THIÊN
TẠO VÀ NHÂN TẠO
Từ hồi khai thiên lập
địa, con người vốn sợ hãi trước những hiện tượng trong
thiên nhiên như sấm chớp bão bùng, mưa gió, nắng hạn để
rồi đi đến chuyện thờ cúng thần mưa, thần gió, thần
sấm v..v.. Dần dần do khoa học ngày càng tiến bộ, con người
ngày càng tự tin hơn và đi đến chỗ cao ngạo, cho rằng con
người có thể làm ra được tất cả, coi như cướp quyền
tạo hóa. Thiên tạo ( thường được gọi là Hóa công, tức
thợ trời) sẽ được bàn tay con người thay thế ( nhân tạo)
chăng? Liệu con người có thể làm ra bất cứ cái gì mà ông
trời đã sinh ra không ? Câu trả lời không đơn giản mà phải
tìm hiểu và so sánh những gì con người có thể làm và những
gì trời sinh thì mới đưa ra một kết luận khách quan và
chính xác được.
Trên trái đất này,
núi Everest là núi cao nhất thế giới với chiều cao khoảng
chừng 29028 bộ ( feet ), nghĩa là khoảng chừng 8550 m. Con người
cho đến giờ phút này chỉ xây dựng nhà chọc trời cao trên
dưới chừng 2000 m. Có lẽ không bao giờ công trình kiến trúc
của con người đạt đến độ cao 8550 m như đỉnh núi Everest.
Nói thế để thấy con người còn lâu mới qua mặt thiên nhiên
trong chuyện kiến tạo độ cao. Rồi độ sâu nhất dưới
biển được tìm thấy là một vùng biển nằm gần nước
Phi luật Tân có độ sâu chừng 10000m. Với độ sâu này còn
lâu con người, cho dù với những phương tiện đào sâu hiện
đại nhất, cũng khó mà đào được độ sâu 10000m như độ
sâu gần một eo biển ở Phi luật Tân. Con người một lần
nữa lại thua thợ trời trong chuyện đào sâu dưới nước.
Mấy trăm năm nay có
sự tranh cãi về chuyện thế giới con người và sinh vật
trên trái đất này là do Sáng tạo ( creation) hay Tiến hóa
( evolution) mà thành. Thuyết Sáng Tạo cho rằng Thượng đế
( ông trời ) sinh ra trái đất và mọi loài, trong khi thuyết
Tiến Hóa cho rằng sự sống trên trái đất có được do tiến
hóa mà thành chứ không có ai sinh ra cả. Thuyết Tiến Hóa
đã đưa ra nhiều giải thích khoa học về sự tiến hóa của
mọi loài nhưng không giải thích được mọi chuyện. Thuyết
Tiến Hóa không giải thích nổi chuyện cái trứng có trước
hay con gà có trước. Xem ra nó vẫn có những hạn chế trong
cố gắng tìm cách giải thích sự có mặt và chuyển biến
của mọi loài.
Khởi đầu là nhà khoa
học Jean Baptiste Lamarck ( 1744- 1829). Ông đưa ra một học thuyết
tương đối hoàn chỉnh về sự tiến hóa của sinh vật. Ông
thu thập và phân loại các động vật không xương sống ở
Viện Bảo tàng lịch sử tự nhiên ở Paris. Dùng phương pháp
so sánh những loài còn sống với những loài đã hóa thạch,
Lamarck nhận thấy có sự biến đổi theo trình tự thời gian
ở những hóa thạch cổ đến các hóa thạch trẻ hơn để
dẫn đến các loài hiện tại ( các dạng phức tạp hiện
nay xuất phát từ các dạng đơn giản từ thời xa xưa). Lamarck
công bố học thuyết Tiến Hóa của ông vào năm 1809. Ông cho
rằng rõ ràng là tạo hóa tạo ra mọi vật từng tí một và
nối tiếp nhau phát triển lên trong thời gian vô hạn định.
Giống như bậc thầy
đi trước Aristote, Lamarck cũng sắp xếp các sinh vật thành
những bậc thang, mỗi bậc gồm các dạng giống nhau. Ở trên
cùng là những sinh vật nhỏ li ti mà ông tin rằng chúng được
tạo thành liên tục bằng cách tự sinh sản từ các vật liệu
vô cơ. Ở trên cùng của bậc thang tiến hóa là các động
vật và thực vật phức tạp nhất. Sự tiến hóa phát sinh
do xu hướng nội tại vươn tới sự hoàn thiện. Khi một sinh
vật đạt tới tình trạng hoàn thiện, chúng sẽ thích nghi
ngày càng tốt với môi trường sống.
