SỰ
BẠC BẼO VÔ TÌNH ÐỐI VỚI
MẸ
CỦA
NGƯỜI CON GÁI LAI MỸ TỪ
ÐÀ NẴNG
(Riêng tặng Heidi Mai thị
Hiệp và những đứa con bất
hiếu khác bội bạc với cha meï)
Cuốn phim tài
liệu “ Người con gái từ Ðà
Nẵng “ ( A daughter from Danang ) là một phim hay và
có giá trị. Phim này đoạt giải
Grand Jury của Liên Hoan Ðiện Aûnh Sundance
và được tuyển chọn vào
trong những phim dự thi của giải
Oscar nhưng không thắng. Phim kể chuyện
về một người con gái lai Mỹ,
rời Ðà Nẵng năm 7 tuổi
trong một chương trình di tản mang tên
“ Kế hoạch bốc trẻ em “ ( Operation Babylift
). Sau khi ở Mỹ 22 năm, cô con gái
lai Mỹ này về Ðà Nẵng để
gặp lại mẹ. Cuộc gặp gỡ trùng
phùng mừng mừng tủi tủi
này, sau một tuần sum họp bên nhau,
trước những yêu cầu trợ
giúp từ người mẹ, cô
con gái lai Mỹ này đã biểu
lộ sự bực bội khó chịu
khi nghe lời đề nghị lo lắng
và phụng dưỡng cho mẹ. Cuộc
hội ngộ tưởng sẽ dấy lên
nhiều hy vọng và ước mong cho
mẹ và con lại trở nên đầy
tràn sự căng thẳng và hiểu
nhầm vì sự cách biệt văn
hóa giữa người con gái
lai Mỹ và gia đình ngày càng
lớn dần lên. Liệu nền văn
hóa Mỹ nơi cô lớn lên
đã tạo cho cô cách ứng
xử bạc bẽo và vô tình này
hay cô cũng chỉ là một sự
chấn thương còn sót lại của
cuộc chiến tranh Việt Nam? Sự giải
đáp câu hỏi này không đơn
giản vì nó bao gồm nhiều yếu
tố phong tục, văn hóa, sắc tộc,
địa dư và hoàn cảnh riêng
tư của người trong cuộc.
Cuốn phim cho biết
có một người đàn bà
tên Mai thị Kim ở Ðà Nẵng.
Bà có 3 con, chồng bà đi vào
bưng theo Việt Cộng. Bà được
bạn bè giới thiệu đi làm
việc ở một căn cứ quân
sự Mỹ và từ đó có
quan hệ tình cảm với một quân
nhân Mỹ. Rốt cuộc bà mang thai và
khi bào thai được 4 tháng thì
người quân nhân Mỹ này
lên đường về nước.
Ðứa bé gái được
sinh ra, vì không có cha nên bà lấy
họ mẹ đặt cho bé và bà
đặt tên bé gái là Hiệp,
có nghĩa là “ hiệp thông “, liên
hiệp với mẹ. Mai thị Hiệp
ra đời như bao nhiêu đứa
con lai Mỹ ở Việt Nam, ra đời
không phải trong một không khí
hân hoan vui vẻ mà ra đời trong
tâm trạng bẽ bàng của người
mẹ trước sự dị nghị của
hàng xóm, láng giềng. Năm ấy
là năm 1968. Vào những ngày
trước tháng 4 năm 1975, bà nghe
tin đồn là khi Cộng sản vào
thành phố, chúng sẽ gom lại những
đứa con lai Mỹ rồi tẩm xăng
và đốt. Vì quá lo sợ
cho tính mạng của con, bà đem bé
Hiệp đến một văn phòng thiện
nguyện của người Mỹ nhờ
họ giúp cho bé di tản. Bà đẩy
con đi để cứu con chứ không
phải đẩy con đi để trút
bỏ một gánh nặng. Lúc đưa
Hiệp cho người nữ nhân viên
hội thiện nguyện, bà thắc mắc
hỏi sao hội không đưa cho bà giấy
tờ nói rõ chuyện Hiệp sẽ
đi về đâu, nếu không đưa
cho bà giấy tờ thì làm sao
bà kiếm được lại con trong
tương lai ? Người nữ nhân
viên thiện nguyện chỉ trả lời
là khi người Mỹ trở lại,
bà sẽ có lại đứa con.
