THẾ
GIỚI NGÀY CÀNG MẤT THIỆN CẢM
VỚI
MỸ KỂ TỪ SAU BIẾN CỐ 11 THÁNG
9
Nước Mỹ
vừa tổ chức lễ kỷ niệm
hai năm biến cố ngày 11 tháng 9.
Người ta chưa quên cảnh tượng
kinh hoàng khi hai tòa tháp của Trung tâm
thương mại ở New York lần lượt
sụp xuống sau khi bị phi cơ do bọn khủng
bố cướp đâm vào. Ước
tính có trên dưới 3000 người
thiệt mạng trong biến cố kinh khủng
ngày 11 tháng 9 này. Sau ngày định
mệnh này, nước Mỹ quyết
tâm trả đũa và trừng
trị bọn khủng bố, nói chung là
khủng bố Hồi giáo, trên khắp
thế giới. Vì căm phẫn trước
sự dã man, tàn bạo vì cách
giết người của bọn khủng
bố, mà trùm khủng bố đứng
đầu là Bin Laden, dân chúng Mỹ
đa số tán thành chính sách
tiêu diệt khủng bố của chính
phủ Mỹ. Dư luận thế giới
nói chung là biểu đồng tình.
Nhưng rồi chính sách chống khủng
bố của Mỹ đã có những
sự sai trái khiến dư luận thế
giới ngày càng lạnh nhạt và
mất thiện cảm với nước
Mỹ. Liệu nước Mỹ có nhìn
thấy ra điều này để kịp
thời chấn chỉnh sự sai trái
của mình hầu giữ được
thiện cảm của các nước trên
thế giới không hay vẫn tiếp
tục có những hành động
chống khủng bố không hợp lòng
người để rồi nước
Mỹ ngày càng bị cô lập trên
trường quốc tế? Trả lời
cho câu hỏi này không phải là
chuyện đơn giản và dễ dàng
vì chuyện bảo về quyền lợi
và đồng thời tạo dựng
một gương mặt khả ái trước
cộng đồng thế giới là
chuyện mà Mỹ đang lúng túng
giải quyết kể từ sau biến cố
11 tháng 9.
Ngay sau vụ khủng
bố, Mỹ đã dần dần truy tìm
ra đầu mối và nguồn gốc
của 19 tên khủng bố đã cướp
4 chiếc phi cơ ( hai chiếc đâm vào
tòa nhà đôi Trung tâm thương
mại thế giới ở New york, một
chiếc đâm vào Ngũ giác đài
và một chiếc đâm xuống đất
ở vùng ngoại ô Pennsylvania vì
hành khách đứng lên chống
lại bọn không tặc, nên chúng không
lái được chuyến bay này
tới nơi dự định ). Nói
chung bọn không tặc thuộc nhóm khủng
bố của Osama Bin Laden, lúc ấy đang
ở ngôi vị lãnh đạo quyền
lực chung với giáo chủ Omar cai
trị đất nước A phú hãn,
sau khi thành công trong chuyện đánh
đuổi Liên xô xâm lăng về
nước. Mỹ lập tức điều
động quân đội qua tiêu diệt
chế độ của Omar và tổ chức
khủng bố Al Qaeda do Bin Laden cầm đầu
ở A phú hãn. Ðó là
một chuyện làm hợp tình, hợp
lý, thuận lòng dân, hợp ý
trời. Ngay cả Ðức Ðạt
Lai Lạt Ma sau này trả lời phỏng
vấn cũng cho chuyện Mỹ đem quân
vào A phú hãn tiêu diệt khủng
bố là một chuyện làm đúng.
Mỹ có đủ thế danh chính ngôn
thuận để tấn công này vì
Bin Laden và chế độ Omar nuôi dưỡng
bọn khủng bố đã tấn công
vào đất Mỹ và đã
giết ước chừng trên dưới
3000 thường dân Mỹ vô tội.