Lamarck còn đưa ra quan
niệm cho rằng những phần nào cơ thể được sử dụng thường
xuyên sẽ trở nên lớn hơn và mạnh hơn, trong khi những phần
của thân thể không được sử dụng sẽ bị thoái hoá và
đào thải . Ông đưa thêm quan niệm về sự di truyền các
tính chất tập nhiễm . Theo lý thuyết này, những biến đổi
mà sinh vật thu nhận được trong suốt đời sống của chúng
có thể di truyền đến cho thế hệ sau. Ví dụ cụ thể là
trường hợp của con hươu cao cổ. Theo sự giải thích của
Lamarck, tổ tiên của loài hươu này lúc đầu có cổ ngắn,
nhưng rồi cổ cứ phải vươn dài ra để có thể ăn những
lá cây ở những tàn cây cao vốn là nguồn thức ăn chính
của chúng. Sự thường xuyên phải rướn cổ như thế làm
cho cổ của con cháu chúng sẽ cứ dài ra. Cứ tiếp tục như
thế thì thế hệ sau có cổ dài hơn thế hệ trước đó và
hình thành loại hươu cao cổ như chúng ta nhìn thấy ngày nay.
Nhân nói đến loài hươu
cao cổ thì cũng nói thêm đến hai loài chim có cánh ngắn là
chim Ðà điểu ở Phi châu và chim cánh cụt ( Penguine) ở những
đảo vùng Bắc Ðại tây Dương. Hai loài chim này vì cánh ngắn
nên không bay được vì thế chúng chỉ đi hay chạy mà thôi.
Thế thì thuyết Tiến hóa giải thích hiện tượng cánh ngắn
của hai loài chim này như thế nào? Có phải vì thích ứng
với môi trường thiên nhiên mà cánh của chúng lúc đầu dài
có thể bay được, nhưng dần dần ngắn đi để có cánh ngắn
như ngày hôm nay ? Hay là khi có mặt trên trái đất thì Ðà
điểu và chim cánh cụt Penguine đã có cánh ngắn như thế
và kéo dài đặc điểm cánh ngắn và cánh cụt cho đến ngày
hôm nay? Trời sinh chúng ra như thế nào thì ngày nay chúng vẫn
giữ đặc điểm cánh ngắn như ngày nay! Thuyết tiến hóa
thật sự bế tắc nếu muốn giải thích cánh ngắn ở hai
loài chim Ðà điểu và chim cánh cụt.
Về cơ bản, quan niệm
tiến hóa của Lamarck là đúng đắn nhưng ông ít được nhắc
nhở đến sau này vì những dữ kiện tiến hóa do ông đưa
ra đã không được chứng minh đầy đủ. Nhiều thí nghiệm
lại còn cho thấy các tính chất tập nhiễm không thể di truyền
đến thế hệ sau. Chỉ có những thay đổi trong cấu trúc
di truyền của các tế bào sinh dục mới có thể truyền từ
cha mẹ đến con cái.
Sau Lamarck thì đến học
thuyết Tiến Hóa của nhà tự nhiên học Darwin ( 1809- 1882).
Darwin đã đưa ra một học thuyết toàn diện về nguồn gốc
của loài do chọn lọc tự nhiên. Theo học thuyết Darwin, tất
cả các sinh vật da dạng ngày nay là kết quả của một lịch
sử tiến hóa lâu dài. Tất cả mọi loài sinh vật thường
xuyên thay đổi và những thay đổi này của mỗi loài giúp
cho chúng thích nghi với môi trường sống. Học thuyết này
đã cho thấy không cần một bàn tay siêu nhiên nào sáng tạo
ra những sinh vật đa dạng trên trái đất. Một trong các đặc
tính chung của sinh vật là khả năng biến dị di truyền, có
nghĩa là khi có sự biến dị trên cơ thể của loài nào để
thích nghi với môi trường sống thì sự biến dị này sẽ
di truyền đến đời sau. Những biến dị này cung cấp nguyên
liệu cho sự tiến hóa hoạt động.
Darwin còn đưa ra lý
thuyết " Ðấu tranh sinh tồn ", bao gồm không chỉ sự sống
sót của một cá thể mà cả nguyên cả loài. Những cá thể
thích nghi nhất với môi trường sẽ tồn tại qua quá trình
chọn lọc tự nhiên. Trong các cá thể biến dị trong một
loài, những cá thể nào có khả năng thích nghi nhất với
môi trường sẽ có nhiều cơ hội sống sót và sinh sản để
truyền lại cho thế hệ sau những đặc điểm biến dị đó.
Sự biến thiên về sức mạnh, kích thước, hình dạng, sự
thông minh, sự chịu đựng, tuy rất nhỏ và tiến từ thấp
đến cao. Do đó, các sinh vật tồn tại hay tuyệt chủng tùy
thuộc vào khả năng thích nghi với môi trường sống chung
quanh và mọi sinh vật, kể cả con người, đều có liên hệ
với nhau và cùng tiến hóa trong nhiều triệu năm từ những
mầm sống xa xưa. Dù thuyết Tiến Hóa có những bằng chứng
khoa học nhưng các nhà sinh vật và khoa học gia vẫn còn tranh
cãi về một số chi tiết về vấn đề mầm mống nguyên thủy
từ đâu mà sinh ra, và cơ chế tiến hóa và sự vận hành
của tiến hóa ra sao.