Bà ở lại nuôi ba đứa
con của người chồng cũ, nhưng
bà phải đẩy Mai thị Hiệp
đi di tản vì sợ đứa
con gái lai Mỹ này sẽ bị cộng
sản giết. Từ lúc đẩy
bé Hiệp đi, không lúc nào bà
không nhớ đến bé. Cuộc
sống càng khó khăn, đau khổ
thì bà lại càng nhớ đến
Hiệp nhiều hơn.
Sau khi đến Mỹ,
Mai thị Hiệp được một
phụ nữ không chồng bảo lãnh
và Hiệp về sống ở vùng
Columbia, South Carolina rồi sau đó dọn về
vùng Pulaski, Tennessee. Mai thị Hiệp được
đổi tên là Heidi Bub. Sau này Heidi
có viết một bài văn nói đến
chuyện bà mẹ nuôi người Mỹ
đối xử rất khắt khe với
cô. Bà tỏ vẻ khó chịu khi Heidi
hẹn hò với bạn trai và về
nhà quá khuya. Có một đêm,
sau khi làm việc, cô đi hẹn hò
và về nhà quá trễ. Bà mẹ
nuôi đóng cửa nhà không
cho cô vào. Cô phải đến nhà
bạn để ngủ qua đêm. Khi cô
lên đại học thì bà mẹ nuôi
tuyên bố đuổi cô ra khỏi nhà.
Cô tìm cách viết thư hàn gắn
tình cảm với bà nhưng không
thành công. Heidi cảm thấy chán nản
và buồn rầu nhiều trong thời
gian này. Trong ý nghĩ của cô, trời
đã dành quá nhiều bất hạnh
cho cô: mẹ đẻ bỏ rơi cô
khi cô còn nhỏ và mẹ nuôi tống
cổ cô ra khỏi nhà. Cô sống
nhờ bạn bè lúc đầu,
sau đó kiếm việc làm trong khi đi
học đại học. Cuối cùng cô
lấy chồng là một bạn trai hồi
trung học và có 2 đứa con gái.
Chồng cô là một quân nhân.
Cô bắt đầu
liên lạc những văn phòng con nuôi
để tìm mẹ ruột, trong khi mẹ ruột
cô là bà Mai thị Kim cũng bắn
tin qua Mỹ để tìm đứa
con gái lai Mỹ mà bà đã
đẩy đi Mỹ năm 1975. Cuối cùng
hai mẹ con đã bắt được
liên lạc với nhau.
Ngày 23 tháng 3 năm
1997 cô quyết định về thăm
mẹ ở Ðà Nẵng. Ði cùng
với cô là đoàn quay phim và
họ đã ghi lại những hình
ảnh đoàn tụ mừng mừng
tủi tủi thật cảm động giữa
hai mẹ con tại phi trường Ðà
Nẵng. Vài ngày sau cũng là những
ngày chuyện trò tíu tít để
bù lại 22 năm xa cách giữa bà
mẹ và đứa con gái lai Mỹ.
Khi gia đình hỏi về chuyện tiền
bạc thì Heidi đã bắt đầu
tỏ vẻ khó chịu. Nhìn thấy nếp
sống khổ cực của mẹ và gia
đình, cô cũng cảm thấy áy
náy khi nghĩ đến cuộc sống
sung túc, tuyệt vời của cô
với chồng và hai con ở Mỹ.
Bà mẹ nói thẳng ước muốn
của bà là bà muốn qua Mỹ
để sống những ngày còn
lại cuối đời. Ông anh trai cùng
mẹ khác cha nói cho Heidi biết là
trong thời gian Heidi xa gia dình thì anh và
chị của Heidi đã khổ cực
lo lắng cho mẹ, và giờ đây
là lúc Heidi phải nhận lấy bổn
phận lo cho gia đình. Heidi cảm thấy
lạc lõng khi nghe như thế, cô cảm
thấy bị áp lực và không
còn nghĩ sự đoàn tụ
sau bao ngày xa cách có ý nghĩa
gì nữa không như cô đã
tưởng. Sự vui mừng đoàn
tụ giờ đây nhường
chỗ cho sự khó chịu và bẽ
bàng. Ðối với cô thì
chuyện gia đình mong mỏi cô gánh
vác giống như một thứ đổi
chác khi cô trở về nhà. Heidi
cảm thấy mình không có trách
nhiệm gì cả. Heidi đồng ý là
mình khá giả hơn gia đình ở
Việt Nam nhưng rồi gia đình cô
còn phải đối phó với
chi phí chi tiêu gia đình, tiền nợ,
và những nhu cầu hàng ngày
của chồng cô và hai con.