Quốc tế cũng hầu như ủng hộ
hành động trả đũa này
của Mỹ vì nó là hành động
chính đáng. Nhưng rồi khi Mỹ
quyết định đem quân xâm lăng
Iraq thì dư luận quốc tế không
còn hậu thuẫn Mỹ như trước
nữa, trước đây quốc
tế coi Mỹ là một nạn nhân khủng
bố và xứng đáng được
hưởng sự chia sẻ chân thành
cùng sự ủng hộ, nay thì hầu
như coi Mỹ như một thế lực bất
chấp ý kiến của thế giới
để làm những hành động
quân sự không công bằng, chính
đáng. Nói chung dư luận thế giới
vốn dành sự ưu ái cho Mỹ
vào thời điểm ngày 9 tháng
11 đã thay đổi. Thế giới
coi Mỹ như là một tên anh chị
đi hà hiếp và bắt nạt kẻ
khác.
Từ Phi châu
qua tới Âu châu rồi đến
Ðông Nam Châu Á đều nảy
sinh ra một điểm chính yếu rõ
ràng: cuộc chiến ở Iraq đã
có một sự tác động ảnh
hưởng lớn vào ý kiến
quần chúng, vốn biến từ sự
thông cảm sâu xa đưa đến
chuyện dành nhiều cảm tình cho Mỹ
sau ngày 11 tháng 9 trở thành ác
cảm với Mỹ sau cuộc chiến tranh
Iraq, hay ít nhất cũng là sự
bất mãn đối với khuynh hướng
của siêu cường Mỹ muốn
ra tay hành động trước mà
không có lý do gì thuyết phục
hay được sự chấp thuận
đồng ý của Liên Hiệp Quốc.
Trong vài mức
độ nào đó, sự oán
trách tập trung vào cá nhân Tổng
thống Bush, bị nhiều người phỏng
vấn cho là một phát ngôn viên
thiếu hiệu quả của những quyền
lợi của Mỹ và tệ hơn nữa,
là trở thành một tên cao bồi
bắn súng, không coi những hiệp
ước quốc tế ra gì và
chỉ suốt ngày lo chuyện kiểm soát
nguồn dầu của thế giới. Xin
đừng quên Iraq có một trữ
lượng dầu đứng thứ
nhì thế giới, chỉ sau có xứ
Ả rập Saudi Arabia.
Những chuyên
gia về chính sách quốc ngoại đã
chỉ ra những sự nứt rạn,
sinh ra từ cuối cuộc chiến tranh lạnh,
đã bùng nổ thành quan điểm
trong cuộc thảo luận về nguyên nhân
đưa đến cuộc chiến ở
Iraq. Vào mùa hè trước, có
sự biến chuyển đột ngột khi
chính sách của Mỹ quyết định
đi tới chiến tranh với Iraq.
Ðiều này đã làm phát
sinh sự liên minh đối kháng của
hai nước Pháp và Ðức,
và sau đó là làn sóng thù
ghét Mỹ dâng lên mạnh mẽ.
Ðịa vị của
Mỹ trên trường quốc tế
dĩ nhiên là một chuyện phức
tạp, và gương mặt bầm dập
của Mỹ trước thế giới
cũng có thể cải tiến nhanh chóng
tùy theo sự đáp ứng với
những biến cố. Chuyện chính phủ
Bush vừa mới kêu gọi sự
giúp đỡ từ Liên Hiệp
Quốc vào giai đoạn hậu chiến
tranh Iraq là một thí dụ điển
hình. Trước đây, Mỹ bất
chấp những nghị quyết của Liên
Hiệp Quốc để tiến quân xâm
chiếm Iraq. Nay thì mặc dù chiếm được
Iraq, Mỹ bắt đầu mất máu
với chiến tranh du kích, lính Mỹ
thiệt mạng mỗi ngày, sự ủng
hộ của dân chúng Mỹ dành cho
Tổng thống Bush sút giảm nhanh chóng,
nên Mỹ giờ đây lại kêu
gọi Liên Hiệp Quốc giúp đỡ
Mỹ trong chuyện quản trị xứ Iraq
vì Mỹ không thể làm một mình.
Mỹ giống như một anh võ sĩ hạng
nặng, đánh đấm tàn bạo,
mạnh mẽ nhưng lại không được
dài hơi. Mỹ trước đây
đành rút lui khỏi Việt Nam vì
không chịu nổi sự mất mát
sinh mạng lính Mỹ mỗi ngày.