Ngoài ra Darwin còn đưa
ra kết luận là toàn thể những động vật tương tự nhau
phải tiến hóa từ một tổ tiên chung và tất cả các sinh
vật phải tiến hóa từ một vài hoặc một tổ tiên chung
đã sống cách đây nhiều triệu năm.
Dĩ nhiên học thuyết
Tiến Hóa được coi như một thành tựu khoa học trong khi thuyết
Sáng tạo không được coi là một lý thuyết khoa học. Do đó
có sự mâu thuẫn khi dạy thuyết Sáng Tạo và Tiến Hóa trong
lớp học. Khoa học tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên
bằng quan sát trực tiếp và thực nghiệm. Những diễn giải
về những sự kiện khoa học luôn chỉ có tính cách tạm thời
và phải được kiểm chứng sau này. Trong khi thuyết Sáng tạo
chỉ căn cứ vào những lời mạc khải hay viện đến Ðấng
siêu nhiên thì không có tính khoa học vì không có bằng cớ
để chứng minh. Có sự khác biệt sâu đậm giữa niềm tin
tôn giáo vào sự Sáng Tạo và những giải thích khoa học của
thuyết Tiến Hóa. Do đó trình bày cả hai quan điểm trong lớp
học thì mang lại sự hoang mang cho học sinh vì sự mâu thuẫn
của hai học thuyết. Do đó trong lớp học nên dạy thuyết
Tiến Hóa còn cuối tuần đi nhà thờ thì ngồi nghe giảng
thuyết Sáng Tạo. Làm như vậy sẽ có sự hài hòa giữa trí
não và tinh thần. Khoa học tượng trưng cho lý trí và tôn
giáo thường đề cao phần hồn của con người. Tin tưởng
vào thuyết Tiến Hóa và có cảm tình với thuyết Sáng Tạo
thì cũng không có gì gọi là bất bình thường đối với
một con người.
Cộng sản Việt Nam vốn
đề cao với học thuyết Duy vật nên khá tâm đắc với thuyết
Tiến Hóa của Darwin, bởi vậy chúng cho giảng dạy thuyết
Tiến Hóa của Darwin trong môn Sinh vật ở bậc trung học. Thuyết
Tiến Hóa cho rằng con người ngày hôm nay là do con khỉ qua
nhiều triệu năm lao động tiến hóa mà thành. Ðiều giải
thích này không hợp lý vì cho tới ngày hôm nay có nhiều loài
khỉ và vượn, mặc dù đã lao động qua nhiều triệu năm,
vẫn ở dạng khỉ và vượn. Câu hỏi đặt ra ở đây là
theo thuyết Tiến Hóa, khỉ , vượn tiến hóa thành người
thế thì tại sao có nhiều loại khỉ, vượn vẫn không thành
người được ! Cho nên học thuyết Tiến Hóa vẫn không hoàn
chỉnh khi cố gắng giải thích về nguồn gốc của con người.
Thuyết Tiến Hóa chưa hoàn toàn đánh bại thuyết Sáng Tạo
về sự xuất hiện của con người trên trái đất.
Vào tháng 2/1997, các
nhà khoa học thuộc viện Roslin ở Edinburrgh ( Scotland) đã tạo
ra được một con cừu theo kiểu sinh sản vô tính ( cloning)
và đặt tên con cừu là Dolly. Họ lấy nhân ( chứa chất liệu
di truyền DNA) từ tế bào con cừu trưởng thành rồi đem cấy
vào một noãn bào của con cừu đã loại bỏ nhân để tạo
ra một phôi. Sau đó đem cấy phôi này vào tử cung của một
con cừu cái cưu mang cái thai và đẻ giùm. Có điều phải
nói ở đây là sau khi sinh ra được một vài năm, con cừu
sinh sản vô tính Dolly đã chết và nói chung sức khỏe nó
cũng không được lành mạnh như một con cừu được sinh ra
theo cách bình thường. Có lẽ vì sự thoái hoá gien và từ
đó ít khả năng tồn tại hơn những con vật bình thường.
Tuổi thọ của con cừu Dolly cũng ngắn thua con cừu bình thường.
Xem thế mới thấy con cừu do con người làm ra theo kiểu sinh
sản vô tính cũng không thể nào bằng được con cừu được
sinh ra bởi một con cừu đực và một con cừu cái. Một số
nhà sinh vật hăm he sẽ làm ra con người vô tính và nhiều
nước đã ra luật cấm làm chuyện này vì nó phi đạo đức.
