TÍNH
ÐỒNG NHẤT VỀ NGHỆ THUẬT VÀ SỰ KIỆN
CỦA
HOA ÐỊA NGỤC 1 VÀ HOA ÐỊA NGỤC 2
Khi tập thơ "Hoa địa ngục 1"
được tạp chí Văn Nghệ Tiền phong xuất bản dưới tên
" Bản chúc thư của một người Việt Nam ". Tác giả được
đề là " khuyết danh " vì khi bản copy của tập thơ được
trao lại cho Văn Nghệ Tiền Phong thì tên tác giả và tên tập
thơ được dấu kín vì lý do tế nhị ngoại giao và vì sự
an nguy của tác giả tập thơ. Tạp chí này đã cho in ở trang
sau tập thơ lời đánh giá như sau : đó là một tuyệt tác
thi ca, một tiếng lòng phẫn nộ, một thiên anh hùng ca bất
diệt nói lên sự bất khuất của dân tộc Việt Nam trước
bầy ác thú Cộng sản. Có đọc tập thơ này thì ai cũng đồng
ý với nhận định của tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong tập
thơ Hoa địa ngục 1 đúng là một tuyệt tác thi ca.
Năm 1995 tác giả Nguyễn chí
Thiện đặt chân đến đất Mỹ và nói cho mọi người biết
tập thơ có tên là Hoa Ðịa Ngục. Sau này nhà thơ Nguyễn
chí Thiện cho in tiếp một tập thơ lấy tên là Hoa địa ngục
2, coi như tiếp nối với tập thơ Hoa địa ngục 1 là tập
thơ được Văn Nghệ Tiền Phong in lần đầu tiên. Dù hai tập
thơ có cùng chung tác giả , nhưng có một số dư luận xầm
xì bôi bác cho rằng thơ trong tập Hoa địa ngục 2 kém xa so
với Hoa địa ngục 1. Liệu lời đánh giá này có chính xác
và công bằng hay không? Ðó là mục đích của bài viết này
nhằm phân tích và so sánh trình độ nghệ thuật và những
liên hệ và sự kiện để làm sáng tỏ mối liên hệ của
hai tập thơ một cách nghiêm chỉnh và công bằng.
Một trong những điểm tương
đồng đầu tiên là cả tập thơ Hoa địa ngục 1 và Hoa địa
ngục 2 đều có những bài thơ độc vận. Ðó là nét độc
đáo ở thơ Nguyễn chí Thiện mà người ta không tìm thấy
ở những nhà thơ khác.
Thử đọc vài bài độc vận
ở Hoa địa ngục 2 để nhìn thấy thể thơ độc vận độc
đáo này.
MỘT SỰ BẤT TÍN
Một sự bất tín, vạn sự
chẳng tin
Vạn sự bất tín, hỏi
ai tin ?
Ấy vậy mà lắm kẻ vẫn
tin
Tin tới u mê, cuồng tín
!
Do tin tức bốn phương bịt
kín
Do sự thực vào tù câm
nín
Do "tiếng đầu lòng đã
gọi Stalin " *
Do lũ bồi văn điên đảo
mẹ mìn
Do cái đầu tối đen như
hắc ín
Chứa chấp toàn Ðảng,
Bác, Mác, Lênin !
(1984 - Hoa địa ngục
2 trang 329)
*Thơ Tố Hữu .
ÐÔI CHÂN
Ðôi chân phù và tê
Năm nhiều, xương cốt ê
Nắng chiều vàng như nghệ
Loang lổ khắp sơn khê
Ðêm tối đen bốn bề
Bao người đi không về
Cuộc đời buồn như thể
Tiếng côn trùng lê thê
!
(1986- Hoa địa ngục 2 trang
355)
Riêng bài " Tài năng " dùng
toàn vần trắc " ực " nên còn gọi là " tử vận " .
TÀI NĂNG
Tài năng và đạo đức
Ðọa đày và uất ức
Ngu tối và bạo lực
Rông rỡ đà hết mức!
Óc tim ta hừng hực
Bao niềm mơ rạo rực
Muốn nói lên sự thực
Thân tường giam bốn bức
!
Thơ đầy, đầu đau nhức
Khó giữ, lòng buồn bực
Ðời tù ngày càng cực
Giá rét như nồng nực
Nước lã uống ừng ực
Cọng rau cũng háo hức
Làm sao giữ được sức
?
Gia đình không tin tức
Tháng năm như thách thức
Bao giờ thoát đáy vực
?
Câu hỏi đè lên ngực
Tất cả đen như mực
Thần chết luôn chõm chực
!
