THÔNG
ÐIỆP CHÍNH TRỊ TRONG ÐOẠN TUYỆT
(Update Feb.08.02)
Từ trước đến
nay, những nhà phê bình văn học
vẫn coi tiểu thuyết " Ðoạn Tuyệt"
của văn hào Nhất Linh là một
cuốn tiểu thuyết luận đề. Luận
đề ở đây là sự
xung đột giữa cái mới và
cái cũ. Loan, nhân vật chính trong
truyện, tượng trưng cho phái mới
tân học, đã xung khắc kịch liệt
với phái cũ, mà Thân chồng
Loan cùng bà Phán Lợi, mẹ của
Thân là người đại diện.
Tôi thuyết trình cuốn
tiểu thuyết này trước lớp
từ lúc còn ở trung học.
Ðã mấy chục năm qua rồi mà
trong đầu óc tôi còn lấn
cấn một tình tiết trong truyện. Ðể
dàn xếp cho cái mới, cái
cũ gặp nhau rồi sự xung đột
không thể tránh nổi đã xảy
ra để cuối cùng dẫn đến
sự " đoạn tuyệt", tác giả
Nhất Linh cho bà Hai mẹ của Loan mắc
nợ bà Phán Lợi ( mẹ của
Thân) một món nợ để rồi
phải gả Loan cho Thân như là một
cách để trừ nợ.
Thật ra đối với
một người thanh niên như Thân,
sinh ra trong một gia đình tương đối
khá giả như nhà bà Phán Lợi
vào thời Pháp thuộc, chuyện Thân
kiếm một người vợ không
thể là một chuyện quá khó khăn,
thế thì Thân cần gì phải đi
lấy vợ theo cái kiểu trừ
nợ cho gia đình vợ. Thân sẽ
dễ dàng lấy một người
con gái làm lụng tần tảo và
đẻ nhiều để làm vừa
lòng nhà chồng ( mẫu người
đàn bà này có thể tìm
thấy ở Tuất, người vợ
kế của Thân mà bà Phán Lợi
đã cưới cho Thân sau khi Loan
bị tuyệt tự). Từ đầu
chuyện, Nhất Linh chưa bao giờ cho thấy
Thân say mê sắc đẹp của Loan
một chút gì. Nếu Thân say mê
Loan để rồi nhất định phải
lấy Loan cho bằng được, và
Loan dù không thích lấy Thân, nhưng
cũng đành chấp nhận lấy Thân
để trừ nợ cho gia đình
thì câu chuyện sẽ trở nên
hợp lý hợp tình biết bao.
Cho nên chuyện Loan lấy Thân để
trừ nợ trong khi Thân chưa tỏ
vẻ gì yêu thích Loan đã nói
lên cách dựng chuyện khá gò
ép của Nhất Linh. Dù sao đây
cũng chỉ là một hạt bụi trong tuyệt
phẩm Ðoạn Tuyệt.
"Ðoạn Tuyệt " đã
gây ra hai thái độ thưởng
thức chống đối nhau. Trương
Chính thì cho rằng :
" Ðoạn Tuyệt là một
kiệt tác trong văn học hiện đại.
Và " Ðoạn Tuyệt " không chỉ có
một giá trị xã hội. Nó còn
có một giá trị tâm lý không
ai chối cãi được."
Nguyễn công Hoan, trái
lại, phản đối :
" Ðoạn Tuyệt " theo ý
ông, nếu không là khí giới
của kẻ chủ tâm phá hoại thì
cũng là phương lược cuối
cùng của nhà cách mạng cực
đoan."
Tuy nhiên, dù " Ðoạn
Tuyệt " có đôi chỗ quá khích,
nhưng Nhất Linh đã đưa ra một
quan niệm để giải phóng cho cá
nhân khỏi bị sự câu thúc
vô lý của chế độ đại
gia đình. Sự dằng co của cá
nhân và gia đình đã được
giải quyết ổn định. (1)
Ðọc xong cuốn Ðoạn
Tuyệt , người đọc thấy thương
Loan và ghét cay ghét đắng bà
Phán Lợi thì coi như Nhất Linh
đã thành công trong chuyện cổ
võ lối sống mới và từ
bỏ chế độ đại gia đình
tù túng cổ hủ vốn đã
giết hạnh phúc của biết bao thiếu
nữ lớn lên như Loan.
Ngoài việc đưa ra sự
xung đột giữa cũ và mới,
Nhất Linh còn đưa vào một thông
điệp chính trị mà phải tinh ý
lắm người ta mới nhận thấy.
Trong đoạn tả Dũng ăn tết ở
nhà một người bạn tên Ðộ
ở một vùng đồn điền
xa xôi, Nhất Linh viết :
" Một buổi chiều về
cuối năm, một buổi chiều êm
như giấc mộng; mấy cây thông ở
đầu hiên nhà đứng lặng
yên, đợi gió.
Dũng và Ðộ, hai
người thẫn thờ, không nói,
ngả đầu vào lưng ghế, nhìn
khói thuốc từ từ tan ra ngoài
nhà rồi tan vào khoảng không.