Có những vùng
trên thế giới, đặc biệt
là tại Âu châu, có sự chia
rẻ quan điểm của họ về vai trò
của Mỹ: Chính phủ và dân chúng
ở những nước cộng hòa
tách ra từ Liên xô ủng hộ
sức mạnh của Mỹ nhiều hơn
là chính phủ và dân chúng
ở Tây Âu( Western Europe), đáng
chú ý hơn cả là ở Pháp
và Ðức.
Ở Nhật, vốn
là một đồng minh mạnh của Mỹ,
luôn cảm thấy bất an khi phải đối
diện với nước Bắc Hàn
được trang bị vũ khí nguyên
tử, cũng có những sự
lo âu, nghi ngờ về sự khôn
ngoan của Mỹ khi tiến hành cuộc chiến
tranh ở Iraq. Nhưng Nhật ít có ngờ
vực về sự quan trọng của sức
mạnh Mỹ nói chung đối với
vấn đề an ổn toàn cầu.
Ở Trung Cộng,
nơi mà mỗi người dân bình
thường bày tỏ sự nghi ngờ
về cuộc chiến của Mỹ ở
Iraq, cảm giác chống Mỹ hạ xuống
dần kể từ ngày 11 tháng 9 năm
2001, và dường như có sự
hiểu biết nhiều hơn cùng sự
chỉ trích ít hơn đối với
Mỹ bởi những viên chức
chính quyền và giới trí thức.
Giới lãnh đạo Trung Cộng phần
lớn đi theo đường lối
mở cuộc chiến tranh chống khủng
bố do Mỹ khởi xướng và
theo đuổi.
Tuy nhiên vẫn có
ý tưởng đương thời
rộng rãi cho rằng Mỹ là một
sức mạnh đế quốc cũ chỉ
tập trung chuyện kiểm soát nguồn cung
cấp dầu toàn cầu và chuyện
khống chế quân sự toàn thế
giới.
Trạng thái này
được diễn tả bằng nhiều
cách khác nhau bởi những người
khác nhau, từ những ủng hộ
viên dã cầu ở thành phố
Montreal, Canada, đã la to chọc quê khi có
quốc ca Mỹ trổi lên, cho đến
những học sinh trung hoc ở Thụy sĩ
không muốn đến Mỹ để
du học trao đổi vì Mỹ không phải
làø một nước tốt. Ngay
ở cả những người trẻ,
cũng không khó để nghe những
lời chê trách chính sách của
Mỹ và những nghi vấn sâu sắc
về động cơ hành động của
Mỹ. Một nhà phê bình văn học
của Nga tên Dmitri Ostalsky, năm nay 25 tuổi,
có đưa ra nhận xét như sau, " Mỹ
muốn nắm quyền lực khắp thế
giới. Mỹ là một quốc gia tuyệt
vời, nhưng nó muốn thâu tóm
quyền lực. Nó muốn cai trị thế
giới. Những cố gắng của
Mỹ là muốn tái xây dựng
lại toàn thế giới dưới
hình ảnh của chủ nghĩa cấp tiến
và chủ nghĩa tư bản đã
mang đầy những điều nguy hiểm
tương tự giống như bọn Phát-xít
muốn thống trị toàn cầu trước
đây." Ðó không phải là
một nhận xét không có căn cứ
và ý nghĩa mà Mỹ cần ghi
nhận để sửa đổi lại
chính sách đối ngoại của mình
hầu được các quốc gia trên
thế giới ủng hộ nhiều hơn.
Mọi người
đều đồng ý trên những
nguyên tắc của dân chủ và tự
do, nhưng vấn đề ở đây
là chúng ta không đồng ý
về những phương tiện để
đạt cho được những điều
ấy. Mỹ không thể cứ nghĩ
rằng sức mạnh sẽ giải quyết
mọi chuyện. Người dân Âu châu
đã trả qua hai cuộc thế chiến
nên biết cái giá của máu
như thế nào rồi. Nếu Mỹ muốn
thống trị thế giới thì cũng
không nên ngạc nhiên khi thấy có
nhiều người ở những
nước khác nhau có ác cảm
với Mỹ. Tờ báo Jakarta Post
ở Nam Dương cũng cho biết rằng
nếu Mỹ muốn làm bá chủ thế
giới thì những nước
khác cũng khó mà ngăn chặn
được. Tuy nhiên, nếu Mỹ
muốn trở thành một sức
mạnh bá chủ có được
sự kính trọng và tin cậy của
các nước khác, nó phải
là một sức mạnh tốt lành,
không gây nên sự ghét bỏ
hay sợ hãi ở những nước
khác.