Thử tưởng tượng một con người sinh ra không có cha và mẹ
thì tương lai và cuộc sống của người đó sẽ đi về đâu.
Ðó là chưa nói đến chuyện sức khỏe của con người vô
tính ( nếu tạo được) chắc chắn sẽ không được lành
mạnh, bình thường như một con người được hình thành do
người nam cha và người nữ mẹ. Con người còn lâu mới cướp
quyền tạo hóa trong chuyện tạo thành một con người có thể
xác và tinh thần bình thường.
Khi người đàn bà sinh
con ra thì có một điều kỳ diệu xảy ra là hai vú người
mẹ đang chứa đầy máu và thịt biến thành bầu sữa để
nuôi con. Sữa người mẹ rất phù hợp cho việc phát triển
não bộ của cháu bé. Ðây là nguồn thực phẩm thiên nhiên
có giá trị dinh dưỡng cao dành cho các cháu mới sinh. Ngoài
chuyện sữa mẹ giúp phát triển não bộ, nó còn che chở và
tăng sức đề kháng và trong ba tháng đầu từ khi mới sinh
ra, thể xác em bé chưa đủ sức đề kháng chống lại sự
bệnh hoạn từ bên ngoài vào. Sau những nghiên cứu còn cho
thấy những cháu bé bú sữa mẹ thì ít khi mắc bệnh tiêu
chảy, ít mắc bệnh béo phì và ung thư. Những chất béo trong
sữa mẹ giúp cho trung tâm hô hấp của cháu bé được mạnh
mẽ hơn. Cho tới giờ phút này mặc dù với những phương
tiện khoa học tối tân, các khoa học gia cũng không thể chế
được một loại sữa bột hay nước nào có thể so sánh với
chất lượng bổ dưỡng và chống lại bệnh tật của sữa
mẹ. Sữa bò có thể tạm thay thế sữa mẹ để nuôi trẻ
sơ sinh đối với những bà mẹ không đủ sữa cho con bú hay
bận phải đi làm không cho con bú thường xuyên được. Nhưng
sữa bò cũng có những hạn chế về mặt dinh dưỡng và không
thể so sánh với sữa mẹ. Sữa bò ở dạng bột hay đặc
do con người chế tạo ra từ sữa bò vắt từ vú bò cái không
bao giờ bằng được sữa mẹ trời sinhï. Ở Tây phương có
những ngân hàng sữa lưu trữ sữa mẹ để cung cấp cho những
đứa trẻ quen dùng sữa mẹ và dị ứng với sữa bò.
Khoa học Y khoa trong những
năm vừa qua đã có sự tiến bộ vượt bực. Riêng trong lĩnh
vực Y khoa thẩm mỹ, phải ghi nhận thiện chí và ích lợi
của các bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ đã giúp cho những đứa
trẻ lỡ sinh ra với những dị tật trên gương mặt như sứt
môi, hàm ếch có được một gương mặt lành lặn, giúp cho
các em đỡ phải mặc cảm khi lớn lên. Nhưng Y khoa thẩm mỹ
cũng khó biến một cặp cắt ti hí mắt lươn thành một cặp
mắt bồ câu to tròn. Dù tài giỏi đến đâu, các bác sĩ Y
khoa cũng khó biến người con gái với một dung nhan " ma chê
quỷ hờn " như cô nàng Thị Nở của nhà văn Nam Cao thành
một hoa hậu được ! Những chuyện bơm mông, độn ngực bằng
chất hóa học vào thân thể người đàn bà để có cặp mông
đầy và bộ ngực no tròn, khêu gợi sẽ có những hậu quả
không tốt về lâu, về dài khi chất hóa học Silicon chảy
ra. Ðiều đó cho thấy vẻ đẹp trời cho là vẻ đẹp tự
nhiên đáng quý, còn vẻ đẹp do Y khoa thẩm mỹ tạo nên là
vẻ đẹp giả tạo và có những hậu quả xấu cho sức khỏe
sau này. Nói tóm lại, cho dù thời đại tân tiến có những
mỹ phẩm tốt và dù tài nghệ giải phẫu của bác sĩ thẩm
mỹ có tài giỏi đến đâu thì cũng không tạo được một
sắc đẹp toàn mỹ nơi người đàn bà như tạo hóa đã sinh
ra. Thợ người còn lâu mới so sánh nổi với thợ trời trong
chuyện tạo nên sắc đẹp.