Trên bàn phủ vải
trắng, có để một chai rượu
mùi, hai cái cốc đầy rượu
và một đĩa quả: sắc thủy
tinh trong, pha với màu xanh,vàng, đỏ
của trái cây, diễn ra trong một quang
cảnh ấm áp.
Ngoài kia, ánh nắng vàng
buổi chiều như tiếc ngày cuối
cùng của một năm, còn lảng vảng
trên các ngọn đồi, chòm cây
lướt thướt trên những
cánh đồng cỏ màu xanh già.
Những thôn xóm rải rác dưới
chân đồi hay bên bờ con sông
trắng cong queo như bị đè nén
dưới vẻ to tát của trời
đất rộng rãi. Khói thổi cơm
chiều ở một vài nhà gần
như không có sức lên cao nữa,
tỏa ra thành những đám màu
lam ôm lấy các mái tranh.
Tiếng người gọi
nhau ở dưới đồng đưa
lên khiến Dũng nghĩ đến cái
đời của dân quê, cái
đời lạnh lẽo, vô vị kéo
dài đã mấy nghìn năm. Ðã
mấy nghìn năm, họ sống như bám
lấy mảnh đất già cỗi, xưa
thế nào giờ vẫn thế, vui
ít khổ nhiều, bao giờ cũng
thảm đạm như buổi chiều đông
này, không hề khao khát một cảnh
đời sáng sủa hơn, mong ước
một ngàỳ mai tốt đẹp hơn
ngày hôm nay.
Chiều hôm ấy, Dũng
như cảm thấy tâm hồn của đất
nước, mà biểu hiện cho đất
nước đây không phải là
những vua chúa danh nhân, mà chính
là đám dân hèn không tên
không tuổi. Dân là nước.
Yêu nước chính là yêu chung
đám thường dân, nghĩ đến
sự đau khổ của đám thường
dân.
Quanh năm xuôi ngược,
dừng chân lại ít ngày ở
đồn điền một người
bạn thân, ngồi nhàn nhã uống
cốc rượu tiễn năm trong một
tòa nhà gạch sang trọng, Dũng vẫn
thấy mình là một người
dân và càng cảm thấy cái
thú man mác được hòa với
đám dân không tên tuổi, sống
cái đời của họ sống,
mong ước như họ mong ước,
khác nào một cây cỏ lẫn trong
muôn nghìn cây cỏ ngoài nội.."
(Ðoạn Tuyệt) Trang 103- 104
Thông điệp chính trị
mà Nhất Linh muốn nhắc nhở
ở đây là , " Dân là
nước. Yêu nước chính
là yêu chung đám thường
dân, nghĩ đến sự đau khổ
của đám thường dân."
Trong tác phẩm " Ðôi
bạn" một lần nữa Nhất Linh lại
bày tỏ lòng yêu dân chân thành
qua những suy nghĩ của nhân vật
Dũng trong truyện :
" Dũng châm một điếu
thuốc lá hút rồi đưa mắt
ngắm nghía đám người nhà
quê thảm đạm, quần áo xơ
xác trước gió, đương
đứng đợi bên bờ
sông. Họ đứng yên, không
nói, vẻ mặt bình tĩnh, không
nghĩ ngợi gì về chuyến đò
mà họ đợi sang. Dũng thấy
là hình ảnh của cả cuộc đời
; họ sinh ra, sống thản nhiên không
hiểu vì cớ gì , rồi lại
khuất đi như những người
bộ hành, một chiều đông, qua
bến đò, in bóng trong chốc lát
trên dòng nước trắng của
cuộc đời chảy mãi không
ngừng."
Ðôi Bạn ( trang 70-71)
Nói chung suy nghĩ của
Dũng trong " Ðoạn Tuyệt " và " Ðôi
Bạn" đều là biểu hiện lòng
thương cảm sâu xa với người
dân nghèo khổ ở thôn quê
cũng như ước mong họ sẽ có
một cuộc đời tươi sáng
hơn trong những ngày sắp tới.
Họ là hình ảnh tiêu biểu của
đất nước. Yêu nước
là yêu những người dân
nghèo khổ, bất hạnh này.
Cái điều Nhất
Linh đưa ra trên đây xem ra có
vẻ đơn giản nhưng cứ nhìn
lịch sử Việt Nam thì mới
thấy câu nói trên là một câu
nói sâu sắc, thâm trầm. Hưng
Ðạo Ðại Vương trước
khi mất đã trăn trối với
vua Trần anh Tông bí quyết giữ
nước hay nhất chính là phải
" khoan dùng sức dân để làm
cái kế sâu rễ bền gốc" (
thương dân). :
" ..Làm thế nào thu hút
được quân lính như cha con một
nhà mới có thể dùng để
chiến thắng được. Và phải
khoan dùng sức dân để làm
cái kế sâu rễ bền gốc, đó
là thượng sách giữ nước,
không còn gì hơn."
