TÌM
HIỂU SỰ THẬT TRONG BÀI "HUYỀN THOẠI
HỒ
CHÍ MINH" CỦA LỮ PHƯƠNG
Lữ Phương là một trí thức miền
Nam, đã tốt nghiệp Đại học sư phạm trước năm 1975. Năm
Mậu Thân 1968, Lữ Phương vào bưng theo Việt Cộng. Cùng vào
bưng trong dịp này có thêm những trí thức miền Nam nổi tiếng
như Bác sĩ Dương quỳnh Hoa, nhà biên soạn tự điển Thanh
Nghị Hoàng trọng Quy v..v .Lữ Phương được cấp chức Thứ
trưởng trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Nguyễn hữu
Thọ trong thời gian hoạt động với Việt Cộng ( 1968-1975).
Sau 1975, ông bị thất sủng, không được giao chức vụ gì
và trở thành người nghiên cứu chủ nghĩa Mác và thỉnh thoảng
có trả lời phỏng vấn với phóng viên Đinh quang Anh Thái
ở hải ngoại. Năm 2002, ông cho xuất bản cuốn sách "Từ
Nguyễn ái Quốc đến Hồ chí Minh " . Lữ Phương hiện nay
sống ở Sài gòn
HUYỀN THOẠI HỒ CHÍ MINH
Hồ chí Minh là một nhân vật quan
trọng trong phong trào Cộng sản quốc tế và giải phóng dân
tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng Cộng sản Việt
Nam, tổ chức cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại các thế
lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống
nhất, tạo cơ sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi
là " chủ nghĩa xã hội hiện thực " ở Việt Nam. Đã có khá
nhiều ý kiến nhận định, đánh giá sự nghiệp của ông
theo nhiều quan điểm khác nhau trên thế giới. Nhưng ở Việt
Nam, trong chế độ Cộng sản, từ một nhân vật lịch sử
ông đã trở thành một nhân vật huyền thoại có tác dụng
huyễn hoặc rất đặc biệt.
Theo những người nghiên cứu về
Việt Nam, hiện tượng này có ba nguồn gốc : 1) Tự ông cố
ý tạo ra để lôi kéo quần chúng 2) Đảng Cộng sản đã
dày công làm cho ông thành một biểu tượng thờ phụng của
chế độ 3) Người Việt Nam hy vọng vào ông như một người
cứu độ, giúp họ thực hiện được những mong mỏi nghìn
đời của đất nước và bản thân.
Nếu huyền thoại Hồ chí Minh đã
cho Đảng Cộng sản uy tín hầu như quyết định để chiến
thắng trong chiến tranh, thì do những thất bại của Đảng
Cộng sản trong xây dựng hòa bình mà huyền thoại Hồ chí
Minh từ từ rạn vỡ trong nhân dân và cả trong Đảng. Một
cái nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân vật
lịch sử này.
VẼ RỒNG THẤY ĐẦU KHÔNG THẤY
ĐUÔI
Do phải giữ kín tung tích trong hoạt
động bí mật, lý lịch của Hồ chí Minh cũng là một bí
mật. Sau cách mạng 1945, nhiều người còn chưa biết ông là
ai. Nhiều đoạn đời của ông có một thời bị nhiều nhà
viết tiểu sử ông để trống ( như sau vụ thất bại của
Xô viết Nghệ tĩnh năm 1931, ông đi đâu không biết cho đến
năm 1941 mới xuất hiện lại và về nước ). Phần ông, ông
lại không chịu viết hồi ký hoặc chính thức công bố đầy
đủ lý lịch của mình. Nếu có viết thì ông lại không ký
tên thật. Với bút danh Trần dân Tiên trong " Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ chủ tịch ", hình ảnh mà ông
tự giới thiệu chỉ là một người cách mạng rày đây mai
đó, không có cuộc sống riêng tư. Nhưng đó cũng chính là
ý muốn của ông. Trong cuốn sách nhỏ này ông có khen ngợi
tài của người họa sĩ Trung hoa vẽ rồng và cho rằng vẽ
rồng giỏi là chỉ cho người xem trông thấy đầu còn đuôi
thì dùng những cụm mây che khuất đi. Thủ thuật ấy rõ ràng
ông đã sử dụng để tự họa. Cái cốt cách thanh thoát mờ
ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của
ông : với khuôn mặt xương xương, dáng người gầy, mới
50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều
so với một số lãnh tụ châu Á khác � như Mao trạch Đông
chẳng hạn.
Hình ảnh xuất hiện chính thức
của ông trước công chúng do vậy ngoài một lãnh tụ Cộng
sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết phương
Đông. Nhưng đối với ông, không phải chỉ có như vậy. Trong
thời chống Pháp, có một dạo, mấy chữ " cha già dân tộc
" đã được bộ máy tuyên truyền Việt Minh dùng để tôn
vinh ông khá ồn ào ( như một câu hát : " Thi đua thi đua cha
già nhắn tin về .." Thật sự thì hình ảnh này đã được
chính ông sử dụng để tự đề cao trong cuốn sách " Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch " do
chính ông viết " Nhân dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân
tộc, vì Hồ chủ tịch là người con trung thành nhất của
Tổ quốc Việt Nam "). Về sau có lẽ vì thấy hơi quá lố,
hình ảnh ấy không còn được nhắc lại, mấy chữ " Bác
Hồ " được thay vào và giữ mãi cho đến khi ông mất.
Trong tiếng Việt, chữ " bác " chỉ
vai người anh của cha, dùng để xưng với các cháu thiếu
nhi thì thích hợp. Nhưng sau này, nó lại trở thành phổ biến
để mọi người gọi theo. Theo nhiều người gần gũi ông
cho biết thì điều đó cũng do ông chỉ đạo : ai mới gặp
ông mà gọi ông bằng " anh" hoặc " đồng chí " thì bị ông
chỉnh ngay ( tôi nghe nói trong những người bị ông chỉnh
có Trần văn Giàu và nhà văn Nguyễn huy Tưởng ).
Cung cách ứng xử của ông thường
được coi như tấm gương để toàn Đảng, toàn dân học tập,
trong đó tác phong giản dị, cần kiệm, thân dân ( lo chuyện
tương cà mắm muối cho dân ) thường được đề cao nhiều
nhất. Năm 1968, sau khi vào chiến khu, suốt 7 năm ở R, năm
nào đến 19 tháng 5( người ta cho là sinh nhật của ông ),
trong các buổi lễ kỷ niệm tôi đều được nghe không biết
bao nhiêu lần những câu chuyện như vậy.
_ Chuyện đôi giép râu. Bác Hồ
đi giép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi giép đến
mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng
Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ mãi không được,
cậu đã phải lén lấy đôi giép ấy đi đổi. Khi phát hiện,
Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy
lại đôi giép cũ.
_ Chuyện lá giong gói bánh chưng
của dân Hà nội. Mỗi năm khi gần tết, mặc dầu " bận trăm
công ngàn việc ", Bác vẫn điện thoại hỏi đồng chí Trần
duy Hưng, bấy giờ là bí thư thành ủy Hà nội, xem có lo đủ
lá giong để gói bánh chưng cho dân chưa.
Còn nhiều chuyện khác có nội dung
tủn mủn, lẩm cẩm và " bao cấp " như vậy. Chưa kể đến
những bài nhạc, bài thơ � nơi không cần phải mô tả những
chi tiết � người ta đã tha hồ dùng sự bay bổng của phạm
trù mỹ học gọi là sự cao quý để đưa ông lên chín tầng
mây ! Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở
thành một ông tiên trong các truyện thiếu nhi, một nguồn
cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng ca, và hơn
nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh
nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta đã dựng bàn thờ ông ngay
giữa bùng binh Sài gòn, khói hương nghi ngút. Ngày nay nhiều
nơi vẫn còn giữ thói quen này, không phải chỉ với riêng
ông ( nhiều liệt sĩ Cộng sản đã thành thần trong các miễu,
các đền ).
CUỘC SỐNG RIÊNG TƯ
Chuyện tình ái, vợ con của ông
là điều được dư luận quan tâm, nhưng sách báo của Đảng
thường né tránh. Cả một đời vì nước vì non thì màng
chi đến những hệ lụy nhân gian ấy ! Nhưng điều này hoàn
toàn không đúng ngay cả đối với ông: có lần ông đã cho
rằng sai lầm lớn nhất đời ông là không lấy vợ ! Nói
chơi thôi nhưng thật sự trong thực tế, đã có nhiều chuyện
kể cho biết ông có rất nhiều nhân tình ở khắp nơi, từ
Pháp, Nga, Trung quốc..
Kim Hạnh lúc làm Tổng biên tập
báo Tuổi Trẻ, vì đăng ở trang nhất tin nói về bài thơ
của ông ( bí danh Lý Thụy khi từ Liên xô ông sang Trung quốc
khoảng 1925) gửi người vợ Tàu mà bị cách chức và đuổi
khỏi làng báo. Một nhà nghiên cứu Mỹ, khi truy tầm hồ sơ
mật của Đệ tam quốc tế lưu trữ tại Moscou sau khi Liên
xô sụp đổ, đã tìm thấy tài liệu cho biết khi đi dự một
Đại Hội Quốc Tế Cộng sản ở Nga, ông đã khai có vợ
và người ấy chính là đồng chí Nguyễn thị Minh Khai chứ
không phải ai khác !
Trong nước chuyện tình của ông
nhiều hơn và cũng nhiều tính chất bi thảm hơn. Dư luận
Hà nội râm ran từ lâu chuyện ông ăn ở với một cô tên
Xuân, cô này do mật vụ Trần quốc Hoàn đưa về để phục
vụ ông nhưng sau cho người giết đi để bịt tung tích, có
đứa con trai được Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông cứu thoát,
đem về nuôi. Gần đây nhân Đại hội 9 của Đảng ( tháng
4 năm 2001), các hãng thông tấn phương Tây đã nói đến khá
nhiều chuyện năm 1941, khi về nước, ông đã quan hệ với
một nữ cần vụ người dân tộc và sinh ra Nông đức Mạnh,
nay mới được bầu làm Tổng bí thư Đảng.
Những chuyện tình nói trên, hư
thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục, nhưng
xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan
trọng lắm : các lãnh tụ Cộng sản cũng là những con người,
vợ con này nọ đủ cả, một số lại rất hoang toàng trong
cái khoản mục này ! Giả sử Hồ chí Minh có như vậy đi
nữa thì công lao chống thực dân của ông chẳng hề bị suy
suyển. Nhưng do Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ muốn
dừng lại với cái công lao ấy mà còn vượt lên thời gian
tồn tại muôn năm, nên hình ảnh của Hồ chí Minh phải được
tô vẽ sao cho thật lý tưởng, thật phi thường.
Và đó cũng chính là chính sách
tạo thần tượng của guồng máy. Người ta có thể vẫn sống
một cuộc sống bình thường, nhưng khi Đảng cần thì cái
bình thường sẽ được thay vào bằng những việc làm, những
sự tích thần thánh. Anh là người có tính Đảng cao thì anh
phải biết tuân phục: cứ việc sống bình thường nhưng phải
biết cố gắng đóng cho tròn cái vở kịch được tạo ra
cho mình. Chỉ vì lợi ích cách mạng thôi. Càng có nhiều tấm
gương phi thường để những người bình thường noi gương
hy sinh thì sự nghiệp của Đảng mới huy hoàng: cờ Đảng
chẳng đỏ rực màu máu hay sao? Chính vì đã dựa trên cái
lý lẽ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng đó mà Đảng đã
tạo ra khá nhiều những truyền thuyết trong tất cả mọi
lãnh vực từ bộ đội, tình báo đến nhà báo, nhà sư.. Hồ
chí Minh cũng chỉ là một huyền thoại trong những huyền thoại
do Đảng tạo ra, nhưng là huyền thoại của những huyền thoại
cho nên phương pháp tạo dựng cũng phải hết sức đặc biệt
.
Không biết có khi nào suy ngẫm lại
những cái đã qua, ông cảm thấy những bất ổn trong những
vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ bên ngoài, nhiều
người đã thấy khá nhiều những bực bội, buồn phiền gây
ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng của ông. Có
nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra
rìa suốt trong quãng đời còn lại trước khi ông mất là
đáng chú ý nhất. Sau cải cách ruộng đất năm 1956 ở miền
Bắc, do nhập từ Trung quốc, quá thất đức và sai lầm, ông
đưa Võ nguyên Giáp, uy tín như cồn sau Điện Biên Phủ , ra
thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó định sẽ lên thế
chỗ Trường Chinh làm Tổng bí thư. Lúc bấy giờ ở Liên
xô, Krushchev đang thắng thế với đường lối hòa bình, trong
Đảng Việt Nam cũng có xu hướng ấy. Nhưng tình hình Việt
Nam lại không thuận lợi để phát triển. Do cường độ cuộc
chiến tranh ở miền Nam đã lên cao, đường lối quyết liệt
dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã
đưa cánh Lê Duẩn / Lê đức Thọ lên nắm quyền.
Về Võ nguyên Giáp thì kết quả
ai cũng nhìn thấy: bị quy là kẻ cầm đầu chủ nghĩa xét
lại và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi Lê
Duẩn chết mới thôi. Còn về Hồ chí Minh thì dường như
chẳng có gì, nhưng thật sự cũng đã chịu số phận chung
với tướng Giáp. Bên ngoài thì vẫn đi đây đi đó, chỉ
đạo việc này việc kia..nhưng bên trong đã dần dà bị cô
lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ tượng trưng, không
có ảnh hưởng gì lắm tới những quyết định lớn. Theo
một bài viết của Vũ Kỳ ( đăng trên một số báo Văn Nghệ
Xuân cách đây vài năm ), công lao của Hồ chí Minh trong cuộc
" Tổng tấn công và nổi dậy " 1968, vỏn vẹn chỉ có bài
thơ " Xuân này hơn hẳn mấy năm qua. Thắng lợi tin vui khắp
mọi nhà.." Sau khi ghi âm bài thơ này thì ông được đưa đi..nghỉ.