Chủ yếu trong ý
kiến toàn cầu là sự thất
bại của chính phủ Bush trong chuyện thuyết
phục phần lớn quần chúng về
lý lẽ chính đáng khi mở
cuộc tấn công vào Iraq. Dù đa
số dân Mỹ tin là có một sự
nối kết giữa Saddam Hussein và những
tên khủng bố thuộc tổ chức
Al Qaeda, phần còn lại thế giới
vẫn còn ngờ vực về chuyện
này.
Ðiều đó
giải thích về sự khác biệt
to lớn về ý kiến của quốc
tế đối với hành động
quân sự của Mỹ ở A phú
hãn ( Afghanistan) vào những tháng
sau biến cố 11 tháng 9, vốn được
thế giới coi như thỏa thuận ngầm
vì đây là một hành động
tự vệ hợp pháp và chính
đáng, và hành động quân
sự của Mỹ ở Iraq, vốn được
coi như một hành động độc
đoán của một sức mạnh hống
hách.
Có lẽ kết
quả rõ rệt nhất của dư luận
quần chúng thể hiện rõ nhất
ở những nước Ả rập
và Hồi giáo. Ngay cả những
nước Hồi giáo ôn hòa
như Nam Dương và Thổ nhĩ kỳ,
hay là những quốc gia có cộng
đồng người Hồi giáo đông
đảo như Nigeria, những cuộc thăm
dò dư luận cũng như phỏng vấn
cho thấy có sự sút giảm nghiêm
trọng trong chuyện chấp nhận những
hành động của Mỹ.
Ở những
quốc gia thân Mỹ rõ rệt như Ba
Lan, nên nhớ Ba Lan là đồng
minh thân thiết nhất của Mỹ sau Anh,
các cuộc thăm dò dư luận cho biết
là 60 phần trăm dân chúng Ba Lan
chống lại quyết định của chính
phủ gửi 2500 quân đến Iraq.
Ðối với
nhiều người, vấn đề không
phải là nước Mỹ mà là
chính phủ Bush, một chính phủ bị
đánh giá là kiêu căng, phách
lối. Với chuyện này, cách giải
quyết là phải có nhiều chính
sách khác nhau cũng như phải có
những công bố thay đổi để
có thể tạo thành những thái
độ khác nhau. Tổng thống Bush là
một người giới thiệu yếu
kém nước Mỹ trước
thế giới , cho dù là về vấn
đề Al Qaeda hay A phú hãn, cho nên
dư luận thế giới cũng không
cần suy nghĩ gì nhiều đến
vị trí chức vụ của ông nữa.
Nhưng trong lúc những
bản công bố của chính phủ Bush
không có tác dụng tốt đối
với thế giới, nhiều chuyên
gia phân tích cho rằng những nguyên
nhân sâu xa của sự nứt rạn
mới vừa hé lộ. Theo quan điểm
của họ, cuộc chiến Iraq chưa hẳn
đã gây ra sự bất đồng,
chia rẻ mà nó chỉ làm tăng
sự chú ý và mở rộng
ra một điều hiện hữu kể
từ khi cuộc chiến tranh lạnh chấm
dứt. Nói một cách trắng trợn
phũ phàng thì giờ đây
Ââu Châu ít cần Mỹ cho nên
nó cảm thấy ít có sự đe
dọa.
Thật ra, trong lúc
Mỹ có lẽ cảm thấy có nhiều
sự đe dọa bây giờ còn
hơn là năm 1989 là khi cuộc chiến
tranh lạnh chấm dứt, Âu châu đa
số nghĩ rằng không còn mối
đe dọa nào sắp đến cả.
Có những lực cấu trúc sâu
xa trước biến cố ngày 9 tháng
11 đã phân hóa toàn cầu.