Cuộc đời Trần
Hưng Ðạo là một tấm gương
phản chiếu chính xác các quan điểm
trung hiếu của ông. Ông quả là
một tấm gương đẹp đẽ
và trong sáng cho muôn đời
soi. Ông coi quyền lợi của tổ
quốc là quyền lợi tối thượng
nên ông không vâng lời trối
trăn của cha để trả thù riêng
cho gia đình. Bản thân ông, ông
giải tỏa mối hiềm khích lâu
ngày với Thượng thư Trần
quang Khải. Ông đối xử với
gia nô như khách quý, thương quân
( " cùng sĩ tốt ăn uống thì
sĩ tốt quên được nỗi
đói khát trên lưng ngựa,
cùng sĩ tốt lên đài đi
giày thì sau sĩ tốt quên được
nạn chông gai ở ngoài quan ải,
cùng sĩ tốt cùng dậy cùng
nghỉ thì sau sĩ tốt quên được
nỗi lao khổ của chiến chinh, lo cái
lo của quân lính thì sau quân lính
quên được vết thương
vì gươm tên"), thương dân như
con ruột nên dưới sự chỉ
huy của ông, dân quân nước
Nam ta đã đánh quân xâm lăng
Mông cổ mấy lần xiểng niểng,
tô đậm thêm nét vàng son hoa
gấm cho lịch sử dân tộc.
Ðầu thế kỷ 20 có
một người thanh niên tên Nguyễn
tất Thành lên đường ra
hải ngoại. Lúc đầu anh viết
thư xin vào trường Thuộc địa
để học. Không được chấp
nhận anh đi hoạt động cách mạng
với cái tên là Nguyễn Aùi
Quốc ( Ái Quốc nghĩa là yêu
nước ấy mà!). Dĩ nhiên
không phải anh ta lấy cái tên " Ái
Quốc" là chúng ta đã mặc nhiên
công nhận anh là người " yêu
nước". Cần phải nhận rõ
ở đây là trong đầu óc
của Nguyễn ái Quốc, tình yêu
nước gắn liền và đồng
hóa với chủ nghĩa xã hội.
Lúc mới về nước để
hoạt động dưới cái tên
Hồ chí Minh , anh ta đã lấy tên
Lê Nin và Các Mác để đặt
tên cho sông núi Việt Nam ( Kia suối
Lê Nin đây núi Mác- Hai tay gầy
dựng một sơn hà! - ( thơ Hồ
chí Minh) ). Khi đã nắm được
chính quyền anh đưa ra quan niệm yêu
nước thật kỳ quái " Yêu
nước là yêu chủ nghĩa xã
hội." Có nghĩa yêu nước
là phải yêu Các Mác, yêu Lê
Nin, hay có thể nói ngược lại
là " Không yêu Các Mác, Lê
Nin là..không yêu nước." Tới
ngày hấp hối trước khi lâm
chung, anh để lại di chúc ao ước
được đi gặp cụ Mác,
cụ Lê Nin. Thật là từ trước
đến nay chưa bao giờ thấy một
người Việt Nam vong bản như Nguyễn
ái Quốc. Phải nói là anh đã
bán linh hồn cho quỷ đỏ, mở
mắt ra là thấy Mác, Lê Nin, không
hiểu anh ta yêu nước ở chỗ
nào mà lấy tên là " Ái Quốc"!
Chủ nghĩa Mác Lê
Nin ngày nay đang phá sản trên toàn
thế giới, ngay cả đất nước
sản sinh ra nó là Liên Xô, thế
mà ngày nay nếu không còn yêu
chủ nghĩa Mác- Lê Nin thì coi như
không còn yêu nước nữa
hay sao? Nói lên điểm này để
thấy cái bế tắc của tư tưởng
Hồ chí Minh nói riêng và chế
độ cộng sản Việt Nam nói chung
hiện nay. Cho nên phải nhận định
thẳng thắn là tình yêu nước
của Nguyễn Ái Quốc đối với
đất nước Việt Nam khác
với những nhà ái quốc
dân tộc như Phan đình Phùng, Nguyễn
thái Học. Chuyện anh ta chống Pháp
vì lòng yêu nước hay chỉ
làm tay sai cho Quốc tế thứ ba thì
chuyện đó hãy còn gây tranh
cãi trong giới chính trị và
sử học.
Hãy nhìn kỹ những
đồ đệ hậu duệ của anh ta
như Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm
văn Ðồng, Võ nguyên Giáp đã
lộ rõ là một bọn phản dân,
hại nước, đã im thin thít
một cách hèn hạ và vô liêm
sĩ lúc Trung Cọng cho quân đánh
chiếm Hoàng Sa năm 1974, xem thế thì
đủ thấy cái quan điểm chống
ngoại xâm của những người
cộng sản Việt Nam nó không thuần
túy giống quan điểm của người
dân thường mà đã pha màu
chủ nghĩa và ý thức hệ.
