng lý ra
chúng phải phê phán những sai lầm của Đảng đối với
dân tộc để Đảng sửa sai hầu tránh phạm những lỗi lầm
nghiêm trọng đối với đất nước.Tiếc thay chúng chỉ có
lòng trung thành đui mù ngu xuẩn, không có sự tỉnh thức và
không đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết.
Xem ra
những trung thần thời phong kiến như Huyền Chương, Sử Ngư,
Chu văn An còn sáng suốt gấp trăm ngàn lần so với những
trung thần tệ hại thời Cộng sản như Trần bạch Đằng
và Nguyễn Trung.
Phải luôn
nhớ rằng trung là trung với quê hương đất nước chứ không
phải trung với một tập đoạn thống trị thối nát đang
ngày đêm tàn phá và hủy hoại quốc gia. Những trung thần
phong kiến ngày xưa cũng đã sáng suốt thấy rõ điều đó
nên đã can gián vua khi vua làm điều sai trái, lầm lỗi. Đáng
buồn khi thấy những trung thần thời Cộng sản vẫn tìm cách
bênh vực cho Đảng cầm quyền thi hành những chính sách bán
nước, hại dân mà không biết can đảm lên tiếng phê phán
Đảng.
Trung thần thời Cộng
sản quả xấu xa, tồi tệ, ngu dốt, đần độn, lưu manh rất
nhiều so với trung thần thời phong kiến.
Los Angeles, Một ngày tạnh ráo êm
đềm cuối đông giữa tháng 3 năm 2007
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email : [email protected]
( Muốn đọc tất cả những bài
viết của Trần viết Ðại Hưng, xinvào www.nsvietnam.com
rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái)
Chú thích:
-
Trấn Nam Quan: Tên một cửa ải ở
biên giới Việt-Trung từ tỉnh Lạng Sơn sang tỉnh Quảng tây.
Trấn Nam Quan có nghĩa là cửa ải trấn giữ phía Nam. Hiện
nay là Hữu Nghị Quan. Nguyễn Du đi qua của Nam Quan ngày 6 tháng
2 năm Quý Dậu ( 1813)
-
Kể từ đầu Lê đến bây giờ, tức
là từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, khoảng 300 năm
-
Thiên cận : Gần trời. Ý nói đến
cửa Nam Quan là gần với Trung Quốc. Trời đây là chỉ Hoàng
Ðế Trung Quốc.
-
Ðế khuyết: Cửa nhà vua. Ðây nói
về cung vua triều Nguyễn của nước ta ở Phú Xuân
-
Quân thiều: Khúc nhạc của nhà vua.
( Chú thích của Băng Ðình)
|