Vũ Kỳ thuật rằng ông Hồ chỉ biết ngày giờ cuộc " Tổng
tấn công và nổi dậy " nổ ra qua Đài phát thanh nghe được
ở nơi ông được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh � cùng với giọng
đọc của ông, ra rả suốt ngày về bài văn vần nói trên.
Nhiều người đã nói đến nhiều khuynh hướng đối nghịch
nhau trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời chiến tranh; nhưng
qua câu chuyện trên, ta thấy có hai xu hướng chính trong suốt
một thời gian dài : Lê Duẩn/ Lê đức Thọ đối đầu với
Hồ chí Minh/Võ nguyên Giáp.
Dù sao chế độ vẫn cần sự thiêng
liêng của ông để tạo ra sự thiêng liêng cho chính mình nên
cái chết của ông cũng đã được cánh Lê Duẩn / Lê đức
Thọ khi thác triệt để để " xài " một cách thoải mái.
Ngày chết của ông là 2/9 vì trùng với ngày quốc khánh nên
người ta dời lại ngày 3/9/1969. Trong di chúc cuối cùng, ông
muốn được hỏa táng và đem tro rải xuống biển hoặc chôn
vào một vùng đất nào đó, người ta lại bỏ không biết
bao nhiêu tiền bạc ra ướp xác và xây lăng nghìn đời cho
ông.
NHỮNG LỰA CHỌN CHÍNH TRỊ
Con người của Hồ chí Minh được
thần thánh hóa chỉ nhằm mục đích thần thánh hóa những
lựa chọn chính trị của ông cho Đảng Cộng sản. Những
chủ đề sau đây đã trở thành kinh điển trong các khóa giảng
dạy về tư tưởng của chế độ : Từ thuở ấu thơ, Hồ
chí Minh đã ưu tư về tình trạng nô lệ của dân tộc, vì
thế đã quyết định bỏ xứ ra đi tìm đường cứu nước;
chu du khắp thế giới để tìm hiểu và so sánh, cuối cùng
ông đã nhận ra chủ nghĩa Mác - Lênin thần kỳ, không những
giúp dân tộc giành được độc lập mà còn mở đường đi
vào cõi hạnh phúc muôn đời. Đảng Cộng sản Việt Nam là
lực lượng chính trị duy nhất thực hiện được cái tất
yếu ấy của lịch sử cho nên quyền lãnh đạo của Đảng
đối với dân tộc sẽ là vĩnh viễn và tuyệt đối.
Qua sự kiểm nghiệm của lịch sử
hơn nửa thế kỷ đã qua, người ta thấy những xác tín trên
đây nếu đúng một phần nhỏ thì sự cường điệu và phóng
đại lại là quá nhiều.
Thí dụ như việc tìm đường cứu
nước. Có lẽ không cần tranh luận về cái giả định khởi
đầu này: Hồ chí Minh là một trong rất nhiều những thanh
niên yêu nước lúc bấy giờ. Nhưng từ đó cho rằng vì yêu
nước mà ngay từ đầu đã có ý định phải ra nước ngoài
để tìm giải pháp cứu nước thì điều này không nhất định
phải là tất yếu. Một người Pháp nghiên cứu về Việt
Nam là D.Hémery có tìm ra được một tờ đơn của Hồ chí
Minh đề ngày 15-9-1911 ở Marseille � ký là Paul Tất Thành �
gửi chính phủ Pháp xin vào học trường Ecole coloniale ( một
loại trường tạo công chức cho các thuộc địa ) và đã
bị từ chối. Nhà sử học này cũng tìm ra một số thư của
ông � cũng ký là Paul Tất Thành � nhiều lần gửi về nước
nhờ Khâm sứ Trung kỳ hỏi thăm tin tức và chuyển tiền cho
cha. Từ những tài liệu này � Biên niên tiểu sử Hồ chí
Minh ( Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1993) có ghi lại phát hiện
của Hémery � người ta có thể bàn luận nhiều chuyện, nhưng
để đừng đi quá xa chúng ta chỉ cần ghi nhận điều hiển
nhiên sau đây : YÙ định " cứu nước " của Hồ chí Minh chưa
chắc đã có ngay từ lúc bỏ nước ra đi, ý định ấy có
thể đã đến sau những dự tính khác không thành ( thí dụ
không được chấp nhận vào học tại Ecole coloniale ). Giả
thiết này chẳng hề hạ thấp tình cảm yêu nước của ông,
nhưng tất nhiên, như vậy thì sẽ rất khó để tạo ra cái
chủ ý lý tưởng hóa cuộc đời ông từ nhỏ cho đến lớn.
Làm sao có thể cho là " lý tưởng " cái hiện tượng Hồ chí
Minh tự gọi mình là " Paul Tất Thành ", xin đi học làm công
chức cho chính quyền thực dân đồng thời nhờ cả chính
quyền thực dân ấy chuyển tiền từ nước ngoài về cho cha
!
Cái lập luận cho rằng sau khi đã
bôn ba khắp nơi để nghiên cứu tìm hiểu, từ đó thấy chủ
nghĩa Mác �Lênin tuyệt vời nên Hồ chí Minh mới chọn � lập
luận này cũng tỏ ra rất khó thuyết phục. Việc ông đi đây
đó trên thế giới không đủ để chứng minh được rằng
ông đã thâu đạt được tất cả những tinh hoa của nhân
loại như đã được những người xưng tụng ông giả định.
Khác với nhiều lãnh tụ châu Á khác, chẳng hạn như Tôn
dật Tiên
, Gandhi, ông không hề có ý định
đào sâu kiến thức của mình qua các trường Đại học. Thời
gian ông trở lại nước Pháp hơi lâu ( 1917-1923), nhưng công
việc của ông ở đây vẫn đi theo cái chiều hướng nghiêng
về phần thực hành, quan hệ tiếp xúc, viết báo, vận động..
Các sách ông đọc ở đây chỉ là những loại phổ thông,
không có gì chứng tỏ được chiều sâu cần thiết về tư
duy để nghiêm chỉnh tiếp thu chủ nghĩa Mác. Tôi đã viết
ra nhiều lần nhận xét này, nay không sợ lặp lại để nói
thêm một lần nữa.
Những nhà ý thức hệ Cộng sản
có thể rất tức giận vì nhận xét ấy, nhưng tiếc thay,
điều đó lại được chính Hồ chí Minh nói ra. Ai đã đọc
cuốn sách mang tên " Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ chủ tịch " do chính ông viết ( dưới bút danh Trần
dân Tiên) thì sẽ thấy ngay. Xin dẫn một vài đoạn ông kể
về Đại hội Tours cuối năm 1920 của Đảng Xã hội Pháp
:
" Người ta thảo luận rất sôi
nổi ( ..) .Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm,
vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những
câu : Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ
nghĩa xã hội, cách mạng, không tưởng, khoa học, Saint-Simon,
Fourrier, Marx, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương,
sản xuất, luận đề ..giải phóng�...chủ nghĩa tập thể..chủ
nghĩa Cộng sản, khách quan, chủ quan..v..v"
Không hiểu rõ lắm, nhưng đến
lúc biểu quyết, gia nhập Đệ tam hoặc ở lại Đệ nhị
Quốc tế thì ông vẫn bỏ phiếu cho Đệ tam Quốc tế .
" Rất ngạc nhiên, Rô-dơ, làm
tốc ký của Đại hội, hỏi ông Nguyễn :
" Đồng chí ! Bây giờ đồng
chí hiểu tại sao ở Pa-ri, chúng tôi đã bàn cãi nhiều như
thế rồi chứ ?"
_ Không, chưa thật hiểu đâu
_ Thế thì sao đồng chí lại
bỏ phiếu cho Đệ tam quốc tế ?
_ Rất đơn giản. Tôi không hiểu
chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và
nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều là Đệ tam
Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa.
Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức
giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị quốc
tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy
tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng
bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những
gì tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu. Đồng
chí đồng ý với tôi chứ ?"
Rô-dơ đồng ý, chị cười và nói,
" Đồng chí đã tiến boä."
Những đoạn trích dẫn trên đây
đã cho chúng ta biết mấy điều quan trọng như sau :
_ Hồ chí Minh chưa biết gì về
chủ nghĩa Mác với tư cách là một học thuyết triết học
� chính trị. Những khái niệm rất tầm thường trong báo chí
có khuynh hướng thiên tả như đấu tranh giai cấp, bóc lột,
sản xuất..ông còn chưa biết rõ, nói gì đến những tư biện
về lao động tha hóa, giá trị thặng dư, sứ mệnh giải phóng
của giai cấp vô sản ..?
_ Đối với chủ nghĩa Lênin ông
có biết đến nhưng lại rất hời hợt. Ông chưa đọc gì
về Lênin, ngoại trừ bài " Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa " đăng
trên tờ L�humanité vào tháng 7 năm 1920 trước Đại hội Tours
vài tháng. Có đọc nhưng thật sự ông cũng chẳng hiểu bao
nhiêu, ngay cả các khái niệm căn bản.
_ Ông chọn lựa đi theo Lênin hoàn
toàn chỉ vì, qua Đệ tam Quốc tế, Lênin hứa " giúp đỡ
các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập ".
Đó là một chọn lựa hoàn toàn cảm tính, vội vàng, phiến
diện : Chủ nghĩa Lênin là một học thuyết toàn diện về
cách mạng vô sản ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản
phát triển, trong đó vấn đề giải phóng các thuộc địa
chỉ là một bộ phận.
Với những thiếu sót trầm trọng
như vậy, làm sao có thể gọi được là nghiêm chỉnh đối
với thái độ chọn lựa nói trên của ông?
Tất nhiên không thể không xét đến
chuyện về sau, cùng với thời gian hoạt động, ông đã tiếp
cận lý luận cách mạng ngày càng nhiều hơn. Nhưng dù vậy
đi nữa thì cũng không vì thế mà coi sự lựa chọn ấy là
tuyệt đối đúng, phải trung thành để chuyển giao cho các
thế hệ mai sau. Có rất nhiều lý do :
_ Sau khi Lênin mất, " chủ nghĩa
Mác- Lênin đã dần dà bị Stalin hóa. Cách mạng vô sản ở
những nước tư bản phát triển thoái trào, " chủ nghĩa xã
hội " ở Liên xô thực chất là chủ nghĩa tư bản nhà nước,
chủ nghĩa vô sản quốc tế chỉ là cái bình phong bảo vệ
Liên xô và sự bành trướng của chủ nghĩa dân tộc xô viết.
_ Mục tiêu xây dựng một xã hội
mác-xít có nền kinh tế phát triển cho một xã hội công bằng
và tự do là hoàn toàn ảo tưởng. Các nước lấy Liên xô
làm mô hình đều dẫm chân trong lạc hậu nghèo nàn, còn thể
chế chính trị thì chỉ là sự nối dài của chế độ phong
kiến, độc tài. Là vũ khí hiệu nghiệm trong lật đổ và
cướp chính quyền nhưng bất lực trong phát triển.
Sự lựa chọn đường đi của Hồ
chí Minh cho Việt Nam vì vậy là chọn lựa bất toàn : Nó có
thể giành được độc lập cho dân tộc qua các hình thức
đấu tranh bạo lực, nhất là chiến tranh, nhưng đã thất
bại toàn diện xây dựng hòa bình. Không thể coi đó là "
cái cẩm nang thần kỳ " để đưa nhân dân đến cõi hạnh
phúc nghìn năm. Cũng không thể nói bừa rằng ta phải đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa vì " nhân dân ta đã chọn ".
Nhân dân ta chẳng biết gì về chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ
để chọn. Rất nhiều người chỉ đặt lòng tin vào Bác Hồ
nhưng sự lựa chọn của Bác Hồ lại chẳng có gì được
gọi là khuôn vàng thước ngọc cả.
Nhìn lại mọi việc đã xảy ra
một cách bình tâm, chúng ta thấy sự chọn lựa của Hồ chí
Minh đã bị quy định bởi cái tạng văn hóa sau đây của
ông:
_ Hồ chí Minh là một người rất
thực tế. Thúc đẩy bởi vấn đề bức xúc của đất nươc
là độc lập, ông nhận thấy sự hứa hẹn của Đệ Tam Quốc
tế là rõ rệt và rất triệt để, khác hẳn với những thế
lực khác ( Mỹ, Nhật ), nên đã chấp nhận. Đối với ông
chủ nghĩa Lênin thực tế lúc bấy giờ đồng nghĩa với giải
phóng dân tộc là vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam.
Cái tạng thực tế ấy sau này đã biểu hiện trong việc lãnh
đạo của ông đối với mọi công việc: Nói năng, hành động,
bao giờ cũng cố tránh những cái cao xa, trừu tượng.
_ Ông cũng lại là một người nhiều
tình cảm và lý tưởng. Đọc Lênin, thấy gãi đúng ưu tư
của mình, ông đã khóc lên vì vui sướng và tin ngay. Sau này
tìm hiểu thêm thấy chủ nghĩa Cộng sản hứa hẹn chấm dứt
những khốn khổ của những người lao động bị áp bức
ông càng tin hơn. Khát vọng độc lập cho dân tộc của ông
cũng gắn liền với mong mỏi đấu tranh cho một xã hội công
bằng, nhân đạo. Cũng chính vì vậy mà óc thực tế của
ông không trở thành óc thực dụng tầm thường. Ông chọn
Lênin không chỉ vì con đường giải phóng đất nước mà
còn vì nhu cầu có một người thầy, người cha tinh thần
theo kiểu phương Đông để thờ phụng, tôn kính.