Một điều cần nói
thêm là cho dù ngành Y khoa ngày nay tiến bộ vượt bực thì
vẫn không tạo được giới tính cho đứa bé khi bào thai trong
bụng người mẹ được tượng hình. Ðứa bé sẽ là trai
hay gái là do trời sinh mà khoa học Y khoa không tài nào tạo
được giới tính cho đứa bé dù kiến thức Y khoa ngày nay
đủ để giải thích từ lúc bào thai được tượng hình cho
đến lúc đứa bé được sinh ra. Với kỹ thuật siêu âm người
ta có thể biết được giới tính của đứa bé khi bào thai
được vài tháng nhưng không quyết định được chuyện làm
cho bào thai là trai hay gái. Con người một lần nữa phải
chào thua ông trời trong chuyện quyết định giới tính của
bào thai là trai hay gái.
Rồi đến những thực
phẩm cải biến gien ( gene). Khoa học đã giúp cho những loại
thực phẩm như bắp, lúa có sức thu hoạch nhiều hơn nhưng
những thực phẩm này đã cho thấy chúng chứa những chất
độc và đã bị một số nước trên thế giới tẩy chay.
Cho nên khi cải biến gien để có sự thu hoạch nhiều hơn
thì rơi vào tình trạng " lợi bất cập hại ". Ở đây cũng
nói thêm là giống cá Hồi sống ngoài biển cả là một nguồn
thực phẩm tốt và nhiều chất dinh dưỡng cho con người.
Nhưng khi cá Hồi được nuôi ở trong những nông trại do con
người lập ra mà nguồn nước nuôi bị tù đọng chứ không
luân lưu như nước ngoài biển thì khi ăn những con cá Hồi
nuôi ở nông trại này, cơ thể người có nhiều nguy cơ mắc
bệnh ung thư. Rõ ràng ăn cá Hồi sống ngoài thiên nhiên thì
có nhiều chất bổ dưỡng, còn ăn cá Hồi trong những nông
trại chứa nước biển thì có nhiều nguy cơ bị mắc ung thư.
Sự khác biệt coi như đã quá rõ ràng và cho chúng ta thấy
rằng cá Hồi nuôi ngoài thiên nhiên biển cả đem lại lợi
ích cho sức khỏe con người, trong khi cá Hồi do con người
nuôi trong nông trại là một thứ thực phẩm nguy hiểm cho
sức khỏe con người.
Ngày nay con người thường
ngăn đập để tạo thành thủy điện, vốn là một nguồn
năng lượng rẻ riền và quý báu cho sự phát triển kỹ nghệ
và đời sống của dân cư. Nhưng khi xây đập để ngăn nước
lại, cái lợi là tạo thành nguồn năng lực thủy điện ích
lợi cho việc sản xuất , cái hại là làm cho môi trường
sinh thái dọc theo bờ sông bị hủy hoại và còn làm cho các
giống thủy vật sống trong dòng sông bị tiêu hao. Một ví
dụ cụ thể là chuyện xây đập thủy điện do Trung Cộng
trên sông Mekong phát xuất từ Tây Tạng và đoạn cuối thì
chảy qua Việt Nam trước khi chảy ra biển. Khi xây dựng đập
thủy điện như vậy, những loài thủy sản sống trong dòng
sông bị hao hụt khá nhiều và làm cho lưu lượng của dòng
sông yếu và cạn đi. Thường thì nước sông chảy ra biển,
nhưng khi lưu lượng dòng sông yếu đi thì có tình trạng nước
sông nhiễm mặn do nước biển chảy ngược xâm lấn vào sông.Tình
trạng nhiễm mặn đang xảy ra ở vùng Ðồng Bằng sông Cửu
Long cũng là do những đập thủy điện do Trung cộng xây ở
thượng nguồn sông Mekông gây ra. Ðiều đó cho thấy rằng
khi con người có những kế hoạch làm thay đổi thiên nhiên
theo lợi ích của mình thì sẽ có những hậu quả xảy ra
từ sự thay đổi đó. Một điều cần nói thêm là chuyện
phá rừng vô tổ chức đã là nguyên nhân gây ra lụt lội
vì khi rừng mất đi, rễ cây không còn để giữ đất , gây
ra tình trạng nước lũ .
Học giả Nguyễn hiến
Lê cũng khuyên chúng ta nên sống " thuận thiên " , có nghĩa
là sống hợp với đạo trời. Trong cuốn sách " Trang Tử Nam
Hoa Kinh" ông đã bày tỏ ý kiến của mình như sau:
" Qui tắc đầu tiên
để dưỡng sinh là thuận thiên. Một phần lớn triết học
của Trang dựng trên hai chữ thuận thiên đó. Ở trên tôi
đã dẫn bài 3 kể cách mổ bò của người bếp vua Văn Huệ.