(1987- Hoa địa ngục 2 trang
366 )
Chúng ta có thể tìm thấy những
bài thơ độc vận trong tập thơ Hoa địa ngục 2 như sau :
Ta muốn hôn ( trang 361), Có những con trang 363), Một nơi giữa
( 260), Thần Hổ ( trang 349), Không về ( 257), Ða phần dân (
262), Vì ta là ( 263), Ðảng thì ( 272), Lông lá ( 271), Chúng
là ( 276), Trừ số nhỏ ( 279), Ðón xuân ( 282), Anh sững sờ
( 284), Cuộc sống nơi ( 301), Chỉ tin ( 302).. tử vận, toàn
vần trắc , Chân trong cùm ( 303), Vì máu người ( 303), Cuộc
chiến đấu ( 305), Tù ngục ( 311), Mắt kèm nhèm ( 313), Hành
hạ ( 318), Tổ quốc ( 319) 64 câu , Như đêm dài ( 332), Không
óc ( 333), Có tiếng còi tàu ( 334), Ta mơ ngày ( 337) 117 câu,
Cách mạng gì ( 342), Ðảng hèn hạ ( 344), Mặt trời ( 355),
Giả thừ ( 357), Lịch sử ( 357), Gió vi vu ( 370), Trời bao giờ
( 371), Thầy mẹ ( 374), Sao gần đây ( 395), Tù ăn chay ( 375),
Bát ngát ( 375), Tù ăn ( 376), Ðảng bất nhân ( 381), Vô phúc
( 382), Kẻ muốn đi xa ( 383), tử vận, Cuộc đời ( 385), Mây
trắng ( 389), Quan Vũ ( 394)
Tổng cộng tập 2 có tất
cả 47 bài thơ độc vận, không tính các bài 4 câu trong " Những
ghi chép vụn vặt ".
Hoa địa ngục 1 có những
bài tử vận và độc vận giống như Hoa địa ngục 2 vậy.
Xin trích dẫn vài bài để người đọc thấy rõ;
LÃNH TỤ
Lãnh tụ béo nục
Dân đen gầy rục !
Lao động hùng hục
Họp hành liên tục
Ðói ăn khắc phục
Kêu ca tống ngục !
Cộng sản đánh gục
Ðời mới hết nhục !
(1962- Hoa địa ngục 1 ( trang
93 ) tử vận )
TRÊN MẢNH ÐẤT
Trên mảnh đất Ðảng gieo
mầm tội lỗi
Trong lành cũng phải tanh
hôi
Trẻ con chưa nứt mắt đã
tù rồi
Bạo lực đi về rất vội
!
Chết trận chết tù, hỡi
ôi xã hội !
Biết bao là vợ góa con
côi
Bán thân rồi lại bán cả
mồ hôi
Mà đói rét vẫn quần sớm
tối
Mảnh đất chờ trông sám
hối
Thức giả tiêu sầu: chai
nước lã đun sôi !
(1964 – Hoa địa ngục 1 (
trang 114)
NẾU CÓ TRỜI
Nếu có trời, đời tôi phải
khác
Ðâu bị đói nghèo, tù
lao tan tác !
Vì tôi chưa làm việc gì
độc ác
Và luôn sống với tâm tình
chất phác
Dù toàn gặp điều bội
bạc
Và lòng buồn như đêm sa
mạc !
(1967- Hoa địa ngục 1 ( trang
145 ) tử vận )
Ngoài ra còn có những bài độc
vận trong Hoa địa ngục 1 như sau " Ðêm ngày nghe ( trang 123)
, Sao có thể sống ( trang 159), Ðêm rừng , một tiếng chim
( 161), Tôi nhớ căn phòng ( 168), Như mũi tên ( 187), Anh là một
( 189), Bước theo nỗi buồn ( 193), Thơ của tôi ( 195), Sương
xám ( 202), Mùa đông ập ( 203), Ðau đớn lắm ( 205), Từ tư
tưởng ( 206), Cuộc đời tôi ( 213), Ðất nước tôi ( 213),
Dù trời đêm ( 214), Biển đã ( 215), Khi Tồ Quốc ( 220), Từ
trẻ tới già ( 229), Mỉa mai thay ( 235), Miếng thịt lợn (
235), Cuộc cờ ( 237), Khi Mỹ chạy ( 238), Con người không thể
( 243), Con tầu cuộc sống ( 244).
Nói chung Hoa địa ngục 1 có
tất cả 27 bài độc vận, đó là không tính đến " những
ghi chép vụn vặt ". Những bài thơ độc vận rải rác trong
hoa địa ngục 1 và Hoa địa ngục 2 cho thấy có khuynh hướng
sử dụng nhiều đến thơ độc vận để bày tỏ cảm
xúc và tư tưởng của mình. Sự liên hệ mật thiết và gắn
bó này là một khẳng định cho thấy 2 tập thơ Hoa địa ngục
1 và 2 có cùng chung một người viết và nhà thơ đã tạo
ra được những bài thơ độc vận độc đáo thành công, ghi
dấu ấn sâu đậm trong tim óc người đọc.