Tất cả những thuộc tính trên
đây đều đã biểu hiện trong sự chọn lựa nói trên với
những ưu và những nhược điểm của nó. Những người thần
phục ông chỉ nói đến những cái ưu nhưng không hề dám
nói đến những cái nhược quan trọng của ông sau đây : 1)
Quá vội vàng, không suy xét can thận, cái trí không theo kịp
cái tâm 2) Trung thành mù quáng với sự chọn lựa ban đầu,
không học được tinh thần phản tỉnh để can đảm nhìn
lại toàn diện con đường đã đi.
Những cái ưu của ông đã bộc
lộ trong thời hoạt động bí mật, khi còn phải sống trong
dân và phải nhờ dân che chở. Tính chất trong sạch lý tưởng,
biết hy sinh vì nghĩa lớn của những người Cộng sản theo
con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên
truyền. Cũng nhờ thái độ ấy mà Đảng đã được đa số
nông dân ủng hộ, góp sinh mạng và tài sản cho cuộc tranh
đấu chung. Việc chiến thắng nhiều đế quốc hùng mạnh
đã từng đến thống trị Việt Nam không đơn thuần chỉ
là vấn đề thủ đoạn, chiến thuật. Trên nhiều mặt, Đảng
Cộng sản hơn hẳn những lực lượng chính trị yêu nước
khác. Trong thời kỳ bị lệ thuộc, người dân có nhìn vào
ông như kẻ " cứu độ " thì cũng có gì đáng ngạc nhiên.
Những nhược điểm của sự chọn
lựa của ông đã bộc lộ thật rõ rệt trong thời kỳ xây
dựng hòa bình. Đấu tố, cải cách: phá hoại đến tận nền
tảng đạo lý dân tộc. Hợp tác hóa: phản bội nông dân
về ruộng đất. Chỉnh huấn: bơm máu đen vào cơ thể Đảng.
Trấn áp, chà đạp trí thức văn nghệ sĩ : phản bội lời
hứa về tự do văn hóa. Khoác lác về cái gọi là " dân chủ
gấp triệu lần ", nhưng lại đè đầu cưỡi cổ nhân dân
một cách rất tự nhiên như những cường hào. Làm mất hoàn
toàn động lực về phát triển kinh tế qua chủ trương nhà
nước hóa toàn bộ sản xuất. Nói chung: giam hãm dân tộc
trong cái ao tù chuyên quyền độc đoán, lạc hậu nghèo nàn.
Những sai lầm trên đây không phải
là những " tồn tại " hoặc những " khuyết điểm " như Đảng
đã giải thích. Chúng nằm ngay trong sự chọn lựa của Hồ
chí Minh � hợp nhất quá vội vàng giữa hai vấn đề hoàn
toàn khác nhau về bản chất : giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội. Chân giép lốp mà đi vào vũ trụ. Một bên
là giép lốp, một bên là vũ trụ; với giép lốp thì không
thể đi vào vũ trụ được, nhưng ta cứ " thừa thắng xốc
tới " , vì vậy mà bao nhiêu điều tàn tệ đã xảy ra. Cái
ý thức hệ Mác-xít Lêninnít mà Hồ chí Minh ghép vào chủ
nghĩa dân tộc của ông ( " từ chủ nghĩa yêu nước đến
chủ nghĩa xã hội " ) đã bộc lộ hết thực chất không tưởng
và bất lực của nó. Trung thành mù quáng, căn cứ vào đó
buộc thực tế phải uốn theo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
biến sự lựa chọn của Hồ chí Minh thành vật cản đường
cho sự phản triển tự nhiên của đất nước.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Sự thất bại của mô hình Lêninní
t về phát triển cho những nước nghèo nàn, lạc hậu là quá
rõ ràng. Do sự thúc ép của hàng loạt những nhân tố trong
và ngoài nước, nhất là sự sụp đổ của Liên xô và Đông
âu, Đảng Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận điều chỉnh
đường đi, chuyển nền kinh tế " bao cấp, mệnh lệnh " sang
hẳn kinh tế thị trường, mở cửa làm ăn với thế giới
tư bản. Khái niệm, " tư tưởng Hồ chí Minh " đã ra đời
trong tình hình đó như một thích ứng.
Nhưng xét kỹ thì đây không phải
là sáng kiến hay ho gì lắm. Hồi Hồ chí Minh còn sống, ông
đã trả lời nhiều người rằng ông không có tư tưởng gì
cả. Nếu có một người xứng đáng ở Á châu này thì đó
chính là Mao trạch Đông ( chính vì vậy mà điều lệ Đảng
Đại hội 2 đã ghi : Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao trạch
Đông, phong cách Hồ chí Minh). Đối với ông, khi chọn chủ
nghĩa Lênin rồi, đó đã là tất cả, là cái " cẩm nang thần
kỳ" có thể giải quyết được mọi chuyện trên đời, chẳng
cần phải nhọc công tìm kiếm làm gì nữa. Nói do ông khiêm
tốn có lẽ chỉ một phần, chính yếu là do có óc thực tế,
ông biết rằng mình không thể nào nắm tóc mình để tự
đưa lên cao được. Gán cho ông điều ông không có và không
muốn có, những đệ tử của ông chỉ làm cái công việc
lợi dụng như họ đã từng bất chấp di chúc của ông khi
cho ướp xác và xây lăng cho ông.
Sự lợi dụng đó cũng không phải
là đắc sách lắm. Nó chẳng có tác dụng làm cho chủ nghĩa
Mác � Lênin được phát triển hay bổ sung thêm. Đó chỉ là
một bước lùi ý thức hệ đi cùng với bước lùi về kinh
tế, hoàn toàn chỉ có ý nghĩa thực dụng : Phải tìm cách
làm dịu đi những giáo điều đã bị thời gian chứng minh
là không tưởng, bất lực, sắt máu mà ai cũng biết như công
hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tập thể, đấu tranh
giai cấp, chuyên chính vô sản, quốc tế vô sản ..v..v. Và
trong khi né tránh bớt những khái niệm đã mất giá ấy thì
một số thuộc tính khác đã được nhấn mạnh hơn, ồn ào
hơn : Nào là yêu nước, truyền thống, độc lập, tự chủ,
nào là nhân ái, thân dân, hòa hợp .. toàn là những sản phẩm
phương Đông và nội địa mềm mại, dịu dàng không có gì
là ngoại lai, khắc nghiệt cả. Cái thủ đoạn thao tác lý
sự ở đây cũng quá rõ ràng : Trong hai thành phần được
Hồ chí Minh kết hợp lại trong sự chọn lựa của mình �
chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản � thì thành
phần thứ nhất đã được đưa lên hàng chính diện để
làm lu mờ bớt thành phần thứ hai đi.
Những người có ý hướng cải
cách trong Đảng đã nhận ra thủ đoạn này. Họ chỉ ra được
cái mưu tính thực sự của những nhà ý thức hệ chính thống:
Miệng nói Hồ chí Minh nhưng hành động vẫn không khác gì
Stalin và Mao trạch Đông, nghĩa là vẫn chuyên chế, khắc nghiệt,
giả dối, xảo quyệt. Sự chỉ trích không phải là vô căn
cứ. Đảng chỉ dùng Hồ chí Minh như cái bung xung chứ chẳng
có thật lòng gì cả. Theo những người cải cách thì thật
lòng là phải thay đổi triệt để phương thức lãnh đạo
của Đảng : Phải từ bỏ đường lối nửa vời, khập khiễng,
từ bỏ hẳn chuyên chính vô sản và thực hiện dân chủ cho
tương xứng với chính sách mở cửa và kinh tế thị trường.
Chỉ với đường lối cải cách triệt để ấy, Đảng mới
tạo ra những điều kiện tích cực để khắc phục những
ruỗng nát nội tại, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh
chóng. Cũng theo những người cải cách thì sự thay đổi ấy
không nằm ở đâu khác ngoài tư tưởng Hồ chí Minh đích
thực. Trong hình dung của họ, thực chất của Hồ chí Minh
là phi-Stalin và phi-Mao- một Hồ chí Minh nhân đạo dân chủ
!
Dù cho có ủng hộ cải cách, chúng
ta thật khó lòng mà tìm được sự khách quan trong cách lập
luận trên đây : Nếu Hồ chí Minh đối với những nhà ý
thức hệ chính thống chỉ là một hình ảnh giả thì đối
với những người cải cách, Hồ chí Minh cũng không thật
là bao nhiêu. Sự khác nhau giữa hai quan điểm chỉ là sự
khác nhau về cách khai thác hai khía cạnh trong sự chọn lựa
của Hồ chí Minh : Một bên nghiêng về phần quốc tế và
vô sản, một bên lại nghiêng về phần quốc nội và dân
tộc; một bên nghiêng về phần " chuyên chính vô sản " thì
bên kia lại muốn loại bỏ nó. Cả hai đều làm biến dạng
đi một Hồ chí Minh đích thực : Một người Việt Nam yêu
nước, nhưng cũng là một người Việt Nam yêu nước theo phương
thức của Lênin, một người đã có đem lại cho đất nước
sự tự chủ va thống nhất nhưng cũng lại là một người
đã cho du nhập vào đất nước một học thuyết ngoại lai
mà tác hại của nó còn kéo dài cho đến ngày nay chưa gỡ
bỏ được.
Có thể cho rằng lập luận của
những người cải cách chỉ là một cách trình bày mang tính
chất kỹ thuật tranh đấu trong hoàn cảnh không có tự do
tư tưởng, và nếu như vậy thì có lẽ sẽ không cần bàn
luận thêm. Nhưng nếu trong chúng ta có ai thành thật tin rằng
với chủ trương ấy, đất nước sẽ bước vào được một
chế độ dân chủ hiểu theo nghĩa hiện đại thì chắc chắn
sẽ có không ít người lên tiếng bày tỏ sự nghi ngờ: Giả
sử như có gạt đi hết tất cả những phần ngoại lai, ảo
tưởng của Hồ chí Minh về con đường tiến lên " chủ nghĩa
xã hội " theo kiểu Lênin, thì Hồ chí Minh vẫn không thể
là ngọn cờ dân chủ được.
YÙ kiến này thật đáng suy nghĩ.
Mặc dù Hồ chí Minh có nói nhiều đến dân chủ, nhưng quan
niệm của ông vẫn rất xa lạ với cái nội dung mà Thời
Hiện Đại đã sản sinh ra nó, đặc biệt là cái tính chất
giao ước trần tục của sự phân chia và kiểm soát quyền
lực, căn cứ vào đó tổ chức và quản lý đời sống công
cộng. Ông không biết gì đến tính chất độc lập của xã
hội công dân đối với nhà nước, và ông cũng không hiểu
tính chất quyết định làm nên nhà nước hiện đại là nhà
nước phi thiên mệnh, nhà nước sinh ra từ pháp luật và tồn
tại bằng pháp luật. Quan niệm của ông về mối tương quan
giữa nhà nước và nhân dân vẫn là quan niệm của Nho giáo
lý tưởng; cái loại nhân dân mà ông yêu mến vẫn chỉ là
loại " xích tử " cần phải được dạy dỗ về luật trời
và phép nước, đồng thời lại phải biết lo cho họ về
những chuyện " tương cà mắm muối " để sống trong yên ổn;
còn nhà nước theo quan niệm của ông vẫn chỉ là thứ nhà
nước của những người hiền, những bậc minh quân kiểu
vua Nghiêu, vua Thuấn đời xưa. Những gì ông nói về " pháp
chế xã hội chủ nghĩa " hoặc " cán bộ là đầy tớ của
nhân dân" cũng đều dựa trên cơ sở ấy. Chúng chỉ là những
ý định tốt của những đấng, những bậc bề trên.
Sở dĩ ông chọn chủ nghĩa Lênin
một cách vội vã và vô điều kiện như ta đã biết có lẽ
là do ông đã trực giác được tính chất " bên trên " của
cách mạng vô sản Lêninnít trong việc làm lại nước Nga với
những tàn dư nặng nề của thời trung cổ. Là người dân
chủ, hiểu rõ học thuyết Mác, nhưng tình thế đã buộc Lênin
làm ngược lại tất cả những gì mà Mác đã hình dung ra
cho xã hội tương lai: Thay vì để cho giai cấp vô sản tự
mình trở thành nhà nước như trong Công xã Paris 1871 thì nhà
nước Xô viết lại phải đảm đương công việc giáo dục
và tổ chức lại cái giai cấp vô sản đã tan tác và mất
hết tính chất tiền phong sau cách mạng và nội chiến. Dự
định khởi đầu là một lãnh tụ vô sản vượt xa nền dân
chủ tư sản " hàng triệu lần ", cuối cùng, Lênin thừa nhận
đã phải theo gương của một ông vua của thế kỷ 18 � Pierre
Đại Đế � công khai dùng độc tài để chống lại dã man,
lạc hậu.
Cảm nhận của Lênin về sự không
ăn khớp giữa chủ nghĩa Mác hậu hiện đại và nước Nga
tiền hiện đại, Hồ chí Minh hoàn toàn không hề biết đến,
ông chỉ thấy trong những hành động độc tài của Lênin
trách nhiệm tự nhiên của những minh quân thời trước, nay
được hiện đại hóa qua khái niệm chuyên chính vô sản của
Đảng Cộng sản : Đó là một nền chuyên chế nhân đức
và cách mạng, một nền chuyên chính vì nhân dân chứ không
phải là cái gì khác. Cái lô-gích của vấn đề ở đây vẫn
là cái lòng tốt từ trên ban xuống. Muốn được giải phóng,
muốn có quyền lực, nhân dân phải hết lòng đi theo Đảng.