Khi trở về Mỹ
sau cuộc viếng thăm mẹ, Heidi vui mừng
thấy lại chồng và hai con và cô
không muốn nghĩ gì về những
chuyện ở Việt Nam nữa. Mục
đích của chuyến đi coi như vượt
ngoài giới hạn thảo luận giữa
cô và chồng cô vì cô chưa
sẵn sàng để phô bày tất
cả những cảm xúc lẫn lộn
ra bên ngoài. Về lại Mỹ, cô
cũng không tìm cách liên lạc
với mẹ vì cô cảm thấy
cảm xúc bị thương tổn còn
quá mới mẻ. Cô cũng không
biết bao lâu nữa để giải
quyết chuyện nhức đầu nói
trên, nhưng cô biết là phần
cô cần một số thời gian và
kiên nhẫn.
Cô đưa ra lời
khuyên cho những ai muôán tìm
lại cha mẹ ruột là người con
phải tìm hiểu phong tục, tập quán
và đời sống của cha mẹ
trước ngày đoàn tụ để
khi gặp nhau tránh khỏi chuyện đau đớn
và bất bình. Cô ân hận là
đã quá vội vã để đi
đoàn tụ với mẹ nên đụng
phải sự hiểu lầm và hối
tiếc về mặt tình cảm. Ðoạn
cuối cuốn phim, Heidi nói một câu
lửng lơ, bạc bẽo để
diễn tả mối liên lạc giữa
cô và mẹ như sau, “ Tôi đóng
cửa nhưng không khóa “ ( It’s closed, but
it’s not locked). Câu nói này cho thấy Heidi
chưa muốn cắt đứt hoàn
toàn liên lạc với mẹ nhưng
cô không muốn liên hệ nhiều
với mẹ vì sợ phải giúp
đỡ mẹ.
Nhìn thấy thái
độ từ khước giúp đỡ
mẹ của Heidi, bà Kim tỏ ra buồn bực,
thất vọng trên nét mặt và người
coi phim cảm thấy bùi ngùi thương
hại cho người mẹ bất hạnh
kém may mắn này. Bà nói chuyện
con cái giúp đỡ cha mẹ là
chuyện thường tình ở Việt
Nam. Bà hiểu là Heidi lớn lên
trong xã hội Mỹ, bị ảnh hưởng
bởi lối sống và văn hóa
Mỹ nên mới có thái độ
miễn cưỡng khước từ
chuyện giúp mẹ như thế. Bà
nhận xét như thế là đúng
vì nền văn hóa Mỹ nói riêng
và văn hóa Tây phương nói
chung đều không tạo ra cái tinh thần
và nếp sống con cái phải lo lắng
và phụng dưỡng cha mẹ khi về
già. Heidi là sản phẩm của nền
văn hóa Mỹ nên cách đối
xử bạc bẽo vô tình của cô
đối với mẹ cũng là lối
hành xử thông thường của
đại đa số người Mỹ
đối với các bậc sinh thành.
Học giả Nguyễn
hiến Lê, dù cả cuộc đời
chưa ra sống ở ngoại quốc, nhưng
liên hệ nhiều với bạn bè
sống ở nước ngoài nên
ông cũng có những nhận định
chính xác về lề thói con cái
ở Tây phương đối xử
bạc bẽo với cha mẹ khi cha mẹ về
già. Ông ghi lại điều này trong
Hồi ký của ông như sau:
“ Người
Âu Mỹ lớn rồi thì ra ở
riêng, có khi cả tháng, cả năm
không lại thăm cha mẹ một lần;
cha mẹ già thì đưa vào nhà
dưỡng lão. Một ông già
nọ bước chân vào nhà dưỡng
lão, quay lại nhìn đứa con trai,
nghe nó dặn nhỏ: Ba đừng nói
hở tên gia đình mình ra nhé”.