Người đó phải hiểu rõ cơ cấu thiên nhiên của con bò,
tránh những gân, xương, chỉ lách lưỡi dao vào những kẽ,
nhờ vậy mà không tốn sức, không mòn dao. Cách đó là cách
tiếp vật mà cũng là cách dưỡng sinh, vì cơ thể của ta
cũng là " vật " . Ta phải hiểu cơ cấu của nó, hiểu các
bộ phận cần những gì, hoạt động ra sao để điều khiển
nó cho hợp với tự nhiên, chứ không mù quáng chống đối
nó. Chẳng hạn bị nóng, hoặc khi đi tả nhiều lần, khát
nước thì cứ uống; khi không thèm ăn thì cứ nhịn ăn, khi
làm việc mệt mỏi thì phải tĩnh dưỡng, đừng cố sức
làm tới kiệt quệ. Khi đau ốm thì tốt nhất là nghỉ ngơi,
ăn ít, để cơ thể tự chống với bệnh, thuốc chỉ để
giúp cơ thể thôi, không nên dùng nhiều. Bài học đó của
Trang thời nào cũng nên nhắc lại, nhất là thời này người
ta bắt thể xác và tinh thần làm việc nhiều quá, dùng thuốc
cũng nhiều quá.
Thuận thiên còn có
nghĩa là sống gần thiên nhiên, ăn những thức thiên nhiên,
đừng làm trái thiên nhiên: chúng ta ngày nay sống chen chúc
trong các thành phố thiếu không khí và nước trong sạch, ăn
những thực phẩm bón bằng phân hóa học, phun bằng những
thuốc sát trùng, cũng trái với thiên nhiên nữa. Âu, Mỹ ,
hiện đã thấy cái hại của văn minh cơ giới làm cho không
khí, nước, đất đều nhiễm độc và một mặt lập những
cơ quan nghiên cứu cách giảm những cái độc đó đi, một
mặt khuyến khích mọi người sống gần thiên nhiên, ăn những
thực phẩm thiên nhiên.
Thuận thiên còn có
nghĩa thứ ba nữa là an thời xử thuận để cho buồn rầu,
lo, nghĩ, giận ghét không xâm nhập tâm hồn, làm thương tổn
tính tình, như vậy với thảnh thơi tiêu dao được. Lo nghĩ
làm gì khi ta không biết được họa ở đâu, phúc ở đâu,
có khi phúc đó mà là họa, họa đó mà là phúc, như nàng
Lệ Cơ trong bài 2.11,(1) hoặc truyện Tái Ông thất mã trong
Hoài Nam tử
( Trang Tử Nam Hoa Kinh
của Nguyễn hiến Lê trang 126, 127 , Nhà xuất bản Văn Hóa)
Ngay cả dân chúng ở
những nước văn minh ở Tây phương ngày hôm nay cũng bắt
đầu có khuynh hướng ăn những thực phẩm hữu cơ ( organic),
nghĩa là những thực phẩm được trồng tỉa không bón bằng
phân hóa học. Có nhiều người cho rằng thực phẩm được
trồng tỉa bằng phân hóa học thì sẽ có nhiều hậu quả
không tốt cho sức khỏe con người khi ăn vào. Cho nên thực
phẩm thiên nhiên là thực phẩm bảo đảm chất lượng dinh
dưỡng không độc hại dành cho sức khỏe con người, trong
khi cây trái trồng có sự vun bón bằng phân hóa học sẽ gây
ra những tác hại khôn lường và những bệnh hoạn về sau
cho những người dùng chúng. Con người đã phun quá nhiều
chất hóa học vào thiên nhiên và cho tới ngày hôm nay môi
trường sống đã bị nhiễm độc trầm trọng. Tầng ozone
ngày càng mỏng do những hóa chất kỹ nghệ thải ra và vì
vậy mà trái đất ngày càng nóng dần lên và có thể gây
ra nhiều thảm trạng cho môi trường sống.
Ngày nay con người ta
chế tạo được những người máy ( Robot) tối tân, có thể
tính vài triệu phép tính trong vài giây, nhưng rồi Robot dù
co tân tiến tới đâu cũng không thể so sánh sự phán đoán
của bộ óc con người. Người máy dẫu có siêu việt, tinh
vi đến đâu thì cũng chỉ là người máy, không thể so sánh
với lý trí và tinh thần trong một con người được. Người
máy có thể làm những chuyện mà con người không theo kịp
như chuyện tính toán, lập kế hoạch, sản xuất vật dụng
nhưng có những điều người máy không làm được những điều
như con người sự nhận xét, phân tích tính tình của một
người khác. Khi máy hư thì nằm ụ chờ sửa chữa, còn khi
con người " long thể bất an" thì con người có thể tự mình
đi tìm cách chữa bệnh cho mình bằng cách đi khám bác sĩ
và nhà thương, kiếm thuốc uống để vượt qua cơn bệnh.
Rồi còn chuyện ý chí con người nữa, đó là chuyện mà người
máy không bao giờ có . Khi giải quyết một vấn đề, bộ
óc con người hồi tưởng quá khứ, đánh giá tình hình hiện
tại và dự phóng tương lai, với khả năng tổng hợp như
thế thì bộ óc nhân tạo của người máy Robot không thể
làm nổi. Người chế tạo ra máy để phục vụ con người
nên máy không thể hơn người được.