Nhà thơ Nguyễn chí Thiện
làm thơ độc vận để chứng minh sự phong phú của tiếng
Việt. Tuy độc vận nhưng câu thơ nghe tự nhiên, không hề
thấy gò bó, khiên cưỡng. Nếu không để ý , nhiều khi người
đọc không biết là độc vận.
Hoa địa ngục 1 có 27 bài
độc vận, Hoa địa ngục 2 có 47 bài độc vận. Ðó là không
tính đến những bài thơ 4 câu trong " những ghi chép vụn
vặt ". Ðó là một đặc điểm của thơ Nguyễn chí Thiện.
Trong văn học Việt Nam cũng như Trung Quốc, Pháp, Anh , chưa
từng có một nhà thơ nào làm như vậy.
Ngoài chuyện thơ độc vận,
trong Hoa địa ngục 2 có tới 6 bài liên hệ về sự kiện
đến Hoa địa ngục 1.
Sau khi giao tập thơ Hoa địa
ngục 1 cho Sứ quán Anh vào năm 1979 và bị đưa đến giam ngay
vào xà – lim Hỏa lò, Nguyễn chí Thiện đã làm ngay 4 câu
:
Thêm mấy chục năm sống
nữa tích sự gì
Khi uổng phí cả đời thơ
tận tụy
Nay bước lao tù nếu ta
ngã quỵ
Thơ đã tung trời, băng
lưới thép bay đi !
(Hoa địa ngục 2 bài
trang 469)
Khi biết thơ mình đã được
in ra ở thế giới bên ngoài, thi sĩ Nguyễn chí Thiện vẫn
tiếp tục làm thơ. Trận thứ nhất đã thắng rồi, nhưng
trận thứ hai sẽ ra sao? Có thoát khỏi tù ngục, sống sót
không? Không quyết chắc được, nhà thơ chỉ còn biết trông
vào vận số.
Ta đã thắng hung tàn một
trận
Trận thứ hai thắng bại
khôn lường
Hơi đã tàn, râu tóc đã
pha sương
Ta lặng lẽ giao đời cho
số phận
(Bài 213 trang 468 Hoa địa nguc
2)
Nhà thơ vẫn lao tâm, khổ trí,
tiếp tục sáng tác , quyết sống, hy vọng Hoa địa ngục 2
sẽ chào đời. Nhưng phải trông vào Thượng Ðế vì tù lao
khắc nghiệt quá , khó sống sót !
Hoa địa ngục tập hai mà
xuất bản
Trận thứ hai ta lại thắng
hung tàn
Một niềm vui an ủi một
đời tan
Niềm vui này ta quyết sống
đợi trời ban !
(Bài 212 trang 468 Hoa địa ngục
2)
Ðảng chỉ nghi ngờ là làm
thơ, Nguyễn chí Thiện đã bị giam mười mấy năm, không xét
xử. Nay Hoa địa ngục 1 đã xuất bản , công khai và ngang
nhiên kết tội Ðảng, Bác, số phận nhà thơ sẽ ra sao ? Bài
thơ " Cộng sản " cho thấy tác giả đã lường trước
những hậu quả khi tập thơ Hoa địa ngục 1 xuất bản ở
thế giới tự do, chắc chắn nhà thơ sẽ bị trù dập , đày
đọa, tù ngục. Ở trong hoàn cảnh ấy , nhà thơ chỉ còn
biết trông mong vào trời để mong có ngày sống sót trở về
.
CỘNG SẢN
Cộng sản chỉ nghi ngờ
Loáng thoáng ta làm thơ
Chống chế độ man rợ
Tàn bạo và nhuốc nhơ
Nói lên niềm ước mơ
Cùng nỗi khổ vô bờ
Của dân lành héo rũ
Ðã mười mấy năm tù
Nơi rừng rú âm u
Không xét xử êm ru !
Nay công khai là thù
Ngang nhiên thẳng tay giáng
Vào mặt Bác và Ðảng
Một tát như trời giáng
Lật mặt trước địa cầu
Ðôi mắt Ðảng đỏ ngầu
Dưới đáy vực thảm sầu
Ta phen này chìm sâu
Nhưng cuộc đời biết đâu
Còn có trời trên đầu
!
(1980 – Hoa địa ngục 2 trang
270)
Bài thơ "Nhìn xuất cơm " ,
nhà thơ đã cực tả hình thức trả thù của Cộng sản dành
cho ông là cho ăn ít ỏi để sức lực ông suy tàn , cạn kiệt
và nhu thế là có thễ đi đến cái chết dễ dàng. Chúng hứa
Hoa địa ngục 2 sẽ được Diêm vương xuất bản và giun đất
đọc ngâm !