Mỗi vụ hè có hàng ngàn người
ở Paris đem cha mẹ lại gởi
một bệnh viện rồi hết hè, họ
“ quên” không tới đón về,
bỏ mặc cho chính phủ làm gì thì
làm. Mấy ông bạn tôi ở
Pháp đều phàn nàn về lòng
bạc bẽo của con cái, nhất là
những đứa con trai có vợ
ngoại quốc. Mười đứa
thì có tới chín đứa
không nuôi cha mẹ. Tôi mới nghe
nói vợ một học giả quá cố
Việt Nam rất có tiếng tăm, chỉ
có mỗi một người con gái
có chồng Pháp vào hạng khá
giả, mà bị con gái hất hủi,
cấm không cho vô nhà chỉ vì
làm phiền vợ chồng nó thôi;
và bà cụ đã gần tám
mươi tuổi đành phải lại ở
nhờ một người cháu, không
biết được bao lâu và sẽ
bị cháu đuổi nữa không?
Văn minh Âu tây
tuy có những nét rực rỡ
thật, có những hội bênh vực
quyền làm người, cả quyền
của loài vật nữa, nhưng như
vậy không thể gọi là văn minh
kiểu mẫu, trừ khi, như nữ
sĩ Pearl Buck nói: Kiểu mẫu đó
là chủ nghĩa cá nhân.”
( Hồi ký Nguyễn hiến Lê trang 167,
168, tập 2
Nhà xuất bản Văn Nghệ- Hoa Kỳ
)
Nếu Heidi lớn
lên trong hoàn cảnh và lối sống
Việt Nam thì khi gặp lại mẹ, cô cũng
không cần mẹ và anh chị em cô
nhắc nhở cho cô về chuyện phải
cấp dưỡng chăm sóc cho mẹ
mà cô tự cảm thấy có bổn
phận phải lo lắng, chu cấp cho mẹ. Cô
phải hiểu rằng trong đời này
không có gì ngọt ngào, đằm
thắm cho bằng tình mẹ. Người
ta đã ví tình thương của
mẹ như sau
Mẹ già như chuối Bà Hương
Như xôi nếp một như đường
mía lau
Phải nói là hạnh
phúc và may mắn biết bao cho người
con được có cơ hội để
lo lắng chăm sóc cho mẹ lúc tuổi
già bóng xế. Heidi oán trách mẹ
làø đã bỏ rơi cô khi
còn nhỏ là một trách cứ
hoàn toàn không đúng. Chỉ vì
muốn cứu cô mà mẹ cô đành
phải gạt lệ đẩy cô ra đi
để rồi sau đó phải sống
những ngày khủng hoảng, đau đớn.
Nếu Heidi lớn lên
trong không khí Việt Nam, cô sẽ được
nghe bài hát bất hủ “ Lòng mẹ
“ của nhạc sĩ Y Vân để cô
thương mẹ nhiều hơn:
“ Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình
rạt rào
Lòng mẹ êm ái như đồng
lúa chiều rì rào.”
Ở xứ Mỹ
nơi cô lớn lên đã có
một người mẹ Mỹ trắng cho
2 đứa con vào chiếc xe rồi
đẩy xuống nước cho con chết
và sau đó ngụy tạo như là
một chuyện hai đứa con bị bắt
cóc. Bà ta giết con để trút
bỏ một gánh nặng để bà
ta có thể nhẹ nợ mà đi
theo tiếng gọi của yêu đương.
Nền văn hóa Mỹ đã không
tạo nên được lòng thương
con vô bờ bến như nền văn
hóa Việt Nam mà đã tạo nên
sự tàn nhẫn dửng dưng trong
tâm thức người đàn
bà Mỹ này để bà sẵn
sàng ra tay giết con để tìm lợi
ích riêng cho bản thân mình. Tình
mẹ đối với con tàn nhẫn
và độc ác đến thế là
cùng !