Đại biểu cho quyền lợi lâu dài của nhân dân nên Đảng
được phép làm tất cả để tạo dựng nên cuộc đời mới
cho họ. Sự chuyên chính của Đảng là sự chuyên chính của
đám đông, của chính nghĩa, của khoa học, của chân lý, của
cách mạng. Vì vậy phải tập trung quyền lực vào Đảng một
cách tuyệt đối và vĩnh viễn, không chia với bất cứ ai,
không nhân nhượng với ai một mẩu xác tín nào về chân lý,
ai có ý đi ngược lại thì chỉ là những lý lẽ của bọn
thù địch với nhân dân, cần phải thẳng tay trừng trị.
Với một quan niệm về quyền lực
sắt thép như vậy, Lênin đã dọn đường cho Stalin vắt cạn
sức lực của người dân để nhanh chóng đưa nước Nga vào
con đường công nghiệp hóa, còn Hồ chí Minh cùng với Đảng
Cộng sản đã tích tụ được những hy sinh vô hạn của nhân
dân để đánh bại nhiều thế lực xâm lược hung hãn, giành
lại độc lập thống nhất cho Việt Nam. Nhưng còn về dân
chủ, cùng với bao nhiêu thứ khác nữa mà các Đảng Cộng
sản đã hứa sẽ đem lại cho nhân dân trước đây, như bình
đẳng, tự do, hạnh phúc vv.v. Tất cả đều vẫn chỉ là
những lời hứa, và tệ hơn nữa, về sau này đã biến thành
những lời dối trá đơn thuần. " Chuyên chính vô sản " ,
"Chuyên chính nhân dân " bây giờ đã trở thành chuyên chính
với giai cấp vô sản, chuyên chính với nhân dân. Hiện tượng
suy thoái này, vào cuối đời mình, Lênin đã mơ hồ nhận
ra như một bi kịch, nhưng ở Hồ chí Minh, mọi việc dường
như đã êm xuôi như ván đã đóng thuyền, cứ thế lướt
sóng mà đi, từ bây giờ cho đến cả muôn đời con cháu mai
sau!
BÀI HỌC CỦA NGƯỜI ANH HÙNG
Gần một thế kỷ đã qua, cùng
với những biến chuyển lớn lao trên thế giới và đất nước,
hình ảnh Hồ chí Minh đối với dân tộc Việt Nam đã không
còn như xưa nữa. Tính chất lý tưởng, cao vời mà Đảng
Cộng sản đã cố sức tô vẽ cho một Hồ chí Minh thần thánh
đã không chống đỡ nổi cho những sự việc tầm thường,
sai lầm của một Hồ chí Minh thực tế nên càng cố thần
thánh hóa ông bao nhiêu lại càng gây ra tác dụng ngược đời
lại bấy nhiêu. Thỏa đáng nhất là nhìn ông với những gì
ông có, một cách hiện thực.
Mặc dù tên tuổi của Hồ chí Minh
gắn liền với những gì làm nên cái gọi là " Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam " ngày nay, thiết nghĩ không nên đồng
hóa tên ông với toàn bộ chế độ. Thế giới đã có những
kinh nghiệm tương tự. K.Marx không phải là không có liên quan
đến cái thực thể gọi là " chủ nghĩa xã hội " ở Liên
xô, nhưng đổ mọi sai lầm của Liên xô lên đầu K. Marx là
hoàn toàn không đúng. Mối quan hệ giữa Lênin và Stalin cũng
có những điểm cần phân tích theo chiều hướng đó. Trường
hợp Hồ chí Minh đối với chế độ chính trị hiện tại
ở Việt Nam có đặc biệt hơn nhưng cũng cần biết rằng
hình ảnh của ông đã bị chế độ tô vẽ bằng mọi cách
để huyễn hoặc quần chúng.
Cũng đừng quên rằng những gì
làm nên đặc trưng của Hồ chí Minh là vai trò của ông trong
thời kỳ chống ngoại xâm, một giai đoạn lịch sử rất
đặc biệt của thế kỷ 20, giai đoạn mà việc đấu tranh
giành độc lập không thể tách rời việc chọn lựa một
ý thức hệ. Cần chú ý ghi nhận đặc biệt này : Trong khi
vấn đề độc lập là quá rõ ràng về ý nghĩa thì vấn đề
ý thức hệ trong thời hiện đại lại chứa đầy cạm bẫy
và phức tạp. Những cái hay cái dở không phải lúc nào cũng
hiển hiện ngay từ đầu. Những gì tạm thời chưa được
chấp nhận chưa hẳn đã sai, những gì mang đến thắng lợi
chưa hẳn đã đúng. Hơn nữa sự sai/đúng cũng không phải
lúc nào cũng như nhau: đúng lúc này có thể sai lúc khác; xem
tất cả sự sai/đúng một cách trừu tượng, bất dịch rồi
căn cứ vào đó để tâng bốc quá trớn hoặc kết án nghiệt
ngã � một lần là xong � là quá đơn giản. Thái độ ấy không
thích hợp cho những tiếp cận khách quan về lịch sử.
Nhìn tổng thể về thế kỷ 20,
tôi cho rằng Hồ chí Minh là một anh hùng lớn của Việt Nam
trong thời kỳ chống các thế lực thực dân. Những gì mà
thế giới biết đến Việt Nam một cách tích cực cho đến
nay vẫn là sự kiện Hồ chí Minh đánh bại các thế lực
xâm lược hiện đại, giành được độc lập cho dân tộc.
Thiết tưởng dù chính kiến và tình cảm có khác nhau như
thế nào đi nữa, người ta không thể phủ nhận được tính
chất hiển nhiên của các sự kiện ấy. Có thể với nhiều
người ở những nơi nào đó, cái chuyện đánh nhau giành độc
lập ấy thật sự chẳng có gì quan trọng lắm đối với
cuộc sống, nhưng đối với đông đảo những người Việt
Nam, tư xưa cho đến nay, điều đó lại là một trong nhiều
lý do để sống, không thể coi như không có.
Thời trai trẻ, tôi quý trọng Hồ
chí Minh là do ông đã tô đậm cái tình cảm tự nhiên đó
trong tôi để tôi biết trách nhiệm với đất nước. Nhưng
cũng chính vì tình cảm và trách nhiệm ấy mà khi tóc đã
bạc rồi, tôi không còn có thể mù quáng tin vào ông nữa.
Hồ chí Minh chỉ là một nhân vật của lịch sử, còn đất
nước là chuyện của muôn đời : Không thể cột chặt vận
mệnh đất nước vào sự chọn lựa bất toàn của một con
người, dù đó là một anh hùng. Tốt nhất vẫn là ghi nhận
tất cả những chuyện đúng sai của ông một cách bình thản,
hy vọng chỉ có như thế mới rút ra được những bài học
hữu ích cho những thế hệ đi sau.
Đối với tôi, sự chọn lựa ý
thức hệ cho đất nước của Hồ chí Minh là bài học đáng
suy ngẫm hơn cả. Tất cả đều là những ý định tốt đẹp
nhưng tất cả đều thiếu cái chiều sâu của sự phản tỉnh
triết học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng
là sự trung thành mù quáng về sau. Lầm lũi đi theo ông, dắt
theo mình cái gói hành trang của những ý định tốt đẹp
ấy, không biết thường xuyên quay đầu nhìn lại, không có
gì bảo đảm để chúng ta không vấp lại những sai lầm của
ông � đẩy cái đám đông nhân dân mà mình muốn đưa lên
thiên đàng xuống chín tầng địa ngục ! Nhất là những ý
định tự cho là duy nhất đúng đắn, cần được bảo vệ
quyết liệt bằng một định chế quyền lực cũng tự cho
là duy nhất đúng đắn.
Tôi nghĩ rằng bài học ấy không
chỉ đáng suy ngẫm cho những người xưng tụng ông mà còn
cho cả những người chống ông nữa.
LỮ PHƯƠNG
TÌM HIỂU SỰ THẬT QUA BÀI VIẾT
TRÊN
Trước đây người đảng viên Nam
kỳ kỳ cựu Nguyễn văn Trấn có viết cuốn sách " Viết cho
mẹ và quốc hội " trong đó ông Trấn kể lại chuyện bạn
ông là Bùi công Trừng nói cho ông nghe chuyện trong một buổi
họp Lê đức Thọ đã ăn hiếp Hồ chí Minh một cách tàn
tệ và thô bỉ, cùng tiết lộ là Lê đức Thọ có âm mưu
muốn dùng Nguyễn chí Thanh để thay Hồ chí Minh. Nay thì có
một đảng viên Nam kỳ thứ hai là Lữ Phương viết bài "
Huyền thoại Hồ chí Minh " để bạch hóa những huyền thoại
chung quanh ông Hồ, một người vốn có nhiều huyền thoại,
huyền thoại có thể có căn cứ, có thể do những người
yêu kính ông dựng lên cho ông và có thể do bản thân ông
tự dựng lên để cho mọi người thấy con người tài giỏi,
siêu việt của ông. Vấn đề là làm sao tìm ra những sự
thật khả tín trong những huyền thoại bao quanh Hồ chí Minh
đó. Bài viết của Lữ Phương nói chung cũng tiết lộ ra một
vài sự thật, nhìn ra được những nguyên nhân mà bộ máy
chính quyền ra sức thần thánh hóa ông Hồ để nhằm mục
đích biến ông thành một biểu tượng thiêng liêng có lợi
cho công cuộc đấu tranh.
Đầu tiên Lữ Phương kể ra những
chuyện giai thoại mà ông được nghe kể từ khi ông vào chiến
khu ở cục R năm 1968. Đó là chuyện ông Hồ từ chối thay
đôi dép râu ông đi đã mòn lẳn. Có cậu bảo vệ đề nghị
ông Hồ thay nhưng không được ông đồng ý nên cậu bèn lén
thay đôi giép râu cũ rích, sờn rách của ông đi bằng một
đôi giép râu mới .Nhưng khi phát hiện ra điều này, ông yêu
cầu trả lại đôi giép râu cũ cho ông. Chuyện này nói chung
cũng khó kiểm chứng. Còn câu chuyện năm nào gần tết , mặc
dù bận trăm công ngàn việc, ông vẫn gọi điện thoại cho
Bác sĩ Trần duy Hưng là thị trưởng Hà nội để hỏi xem
có đủ lá giong cho dân gói bánh chưng chưa. Không biết ông
Bác sĩ Trần duy Hưng có còn sống không để kiểm chứng câu
chuyện này có thật hay không?. Lữ Phương cho rằng từ vai
trò của một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông còn
là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Lữ
Phương kể chuyện ông đã thấy người ta đã dựng bàn thờ
của ông Hồ ngay giữa bùng binh Sài gòn để thắp khói hương
nghi ngút tưởng niệm ông. Trong cuốn sách " Từ thực dân
đến Cộng sản" Học giả Hoàng văn Chí có kể những nông
dân miền Trung, trong thời kháng Pháp, trước khi đi ra đồng,
đã đến trước chân dung ông Hồ thắp hương khấn vái ông
Hồ dù lúc ấy ông chưa qua đời.
Thật ra, ông Hồ còn có những chuyện
lặt vặt mà người đời còn nhắc lại. Đó là chuyện ông
hay đặt tên cho những người bên dưới. Hồi Bác sĩ Tôn
thất Tùng có đứa con trai đầu tiên. Ông nói với Bác sĩ
Tùng " Tên chú thuộc bộ mộc nên đứa con trai này nên đặt
tên là Bách. " Cậu Tôn thất Bách sau này lớn lên cũng trở
thành bác sĩ như bố và mới qua đời cách đây không lâu
vì chứng bệnh nhồi máu cơ tim. Cựu bộ trưởng tư pháp
của Mặt trận giải phóng miền Nam là Trương như Tảng, sau
khi vượt biển qua tỵ nạn ở Pháp có viết một cuốn hồi
ký nhan đề " Hồi ký của một Việt Cộng " ( Memoir of a VC"
( trang 14 , bản tiếng Anh) có kể chuyện khi ông gặp ông Hồ
ở Pháp, ông Hồ có đề nghị đổi tên cho ông Tảng một
cách khá tức cười như sau. Ông Hồ nói với ông Tảng rằng,
" Trong gia đình cháu, tên anh và em cháu là tên của đá quý
( ông anh ông Tảng tên Quỳnh..tức Quỳnh Dao là một loại
ngọc, đứa em ông Tảng tên Bích..tức Ngọc Bích là tên một
loại ngọc). Còn cháu tên " Tảng " tức là " tảng đá" nghe
không được hay cho lắm. Bác đề nghị đổi tên cháu là
" Toàn " ..tức " Toàn bích " có nghĩa là " hòn ngọc không có
vết" " .". Câu chuyện đặt tên cho con trai Bác sĩ Tôn thất
Tùng và đòi đổi tên cho Trương như Tảng là câu chuyện
thực được những người trong cuộc kể lại chứ không phải
là giai thoại mù mờ không có căn cứ.
Bác sĩ Phan quang Đán có kể cho
người viết bài này nghe một giai thoại về Hồ như sau :
Trong túi áo của Hồ bao giờ cũng có hai bao thuốc, một là
thuốc lá ngoại quốc, hai là thuốc rê. Khi gặp khách, Hồ
mang thuốc rê ra mời, còn khi ở một mình thì hút thuốc lá
ngoại quốc. Câu chuyện này cũng nói lên cái cá tính láu
cá vặt , tinh ranh vặt của Hồ. Đôi khi những chuyện vặt
vãnh tầm thường như thế cũng nói lên được cái cá tánh
đặc thù của một con người.