NHÌN XUẤT CƠM
Nhìn xuất cơm- cực hình tra
tấn
Vừa khổ đau, vừa căm
giận bừng bừng
Chúng đương xẻo của ta
từng miếng thịt
Hút của ta từng giọt máu
bi thương
Chúng cho ta ăn thua một
con mèo
Và khoái trá khi nhìn ta
xương da lủng củng
Ði đứng lờ đờ, xanh
bủng, mắt mờ run
Chúng bảo ta vẫn còn nghị
lực
Vẫn ngấm ngầm sáng tác
Tiếp tục ý đồ xấu xa
bôi xấu Ðảng
Lần thứ hai trước mắt
địa cầu
Chúng hứa bắt ta phải
quỵ gối, cúi đầu
Ngậm đắng nuốt sầu tới
ngày lấp lỗ
Mang theo thơ phú xuống mồ
Nhờ Diêm Vương xuất bản
Cho loài giun đất đọc
ngâm !
Ta không trả lời
Lấy mùi xoa lau qua vầng
trán
Vầng dương còn cháy đỏ
Dẫu hoàng hôn !
(1987 – Hoa địa ngục 2 ,
trang 362)
Sau khi biết được Hoa địa
ngục 1 được xuất bản ở hải ngoại, nhà thơ Nguyễn chí
Thiện coi như " một phần công việc đã làm xong ". Ðến lúc
này ông vẫn có khả năng làm thơ và coi đó như là một ân
sủng trời cho ! Bài thơ "Thoát khỏi nơi " đã nói lên điều
đó.
THOÁT KHỎI NƠI
Thoát khỏi nơi ngục tù Cộng
sản
Nơi đọa đày thê thảm
nhất trần gian
Hỏi ai không mong đợi ?
Không ít nhiều phấn khởi,
vui tươi ?
Riêng ta thầm câm nghĩ ngợi
Ðôi khi bật tiếng thở
dài
Ta không thể nào thoải
mái
Hớp rượu, hớp trà, nói
cười, hứng khởi
Khi mẹ cha ta trong đau đớn
đã lìa đời
Khi thơ ta chưa thoát được
ra ngoài
Ðe dọa rất nhiều mà tất
cả còn nguyên !
Ta làm sao tránh khỏi ưu
phiền
Không nghĩ ngợi !
Khi áo cơm cứ quanh quẩn
rối bời
Ta làm sao có sinh thú trên
đời
Khi mục đích cả đời
ta ước nguyện
Không phút nào quên nung
nấu triền miên
Trong óc tim ta ngày đêm
thúc giục !
Nay, nếu ta thoát vòng tù
ngục
Một phần công việc đã
làm xong
Ta có thể an lòng
Chén rượu, chén trà, thảnh
thơi
Bên những người thân thiết
Nhưng số phận của ta quả
là khắc nghiệt
Có lẽ Trời bắt ta phải
chịu nhiều rên xiết
Ðể cho ta có thể hoàn
thành công việc
Dùng thơ ca ngăn họa đỏ
lan tràn
Nên giữa xà – lim đen
tối lụi tàn
Thơ lại bùng lên, âm thầm
tỏa sáng
Khiến ta tự hỏi, bàng
hoàng :
Lửa thiêng đó từ đâu
mà tới ?
Từ trên thượng giới
Trời cho
(1988- Hoa địa ngục 2 trang
384)
Cả Hoa địa ngục 1 và 2 đều
lên án, luận tội chế độ Cộng sản, phi nhân, man rợ, dù
trong nhà tù nhỏ cũng như nhà tù lớn, đều toát lên một
niềm tin vào chính nghĩa sẽ thắng gian tà, nhân bản sẽ thắng
tàn bạo. Hoa địa ngục 1 và 2 là một giòng sông thơ cùng
phát nguyên từ đáy địa ngục Cộng sản.
Nếu có sự khác nhau thì đó
là về nghệ thuật .
Hoa địa ngục 1 có những
bài làm khi còn quá trẻ, còn mang nặng ảnh hưởng của thơ
mới, chưa có gì đặc sắc. Nhưng càng về sau, càng làm chủ
được ngòi bút, rũ bỏ được mọi ảnh hưởng, có được
bản sắc đặc biệt .
Ðỉnh cao của Hoa địa ngục
1 là bài trường thi Ðồng lấy dài hơn 500 câu, và những
bài như Cây, Núi, Anh gặp em, Sẽ có một ngày, Mẹ tôi, Tôi
chưa sống, Tôi khổ gấp trăm lần, Trái tim tôi. Mưa , Con
tàu rêu, Tôi là bạn của cô gái đĩ. Những bài trên đều
thuộc loại trữ tình. Hai bài " Thơ của tôi " và bài
" Nàng thơ " ( 1985ë- trang 343) là những tuyên ngôn về thơ
( 1970 , 1975 và 1985) khác hẳn những tuyên ngôn về thơ từ
xưa đến nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Xin trích
đăng ba bài thơ trên để thấy tuyên ngôn về thơ của Nguyễn
chí Thiện .