Nếu vào trường
học Việt Nam, Heidi sẽ được
dạy cho những bài học vỡ
lòng về công cha, nghĩa mẹ và
những lời dạy này sẽ in
sâu vào trong đầu óc trong trắng
của cô như vết mực đỏ
son in lên trang giấy trắng:
Nâng niu bú mớm đêm ngày
Công cha nghĩa mẹ coi tầy biển non
Ngay cả người
con gái đôi khi vì lấy chồng
xa cũng hối tiếc là mình không
được dịp gần gũi cha mẹ
để lo lắng cho song thân
Chồng gần không lấy lại lấy
chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ
trà ai dâng
Cô sẽ được
học 24 gương hiếu thảo của người
con trong tác phẩm “ Nhị thập tứ
hiếu “, nếu cô theo đạo Phật,
thì vào mùa lễ Vu Lan cô sẽ
được kể cho nghe chuyện hiếu
đạo của Mục kiền Liên đối
với mẹ là bà Thanh Ðề.
Cô sẽ hiểu cách sống ngàn
đời của người Việt
Nam là “ trẻ cậy cha, già cậy con”.
Lúc còn nhỏ con cái trông cậy
vào sự nuôi nấng của cha mẹ
thì khi cha mẹ về già lại nương
tựa vào con là một chuyện làm
hợp lý. Chỉ có những đứa
con bất hiếu, vô giáo dục mới
coi chuyện lo lắng, phụng dưỡng
cha mẹ là một gánh nặng. Chỉ có
ở Tây phương này, vì quá
đề cao chủ nghĩa cá nhân nên
con người mới tìm đủ
mọi cách để cung phụng cho bản
thân mình mọi tiện nghi, lạc thú,
còn chuyện lo lắng trông nom cha mẹ
già yếu thì không đoái hoài
đến, không coi đó là bổn
phận của mình. Một nền văn hóa
đề cao sự ích kỷ bạc bẽo
như thế thì sẽ sinh ra thứ con
vô tình bạc bẽo với mẹ
như cô gái Heidi trong phim tài liệu
“ Người con gái từ Ðà
Nẵng “ cũng không làm ai ngạc nhiên.
Có rất nhiều định nghĩa về
“ văn hóa “ nhưng định nghĩa ngắn
gọn và cô đọng nhất là
“ văn hóa là lối sống”. Lề
lối sinh sống đối xử của
một con người chắc chắn tùy
thuộc nhiều vào văn hóa nơi
người đó hấp thụ khi lớn
lên. Văn hóa như thế nào thì
lối sống như thế đó là
chuyện hiển nhiên.
Khi nói đến lối
sống Việt Nam, thì cũng nên nói
rõ nếp sống đạo lý Việt
Nam là nếp sống của miền Bắc
trước 1954 và của miền Nam trước
1975, chứ miền Bắc sau 1954 và
miền Nam sau 1975 dưới chế độ
Cộng sản thì nề nếp văn hóa
cổ truyền coi như bị thui chột và
trên đà hủy diệt. Bởi vì
miền Bắc sau 1954 và miền Nam sau 1975
đã bị chủ nghĩa Cộng sản
đầu độc văn hóa Việt Nam.
Cuộc cải cách ruộng đất do chính
phủ Hồ chí Minh chủ xướng
ở miền Bắc sau 1954 với
những cảnh con đấu tố cha mẹ,
anh chị em ruột đối xử nhau như
kẻ thù đã làm cho bao ngàn
năm văn hiến Việt Nam tan nát , chế
độ tem phiếu của miền Bắc cũng
đã chia cắt tình thâm cốt
nhục. Miền Nam sau 1975 cũng không khá
gì hơn, vì cần bảo vệ vật
chất quyền lợi để sống
còn với chế độ mới
mà có bao nhiêu cảnh xào xáo
xảy ra trong mọi gia đình. Chế độ
tuyển chọn lý lịch cũng đã
khiến nhiều đứa con phải chối
bỏ cha mẹ để được vào
Ðoàn, vào Ðảng. Ðạo lý
Việt Nam một lần nữa lại đứng
bên lề vực thẳm. Mong sao chế
độ Cộng sản Việt Nam sẽ sớm
tàn lụi để văn hóa Việt
Nam đích thực lại trỗi dậy
trở lại, góp phần nuôi dưỡng
những tình cảm thân thương,
ruột thịt giữa con người Việt
Nam với nhau. Di sản của chế độ
bất nhân, vô luân Cộng sản để
lại cũng phải mất nhiều thế
hệ mới mong xóa sạch được.