Nếu Nguyễn ái Quốc có sống
đến năm 1974 thì chắc chắn
phản ứng của anh cũng không khác
đám đồ đệ của anh vì
bản thân anh, anh đã tình nguyện
làm tên lính tiên phong hung hãn nhất
của quốc tế vô sản. Quốc tế
vô sản ( Trung Cọng) có xâm chiếm
đất nước anh thì anh chỉ
còn biết lặng thinh mà thôi. Ngay
cả lúc thời Hồ chí Minh còn
sống, một người tay chân của
ông là thủ tướng Phạm văn
Ðồng đã viết công hàm
ngoại giao xác nhận chủ quyền của
Trung Cọng trên quần đảo Hoàng
Sa. Ðúng là những người
cộng sản đã bán nước
có văn tự hẳn hoi! Ðối
với người cộng sản Việt
Nam thì chuyện chống Tây, đánh
Mỹ để làm nghĩa vụ với
Quốc tế Cộng sản chứ chưa
chắc là chuyện thuần túy đem
lại độc lập cho xứ sở
như Hai bà Trưng đánh quân Hán,
Lê Lợi đánh quân Minh và
Quang Trung đánh quân Thanh, và sự
im lặng của chế độ Cộng sản
Hà Nội lúc Trung Cộng xâm chiếm
đảo Hoàng Sa đã chứng
minh hùng hồn bản chất phi dân tộc
của bọn lãnh đạo Bắc bộ
phủ.
Cho nên chuyện Nguyễn Ái
Quốc có yêu nước hay không
thì hãy còn hạ hồi phân giải
nhưng dứt khoát ông không phải
là người thương dân. Cứ
nhìn cuộc cải cách ruộng đất
tàn bạo ở Miền Bắc do anh ta
phát động đã giết đi
hàng trăm ngàn người thì
mới thấy cái " lòng lang dạ
thú" của Nguyễn Ái Quốc đối
với đồng bào ruột thịt.
Những nhà báo, nhà sử
học Tây Phương đưa ra con số
nạn nhân của cải cách ruộng đất
chừng hai đến ba trăm ngàn người,
Nguyễn chí Thiện đưa ra con số
nửa triệu người ( " Nó là
tên trùm đao phủ năm nào. Hồi
cải cách đã đem tù đem
bắn. Ðộ nửa triệu nông dân
rồi bảo là nhầm lẫn! ( Nguyễn
chí Thiện ( Không có gì quý
hơn độc lập, tự do) ). Chuyện
đem Trường Chinh ra thanh trừng
sau khi toàn dân Miền Bắc phẫn nộ
chỉ là trò " dê tế thần "
. Phải sáng suốt nhận rõ thủ
phạm trong cuộc cải cách ruộng đất
chính là người có tên
rất đẹp là Nguyễn Ái Quốc.
Tự nhận mình là người
yêu nước mà lại không thương
dân, giết dân như giết kẻ thù,
đúng là chỉ có cộng sản
mới có thể làm như thế.
Phải nói mà không sợ sai lầm
rằng Nguyễn ái Quốc đã giết
nhiều dân Việt Nam còn nhiều hơn
là thực dân Pháp, đó là
một sự thật phũ phàng và
mai mỉa và là một vết nhơ trong
lịch sử mà người cộng
sản không bao giờ có thể rửa
sạch được.
Nếu xét đoán tổng
thống Ngô đình Diệm của miền
nam dưới tiêu chuẩn " Yêu nước
thì phải thương dân" thì lại
lòi ra một nghịch lý trớ trêu
là " Ngô đình Diệm yêu nước
chứ không thương dân".
Từ thập niên 30 lúc
quan thượng thư Ngô đình Diệm
treo áo từ quan đã làm nhiều
người kính phục. Nhà văn
Nguyễn Vỹ trong tác phẩm " Tuấn,
chàng trai nước Việt" cho rằng
Ngô đình Diệm từ quan vì
thấy không đương đầu nổi
với địch thủ là học giả
Phạm Quỳnh. Nhưng dư luận chung đánh
giá ông Diệm là người yêu
nước, quyết từ quan vì thấy
thái độ của người Pháp
không thật lòng trao trả quyền hành
cho triều đình Huế. Ông sống
một cuộc đời thanh liêm trong sạch
trong khi làm quan nên sự đánh
giá ông là người yêu nước
là một sự đánh giá khả
tín.
Hồ sĩ Khuê, một trong
những người cộng tác với
ông Diệm từ những ngày phôi
thai của chế độ Ðệ nhất
cộng hòa, sau này có viết một
cuốn sách tên " Hồ chí Minh, Ngô
đình Diệm và mặt trận giải
phóng" có đưa ra những lời
nhận định chính xác về ông
Diệm như sau:
" ...Ông ( Diệm) chỉ tin dùng
những người ông vừa
ý. Ông tập họp và dung túng
một lớp tay chân khuyển mã, chỉ
đau đáu giữ mình thế
nào cho khỏi bị thất sủng, lo làm
vừa lòng ông hơn là làm
nên việc cho ông. ( Trang 321, 331)
.... Ở thượng tầng,
người Trung, người Bắc đều
bị kỳ thị tất, chứ chẳng
phải chỉ người Nam. Chẳng có
lấy một ai chen vào trung tâm quyết
định quyền chính được.
Việc nước là việc riêng của
anh em ông, của gia đình ông.. Người
trong nước gọi chung là " Gia đình
trị ".
... Ông Diệm yêu nước
cách trọn vẹn, lấy đất nước
làm cứu cánh tuyệt đối
của ông. Tất cả con người
ông, ông dành trọn cho đất nước.