THƠ CỦA TÔI
Thơ của tôi không phải là
thơ
Mà là tiếng cuộc đời
nức nở
Tiếng cửa nhà giam ngòm
đen khép mở
Tiếng khò khè hai lá phổi
hang sơ
Tiếng đất vùi đổ xuống
lấp niềm mơ
Tiếng khai quật cuốc đào
lên nỗi nhớ
Tiếng răng lạnh đập vào
nhau khồ sở
Tiếng dạ dày đói lả
bóp bâng quơ
Tiếng tim buồn thoi thóp
đập bơ vơ
Tiếng bất lực trước
muôn vàn sụp lở
Toàn tiếng của cuộc đời
sống dở
Và chết thời cũng dở,
phải đâu thơ !
(1970 – Hoa địa ngục 1 trang
195)
THƠ CỦA TÔI
Thơ của tôi không có gì là
đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp,
máu ho lao
Thơ của tôi không có gì
cao
Như chết chóc, mồ hôi,
báng súng
Thơ của tôi là những gì
kinh khủng
Như Ðảng, Ðoàn, như Lãnh
tụ, như Trung ương
Thơ của tôi kém phần tưởng
tượng
Nó thật như tù, như đói
, như đau thương
Thơ của tôi chỉ đề đám
dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen
phường quỷ đỏ
(1975 – Hoa địa ngục 1 trang
240)
NÀNG THƠ
Nàng thơ của ta khát thèm rau
muống
Mộng bát cơm đấy quỷ
đói hay ma
Thiếu chất nhiều khi chân
đứng dậy là
Ðầu choáng, mắt hoa, tối
xầm gục xuống
Nên rượu thánh ta chưa
hề được uống
Câu thơ thần ta vẫn tạo
ra
Những vần thơ từ đau
khổ bao la
Trào ra, máu óc tim còn sủi
nóng !
(1985 – Hoa địa ngục 2 trang
343)
Cả hai tập thơ Hoa địa ngục
1 và 2 đều có những bài thơ mô tả hiện thực, cuộc sống
trong tù cũng như ngoài xã hội. Người đọc cảm nhận được
cái không khí chết chóc, tù hãm, tiêu diệt cả hồn lẫn
xác trong những bài thơ nầy.
Phải nhận rằng Hoa địa
ngục 2 không có bài nào bằng bài Trường thi Ðồng lầy,
nhưng ngòi bút trong Hoa địa ngục 2 già dặn, đều tay hơn
tập Hoa địa ngục 1. Hơi thơ trầm lắng hơn, nhưng sức bay
bổng không bằng hồi tuồi trẻ. Ðây cũng lả lẽ tự nhiên
thường tình!
Những bài thơ tuyệt
hay trong Hoa địa ngục 2 có thể kể ra đây là Nàng thơ (
trang 343), Có những con thuyền ( 363), Nhà thơ ơi ( 391), Ta nhớ
( 352), Trái tim hồng ( 348), Ngày tết ( 322), Hai bài về Trăng
( 346- 347). Những bài này thuộc loại thơ trữ tình. Còn những
bài thơ hiện thực với nhiều chi tiết cụ thể có thể kể
là : Tòa tuyên án ( 280), Chúng phải trói ( 258), Thần Hổ (
349), Tuyệt thực ( 300). Bài thơ Chắc chắn ( trang 337) tiên
đoán sự sụp đổ của Liên Xô.
Xin trích dẫn vài bài thơ
tuyệt hay của Hoa địa ngục 2. những bài thơ này hay không
kém bất cứ bài thơ nào hay nhất của Hoa địa ngục 1.
TRÁI TIM HỒNG
Ta có trái tim hồng
Không bao giờ ngừng đập
Căm giận, yêu thương tràn
ngập xót xa
Ta đương móc nó ra
Làm quà cho các bạn
Mấy chục năm rồi
Ta ngồi đây
Sa lầy trong khổ nạn
Như con tàu vượt trùng
dương mắc cạn
Mơ về sóng nước xa khơi
Khát biển, khát trời
Phơi thân xác trong mưa mòn,
nắng gỉ
Thân thế tàn theo thế kỷ
Sương buồn nhuộm sắc
hoàng hôn
Ký ức âm u vất vưởng
những âm hồn
Xót xa tiếc nuối
Ta vẫn chìm trôi trong dòng
sông đen tối
Lều bều rác rưởi tanh
hôi
Hư vô ơi cập bến tới
nơi rồi
Cõi bụi chờ mong chi nữa
!