Khi Liên xô không còn là mối
đe dọa, thì không cách gì mà
mối liên hệ giữa Mỹ và
ÂÂÂâu châu lại không nới
lỏng ra. Vì thế khi chính phủ Bush
lên nắm chính quyền, câu hỏi
đặt ra là liệu nó có làm
cho mọi chuyện tốt đẹp hơn hay tệ
hại đi. Có lẽ nó làm cho mọi
chuyện tệ hại thêm lên.
Trong chiến tranh lạnh,
chuyện Mỹ theo chủ nghĩa đơn phương
không phải trả giá gì cả. Nhưng
khi Mỹ phải đối phó với
Iraq, Iran và Bắc Hàn, Mỹ cần Âu
Châu và Mỹ cần cơ quan Liên
Hiệp Quốc. Sự thật là Mỹ
không thể tự một mình điều
khiển thế giới, và vấn đề
bây giờ đặt ra là Mỹ
đã làm xấu đi mối quan hệ
với những đồng minh và
những người bạn của Mỹ
không còn nhiệt tình để giúp
Mỹ bây giờ nữa. Người
Mỹ và dân Âu Châu đồng
ý về căn bản của những
sự đe dọa toàn cầu nhưng bất
đồng sâu đậm về chuyện
họ phải đối phó với chúng
như thế nào.
Ðiều ngạc
nhiên nhất là sự khác biệt
về chuyện dùng sức mạnh quân
sự, 84 phần trăm dân Mỹ đồng
ý dùng nó nhưng chỉ có 48 phần
trăm dân Ââu Châu ủng hộ
chuyện dùng sức mạnh như là
một phương tiện để áp đặt
công lý thế giới.
Có những khó
khăn có từ trước ngày
11 tháng 9 như chuyện tranh cãi kinh tế
liên quan đến chuyện phụ cấp
thép và nông nghiệp; những sự
giới hạn về hợp tác luật
pháp vì án tử hình ở
Mỹ; những lời tố cáo
liên tục về chuyện Mỹ đơn
phương hành động ở Afghanistan;
và đến những quyết định
của Mỹ trong hiệp ước ABM, về
Hiệp ước Kyoto, về Tòa án
hình sự quốc tế và Hiệp
ước về vũ khí hóa học.
Câu hỏi nghiêm trọng đặt ra ở
đây là liệu Mỹ và Âu
châu có tiến đến trường
hợp đường ai nấy đi
hay không?
Ở Nam Dương
giờ chỉ có 15 phần trăm tỏ
ý ủng hộ Mỹ, so với 61 phần
trăm một năm trước đây.
Nam Dương là một vấn đề
khó giải quyết đối với
những người làm chính sách
của Mỹ, vì Mỹ nghĩ rằng đối
với một nước có thái
độ dễ dãi với tôn giáo
như Nam Dương, thì Nam Dương phải
tỏ ra một nước mẫu Hồi
giáo thân Mỹ. Nhưng kể từ
ngày 9 tháng 11, có một nhóm độc
hại có tên là Jemaah Islamiyah đã
dần dần thu tóm được sức
mạnh, tấn công ở Bali và Jakarta
và làm cho Nam Dương trở nên
một xứ bất ổn đến nổi
Tổng thống Bush dự tính sẽ không
đến Nam Dương trong chuyến công
du Á châu vào tháng tới. Một
lãnh tụ Hồi giáo ở Nam Dương
tên Din Syamsuddin gọi Mỹ là " vua khủng
bố " và gọi Tổng thống Bush là
" một con ngựa say". Ðây là một
điều tệ hại đáng buồn
vì Bộ ngoại giao Mỹ đã có
một chương trình cung cấp 10 triệu
dollars làm những phim nói về đời
sống người Hồi giáo ở
Mỹ và được gửi đến
những quốc gia Hồi giáo hồi
mùa thu rồi, trong đó có cả
Nam Dương.