Nhưng ông Diệm thì không yêu dân,
chỉ bắt dân phải yêu ông."(
trang 31)
Có câu chuyện nhỏ
sau đây đã nói lên chuyện
Ngô đình Diệm không thương
dân. Cụ Trần trung Dung khi tới Mỹ
sau một thời gian tù đày trong
trại tù cải tạo Cộng sản có
trả lời một cuộc phỏng vấn
và có tiết lộ một câu chuyện
như sau. Số là Tổng thống Ngô
đình Ðiệm, thường ra Huế,
vừa để giải quyết tình
hình ở miền Trung vừa thăm
thân mẫu cư ngụ tại Huế. Mỗi
lần tổng thống ra Huế, bộ thông
tin phải điều động học sinh tại
các trường ở Huế đi
đón. Một số em khi đi đón
không chịu nổi ánh nắng chói
chang của mặt trời và vì phải
ở ngoài nắng qúa lâu nên
bị xỉu. Một số người ở
bộ thông tin muốn trình bày vấn
đế này lên tổng thống để
xin miễn cho chuyện học sinh đi đón.
Nhưng vì ngại trình bày trực
tiếp với tổng thống Diệm nên
họ nói lại với ông Trần
trung Dung, lúc ấy đang làm bộ trưởng
quốc phòng, nhờ ông Dung thưa
lại với tổng thống. Ông Dung
ghi nhận ý kiến và sau đó
trình bày lại vấn đề này
với tổng thống Diệm. Theo lời
cụ Dung kể lại, khi nghe ông Dung trình
bày xong vấn đề tổng thống
nên miễn cho chuyện học sinh đi đón
vì có nhiều em xỉu vì nắng
thì tổng thống Diệm sa sầm nét
mặt và nói với ông Dung, " Bộ
tổng thống không phải là vua sao?"
Sau chuyện này, tổng thống Diệm ngày
càng lạnh nhạt với ông Dung để
rồi đưa đến chuyện ông
Dung phải từ chức Bộ trưởng
quốc phòng. Cũng xin nhắc một chi
tiết nhỏ ở đây là ông
Dung vốn là cháu rễ của ông
Diệm, ông không có gì để
hận thù ông Diệm, nên chuyện kể
lại của ông về ông Diệm có
thể coi là trung thực chứ không
giống như những chuyện tố cáo
ông Diệm của những đối
thủ của ông Diệm mà mức
độ chính xác còn phải hạ
hồi phân giải.
Nói ra chuyện này để
thấy một chuyện nhỏ là chỉ vì
đi đón tổng thống mà các
em học sinh bị xỉu thế mà tổng
thống chẳng thèm quan tâm đến
sức khỏe của các em, chỉ nghĩ
đến cá nhân mình nên muốn
có nhiều người đi đón
thì mới oai,...mới giống vua!
Ông Diệm đã thể hiện rất
rõ cái lòng dạ dửng dưng
lạnh nhạt với dân mà chuyện
coi thường việc mấy em học sinh
bị xỉu là một ví dụ điển
hình rõ rệt nhất.
Rõ ràng ông Diệm
có yêu nước nhưng không thương
dân. Nhận xét này xem ra có vẻ
nghịch lý nhưng thực tế phũ
phàng cho thấy tổng thống Diệm đã
xử sự như vậy. Yêu nước
không có nghĩa là thương dân.
Yêu nước là một chuyện mà
thương dân là một chuyện khác.
Tấm lòng đối với đất
nước không nhất thiết là
coi như có lòng thương đến
đồng bào. Thường hai chữ
" yêu nước" đi chung với
" thương dân" nên người ta
có thói quen nghĩ rằng hễ yêu
nước là đương nhiên
phải thương dân rồi. Thực tế
cho thấy không nhất thiết như vậy.
Câu thông điệp chính trị Nhất
Linh gửi gấm trong " Ðoạn Tuyệt
" Yêu nước là thương dân"
thoạt mới nghe qua thì trông có
vẻ đơn giản, bình thường
nhưng cứ nhìn cách hành xử
của hai ông Nguyễn ái Quốc và
Ngô đình Diệm thì mới thấy
câu nói trên thâm thúy và
sâu sắc đến dường nào..
Còn nếu nói chuyện
thương dân thì thương như thế
nào? Qua bài thơ " Cây" , nhà thơ
Nguyễn chí Thiện đã xót ra
trước quê hương đau khổ
và sự còi chột của đồng
bào. Ðó là sự thể hiện
rõ ràng nhất của lòng thương
dân:
CÂY
Cùng với muôn
loài, Ta sinh ra và lớn lên trong
không gian man rợ
Gốc rễ của ta nằm
sâu trong lòng đất đai xứ
sở.
Nhờ ánh sáng
mặt trời và những hạt nước
mưa
Từ những chất
vô cơ ngày đêm vận hành
trong vũ trụ
Ta hút vào, nhả ra,
thành hoa, thành nụ
Và lớn lên,
nhọc nhằn từng vụ
Quê hương ta thường
ăn chẳng đủ
Nắng hạn, sâu trời,
binh lửa ly tan.
Ðàn em ta còi chột
cơ hàn
Nhựa sống kiệt dần,
héo rũ.