Một trái tim hồng với
bao chan chứa
Ta đặt trên bờ dương
thế trước khi xa
(1986 Hoa địa ngục 2 trang
348)
CÓ NHỮNG CON THUYỀN
Có những con thuyền đầy ước
mơ vỡ đắm
Có những phương trời rỏ
máu mắt đăm đăm
Có dáng thân yêu trong đất
im nằm
Có hối tiếc trong tim này
ai oán lắm
Ðâu cả ngàn đêm mắt
không hề nhắm ?
Ðâu vạn bình minh lao ngục
tối tăm ?
Ðâu triệu nấm mồ chôn
triệu khối hờn căm ?
Câu giải đáp đen ngòm
như vực thẳm !
Bằng phong ơi, gió buồn
vạn dặm
Vầng trăng quê hoen máu
xa xăm
Tất cả tàn theo dấu tháng
năm
Cờ rũ giữa tâm hồn tôi
đã cắm !
(1987- Hoa địa ngục 2 , trang
363)
NHÀ THƠ ƠI
Nhà thơ ơi , phải biết
Giữ linh hồn luôn luôn
tinh khiết
Như đóa sen hồng thơm ngát
giữa tanh nhơ
Như vì sao trong đêm tối
hoang sơ
Thăm thẳm mịt mùng, lung
linh sương tuyết..
Nhà thơ còn phải biết
Sống trong cõi đời như
không bao giờ chết
Dẫu cơ hàn thảm thiết,
nguy nan
Dẫu xác thân bệnh hoạn
, teo tàn
Khí tiết vững bện hơn
thạch thiết
Giữa thời gian hủy diệt
trơ trơ
Có thế mới mong thả nổi
hồn thơ
Bay bổng tung hoành ngay trong
cũi sắt
Còn thoát xổng hay là lụi
tắt
Là việc của Trời, không
phải việc nhà thơ !
(1988- Hoa địa ngục 2, trang
391)
Cả hai tập thơ Hoa địa ngục
1 và Hoa địa ngục 2 đều có chung ba đặc tính : Bi, Hùng,
Hài. Ba đặc tính này đều có trong cuộc sống muôn màu ,
muôn vẻ của cuộc sống con người, đặc biệt là cuộc sống
và đời tù trong chế độ Cộng sản Việt Nam . Thử đọc
vài câu trong tập Hoa địa ngục 1 để thầy cái Bi pha lẫn
với Hài trong bốn câu thơ sau:
Mưởi mấy năm sống giữa
lao tù
Sống giữa buồng tim chế
độ
Tôi đã hiểu đến tận
cùng bể khổ
Mà trước kia Phật tổ
hiều lơ mơ
Bốn câu sau trong Hoa địa ngục
2 nói lên cái Bi pha lẫn với cái Hùng:
Căm giận, đau buồn, bất
lực, xót xa
Ta không có niềm vui nào
hết cả !
Thù nước, thù nhà, thù
bản thân chưa thể trả
Chiếc đinh bà đâm suốt
cuộc đời ta không thể rút ra!
(Số 228 trang 472)
Những câu sau cho thấy cái
Hài kết hợp với cái Hùng:
Hờn căm năm tháng nấu nung
sôi
Sôi mãi, cũng bốc hơi rồi
cạn
Phải sử dụng hờn căm,
ôi các bạn
Ðúng vào lúc nó sục sôi
!
(số 338 trang 497 – Hoa địa
ngục 2)
Còn có dư luận cho rằng thơ
trong Hoa địa ngục 1 quyết liệt, dũng mãnh khi đối
đầu với Cộng sản hơn thơ trong Hoa địa ngục 2. Nhận xét
này không đúng lắm. Ta thử đọc 4 câu trong Hoa địa ngục
2 để thấy sự bức xúc, quyết liệt của nhà thơ đối với
chế độ Cộng sản:
Ta ước được ôm bom nổ
giữa hội trường
Ðảng gian ác đang tưng
bừng đại hội
Cho đời tả tơi, thành
hơi, thành khói
Cho khối hận thù muôn vạn
mảnh tan tung !