Tuy nhiên cũng có
những cảm tình sâu đậm và
rộng rãi dành cho Mỹ ở vài
nơi trên thế giới. Nhiều học
sinh khắp năm châu có nguyện vọng
muốn được giáo dục ở
Mỹ. Quan niệm cho rằng Mỹ là vùng
đất hứa vẫn còn hấp
lực của nó. Trên căn bản
thì người Mỹ và dân Âu
châu vẫn thích nhau, dù sự nồng
ấm có phần phai lạt đi vì cuộc
chiến Iraq. Người Mỹ và dân
Aâu châu không ở trên những
lục địa khác nhau khi có vấn
đề nhận định về những
sự đe dọa chung quanh họ. Nhưng ít
có nghi ngờ là những lục
địa này đã tách xa nhau! Ðã
qua rồi cái thời 200000 người
Ðức đi biểu tình ở
Berlin để bày tỏ sự đoàn
kết với người bạn đồng
minh Mỹ. Ngay cả một tờ báo
có tiếng tăm ở Pháp là
tờ báo Le Monde cũng chạy một
tít lớn nhan đề, " Chúng ta
đều là người Mỹ.". Mới
đây thì tờ báo Nouvel Observateur
cho ấn hành một bài bình luận
nhan đề, " Chúng ta không phải tất
cả là người Mỹ."
Ðối với
những chính phủ ở Ðông
Âu, biến cố 11 tháng 9 được
coi như một cuộc trắc nghiệm lòng
trung thành với Mỹ. Romania, Hungary, Bulgaria,
Cộng hòa Czech và Ba Lan cảm thấy
họ bị kẹt giữa nước
Mỹ và Cộng Ðồng Ââu Châu
( European Union), đây là một tổ chức
mà họ tính sẽ gia nhập trong thời
gian ngắn tới. Cuộc chiến ở
Iraq đã cho thấy Âu châu sẵn
lòng ủng hộ Mỹ tới mức
độ nào.
Một số quốc
gia ở Ðông Âu ngả theo với
đa số Cộng đồng Âu Châu
về những câu hỏi đại loại
như Tòa án hình sự quốc
tế, vốn bị chính phủ Bush chống
đối, trong khi muốn giúp Mỹ bằng
vài cách nào đó với
cuộc chiến tranh ở Iraq. Ba Lan và Romania
đã gửi quân và Hungary đã
cho phép huấn luyện người Iraq
ở một căn cứ quân sự
trong nước. Dù cái thái độ
chung của những quốc gia trong khối
Liên Xô cũ đa số ủng hộ
Mỹ, những cuộc thăm dò mới
đây cho thấy sự kính trọng
đã giảm bớt. Họ muốn
nhìn Mỹ là một siêu cường
biết tự chế và giới hạn
sự phiêu lưu quân sự.
Có lẽ quyết
định của chính phủ Bush gõ cửa
Liên Hiệp Quốc nhằm kiếm một
chỉ thị thành lập một lực lượng
quốc tế ở Iraq đã phản
ảnh thái độ sẵn sàng muốn
tự chế của Mỹ. Chính phủ
Bush có vẻ học được một
bài học là dùng sức mạnh
riêng lẻ có thể trả một giá
đắt rất nhanh chóng.
Nhưng con đường
tái lập sự ủng hộ của toàn
cầu có lẽ còn dài đối
với một quốc gia như Mỹ, là
một quốc gia mà mỗi quyền lực
- chính trị, kinh tế, văn hóa, quânn
sự – làm nó thành một mục
tiêu tự nhiên cho sự phê phán
và ghen tức. Ngay cả ở quốc
gia như Nhật, quan điểm cho rằng Mỹ
là một thế lực hà hiếp
đã trở thành quan điểm
của đa số quần chúng Nhật.