Sang đến chuyện tình cảm cá nhân
của Hồ, Lữ Phương có kể lại chuyện Kim Hạnh lúc còn
làm Tổng biên tập báo Tuổi trẻ, đã bị cách chức và đuổi
khỏi làng báo ngay lập tức vì đã đăng trên trang nhất bài
thơ tiếng Hán mà Lý Thụy ( biệt danh của Hồ chí Minh lúc
đó) gửi cho người vợ Tàu. Rồi sau này những sử gia học
giả Tây phương còn công bố ra những tài liệu mật cho biết
khi đi dự một Đại hội Quốc tế Cộng sản ở Nga, ông
Hồ đã khai có vợ và người vợ ấy chính là đồng chí
Nguyễn thị Minh Khai chứ không phải là ai khác ! Cũng cần
nói thêm ở đây Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Lê hồng
Phong và là chị ruột của Nguyễn thị Minh Thái, vợ đầu
của Võ nguyên Giáp. Sau này bà Minh Thái chết trong tù Pháp,
Võ nguyên Giáp lấy người vợ thứ hai là Đặng thị Hà,
con gái của Đặng thai Mai.
Lữ Phương còn kể thêm chuyện
ông Hồ ăn ở với cô Xuân ( Nông thị Xuân) một người thiểu
số gốc Nùng, cô này do mật vụ Trần quốc Hoàn đưa về
để phục vụ ông Hồ, nhưng sau đó cô Xuân bị giết đi
và đứa con trai của cô và ông Hồ tên Nguyễn tất Trung được
đưa cho Vũ Kỳ nuôi, và được đổi tên là Vũ Trung. Vũ Kỳ
là người hầu cận thư ký của ông Hồ. Lữ Phương cũng
kể thêm chuyện ông Hồ khi năm 1941 về nước có quan hệ
tình ái với một nữ cán bộ cần vụ người Tày và sinh
ra Nông đức Mạnh, hiện nay đang làm Tổng bí thư. Sau này
khi bị báo chí nước ngoài truy hỏi ông Hồ có phải là cha
của ông không thì ông Mạnh trả lời huề vốn cho qua chuyện,
" Người Việt Nam ai cũng là con cháu Bác Hồ ". Ông Mạnh cho
biết cha ông tên Lai nhưng không có giấy tờ hay hình ảnh
nào chứng tỏ điều ông Mạnh nói. Dĩ nhiên đứng ở thế
ông Mạnh thì ông phải chối mà thôi vì chế độ Hà nội
trong mấy mươi năm qua đã tô vẽ ông Hồ như một vị thánh
không gần đàn bà, thì làm sao có đứa con rơi như ông Mạnh
được !
Chuyện bi thảm kịch Nông thị Xuân
có lẽ Lữ Phương cũng đọc được từ những sách báo nước
ngoài do hai nhân chứng quan trọng là nhà văn Vũ thư Hiên và
ông Nguyễn minh Cần kể lại. Khi chế độ tàn ác Hà Nội
quyết định giết cô Nông thị Xuân và người em họ Nông
thị Vàng ( sau này có người cho rằng hai cô này họ Nguyễn
)và cô em họ tên Nguyệt, họ tưởng là đã bịt miệng tất
cả những người biết về chuyện giết cô Xuân, nhưng rồi
không có gì che dấu được mãi dưới ánh sáng mặt trời.
Chuyện giết cô Xuân đã được ba người biết và kể rõ
mọi chuyện cho hậu thế nghe câu chuyện giết người kinh
tởm này. Đó là nhà văn Vũ thư Hiên, ông Nguyễn minh Cần
và người hôn phu của côVàng, em ruột của cô Xuân.
Xin ghi lại lời tường thuật của
ba nhân chứng này để thấy toàn bộ chi tiết vụ án Nông
thị Xuân, người mà ông Hồ ăn nằm có một đứa con trai.
Đây là một chuyện có thật một trăm phần trăm chứ không
phải là giai thoại hay huyền thoại vu vơ gì hết.
Đầu tiên là lá thư của một anh
thương binh hôn phu của cô Nguyễn thị Vàng, trong một bức
thư gửi cho ông Nguyễn hữu Thọ, Chủ tịch quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 29 tháng 7 năm 1983,
trong đó có những đoạn sau :
" Đến độ một tuần sau, vào 7
giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em(lời cô Vàng kể
với vị hôn phu) còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc
xe commăng ca thường đón chị Xuân lên gặp Bác Hồ, anh Ninh
xồm, người bảo vệ Trần quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ
Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần
áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, một
nhân viện Công an Hà nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn
ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác Bệnh viện Phủ
Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho chị Nguyệt, ra lên xe Công
an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn
mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá
đông người : Công an, Tòa án, Kiểm soát viên. Sau một tiếng,
hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm soát viên lên phòng
chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to cho mọi người nghe.
Tử thi thân thể không có thương tích, thấy rõ không bị
tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập
gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không
có thương tích gì. Dạ dầy không có thức ăn, không có thuốc
độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp
dâm.
Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị
rạn nứt . Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn
chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể nạn nhân bị
chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây
là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp
của nhiều nước đã sử dụng. Em vô cùng đau khổ chạy
về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng
khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi,
chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được
đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái
Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết
thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển vào bệnh viện
Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về
đây điều trị. Nay lại được gặp anh kể hết mọi chuyện
cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được
lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này.
Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ
này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi
em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông
bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em
bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hòa An.
Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi
có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 đi về thăm
ông cậu Hoàng văn Đệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em
tôi rồi quăng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng
5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng
sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm
nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận xôn xao là cô Vàng
bị đánh vỡ sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà
đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà nội liên lạc
với một cậu bạn cùng học làm việc ở Tòa án Hà nội.
Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một
bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi tòa án về vụ em tôi và
cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện
việc điều tra. Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân,
vợ cụ Hồ chí Minh, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô
Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe
chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.. "
( Có thể tìm đọc toàn bộ bức
thư này trong cuốn sách " Bí ẩn quyền lực và tình ái của
Hồ chí Minh" của Trần viết Đại Hưng đã xuất bản, hay
có thể vào mạng
www.quehuongmedia.com
tới phần TÀI LIỆU )
Những điều trình bày trong thư
của người thương binh hôn phu của cô Nguyễn thị Vàng khá
cụ thể và đầy đủ. Không biết người thương binh xấu
số này tới bây giờ còn sống hay đã qua đời. Như vậy
trong vụ án cô Xuân có 3 người bị giết là cô Xuân, cùng
cô em ruột là cô Vàng và cô em họ là cô Nguyệt sống chung
nhà cũng bị giết luôn để diệt nhân chứng. Một chi tiết
trong thư cần phải nêu ra ở đây là câu nói cô Xuân nói
với ông Hồ, " Sau ngày sinh cháu Trung, xin Bác cho mẹ con ra
công khai." Bác nói, " Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý.
Nhưng phải được bộ chính trị đồng ý, nhất là mấy ông
Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng quốc Việt đồng ý mới
được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa." Có
hai cách giải thích cho câu trả lời của ông Hồ. Cách giải
thích thứ nhất là nếu ông nói thành thật, thì rõ ràng ông
không có quyền quyết định mọi chuyện mà còn phải chờ
ý kiến của những người lãnh đạo cao cấp trong Đảng như
Trường Chinh, Lê đức Thọ, Hoàng quốc Việt. Ngay cả chuyện
cô Xuân vợ ông xin đòi ra công khai thì ông cũng không dám
định đoạt mà xin hoãn để hỏi ý kiến mấy đồng chí
nói trên trước đã. Cách giải thích thứ hai là ông vờ vịt
nói dối với cô Xuân để mua thời gian hầu có thể chạy
làng vì thời gian này ông chưa bị thất sủng nên quyền uy
của ông còn lớn và ông có thể quyết định mọi chuyện
ông muốn, kể cả chuyện lấy cô Xuân làm vợ.
Nhà văn Vũ thư Hiên trong cuốn hồi
ký " Đêm giữa ban ngày " cũng đã nói đến vụ án cô Xuân
nói rõ thủ phạm chính trong vụ án cô Xuân là Trần quốc
Hoàn, nguyên bộ trưởng Công an như sau :
" Cha tôi sai tôi chở ông lên đường
Cổ Ngư cũ về phía Chèm. Tới dốc lên đê, ông bảo tôi
dừng xe. Châm một điếu thuốc, ông chọn chỗ cỏ sạch để
ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên ông.
Ráng chiều bắt đầu nhuộm đỏ
mặt hồ Tây và một phần hồ Trúc Bạch. Gió nồng ẩm mang
theo hương dong nước ngọt bị vứt lên bờ và hương lá mục
ngai ngái.
_ Con nhớ lấy chỗ này, quãng gốc
cây thứ tư và thứ năm từ trên đê đổ xuống _ cha tôi
chỉ tay về phía trước _ Nơi này đã xảy ra một tấn thảm
kịch mà rồi đây con phải tìm hiểu để mà viết. Nó là
tấn thảm kịch có tính chất tượng trưng cho một sự đổ
vỡ lớn của một nền đạo đức và rộng ra,của một thời
đại..
Mắt cha tôi mờ đi. Giọng ông đứt
quãng.
_ Con không hiểu bố muốn nói gì..
_ Lúc này con không hiểu cũng được.
Hiểu bây giờ vừa sớm, vừa nguy hiểm. Việc của bố là
đánh động trí nhớ của con, bắt nó ghi lại một lời nói
không rõ ràng để đừng quên, sau này.. Thôi, ta về ..
Trên đường về nhà cha tôi không
nói thêm lời nào nữa. Tôi cũng không dám hỏi. Nếu cha tôi
đã không nói, có nghĩalà hỏi cũng vô ích.
Ông Nguyễn Tạo đã giải đáp cho
tôi câu hỏi đó, nhiều năm về sau :
_ Bố anh không muốn kể vì vào
thời kỳ câu chuyện xảy ra bố anh không còn làm việc với
Bác Hồ nữa, bố anh e mình không nắm rõ, không trực tiếp
biết sự việc, không biết chi tiết, kể sẽ không đầy đủ,
không khách quan. Hoặc giả, bố anh sợ anh biết câu chuyện
quá sớm thì hại cho anh, tôi không rõ..Nhưng bố anh muốn
anh biết để có lúc anh sẽ phải viết ra. Bố anh bảo tôi
kể cho anh nghe cũng không ngoài ý đó.
_ Bác biết ?
Ông gật đầu:
_ Không phải chỉ mình tôi biết.
Còn có người khác biết. Số cán bộ công an ở cấp vụ
trưởng hồi bấy giờ đều biết cả..
_ Vậy chuyện gì đã xảy ra ở
dốc Chèm, thưa bác ?
_ Một vụ án oan khuất
_ Ở chính nơi bố cháu chỉ cho
cháu ?
_ Ở đó. Có một người đàn bà
bị xe cán chết, hay nói cho đúng hơn, xác của người đó.
_ Một hiện tượng giả?
_ Chính là như vậy. � ông ngậm
ngùi � Người đàn bà này bố anh cũng biết, tên là Xuân,
quê ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Cô Xuân rất xinh gái,
da trắng nõn, miệng tươi như hoa, được Ban bảo vệ sức
khỏe Trung ương tuyển vào trông nom sức khỏe cho Bác Hồ..
_ Thời gian nào, thưa bác ?
_ Sau khi hòa bình lập lại, khoảng
năm 1955..
_ Cùng được Trần đăng Ninh tuyển
một lúc với cô Xuân còn có hai người em gái cô ta, một
em ruột, một em họ, cũng là con cái gia đình gốc gác cách
mạng cả. Họ được bố trí ở trong một ngôi nhà ở phố
Hàng Bông Thợ Nhuộm, sát đường Quang Trung. Thông thường,
Trần quốc Hoàn tự thân đưa cô Xuân vào gặp Bác rồi đưa
về..
_ Mỗi lần như vậy bà ta ở lại
bao lâu?
_ Không chừng. Có khi chỉ một đêm,
có khi đôi ba hôm. Cô Xuân rất được lòng Bác. Họ có với
nhau một con trai, được đặt tên là Trung, Nguyễn tất Trung.
Về sau trước khi Bác mất, Bác
ủy thác thằng Trung cho Vũ Kỳ chăm sóc, coi như con nuôi..
Tôi sững sờ. Lại thêm một bí
mật tôi được biết trong những bí mật cung đình được
giữ rất kín.
_ Như vậy, có thể coi như bà Xuân
là bà hoàng hậu cuối cùng trong lịch sử Việt Nam?
Ông cười chua chát :
_ Có thể coi là như vậy. Và là
bà Hoàng hậu bất hạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Bất
hạnh vì không một ngày được thừa nhận là hoàng hậu,
vì đẻ đứa con không được gọi cha ruột của nó bằng
cha.. Tất cả diễn ra trong sự lén lút nhục nhã, như thể
đó là tội lỗi.
_ Ai đã giết bà Xuân?
_ Đừng vội. Ta hãy ghi nhận sự
việc này : vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta
thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết
ở dốc Cổ Ngư lên Chèm. Xác chết được đưa vào bệnh
viện Việt Đức, được nhận dạng. Đó chính là cô Xuân.
Nhưng xác không được nổ theo thường lệ, mà bị chôn cất
vội vã, theo lệnh của Trần quốc Hoàn.
_ Tại sao lại Trần quốc Hoàn ?
_ Bởi vì cô Xuân là người của
cơ quan trực thuộc Trung ương, việc xảy ra phải báo cáo
ngay cho Trần quốc Hoàn biết.
_ Rồi sau thì sao?