(Hoa địa ngục 2 trang 478)
Bài " Cuộc chiến đấu " trong
Hoa địa ngục 2 nói lên quyết tâm tranh đấu đến cùng với
bọn Cộng sản độc ác, nguy hiểm:
CUỘC CHIẾN ÐẤU
Cuộc chiến đấu trong mấy
chục năm qua
Mang đầy tính chất bi ai
Mấy chục năm chỉ là thảm
hại
Nhưng anh dũng vô song, cực
kỳ vĩ đại
Lũ vô lại, vô thần thẳng
tay đầy ải
Danh dự lương tâm đòi
chúng ta chống lại
Dân tộc cơ hàn xiết rên
quằn quại
Rất mong chờ được thấy
ngày mai
Chế độ này quái vật
một không hai
Gieo rắc bao là đau đớn
họa tai
Quân Cộng sản quả là
nguy hại
Không thể để chính quyền
trong tay chúng mãi
Không thể để lũ giết
người ngự mãi trên ngai
Bằng giá nào cũng phải
cứu tương lai
Ðâu phải đơn thuần chuyện
nếm mật nằm gai
"Mười mất một còn" ,
tỷ số này sai !
Nhưng dù hy sinh thế
nào cũng không quản ngại
Non nước này mới thấy
được ngày mai
Non nước này trông đợi
những tài trai !
(1983 – Hoa địa nguc trang
305)
Ngoài những vần thơ rực lửa
đấu tranh nằm rải rác ở trong hai tập Hoa địa ngục 1 và
Hoa địa ngục 2, Thi sĩ Nguyễn chí Thiện còn dâng hiến cho
đời hai bài thơ tuyệt diệu về Trăng. Ðề tài Trăng trong
thi ca Việt Nam cũng đã có nhiều người làm nhưng làm những
vần thơ hay về Trăng quả thật lá vẫn hiếm hoi. Hai bài
thơ về Trăng trích dẫn dưới dây của Nguyễn chí Thiện
cho thấy ngôn ngữ thơ ông mượt mà, trong sáng, khêu gợi
lại được những kỷ niệm êm đềm của thời thanh xuân,
trẻ trung :
LÂU LẮM RỒI
Lâu lắm rồi, không được
thấy trăng
Xa vắng tường chừng quên
lãng
Nay chợt thấy, trời, trăng
đẹp lắm!
Lồng lộng giữa trời xanh
vàng thắm
Ta sững sờ kêu lên
Gõ tường gọi bạn xà
lim bên cùng ngắm
Trăng rất gần mà xa xôi
lắm
Mơ hồ mang ký ức xa xăm
Những vầng trăng ngây ngất
bao năm
Ta không được hưởng
Nhưng ai chẳng có một vầng
trăng
trong tâm tưởng
Ðể nhớ, để thương !
Ðời ta vắng bóng chị
Hằng
Ta thương nhớ thời "Ông
Giẳng Ông Giăng "
Bạn xà lim bên thở dài
im lặng
Chắc cũng đương mơ về
một vầng trăng chìm đắm
(1985- Hoa địa ngục 2 trang
346)
TA VẪN TIN
Ta vẫn tin vầng trăng có con
trâu, chú Cuội
Hay nói nhăng, nói cuội
chẵng ai nghe
Có cây đa, có cả chị
Hằng
Sống lạnh lẽo một mình
trong cung Quảng
Ta thường ngắm và ta thương
lắm !
Nên những đêm vàng ngọc
thỏ của ta ơi !
Ta vẫn mơ được ôm người
Như ngàn xưa say sưa Lý
Bạch
Bình vàng đó, có bao giờ
ta bỏ mặc
Ta thường mơ nâng chén
ngọc hỏi trời xanh:
Chú Cuội kia, trâu ăn lúa
sao mà
Ta nghe tiếng chú gọi cha
ời ợi
Chàng Hậu Nghệ có còn
giương cung bắn?
Ðường Minh Hoàng du Nguyệt
Ðiện đã về chưa ?
Và cành đa trên đó Tản
Ðà
Có được nhấc lên người
cười nhân thế ?
Những đèn kéo quân, đèn
xếp, đền lồng
Những thiền thừ xanh đỏ
Những mâm cỗ bày giữa
sân
thủa ta là em nhỏ
Còn nguyên như bao bóng dáng
thương !
Trăng vẫn sáng, không già,
năm tháng
Chị Hằng kia lạnh thế
vẫn mặn mà
Bánh nướng, hạt sen, trứng
mặn vẫn đậm đà
Trong ký ức, dù đầu ta
tóc đã
Trắng như màu bánh dẻo
xa xưa !
(1985- Hoa địa ngục 2 trang
346)
Nói về trăng, ca dao việt nam
có hai câu thơ bất hủ, tuyệt vời nói về ánh trăng vàng
giữa đồng ruộng thôn quê Việt Nam :
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng
đổ đi
Thi hào Nguyễn Du cũng có hai
câu thơ tuyệt hay nói về một vầng trăng diễm ảo chứng
kiến tâm trạng bâng khuâng của kiều khi chia tay với người
yêu Thúc Sinh
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
?
Nửa in gối chiếc nửa
soi dặm trường
(Kiều)
Thi sĩ Tản Ðà đã viết những
vần thơ ý nhị,hay ho về trăng như sau:
ÐÊM THU
Ðêm thu buồn lắm chị Hằng
ơi !