Bao năm qua sài lang làm
chủ
Bách tính muôn loài
hiến máu phơi da
Ðêm đêm thường
thao thức cùng ta
Sông núi âm thầm
chẳng ngủ
Ta không có giấc mơ,
mơ mình thành loài tượng
thụ
Muôn đời trụ
với thời gian
Ta chỉ mong sao trên mảnh
đất suy tàn
Ðược góp
một phần trái hoa phong phú
Thân mình ta thời
gian tụ mủ
Những mũi tên
thù, những vết dao đâm
Nơi rừng thiêng
giam hãm thầm câm
Hoa trái của ta thâm
bầm nở nụ
Xung quanh ta màu rêu xám
phủ
Lá rụng, thu buồn,
mốc ẩm, âm u
Ta đứng im, in bóng
xuống ao tù
Gió lộng tầng cao ào
ào nhắc nhủ
Ta vững tin, đất
trời kia chẳng phụ
Công đất vun bồi
nuôi dưỡng thân ta
Trong đêm cùng vùng
nhiệt đới bao la
Trái lửa của ta
sẽ bùng lên vạn ánh !.
(1974)
Nguyễn chí Thiện không
chỉ yêu quê hương và đồng
bào bằng những lời thơ
suông. Năm 1979 ông đã dũng
cảm xông vào tòa đại sứ
Anh tại Hà nội để giao tập thơ
" Hoa địa ngục" nhằm tố cáo
những tội ác man rợ của cộng
sản đối với đồng bào
Việt Nam. Lá thư viết bằng tiếng
Pháp kèm theo tập thơ có đoạn
viết, " Tôi nghĩ rằng không phải
ai khác mà chính chúng tôi, những
nạn nhân có sứ mạng phải
phơi bày cho thế giới thấy
những khổ nhục không thể tưởng
tượng nổi của dân tộc tôi,
hiện vẫn còn đang bị áp bức
và hành hạ thẳng tay. Cuộc đời
tan nát của tôi chỉ còn một hy
vọng là mong được thấy thế
giới ý thức rằng Cộng
sản là một bệnh dịch khủng khiếp
của nhân loại. Xin ông nhận nơi
đây lòng biết ơn sâu xa của
tôi cũng như những đồng
bào bất hạnh của tôi." Chính
vì lòng thương đồng bào
sâu xa mà ông quên đi những
cực hình đang chờ đợi
ông sau khi quăng xong tập thơ. Ðồng
bào hải ngoại cũng như quốc nội
đều yêu quý ông vì tấm
lòng thiết tha,vì ý chí dũng
cảm của ông với dân, với
nước. Hành động anh hùng
này xem ra cũng hào hùng, đẹp
đẽ như hình ảnh của người
hùng Lý Tống cướp máy
bay tung 50000 tờ truyền đơn xuống
Sài gòn kêu gọi dân chúng nổi
dậy. Phải có những người
anh hùng như Lý Tống, Nguyễn chí
Thiện thì quê hương Việt Nam mới
mong có ngày cởi bỏ gông cùm
cộng sản. Mới đây, trong một
bài tham luận gửi tới một
hội nghị tại Hòa Lan, Thượng
Tọa Tuệ Sỹ cũng khẳng định."
Trí thức chân chính Việt Nam không
bao giờ khiếp nhược."
Trở lại với
tác phẩm Ðoạn Tuyệt, khi kín đáo
gửi gấm thông điệp chính
trị của mình trong một cuốn tiểu
thuyết, Nhất Linh đã phần nào
hé mở tâm tư của mình với
dân với nước. Cuộc đời
của Nhất Linh Nguyễn tường Tam
là một hình ảnh trong sáng, tuyệt
đẹp của một người trí
thức chân chính. Chúng ta có
thể tìm thấy thấp thoáng hình
ảnh của Nhất Linh trong nhân vật Dũng
của " Ðoạn Tuyệt " và " Ðôi
Bạn" . Ngay thời gian còn viết lách,
ông đã quan tâm đến chỗ
ở của dân nghèo và đã
đề ra chương trình " Nhà Ánh
Sáng " với ước mong chiếu
rọi tia sáng vào nơi tối tăm,
thêm một ít vui cho cái đời
buồn tẻ của dân nghèo. Trong bài
diễn văn đọc khi khai mạc chương
trình, Nhất Linh đã nói lên
tấm lòng thương dân của ông:
" ....Ðã từ lâu,
những người nhiễm học mới
nhiều lần được thấy, khi
đọc sách, đọc báo, xem tranh
ảnh, hoặc trong các rạp chiếu bóng
hay khi đi du lịch nước ngoài,
những cảnh đời khác hẳn
với cảnh đời ảm đạm,
buồn nản của dân quê trong những
túp nhà tăm tối -chung quanh mình
- những người đó chắc
đã nhiều lần nảy ra trong trí
câu hỏi đau đớn này :
- Liệu có thể đổi
khác được không?
Nhưng ai nấy cũng chỉ
chua chát nhận ra rằng việc ấy khó
khăn quá, gần như không thể được.