_ Chưa hết. Sau, em ruột của cô
Xuân bị điều đi học một lớp y tá ở Thái Nguyên, rồi
bị đưa về Cao Bằng điều trị bệnh..thần kinh. Ít lâu
sau xác cô nổi lên ở một cây cầu trên sông Bằng Giang���..Cô
em gái họ cũng biến mất. Như vậy là cùng một thời gian,
cùng một sự việc,có tới ba người thiệt mạng.
_ Những đầu mối đều bị bịt?
_ Tất nhiên. Nhưng những lý do dẫn
tới những cái chết đã bị lọt ra ngoài.
_ Về những cái chết này không
có ai điều tra hết ?
Ông Tạo cúi mặt xuống
_ Không
_ Tại sao, thưa bác ?
_ Tại vì thủ phạm là một nhân
vật quá to để có thể đụng tới.
_ Trần quốc Hoàn?
_Phải.- ông thở dài � Tất cả
những người biết việc này đều có lỗi với hương hồn
cô Xuân và hai cô em, tất cả đã không dám làm gì để rửa
mối hận cho họ. Tất cả đã cúi đầu trước guồng máy,
trước uy tín của Đảng có thể bị mất đi vì vụ bê bối
này. Mọi người đều lầm khi nghĩ như vậy ..- Vì sao Trần
quốc Hoàn giết bà Xuân ?
_ Đó là một chuyện dài. Khi Bộ
Nội Vụ, vì công tác bảo vệ, bố trí cho mấy chị em cô
Xuân ở ngôi nhà của Bộ ở phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, thì
chỉ có vài người biết họ là ai. Trong ngôi nhà này còn
hai gia đình cấp vụ khác ở cùng. Thời gian trước khi cô
Xuân bị giết ít lâu, Trần quốc Hoàn thường tới đó. Việc
Trần quốc Hoàn tới thăm rồi cưỡng hiếp cô Xuân, cô em
của cô Xuân biết, có nói lại cho người yêu của mình ở
quê. Anh này về sau có làm đơn tố cáo gửi Trung ương.
_ Và Trung ương im lặng ?
_ Không phải anh ta gửi ngay lập
tức. Ngay lập tức thì anh ta cũng bị giết ngay, mà mãi về
sau này..
_ Cụ Hồ không có ý kiến gì về
mấy cái chết oan khuất đó ?
Ông Nguyễn Tạo đăm chiêu suy nghĩ.
_ Có nhiều điều chúng ta không
biết được � ông nói, giọng bùi ngùi � Tôi nghĩ thân phận
Bác lúc ấy cũng tội nghiệp lắm. Biết nói với ai? Với
Lê Duẩn chăng ? Hay Lê đức Thọ ? Hay nói thẳng với Trần
quốc Hoàn ? Tôi nghĩ Bác cũng là người, Bác cũng biết đau
khổ. Nhưng cái thế của Bác buộc Bác phải im lặng..
_ Nghĩalà, theo bác, ông Hồ không
có lỗi ?
_ Trong mấy cái chết nói trên ?
Không.
_ Nhưng sự im lặng trước cái chết
của họ ? Ông Hồ cũng không có lỗi ? �tôi gặng � Bỏ ra
ngoài mối quan hệ tình cảm, chỉ nói tới cái chết oan khuất
của một con người, với tư cách đồng bào?
_ Thế hệ các anh khắc nghiệt trong
sự phán xét. � ông thở dài- Tôi hiểu các anh. Các anh vô
can. Chúng tôi thì không. Chúng tôi tự đặt mình trong sự
ràng buộc với Đảng, với những quyết định của nó, dù
sai hay đúng. Chúng tôi lo lắng cho uy tín cũa Đảng. Chúng
tôi cảm thấy nhục nhã nếu Đảng bị phỉ báng. Đảng là
cuộc sống tinh thần của chúng tôi, là danh dự của chúng
tôi. Bác cũng vậy. Ông Cụ cũng đau đớn lắm chứ. Ông cũng
là con người. Như mọi người. Các anh khác. Các anh chỉ nhìn
thấy một lẽ công bằng, đòi phải có nó, đòi mọi sự
phải sòng phẳng. Cái đó là phải thôi. Đúng, chứ không
sai. Nhưng có nên như vậy không nhỉ? Hay là cần phải độ
lượng hơn, thông cảm hơn với sự yếu đuối của con người?
Dù họ là ai đi chăng nữa..
( Trích hồi ký " Đêm giữa ban ngày
" trang 605-609)
Đoạn trích dẫn trên của nhà văn
Vũ thư Hiên đã ghi lại lời tâm sự của ông Nguyễn Tạo
về vụ án cô Xuân. Khi ông Tạo cho rằng Hồ chí Minh cũng
đau đớn trong cái chết của người vợ gốc thiểu số Nông
thị Xuân, như vậy ông Tạo không nghĩ rằng ông Hồ là thủ
phạm mà có bàn tay bí mật giết cô Xuân. Thế lực nào đã
coi thường ông Hồ để ra tay giết vợ ông? Giai đoạn này
ông Hồ đã thất thế rồi sao để thế lực đen tối giết
vợ ông gây cho ông phải đau khổ mà không nói nên lời ?
Ông Tạo không giải thích cụ thể lý do nào gây nên sự yếu
thế của ông Hồ trong vụ án mạng cô Xuân, nhưng qua cách
nói ông Tạo không nghĩ ông Hồ là người chủ mưu giết cô
Xuân. Dĩ nhiên Trần quốc Hoàn là thủ phạm chính nhưng Trần
quốc Hoàn chỉ thi hành lệnh của một thế lực tối cao ở
trên chứ với chức bộ trưởng công an, Hoàn không thể nào
dám ra tay giết vợ Hồ chí Minh nếu không có một thế lực
cao cấp lấn át uy quyền ông Hồ cho phép. Dù sao sự lên tiếng
của nhân chứng Vũ thư Hiên cho thấy chuyện cô Xuân vợ ông
Hồ bị giết là chuyện có thật và câu chuyện tàn ác thương
tâm này được cha ông Hiên và ông Nguyễn Tạo kể lại cho
ông Hiên nghe với những chi tiết cụ thể và hiện trường
nơi vụ án mạng oan khuất xảy ra.
Vũ thư Hiên lại là người khám
phá thêm một sự thật nữa về cuộc đời tình ái của ông
Hồ. Trước đây Học giả Hoàng Tranh có viết một bài về
người vợ Trung quốc của Hồ chí Minh là Tăng tuyết Minh
và cho rằng sau khi chia tay nhau vào năm 1927 thì ông Hồ và
Tăng tuyết Minh không còn gặp nhau nữa ngoại trừ một trường
hợp duy nhất là Tăng tuyết Minh đến dự phiên tòa xử Hồ
chí Minh tại Hồng Kông năm 1931. ( Xin vào
www.daiviet.org
số báo 31 để đọc bài viết của Hoàng Tranh về Tăng tuyết
Minh, người vợ Trung quốc của Hồ chí Minh). Nhà văn Vũ thư
Hiên có trả lời một cuộc phỏng vấn sau này cho biết rằng
ông có dịp nói chuyện với con trai Bác sĩ Trần duy Hưng (
nguyên thị trưởng Hà nội ) là Trần duy Nghĩa hiện sống
ở Paris. Ông Trần duy Nghĩa tiết lộ rằng ông có dịp chứng
kiến cảnh Hồ chí Minh và Tăng tuyết Minh có gặp nhau ở
nhà ông Hồ ở Hà nội. Ông Nghĩa lúc ấy là một cháu nhỏ
đến chơi với Bác Hồ và ông Hồ có khoe với Nghĩa một
cái bọc do bà vợ Tăng tuyết Minh tự tay đan tặng cho ông.
Đúng là rồi không có gì có thể che đậy mãi dưới ánh
mặt trời. Những mẩu chuyện lặt vặt về ông Hồ đã được
những người chung quanh chứng kiến và kể lại để người
đời sau có thêm dữ kiện mà đánh giá con người thật của
ông.
Sau Vũ thư Hiên, có thêm một nhân
chứng quan trọng là ông Nguyễn minh Cần, hiện nay đang sống
tại Mạc tư khoa, Nga. Năm 1957 khi án mạng của cô Xuân xảy
ra thì ông Cần đang là " Phó chủ tịch ủy ban hành chính
Hà Nội " .Ông được báo cáo về vụ án mạng được ngụy
trang là một tai nạn để rồi sau đó bị những cơ quan liên
hệ bưng bít sự thật về chuyện giết người này. Sau này
ông được đọc lá thư của người hôn phu cô Vàng và đi
đến kết luận chuyện án mạng về người vợ thiểu số
Nông thị Xuân là chuyện có thật . Sau này ông Nguyễn minh
Cần có tung ra bài viết " Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời
Hồ chí Minh " để nói về những huyền thoại về ông Hồ,
có huyền thoại do chính ông tạo ra như tự mình viết sách
ca tụng mình ( cuốn sách " Những mẫu chuyện về cuộc đời
hoạt động của Hồ chủ tịch " với cái tên giả Trần dân
Tiên.). Bài viết có đề cập đến vụ án mạng cô Xuân,
sau khi kể lại chuyên mắt thấy tai nghe về vụ án cô Xuân,
ông đưa ra những suy luận về thủ phạm giết cô Xuân như
sau:
" .. Bây giờ xin quay trở lại câu
chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người
ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh
qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác là các cô
họ Nguyễn ( trước đây có tin đồn là họ Nông ) và cô
Xuân có một con với ông Hồ. Ngoài ra, các chi tiết khác về
cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: Cô Nguyễn
thị Xuân ( tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ ( ruột?)
là Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt,
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm 1954, đã tình nguyện
vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được
mấy tháng thì Ủy viên trung ương Đảng, chủ nhiệm Tổng
cục hậu cần Trần đăng Ninh, gặp cô Xuân nói chuyện vài
lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà nội, "
nói là để phục vụ Bác Hồ " . Mấy tháng sau, cô Xuân cũng
xin cho cô Vàng và cô Nguyệt ( con gái của ông Hoàng văn Đệ,
cậu cô Xuân ) về Hà nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm.
Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác
trên nhà chủ tịch phủ, vì thế mới giao cho ông Trần quốc
Hoàn, bộ trưởng bộ công an, trực tiếp quản lý chị Xuân,
cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bôm Nhuộm, là
nhà của công an. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một
cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn tất Trung.
"Em có nhiệm vụ bế cháu ", đấy
là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới của mình
trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên
chúng ta biết được những việc sau đây : Khoảng mồng 6,
mồng 7 tháng 2 năm 1957, Trần quốc Hoàn đến, nói chuyện
vu vơ một lúc, rồi giở trò kéo cô Xuân vào cái buồng xép,
định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo,
còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc. May
lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường,
Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút súng lục ra dọa, " Chúng mày
im mồm, không ông cho chết hết " Rồi xuống thang, ra ô tô
chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào
phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra và nói, " Không
được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước." Nó nói, " Tôi
biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi " Rồi
lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi day dù đã thắt
sẵn thong lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường,
tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân
xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói, " Thanh niên
nó phục vụ không khoái hơn ông già sao mà lại còn vờ làm
gái. "
..Rồi sau đó là án mạng xảy
ra cho cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt
Những câu hỏi về Hồ chí Minh
Còn về cháu bé Nguyễn tất Trung
thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn lương
Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu văn Tấn, đến
năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch Hồ chí Minh mất thì
giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký riêng của ông Hồ, làm
con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung. Tôi xin bỏ qua những tình
tiết khác và dừng lại đây, vì đến đây, cũng đủ để
có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề
tài cần nói
-
Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên
" xoi mói " vào đời tư của người khác, kể cả đời tư
của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện
rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ
nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể
có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có
vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lại lấy vợ khác.
Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù
cho ông lãnh tụ nào đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình,
" cặp bồ " với ai đó, như trường hợp Lênin, hay vợ sờ
sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này
đến cô khác, như trường hợp Mao trạch Đông, hay đi hoang,
rồi có con với người khác, như trường hợp Karl Marx. Những
ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo
đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những
bằng chứng không thể chối cãi, thì cũng đáng phê phán đấy,
nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được.
Chỉ có cái đầu óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh
đạo Cộng sản kênh kiệu, tự coi mình là " trí tuệ, danh
dự và lương tâm của thời đại " hay là " đỉnh cao trí
tuệ loài người " , mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ
thành một ông thánh sống, chí ít là một con người siêu
phàm, không vợ không con, thì càng thêm uy tín chính trị. Thế
rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như
là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng
trị tàn nhẫn. Đấy, cái vụ vừa qua Đảng " xử trí kỷ
luật " một cách thô bạo đối với Kim Hạnh, Tổng biên tập
báo Tuổi trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông
Hồ có vợ hồi ở Trung quốc, là một chứng minh cho cái đầu
óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấy. Lẽ cố
nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ,
đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất,
đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét
.
-
Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng
như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh
bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông
Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng cô Xuân là vợ
của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có
vợ đàng hoàng, ông chỉ muốn giữ cái " uy tín chính trị
" hão của " bậc siêu nhân " , ông chỉ muốn được " tiếng
" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến
chuyện vợ con.Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không
thể không nói là cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông
mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà nội là để " phục vụ
" ông Hồ, cũng như bào nhiêu cô gái Trung quốc đã được
đưa đến Trung Nam Hải để " phục vụ " ông Mao. ( Xem hồi
ký " Tôi là bác sĩ riêng của Mao " của Lý chí Tuy ). Mồm
ông Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư
tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ v..v.Thế nhưng ông đã
hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng
khác gì món đồ chơi. Nhận xét như thế không có tính chất
võ đoán, vì thử hỏi :
-
Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tại
sao ông lại không để cô ở chung tại ngôi nhà riêng của
ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở
riêng mãi tận nhà số 66 Hàng Bông Nhuộm. (ai biết rõ Hà
nội thì dễ dàng hình dung được khoảng cách từ Chủ tịch
phủ đến nhà 66 Hàng Bông Nhuộm ), là nhà của công an, lại
phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng
công an Trần quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần " được phục
vụ " thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi ? Trong
những năm đó ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức
phải cho Trường Chinh, Lê dức Thọ, Hoàng quốc Việt có thể
can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể
khống chế ông như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ
tối cao, là chủ tịch Đảng cơ mà.