Cộng sản Việt Nam vì
theo chủ nghĩa duy vật nên luôn luôn tin tưởng vào ý chí
của con người trong việc chiến thắng với thiên nhiên. Những
câu thơ, " Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi
đá cũng thành cơm " ( Hoàng trung Thông) và những câu khẩu
hiệu, " Vắt đất ra nước, thay trời làm mưa" cho thấy cái
ý tưởng ngông nghênh duy ý chí của nhà nước Cộng sản.
Chế độ Cộng sản đã có một thời huy hoàng và càng làm
cho Cộng sản Việt Nam tin tưởng vào thế tất thắng của
chủ nghĩa qua biểu ngữ , " Chủ nghĩa Mác – Lênin bách chiến
bách thắng muôn năm". Nhưng rồi trời không chiều lòng người
Cộng sản . Cuối thập niên 80, Liên Bang Xô Viết và khối
Ðông Âu tự sụp đổ và tan rã dù không bị ai đánh cả.
Cộng sản Việt Nam bàng hoàng nhìn khối Cộng sản đàn anh
tan tành thành mây khói mà lo sợ cho chính thân phận mình.
Cộng sản thường cho rằng Tư Bản rồi đây trước sau gì
cũng giãy chết, nhưng Tư Bản đã không giãy chết mà khối
Cộng sản chết mà không kịp giãy ! Thì ra " Ðất có tuần,
Dân có vận " , mọi chế độ xã hội rồi cũng thay đổi
theo định luật vô thường của Ðức Phật chứ không cứ
đứng vững mãi với thời gian và sự sụp đổ của Liên
xô và khối Ðông Âu không phải là thí dụ duy nhất.
Kể từ ngày Liên xô
sụp đổ đến nay cũng đã được 15 năm và chế độ Cộng
sản Việt Nam vẫn còn tồn tại với những kế hoạch vá
víu, bán nước hại dân . Chúng làm tất cả những gì có
thể làm được để chống đỡ cho một chế độ thối nát
bất công đã đến hồi bị lịch sử đào thải. Chúng đem
đất đai biển cả của tiền nhân để bán tháo bán đổ
cho ngoại bang Trung Cộng. Hải quân biên phòng Trung Cộng vừa
đây mới giết 9 ngư dân Thanh Hóa càng làm rõ tội ác bán
nước của bọn Cộng sản Việt Nam. Ngoại bang giết dân mình
mà chúng " nghẹn ngào " không đưa ra được một lời phản
kháng cho ra hồn. Lý do là Trung Cộng bây giờ bảo trợ cho
sự sống còn chính quyền Cộng sản Việt Nam nên làm sao mà
Cộng sản Việt Nam chống đối Trung Cộng cho được ! Trong
nước chúng cai trị dân bằng một chế độ toàn trị độc
tài, bưng bít thông tin, đàn áp nhân quyền, siết chặt tự
do, tôn giáo. Chúng tưởng với chế độ công an trị như thế
chúng sẽ kéo dài tuổi thọ cho chính quyền thất nhân tâm
của chúng. Nhưng chuyện bắt bớ tù đầy không phải là biện
pháp hữu hiệu để bịt tiếng nói tự do của con người.
Thượng tọa Thiện Minh sau 26 năm tù đày, mới đây khi được
thả ra đã dõng dạc tuyên bố trên đài Á châu tự do, " Nơi
nào có áp bức thì nơi đó có đấu tranh. Cho nên nhà nước
đừng đặt vấn đề là có còn người chống đối hay không
mà nên nghĩ đến chuyện nhà nước còn đàn áp người khác
nữa hay không?" Khi ngày càng có những người dân không còn
sợ áp bức tù đày như Thượng tọa Thiện Minh thì chế độ
Cộng sản Việt Nam coi như tới ngày cáo chung. Rồi lại đến
chuyện đấu đá ngày càng quyết liệt của hai Ðại tướng
chột mắt Lê đức Anh và Ðại tướng cai đẻ Võ nguyên Giáp
đến độ không thể hòa giải được nữa. Sự lên tiếng
của Ðồng văn Cống, Phạm văn Xô và Nguyễn văn Thi tố cáo
hành vi làm tay sai và độc ác cho kẻ thù Pháp của Lê đức
Anh đã làm cho vấn đề tranh chấp thêm trầm trọng và chắc
chắn đưa đến sự sụp đổ không tránh nổi của Ðảng
Cộng sản Việt Nam. Cộng sản Việt Nam có lẽ rồi cũng giống
như Ðảng Cộng sản Liên xô: Tự tan rã sụp đổ chứ không
do ai đánh cả! Căn bệnh hiện nay của chế độ Cộng sản
Việt Nam giống như một chứng bệnh ung thư đến giai đoạn
cuối. Ðông y cũng như Tây y đều bó tay không chữa nổi và
con bệnh chỉ chờ ngày bước sang thế giới bên kia.