Câu hỏi trên kia nảy
ra trong óc các bạn chỉ như một
tia sáng yếu ớt lóe ra trong đêm
tối dày đặc, chỉ như một
giây phút hy vọng biến ngay thành
một nỗi thất vọng dài và chua
xót.
Nhưng bao giờ cũng
vậy: đã nghĩ đến thay đổi
thì rồi sẽ có sự thay đổi..
... Vì thế hội ta không
phải là một hội chỉ lập ra để
làm phúc. Ðem một người
yếu vì ở khổ sở về
săn sóc, chữa chạy cho khỏi, rồi
lại thả người ta về chỗ
ở khổ sở, rồi người
ta lại đau yếu như trước,
tức là làm một việc từ
thiện, nhưng chỉ biết làm một việc
từ thiện thôi không đủ,
cần xét đến căn nguyên và
trừ tiệt cội rễ của những
sự khốn khó ở đời.
... Xin các bạn nhiệt liệt
cổ động cho hội Ánh Sáng để
hội có hàng nghìn, hàng vạn
, hàng triệu người. Thêm một
hội viên tức là thêm một
tia sáng chiếu rọi vào nơi tối
tăm, thêm một ít vui cho cái đời
buồn tẻ của dân nghèo, thêm
một sự thay đổi cho cái xã
hội rất chậm thay đổi của ta.
Các bạn sẽ thấy
một cái mộng của đời mình
biến thành sự thực, các bạn
sẽ được vui thấy hội Ánh
Sáng đem ánh sáng chiếu rọi
vào tận các làng xa, xóm hẻm,
và cái xã hội thảm đạm,
tối tăm của ta đây, nhờ
đó không bao lâu sẽ biến thành
một xã hội đẹp đẽ, vui
tươi, một xã hội ánh sáng."
( Ngày Nay số 74- 29.8.1937)
(2)
Chỉ riêng hành động
đề ra và cổ võ xây nhà
Ánh Sáng cho dân nghèo cũng đủ
nói lên tấm lòng thương dân
của Nhất Linh. Còn đối với
nước, khi cuộc kháng chiến chống
Pháp bùng nổ, ông cũng như bao
nhiêu người dân yêu nước
khác đều lên đường
đấu tranh. Ông bôn ba trong và ngoài
nước để rồi sau đó.
giữ chức bộ trưởng ngoại
giao trong chính phủ liên hiệp của Hồ
chí Minh. Ông có lần làm trưởng
đoàn ( Võ nguyên Giáp làm
phó ) dẫn phái đoàn chính
phủ Việt Nam đi Ðà Lạt dự
hội nghị với Pháp.
Một người yêu
nước thương dân như Nhất
Linh để rồi phải chấm dứt
cuộc đời một cách bi thảm
vì sự xuẩn động của chính
quyền đệ nhất của cộng hòa
của Miền nam thì quả làø một
sự mất mát to lớn cho quê
hương đất nước. Trước
ngày bị đưa ra tòa, ông quyết
định tự hủy mình và đã
để lại lời di chúc chính
trị bất tử:
" Ðời tôi để
lịch sử xử, tôi không chịu
để ai xử cả. Sự bắt
bớ và xử tội tất cả
các phần tử đối lập quốc
gia là một tội nặng, sẽ làm cho
nước mất về tay Cộng sản.
Tôi chống đối sự
đó và tự hủy mình, cũng
như Hòa thượng Thích Quảng
Ðức tự thiêu , để cảnh
cáo những người chà đạp
lên mọi thứ tự do."
Nhất Linh Nguyễn tường
Tam (7-7-1963)
Cái chết thảm khốc
của Nhất Linh đã là tiếng
cá đóng vào quan tài của
chế độ Diệmä, bốn tháng
sau, chế độ đệ nhất cộng
hòa của Tổng thống Ngô đình
Diệm sụp đổ. Luật sư Dương
Kiền có nhận xét :
" Con người mang tên
hai chữ Nhất Linh trong suốt cuộc đời
đã không làm điều gì
vô ích, kể cả điều mà
thông thường con người không
có quyền làm, là sự chết."
Nhất Linh tuyên bố là
đời ông để cho lịch sử
xử ông. Và cho tới giờ
phút này lịch sử Việt Nam ghi
nhận ông là một con người
yêu nước, thương dân, ông
đã làm đúng như cái
thông điệp chính trị mà ông
gửi trong Ðoạn Tuyệt " Yêu nước
chính là yêu chung đám thường
dân, nghĩ đến sự đau khổ
của đám thường dân." Cái
chết oan nghiệt của Nhất Linh làm
cho ta nghĩ đến cái chết thảm
của thánh Gandhi của Ấn Ðộ.
Thật là khó hiểu và đau đớn
khi thấy những người hết
đời tận tụy với nước
với dân như Gandhi và Nhất Linh
lại có đoạn cuối cuộc đời
bi thảm tàn khốc đến như vậy.
Nói chung là vì còn có những
thế lực gian ma, phản nước
hại dân đã giết hại đi
những người con ưu tú của
đất nước. Họ chết đi
nhưng tấm lòng trung trinh với nước
với dân vẫn còn sáng vằng
vặc như ánh trăng ngày rằm đến
muôn đời.