-
Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì
khi cô đẻ con trai rồi, tại sao ông vẫn để hai mẹ con ở
riêng tận số 66 Hàng Bông Nhuộm và khi mẹ nó chết rồi,
ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người
khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua
đời, thì " người ta " cũng khó biết được là ai, Bộ chính
trị hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé chỉ thị
chuyện nuôi đứa bé, rồi lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi
? Và xin các bạn chú ý, Vũ Kỳøõ chắc chắn là không bao
giờ dám tự ý đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi
dấu vết tội lỗi của một ông họ Nguyễn tất nào đây.
Khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình thương
yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như
vậy làm sao có thể thương yêu trẻ con người khác được
?
-
Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ý kiến
cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần
của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị,
đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ
ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm
vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con " được
ra công khai " , chắc ý nói muốn hợp thức hóa, thì một mặt
ông làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp
tình hợp lý, nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các ông trong
Bộ chính trị mà nói là các ông kia có quyền quyết định
chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của các ông kia, làm
như ông không phải là " lãnh tụ tối cao ", không phải là
Chủ tịch Đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia
trong Bộ chính trị . Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng , " Cô
đành phải chờ một thời gian nữa " . Và thật tội nghiệp
cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ cho đến khi bị giết.
-
Còn có nhiều điều khác mà trong tình
hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp. Tại
sao Trần quốc Hoàn lại có thể có thái độ trắng trợn,
đê tiện như thế đối với cô Xuân ? Dù cô không phải là
vợ chính thức thì cũng là " bồ ",( nói theo lối nói thông
thường hiện nay ở Việt Nam) của lãnh tụ cơ mà. Sao y lại
có thể to gan phạm thượng đến như thế ? Hay là y đã thấy
rõ tình thế bị " thất sủng " của cô Xuân, tức là cái
thái độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với
cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế
? Hay là y đã biết một quyết định nào đó về cô Xuân,
nên y nghĩ rằng " không xài thì phí của trời " , trước sau
rồi cô cũng chết ?
Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho
cô Xuân về những người lạ mặt thường đến chỗ các
cô phải không, có ý nghĩa gì ? Có đúng là do Bộ trưởng
công an mớm cho ông hay không? Việc giết cô Xuân, cô Vàng,
cô Nguyệt là mưu đồ của cá nhân Trần quốc Hoàn, hay là
chủ trương của một tập thể, nếu là của một tập thể
thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không? Trách
nhiệm của ông Hồ, của Bộ chính trị Trung ương Đảng,
của Bộ công an, của Trần quốc Hoàn trong việc này như thế
nào ? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra( cuối
năm 1956) đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó ( vào
ngày mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957) vì sao lại gần nhau
đến thế ? Điều đó có ý nghĩa gì? Vân vân và vân vân.
Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử tài giỏi nhất, các
chuyên gia về tội phạm có thể góp ý, góp sức, giúp làm
sáng tỏ nhiều vấn đề.
Hồ chí Minh là một nhân vật lịch
sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất
nước và nhân dân Việt Nam trong nhiều thập niên của thế
kỷ 20. Dù muốn dù không, không ai có thể phủ nhận điều
đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu , hay vừa tốt
vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại ? Công trạng
của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không
có tội, hay chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa
tội ? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ
phàm phu, hay là tên giả dối, bịp bợm ? Ông là biểu tượng
của đạo đức với trái tim nhân ái, hay và một kẻ vô luân,
vô đạo với lòng dạ bất lương ? Tất cả những câu hỏi
đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng, sâu
sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng phải chờ lịch sử
cân lượng, phán xét. Lịch sử được đúc kết từ muôn
ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó,
người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá
cuộc đời của vị chủ tịch đầu tiên của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa. YÙ muốn nhỏ nhoi đã được nó ngay
từ đầu, chỉ là để góp thêm vài " mẩu chuyện " , qua đó
người đọc có thể thấy thêm được vài nét chân thật
trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới
cầm quyền Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đã dày
công tô vẽ.
.. Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng
ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn
vùi sự thật? Trái lại, bằng tất cả giá nào, phải tìm
mọi cách để trả về cho lịch sử những sự kiện chân
thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để
mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng dắn
và công bằng. Công lý đòi hỏi như thế . "
Cùng một sự kiện vụ án chuyện
cô Xuân bị giết nhưng có hai cách giải thích khác nhau. Ông
bạn Nguyễn Tạo bạn của bố nhà văn Vũ thư Hiên nghĩ rằng
ông Hồ cũng đau đớn trong cái chết của người vợ thiểu
số tên Xuân của ông, nghĩa là ông Tạo không nghĩ ông Hồ
đã ra tay giết vợ, trong khi ông Nguyễn minh Cần đưa ra suy
luận rằng chính ông Hồ là thủ phạm trong vụ giết cô Xuân.
Thật ra nếu không có chuyện ông Hồ bị thất sủng và bị
tước quyền lực như sau này được biết thì sự suy luận
của ông Cần coi như đúng hoàn toàn nhưng chuyện ông Hồ
bị thất sủng và mất quyền lực là chuyện có thật nên
sự suy luận của ông Cần cho rằng Hồ chí Minh là thủ phạm
giết cô Xuân cũng không hoàn toàn chính xác và có tính thuyết
phục cao. Có điều là cho tới giờ phút này, người ta không
biết ông Hồ bị thất sủng từ năm nào, ông bị mất quyền
lực trước hay sau cái chết của cô Xuân ? Có thể những
người lấn quyền ông Hồ đã cho giết cô Xuân để tạo
cho ông Hồ một biểu tượng đẹp đẽ hầu có lợi cho công
cuộc đấu tranh. Ông Hồ đứng thế thất thế nên đành đau
khổ trong im lặng ngồi nhìn người khác thủ tiêu vợ mình
một cách tàn bạo. Dù sao đây cũng chỉ là một cách suy đoán.
Hy vọng rồi đây sẽ có thêm nhiều nhân chứng lên tiếng
thì người ta mới biết chắc chắn là ông Hồ có là thủ
phạm hay không trong chuyện giết người vợ tên Xuân ? Trần
quốc Hoàn chỉ là kẻ thừa hành lệnh giết mà thôi. Có lẽ
ở trong nước Lữ Phương cũng nghe vụ án mạng cô Xuân qua
sách báo hải ngoại. Nay xin nói rõ chi tiết về vụ này để
có thể có một thông tin đầy đủ về vụ án tàn bạo,ghê
tởm này. Có thể suy luận dứt khoát về thủ phạm vụ án
cô Xuân như sau: Nếu lúc giết cô Xuân mà ông Hồ còn giữ
nguyên quyền lực và không bị thất sủng thì chắc chắn
ông là người đã ra lệnh cho Trần quốc Hoàn giết cô Xuân
để tạo hào quang cuộc đời hy sinh vì nước vì non nên không
lập gia đình của ông; nếu lúc cô Xuân bị giết mà ông
Hồ đã bị tước mất quyền lực và bị cho ra rìa thì thủ
phạm giết cô Xuân chưa chắc là ông mà là do nhóm đang có
quyền lực ra tay và ông Hồ phải đau buồn vì cái chết của
người vợ thiểu số này mà không dám hó hé gì cả vì thân
phận bị thất sủng mất quyền lực của ông.
Với cách giết người và giết
nhân chứng tàn bạo bỉ ổi như thế, Đảng Cộng sản và
nhà nước Việt Nam đã có một cung cách sát thủ tàn bạo,
dã man rất giống bọn băng đảng xã hội đen Mafia chứ một
nhà nước dân chủ cộng hòa không bao giờ có một cách hành
xử giết người mờ ám và ti tiện như thế.
Lữ Phương đã ghi nhận rất đúng
sự đấu đá để tranh giành quyền lực trong Đảng. Phe Lê
Duẩn, Lê đức Thọ hoàn toàn khống chế phe Hồ chí Minh,
Võ nguyên Giáp. Lữ Phương đưa ra bằng chứng cụ thể là
Hồ chí Minh bị tống cổ qua Bắc Kinh cùng chung với người
thư ký hầu cận Vũ Kỳ trong cuộc tổng tấn công tết Mậu
Thân. Ông Hồ tham gia đóng góp trận tấn công này bằng một
bài thơ rồi cho qua Bắc kinh ..nghỉ. ( Bài thơ đó là " Xuân
này hơn hẳn mấy xuân qua. Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà.
Năm Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên, toàn thắng ắt
về ta"). Cũng xin nhắc thêm với Lữ Phương là Đại tướng
Bộ trưởng quốc phòng Võ nguyên Giáp cũng bị tống cổ qua
Hungary " gọi là chữa bệnh " từ năm 1967. Ở miền Nam dưới
chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thập niên 1960, Tướng Nguyễn
chánh Thi khi bị đẩy ra khỏi nước cũng được loan tin là
ông được đưa đi Mỹ chữa bệnh " thối mũi". Cho nên chuyện
loan tin một người có bệnh để đẩy ra khỏi nước thì
đó là một lối nói ngoại giao thế thôi. Tướng Giáp chẳng
có bệnh gì mà phải đi Hunggary chữa bệnh. Ông cũng giống
như Hồ, bị tống cổ ra khỏi nước cho khuất mắt những
người đang cầm quyền lực không muốn thấy sự hiện diện
của hai ông trước trận đánh lớn Mậu Thân. Duẩn và Thọ
phải tống cổ Hồ và Giáp đi xa để giành công đánh Mậu
Thân nếu thành công. Hồ là chủ tịch nước và Đảng, Giáp
là bộ trưởng quốc phòng và là cha đẻ của quân đội nhân
dân Việt Nam, thế mà một trận đánh cực kỳ lớn như trận
Mậu Thân 1968 mà Hồ và Giáp không được ngồi ở nhà để
điều binh khiển tướng thì cái lý luận cho rằng phe Duẩn,
Thọ đã khống chế và tước hết uy quyền của phe Hồ, Giáp
quả là quá đúng và không ai còn nghi ngờ gì nữa về điều
này. Lý do Hồ và Giáp bị thất sủng cũng chưa ai giải thích
được cho rốt ráo. Sau này người ta căn cứ vào di chúc của
Hồ viết ngày 14 tháng 8 năm 1969 cho biết sở dĩ Hồ bị mất
uy quyền là do Hồ tìm cách liên lạc để hòa hợp, hòa giải
với ông Diệm vào xuân 1963 và do đó mà bị cô lập và tước
quyền lực. Hy vọng rồi sau này sẽ có thêm nhiều dữ kiện
đưa ra và nhiều nhân chứng lên tiếng thì người ta mới
biết được nguyên nhân bị thất sủng của Giáp và Hồ.
Hoàng văn Hoan trong hồi ký " Giọt
nước trong biển cả " còn kể thêm chuyện phe Lê Duẩn đã
sát hại Đại tướng Nguyễn chí Thanh khi ông Thanh từ chiến
trường miền Nam ra Hà nội họp vào năm 1967 . Ông Hoan kể
rõ chuyện này như sau
" Là vì trong vụ anh Nguyễn chí
Thanh bị ám hại, Nguyễn văn Vịnh là người được biết
tất cả mọi chi tiết, nếu xử lý Nguyễn văn Vịnh đúng
theo kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước thì Nguyễn văn
Vịnh sẽ bươi ra hết cả, như vậy bộ mặt của bọn Lê
Duẩn sẽ bị bóc trần, tội ác của bọn Lê Duẩn sẽ phơi
bày trước Đảng và trước dư luận nhân dân.
( Trích hồi ký " Giọt nước trong
biển cả " của Hoàng văn Hoan , trang 420 )
Nói chung thì các đồng chí trong
Đảng Cộng sản của Hồ đều ăn ở với nhau theo tinh thần
" lừa thầy phản bạn "cả, nên chuyện đấu đá giết nhau
cũng là chuyện tất yếu và thường tình thôi.