Có điều nghịch lý
và khó hiểu cần nêu ra ở đây là ông tổ Cộng sản vô
thần ở Việt Nam là Hồ chí Minh cũng có nhắc đến ông trời.
Trong thời đánh Mỹ Hồ chí Minh còn để lại câu nói, " Ðối
với tội ác của Ðếá quốc Mỹ thì Trời không dung,
Ðất không tha". Và trong bản di chúc viết ngày 14 tháng
8 năm 1969 được bí mật chuyển ra ngoại quốc có đoạn viết,
" Ai cũng tưởng tôi là con người vô thần, nhưng riêng
Ðức cha Lê hữu Từ thì biết tôi rất tin có Ðấng Tạo
Hóa. Vì tin có ông Trời nên tôi xin khẩn cầu cho nước ta
và các nước Cộng sản khác trên thế giới sớm thoát ách
Cộng sản. Tôi cũng xin ông Trời cho tờ di chúc này có ngày
được phổ biến khắp nơi..." Một người vô thần như
Hồ chí Minh mà cũng biết tin ông Trời, tin tạo hóa cũng là
chuyện lạ ! Bức chúc thư thống thiết này đã đến
với mọi người trong và ngoài nước, rõ ràng là có bàn tay
ông trời giúp đỡ theo lời khẩn cầu của ông tổ vô thần
ở Việt Nam là Hồ chí Minh. Không biết người hầu cận Vũ
Kỳ có nhúng tay vào trong chuyện chuyển lá chúc thư độc
đáo và thống thiết này của Hồ chí Minh ra nước ngoài hay
không? (Muốn đọc toàn bộ lá chúc thư này xin tìm đọc cuốn
sách "Con người muôn mặt Hồ chí Minh" của Trần viết Ðại
Hưng do nhà xuất bản Văn Mới mới ấn hành). Nhìn tình tình
rối ren và suy sụp hiện nay của Ðảng Cộng sản Việt Nam
thì thấy nguyện ước muốn Việt Nam sớm thoát khỏi ách
Cộng sản cũng sắp trở thành sự thật một ngày không xa.
Thuận thiên giả tồn,
nghịch thiên giả vong: Làm thuận theo trời thì tồn tại,
làm nghịch với trời thì tiêu vong. Thánh nhân đã dạy rành
rành như thế nhưng bọn vô thần Cộng sản hiện nay ở Việt
Nam không ý thức được ý nghĩa sâu xa của câu nói để đời
này cho đến khi thức tỉnh thì cũng đã quá muộn. Vì nhà
cầm quyền Cộng sản Việt Nam gây ra quá nhiều tội ác chồng
chất với nhân dân nên một mai đây khi có chuyện đổi đời,
sẽ không có cách mạng nhung êm ái như ở Tiệp, không có
cách mạng cam ngọt ngào như ở Ukraina mà chỉ có cách mạng
máu xảy ra khi người dân đứng lên lật đổ bọn buôn dân
bán nước, làm tay sai cho ngoại bang. Chỉ có máu mới rửa
sạch những ô uế, lọc lừa, phản trắc, nhục nhã mà Ðảng
Cộng sản đã gây ra trong gần một thế kỷ trên quê hương
Việt Nam yêu dấu.
Theo đúng quy luật của
trời đất, ai ở hiền thì gặp lành và kẻ nào gieo gió thì
phải gặt bão. Lưới trời lồng lộng nhưng không có gì lọt
qua được. Âu đó cũng là sự công bình của trời đất dành
cho con người mà nhờ có sự công bình đó mà cái ác trước
sau gì cũng phải bị tiêu vong và cái thiện sớm tối gì cũng
được sáng tỏ và xiển dương muôn đời.
Lawndale, một buổi trưa
trời xám chì có mưa bay lất phất đầu tháng 3 năm 2005
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: dalatogo@yahoo.com
(1) Chuyện Tái ông thất
mã thì ai cũng biết rồi. Còn chuyện nàng Lệ Cơ thì được
kể lại rằng Lệ Cơ là con gái viên quan giữ biên giới ở
đất Ngải . Khi vua Hiến Công nước Tấn đón nàng về cung,
nàng khóc tới ướt đẫm vạt áo, nhưng về với hoàng cung,
cùng vua đồng sàng, nếm cao lương mỹ vị, nàng hối hận
giọt lệ mà nàng đã đổ ra ngày xưa. Cho nên chuyện đời
biết đâu là may biết đâu là rủi. Nhưng các bậc đại trí
khuyên ta cứ ăn ở cho phải đạo, hợp lòng người, thuận
ý trời thì may hay rủi có xảy ra cũng bình tĩnh mà đón nhận.
|