Ðất nước Việt
Nam mấy chục năm nay còn lầm than,
điêu linh khốn khổ vì những
người lãnh đạo, nói chung
cả hai miền Nam Bắc, đã không
có được cái tinh thần của
thông điệp trong Ðoạn Tuyệt . Họ
đã không yêu nước mà
cũng chẳng thương dân, chỉ cam
phận làm tay sai cho những thế lực
quốc tế nên đất nước
vẫn còn đen tối như đêm
ba mươi. Tuy nhiên, khi nhìn tấm lòng
đối với dân, với nước
của Nguyễn chí Thiện, của Lý
Tống và những nhà tranh đấu
khác như Nguyễn đan Quế, Nguyễn
thanh Giang, Hòa Thượng Quảng Ðộ,
Huyền Quang, Trí Siêu, Tuệ Sỹ làm
cho ta vững tin là một bình minh của
dân tộc Việt Nam chắc chắn sẽ
tới. Ngày sụp đổ của bạo
quyền Việt Cộng chắc chắc là
điều tất yếu sẽ đến
và dĩ nhiên ngày cáo chung của
bạo quyền không phải là một ngày
êm ả. Guồng máy cái trị theo
kiểu bọn Mafia quốc tế của bọn
Bắc bộ phủ Hà Nội hung hiểm đang
mục rã đến tận xương tủy
và coi như đã hết thuốc chữa.
Chúng sẽ kèn cựa, tranh giành
quyền lực và giết nhau theo chiều
hướng " trâu cột ghét trâu
ăn" vì bản chất Ðảng của
chúng là một đảng cướp,
ăn ở theo lề thói " lừa
thầy phản bạn". Và khi guồng máy
nhà nước của chúng rã
rời, tê liệt đến mức
không còn che đậy được
nữa là lúc các lực lượng
đấu tranh dân chủ vùng lên
lật đổ chúng..Vấn đề
chỉ còn là thời gian. Cả nước
Việt Nam như một thùng thuốc súng
chờ ngòi nổ, và ngòi nổ
rồi sớm muộn gì cũng sẽ
được những chiến sĩ
đấu tranh yêu nước, thương
dân đem đến châm ngòi.
Những ngày đầu
năm Nhâm Ngọ ( 2002) đồng bào
trong và ngoài nước hết sức
căm phẫn trước chuyện Việt
Cộng bán nước cho Trung Cộng. Lịch
sử suốt bốn ngàn năm chống
ngoại xâm của Việt Nam đã cho
thấy mỗi lần quân xâm lược
Trung Quốc đến bờ cõi Việt
Nam là bị đánh cho tan tành. Thế
mà hôm nay là thời bình, không
hiểu vì lý do gì mà Ðảng
Cộng sản Việt Nam lại cam tâm dâng
nước cho Bắc triều. Ðây
là một trọng tội không thể tha
thứ được. Ðây là
một việc làm sai trái , phi pháp và
phản bội lại dân tộc nên phong trào
trong nước đấu tranh để
bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ
đang dâng cao và đồng bào
hải ngoại cũng nhiệt liệt ủng hộ
chuyện làm chính đáng đó.
Trên bảy mươi năm
có mặt trên đất nước
Việt Nam , Cộng sản Vyết Nam đã
gây nhiều tội ác không thể tưởng
tượng với nhân dân và
đất nước. Nhưng cho đến
chuyện bán nước hôm nay cho Trung
Cộng mới chính là giọt nước
làm tràn ly và báo hiệu cho biết
sẽ có nhiều biến động bùng
nổ trong những ngày sắp tới.
Những chiến sĩ "
yêu nước , thương dân" ở
hải ngoại và trong quốc nội dứt
khoát không bỏ qua cơ hội ngàn
năm một thuở này để đứng
dậy lật đổ bạo quyền để
mang lại sự toàn vẹn lãnh thổ
và đem lại hạnh phúc nhân quyền
cho đồng bào Việt Nam mến yêu.
Bạo quyền tồn tại là do đầu
cơ lòng yêu nước, đến
nay thì bộ mặt thật xấu xa buôn
dân bán nước đã phơi
lộ ra rõ ràng và ngày cáo
chung sụp đổ cũng đến nơi
rồi.
Mau hay chậm là do sự
tính toán ý chí chiến đấu,
sự dũng cảm của những người
lãnh đạo " yêu nước, thương
dân". Lòng phẫn uất của dân
đang ngùn ngụt bốc cháy và
chắc chắn sẽ cùng chung với
những người đấu tranh "
yêu nước , thương dân " đứng
dậy thiêu rụi bọn bạo quyền bán
nước trong một ngày rất gần.
Ngày triệu triệu trái
tim bùng nổ tung trời dứt khoát
và chắc chắn sẽ còn không
xa...
Lawndale, một chiều đầu
thu lành lạnh và ảm đạm đầu
tháng 7 năm 2001
Trần Viết
Ðại Hưng
(1) Chân dung Nhất Linh của
Nhật Thịnh ( trang 83)
(2) Chân dung Nhất Linh của
Nhật Thịnh( trang 113- 120)
|