Lữ Phương có kể chuyện một người
Pháp nghiên cứu về Việt Nam là ông Hémery có tìm ra một
tờ đơn của Hồ chí Minh đề ngày 15 tháng 9 năm 1911 ở Marseille
� ký là Paul Tất Thành gửi chính phủ Pháp xin vào học trường
Ecole coloniale ( một trường đào tạo công chức cho thuộc
địa). Đây là một tài liệu mà các giới chức Hà nội tìm
cách dấu kín vì mấy mươi năm nay họ đã tuyên truyền là
Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, thế mà tới đất Pháp
Bác nộp đơn vào học trường thuộc địa thì giải thích
làm sao bây giờ ! Lữ Phương nhận định rất có lý rằng
cho dù có chuyện viết đơn này xảy ra thì chẳng hề hạ
thấp tình cảm yêu nước của ông Hồ, nhưng tất nhiên, như
vậy sẽ rất khó để tạo ra cáo chủ ý lý tưởng hóa cuộc
đời của ông từ nhỏ cho đến lớn. Thế nhưng trong cuốn
sách mới xuất bản năm 2002 tại Việt Nam nhan đề " Từ Nguyễn
ái Quốc đến Hồ chí Minh " , Lữ Phương đã thay đổi giọng
điệu và bênh vực cho Hồ chí Minh, Lữõ Phương nói rằng
bức thứ ấy là do những người chung quanh Hồ như Nguyễn
thế Truyền xúi Hồ viết. Mục đích Lữ Phương tìm cách
giải thích như thế là để chạy tội cho Hồ. Ô hay! Chuyện
gì đẹp đẽ thì cho là chính Hồ làm, chuyện gì không đẹp
thì bảo là Hồ bị người khác xúi ! Xem ra cái lý luận bênh
vực cho Hồ của Lữ Phương không công bằng chút nào. Phải
nhớ năm Hồ rời nước ra nước ngoài là năm 1911, Hồ sinh
năm 1890, như vậy khi rời nước Hồ đã 21 tuổi. Một người
21 tuổi là một người đã có sự suy nghĩ chín chắn độc
lập, không thể nói hành động của người ấy là bị người
này xúi, người kia dụ được. Hầu hết những nước trên
thế giới đều cho phép công dân 18 tuổi là có quyền lập
gia đình và đi bỏ phiếu vì khi tới 18 tuổi, con người được
coi như đủ khôn ngoan và có những suy nghĩ độc lập để
quyết định mọi chuyện. Chẳng qua vì muốn bênh Hồ mà Lữ
Phương nói người khác xúi Hồ viết lá thư không đẹp kia.
Xem ra Lữ Phương còn thiếu cái tinh thần lạnh lùng và vô
tư của người viết sử vì còn để tình cảm lấn át lý
trí trong chuyện biên soạn sách của mình.
Lữ Phương có nói chuyện ông Hồ
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin với cái tâm chứ không với
cái trí. Ông Hồ bị thúc đẩy bởi vấn đề bức xúc của
đất nước là độc lập, và nhận thấy sự hứa hẹn của
Đệ tam Quốc tế là rõ rệt và triệt để nên cuồng nhiệt
trở thành người tín đồ cuồng tín. Nhưng Lữ Phương cho
rằng đây là một sự lựa chọn bất toàn : nó có thể giành
được độc lập cho dân tộc qua các hình thức đấu tranh
bạo lực của chiến tranh nhưng đã thất bại toàn diện trong
công cuộc xây dựng khi thời bình. Lữ Phương cho ông Hồ
chỉ biết đến chức năng giải phóng của chủ nghĩa Mác
nhưng không hiểu đến triết học sâu sa của chủ nghĩa này,
như vấn đề thặng dư giá trị, lao động tha hóa, hạ tầng
cơ sở, thượng tầng kiến trúc v..v. Phải nói ông Hồ say
mê đến độ mù quáng khi đến với chủ nghĩa Mác � Lê. Trong
một bài viết ông có lần cho rằng chủ nghĩa Mác � Lê là
cái cẩm nang thần kỳ mà bất cứ lúc nào cảm thấy bế
tắc trong đấu tranh và xây dựng thì cứ lấy cái cẩm nang
thần kỳ này ra mà coi thì sẽ giải quyết được ngay vấn
đề. Ông lại đồng hóa lòng yêu chủ nghĩa với lòng yêu
nước qua câu khẩu hiệu nổi tiếng của ông : Yêu nước
là yêu chủ nghĩa xã hội. Thật ra sự phê phán của Lữ Phương
là đúng nhưng phải nhìn vào trình độ văn hóa thấp kém
của ông Hồ lúc ông đến chủ nghĩa Mác- Lê, lúc đó ông
học trung học dang dở, sang ngoại quốc bằng cách làm bồi
tàu. Ông có cái khôn lanh, láu lỉnh của một người sành
đời nhưng không có đủ kiến thức văn hóa để phân biệt
sự đúng sai của một chủ nghĩa phức tạp như chủ nghĩa
Mác nên sự hiểu biết ông về chủ nghĩa này nói chung là
hời hợt. Ông coi chủ nghĩa này như một thứ " khuôn vàng
thước ngọc " để dẫn toàn dân đi theo. Ông dùng cái bè
Mác � Lê để vượt qua con sông đấu tranh để đến bờ độc
lập. Nhưng khi được độc lập rồi, ông không đủ sáng
suốt để quăng cái bè Mác � Lê đi mà đội nó trên đầu,
dùng nó làm kim chỉ nam trong chuyện xây dựng đất nước.
Và cái bè này trở thành cái vòng kim cô ý thức hệ đè nén
sự phát triển đất nước. Ông chưa đủ can đảm quăng cái
bè đi khi sang sông. Điều đáng buồn là những người học
trò đàn em kế tục sự nghiệp cách mạng của ông cũng không
sáng suốt gì hơn ông. Cho nên tới giờ này vẫn rêu rao một
cách khá vô duyên là " Làm kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa " . Định hướng xã hội chủ nghĩa
chính là cái bè ý thức hệ mà đám lãnh đạo Đảng hôm
nay chưa gỡ bỏ ra được. Đất nước Việt Nam vẫn còn trì
trệ trong chuyện phát triển là vì như thế đấy. Đến giờ
này thì ai cũng thấy rằng chủ nghĩa Mác � Lê là vũ khí hiệu
nghiệm trong chuyện lật đổ và cướp chính quyền nhưng lại
bất lực trong chuyện phát triển đất nước như Lữ Phương
đã nhận định trong bài viết trên. Có những người lãnh
đạo trong nước thấy rõ điều đó như ông Trần xuân Bách
và muốn phát triển hệ thống đa đảng, đa nguyên để dẹp
trừ chuyện độc quyền cai trị nhưng ông Bách lại đứng
vào thế thiểu số, không đập vỡ được cái tâm thức quán
tính ù lỳ của đa số trong lãnh đạo Đảng. Bản thân ông
Bách cuối cùng bị đuổi ra khỏi Đảng vì cổ súy tư tưởng
" phản động " này. Thành ra Đảng vẫn chưa cởi bỏ được
ý thức hệ Mác-Lê để xây dựng đất nước. Vì còn giữ
hệ thống độc đảng chuyên chính là tạo môi trường cho
tham nhũng trở thành quốc nạn và sớm muộn gì cũng góp phần
làm sụp đổ bộ máy nhà nước cồng kềnh, không hữu hiệu
trong chuyện điều hành đất nước. Liên xô trước đây cũng
tự sụp đổ vì bộ máy nhà nước cồng kềnh, không hữu
hiệu chứ chẳng có ai đánh đổ cả. Liên xô hôm nay là Việt
Nam ngày mai, câu khẩu hiệu này phải nhận là có tính tiên
tri chính xác vô cùng.
Lữ Phương chỉ ra những khuyết
điểm của chế độ Mác � Lênin do ông Hồ chọn lựa đã
bộc lộ ra trong thời bình như đấu tố, cải cách ruộng
đất đã phá hoại đến tận cùng nền tảng đạo lý dân
tộc, cái cảnh con chửi cha, vợ tố chồng, họ hàng tố khổ
nhau trong cải cách ruộng đấtõ là một thứ " đạo đức
cách mạng " thời đại Hồ chí Minh. Đó là một vết nhơ
và vết nhơ này sẽ không bao giờ rửa sạch được. Chuyện
chỉnh huấn đã bơm máu đen vào cơ thể Đảng; trấn áp chà
đạp văn nghệ sĩ từ vụ Nhân văn � Giai phẩm trở về sau
đã là một sự phản bội về tự do văn hóa. Lữ phương
cho cái khẩu hiệu chế độ Cộng sản " dân chủ gấp triệu
lần tư sản " là một điều khoác lác vì chế độ này đã
đè đầu cưỡi cổ nhân dân một cách thô bỉ và thản nhiên
dưới chiêu bài " chuyên chính vô sản " ; và đã làm mất
động lực phát triển kinh tế vì chủ trương quốc doanh hóa
toàn bộ sản xuất. Khi nhà nước nắm toàn bộ sản xuất
như thế thì xảy ra cái tình trạng " cha chung không ai khóc
" để rồi đưa đến tình trạng vô trách nhiệm trong sản
xuất và cuối cùng đã gây ra sự lụn bại trong sản xuất,
nghèo nàn về kinh tế.
Quan sát những năm gần đây, trước
tình trạng suy thoái về mọi mặt của xã hội, nhà cầm quyền
tìm cách đề cao " tư tưởng Hồ chí Minh " như là một cái
bùa để hàn gắn mọi sai trái, đổ vỡ. Nhưng như Lữ Phương
có chỉ ra trong bài viết là chính bản thân Hồ chí Minh xác
nhận ông không có tư tưởng gì cả. Mọi tư tưởng đều
có Lênin và Mao trạch Đông nói ra hết rồi. Những đệ tử
sau này của ông đã gán cho ông những điều ông không có,
chẳng qua họ muốn dùng hào quang của ông để lấp liếm
những sai lầm tệ hại của bộ máy nhà nước trong công cuộc
xây dựng đất nước hiện tại. Ông viết di chúc để lại
yêu cầu được " hỏa táng " sau khi qua đời mà đám đàn
em hậu duệ có nghe lời ông đâu, chúng xây lăng dựng mả
cho ông để dùng thân xác ông như một biểu tượng có lợi
cho sự nghiệp cách mạng của chúng, chúng chỉ dùng ông như
một thứ bung xung không hơn không kém. Về điểm này thì phải
nói là Hồ chí Minh giống vua Bảo Đại, bị người khác dùng
uy tín của mình để sử dụng cho những chuyện riêng. Thực
dân Pháp dùng Bảo Đại như một loại bù nhìn thì Đảng
Cộng sản cũng sử dụng uy tín, tên tuổi Hồ chí Minh như
một hình tượng không hơn không kém vào lúc ông còn sống
và ngay cả khi ông đã qua đời. Thực tế đã cho thấy rằng
chủ nghĩa Mác không giải quyết được bài toán dân chủ
và xây dựng trong thời đại ngày nay. Chuyện Đảng Cộng
sản cố gắng thổi phồng tên tuổi cùng tư tưởng Hồ chí
Minh chỉ là một trò phù thủy gọi hồn âm binh để rồi
không mang lại kết quả gì trước sự chán chường mệt mỏi
của nhân tâm.
Lữ phương phê phán Hồ chí Minh
là một người yêu nước, nhưng là một người yêu nước
theo phương thức của Lênin, một người đã có đem lại cho
đất nước sự tự chủ và thống nhất nhưng cũng lại là
một người đã cho du nhập vào đất nước một học thuyết
ngoại lai mà tác hại của nó còn kéo dài cho đến ngày nay
chưa gỡ bỏ ra được. Vâng thưa ông Lữ Phương, người Việt
Nam sẽ cởi bỏ gông xiềng Mác � Lê nếu đồng tâm cùng đứng
dậy với những nhà đấu tranh cho dân chủ để lật đổ
chế độ bán nước hại dân này.
Ngục sĩ Nguyễn chí Thiện đã có
mấy câu thơ khá hay để phê phán sự tệ hại của chũ nghĩa
Mác như sau:
" .. Học thuyết Mác, một linh
hồn u ám
Không gốc rễ gì trên mảnh
đất ông cha
Mấy chục năm phá nước,phá
nhà
Đã tới lúc lũ tông đồ phải
lôi ra pháp trường tất cả
... ( Trích từ bài trường thi
" Đồng lầy" ( 1972) )
Mặc dù phê phán mạnh mẽ những
sai lầm của Hồ chí Minh nhưng đoạn cuối bài viết Lữ Phương
vẫn xưng tụng Hồ chí Minh là một anh hùng và Lữ Phương
khuyên không nên cột chặt vận mệnh đất nước vào chọn
lựa bất toàn của người anh hùng đó. Thật ra chữ anh hùng
có ý nghĩa cao đẹp hơn nhiều. Người anh hùng ngoài chuyện
tài cao còn phải có đức hạnh, có lòng yêu thương nhân dân
sâu sắc. Chuyện Hồ chí Minh nghe lời hai quan thầy Nga và
Tàu để tiến hành cuộc cải cách ruộng đất giết hại
dân lành Việt vô tội thì không thể gọi Hồ chí Minh là
người anh hùng được. Chữ anh hùng nên dùng để chỉ những
vĩ nhân tài đức vẹn toàn của đất nước như Ngô Quyền,
Trần hưng Đạo, Quang Trung thì hơn. Có thể đánh giá Hồ
chí Minh như một gian hùng cỡ Tào Tháo, một người tuy có
tài mà không có đức chứ không thể dùng chữ " anh hùng "
để xưng tụng Hồ chí Minh như Lữ Phương xưng tụng được.
Lữ Phương cho rằng thời trai trẻ
ông quý trọng Hồ chí Minh vì sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập cho dân tộc của ông, nhưng nay khi tóc đã bạc
rồi thì Lữ Phương không thể mù quáng tin vào Hồ chí Minh
được nữa vì những lỗi lầm do chủ nghĩa Mác mà Hồ chí
Minh du nhập vào Việt Nam đã nẩy sinh ra trong sự nghiệp xây
dựng đất nước. Hồ chí Minh muốn đưa dân Việt lên thiên
đàng nhưng thực tế phũ phàng cho thấy ông đã đẩy con cháu
Lạc Hồng đang ở dưới chín tầng dịa ngục. Cái di sản
độc hại do ông để lại cho đời sau không biết đến bao
giờ mới rửa sạch hết được.
Một cuộc kháng chiến mới đã,
đang và sẽ xảy ra để phá vỡ tan tành cái ngục mang nhãn
Mác - Lê nặng nề, đầy đọa đó để tháo cũi sổ lồng
cho 80 triệu dân Việt đau thương bất hạnh hầu có thể xây
dựng một nước Việt Nam tự do và phú cường thật sự.
Lawndale, một chiều nóng hâm hấp,
bức bối giữa tháng 9 năm 2004
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
|