Trần thế nay em chán nửa
rồi
Cung quế đã ai ngồi đó
chửa ?
Cành đa xin chị nhấc lên
chơi ?
Có bầu, có bạn can chi
tủi
Cùng gió, cùng mây thế
mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng
tám
Tựa nhau trông xuống thế
gian cười
Nhà thơ Hàn mặc Tử cũng có
nhiều câu thơ nổi tiếng nói về trăng rất độc đáo , thể
hiện sự khao khát xác thịt bị dồn nén
BẼN LẼN
Trăng nằm sóng soãi trên cành
liễu
Ðợi gió đông về để
lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn
động
Lòng em hồi hộp chị Hằng
ơi !
Trong khóm vi-lau rào rạt
mãi
Trong lòng ai nói ? Sao im
đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần
truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới
đáy khe..
Vô tình để gió hôn lên
má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa
đêm.
Em sợ lang quân em biết
được
Nghi ngờ đến cái tiết
trinh em..
Rồi hai câu thơ trong bài "Ðây
thôn Vỹ Dạ " thể hiện tình yêu thiên nhiên trong ánh trăng
mơ màng, huyền ảo
Thuyền ai đậu bến trăng
sông ấy
Có chở trăng về kịp tối
nay
Bên cạnh những thi nhân nói
về trăng kể trên, Nguyễn chí Thiện đã đóng góp những
vần thơ tuyệt đẹp qua hai bài thơ về trăng trích dẫn ở
trên nói về ánh trăng mơ mộng, trong sáng vào trong vườn
thi ca Việt Nam làm cho ánh trăng thêm dịu dàng, huyền ảo
và ngời sáng mãi mãi.
Tóm lại Hoa địa ngục 1 và
Hoa địa ngục 2 có những tính đồng nhất về nghệ thuật
và sự kiện rõ ràng. Hoa địa ngục 1 có tính trẻ trung, trong
sáng, nhiệt tình, mạnh bạo của tuồi trẻ trong khi Hoa địa
ngục 2 có sự trầm lắng, sâu sắc, vững chải của một
tài thơ đã đến hồi chín chắn, điêu luyện. Mỗi tập đều
có mặt mạnh , mặt yếu khác nhau nhưng chúng đều mang một
văn phong, một thi tứ đặc thù của một người : đó là
nhà thơ Nguyễn chí Thiện. đọc cả hai tập thơ, người
đọc cảm nhận được tấm lòng tha thiết, sự cương quyết
đồi đầu Cộng sản, niếm tin tất thắng của lẽ phải
và chính nghĩa . Còn giữ được niềm tin và sự tất
thắng của cuộc đấu tranh khi đang còn ngụp lặn dười bùn
đen tù tội khắc nghiệt là một chuyện không dễ làm. Nguyễn
chí Thiện đã làm được điều đó và ông xứng đáng được
mọi người ngưỡng mộ như một chiến sĩ đấu tranh
cho tự do dân chủ không mệt mỏi . Từ lúc còn ở Việt Nam
, ông đã tuyên bố là sẽ " sống lâu hơn Ðảng Cộng sản
Việt Nam ". Những sự kiện long trời lở đất xảy ra trên
quê mẹ như chuyện biểu tình của dân oan, Hoàng Sa, Trường
Sa, vụ nổi dậy ờ Thái hà cho thấy lời tiên đoán của
Nguyễn chí Thiện có nhiều cơ may trở thành hiện thực để
tháo cũi , sổ lồng cho 80 triệu dân Việt Nam bất hạnh.
Hoa địa ngục 1 và 2 là một
tuyệt tác thi ca, một viên ngọc quý trong vườn thi ca Việt
Nam nói riêng và thế giới nói chung. Cả hai tập thơ đểu
lột trần tội ác man rợ của Cộng sản Việt nam cũng như
dự phóng đến diễn tiến cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ
một cách sáng tạo và chính xác . Vì thế những người Việt
Nam tranh đấu hôm nay, cho dù đang ở trong nước hay ở hải
ngoại, cần có trong tay 2 tập thơ Hoa địa ngục 1 và 2 làm
hành trang lên đường để cứu lấy quê hương,
Los Angeles, một đêm khô
lạnh giữa tháng 11 năm 2008
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
( Muốn đọc tất cả những
bài viết của Trần viết Ðại Hưng xin vào www.nsvietnam.com
rồi bấm tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái).
* Hai cuốn thơ Hoa địa ngục
1 và 2 được in thành một cuốn có tên là Hoa địa ngục
do Tổ Hợp Miền Dông xuất bản ( 2607 Military Rd, Arlington,
Va 22207 ..phone : 703—525- 4538) |