Khi mở cuộc
tấn công vào Iraq, Tổng thống Bush
cứ nhắc đi nhắc lại rằng
cần phải đánh Iraq vì Iraq có
vũ khí hủy diệt lớn ( weapons
of mass destruction). Nay thì chiếm Iraq mấy tháng
rồi vẫn chưa tìm thấy dấu vết
của vũ khí hủy diệt hàng loạt,
nên có thể coi đây là chỉ
là một cái cớ để Mỹ
tấn công Iraq. Mỹ tấn công Iraq vì
quyền lợi của Mỹ và bất
chấp sự bất bình của thế
giới. Còn nói Mỹ tấn công
Iraq vì Saddam Hussein độc tài thì tại
sao Mỹ không tấn công Bắc Hàn,
Cu Ba, Trung Cộng và Việt Nam là những
nước đang có chế độ
độc tài để cho nhân dân
các nước ấy được
nhờ? Trước đó Saddam Hussein
đã đồng ý cho Liên Hiệp
Quốc đến thanh tra vũ khí rồi
và Liên Hiệp Quốc cũng đang
tiến hành chuyện thanh tra vũ khí
ở Iraq. Cho nên chuyện đánh Iraq
của Mỹ chỉ là chuyện làm của
kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu mà
thôi. Mỹ đánh Iraq vì quyền
lợi thuần túy của Mỹ và
bất chấp những nghị quyết của
Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng " chưa
đánh được người
mặt đỏ như vang, đánh được
người rồi mặt vàng như nghệ.
" Sau mấy tháng trấn đóng, quân
Mỹ bị tấn công riêng lẻ cũng
như bị bắn sẽ nên bị thiệt
mạng hàng ngày. Dân Mỹ không
còn ủng hộ Tổng thống Bush nồng
nhiệt như hồi xưa nữa. Ai nấy
đều cảm thấy có cái gì
đó sai trái trong chuyện làm của
Mỹ về đối ngoại. Rồi lại
đến chuyện lính Mỹ bắn vào
những đoàn biểu tình của
người Iraq làm cho dân Iraq căm
thù Mỹ thêm. Những ống dẫn
dầu bị đặt bom khiến Mỹ không
thu được lợi nhuận bao nhiêu
từ chuyện bán dầu Iraq. Mỹ giờ
này cầu cứu Liên Hiệp Quốc
nhảy vào can thiệp chuyện điều
hành Iraq vì Mỹ không một mình
làm nổi chuyện đó.
Ai cũng biết là
Thủ tướng Anh Tony Blair đã ủng
hộ nhiệt tình chuyện Mỹ đánh
Iraq. Thủ tướng Blair là người
khôn ngoan, giỏi giang và đã lèo
lái nước Anh đi lên trong mấy
năm cầm quyền. Không hiểu sao kỳ
này ông ăn " cháo lú" nên
nhảy vào bênh vực và tiếp
tay với Mỹ trong chuyện đánh
Iraq làm uy tín ông xuống dốc thê
thảm. Chuyện tự tử của chuyên
gia vũ khí là Tiến sĩ Kelly làm
cho ngôi vị thủ tướng của
ông Blair lung lay thật sự. Không biết
kỳ này ông còn giữ được
chức vụ thủ tướng nữa
hay không vì dân Anh cho là ông nói
dối với họ lúc đi theo Mỹ
đem quân Anh vào tấn công Iraq.
Năm 1968 Liên Xô
đem quân xâm lăng Tiệp Khắc và
cũng kể từ đó Liên Xô
mất hết uy tín đối với
các nước trong khối xã hội
chủ nghĩa. Nay Mỹ cũng làm chuyện
tương tự khi đem quân xâm lăng
Iraq khi không có lý do chánh đáng.
Nếu Mỹ khôn ngoan giao chuyện điều
hành Iraq cho Liên Hiệp Quốc trông
coi thì may ra cảm tình của thế giới
dành cho Mỹ sẽ đầy tràn
trở lại. Tình hình thế giới
ngày nay không cho phép Mỹ có quyền
một mình " múa gậy vườn hoang"
được nữa. Khi đem quân
xâm chiếm Iraq, Mỹ đã đi quá
trớn trong chuyện " trừ gian diệt
bạo" . Ðúng ra, Mỹ phải đóng
vai trò hiệp sĩ " cứu khốn phò
nguy " sẵn sàng ra tay giúp đỡ
những nước đang lâm vào
tình trạng khủng hoảng, khó khăn
và chỉ ra tay trừng trị những
nước chứa chấp khủng bố
bằng quân sự khi không còn giải
pháp nào khác. Có như thế
thì hy vọng Mỹ mới mong dành
được thiện cảm và sự
kính trọng của dư luận khắp năm
châu.
Lawndale, một sáng
lành lạnh có nắng hanh hao giữa
tháng 9-2003
TRẦN VIẾT ÐẠI
HƯNG
|