Nước giàu, dân mạnh cần
kèm theo với một nền văn hóa
cao mới thật sự là mục tiêu
nhắm tới của một nước
Việt Nam tương lai.
Văn hóa Trung Hoa
vì là văn hóa Á đông
nên cũng có một số điểm
tương đồng như văn hóa Việt
Nam khi nói đến bổn phận và
trách nhiệm của con cái đối
với cha mẹ lúc về già. Văn
hóa Trung Hoa không những khuyên bảo
con cái phải giữ chữ Hiếu
lúc cha mẹ còn sống mà khi cha mẹ
mất đi con cái phải để tang
cha mẹ trong vòng 3 năm. Ba năm để
tang cũng là một thời gian hợp
lý để trả lại “ công cha, nghĩa
mẹ “ vì thời gian từ lúc
đứa con sinh ra cho đến khi 3 tuổi
là thời gian cha mẹ cực khổ
nuôi nấng nhất. Lo lắng cho cha mẹ
lúc còn sinh tiền, tưởng nhớ
đến cha mẹ lúc khuất bóng
là căn bản của văn hóa Trung
Hoa và Việt Nam. Có nhìn thấy sự
bạc bẽo khốn nạn của những
đứa con trong xã hội Tây phương
đối với cha mẹ thì mới
thấy nền văn hóa Á dông như
Trung Hoa và Việt Nam có những nét
đặc thù đáng quý và
đáng được lưu truyền.
Nhà thơ Nguyễn
chí Thiện bị giam hãm, tù đầy
trong một khoảng thời gian tổng cộng
27 năm. Vì được lớn
lên trong nền văn hóa Việt Nam, trong
những năm tù tội, ông lúc
nào cũng nghĩ đến cha mẹ và
mong sao được ở gần để
lo lắng, chăm sóc cho hai đấng sinh
thành:
Ðã lâu rồi không nhận thư
con
Mẹ thầy mong tin con quá
Thầy kể qua cho con rõ cảnh nhà
Mẹ bây giờ hai mắt như lòa
Hôm sớm trong nhà quanh quẩn!
Thầy gần như lẩn thẩn
Bước đi đờ đẫn
run chân
Viết phong thư phải nghĩ đến
dăm lần
Mong con về đỡ đần chăm
sóc
( Thư nhà – 1967)
Ông đau đớn
không được gần gũi mẹ
cha để lo cho cha già mẹ yếu:
Có người mẹ gầy nhom mắt
lóa gần lòa
Có người cha quá già, quá
yếu !
Có người con bất hiếu là
tôi
Hết tù lại tội
Bệnh ốm không nuôi nổi thân mình..
Ôâi người mẹ nặng tình
yêu dấu!
Ôâi người cha hiểu thấu
lòng con !
..Chiều âm thầm lạnh tắt trên
non.
Không còn được nữa
Những tình xưa thương mến vô
vàn !
.. Ta thương tiếc cuộc đời
tuổi trẻ
Ta lại thương người mẹ thương
yêu
Người cha sớm chiều héo
hắt
.. Bao nhiêu thương nhớ mẹ thầy
Con xin hẹn đến một ngày xuân
vui
Rưng rưng hai giọt ngậm ngùi
Con xin Trời đất niềm vui cuối
cùng !
( Có người mẹ – 1969)
Ông tự trách
mình đã phạm nhiều lỗi lầm
làm khổ mẹ cha và ân hận vì
hoàn cảnh tù đày nên ông
không có cơ hội báo đền
ơn sinh thành dưỡng dục :
Tình thương xót không bao giờ
hết
Của mẹ cha làm tan nát lòng con
Dù cuộc đời đau khổ chất
thành non
Còn cha mẹ, con còn phải sống
Vì con biết con là lẽ sống
Là niềm vui, là tất cả của
mẹ cha
Biết bao nhiêu tội lỗi những
ngày qua
Con đã mắc khiến cha buồn mẹ
khổ
Con đã biết đời con tan đổ
Không thể làm gì báo đáp
mẹ cha
Dù cho năm tháng phôi pha
Mối hận ấy con xóa nhòa sao nổi
!
(Ngày xuân tới- 1961)
Nằm trong tù, sự
đói khát cùm kẹp hành hạ
ông không đau bằng nỗi đau
khi ông nghĩ đến hoàn cảnh
đơn chiếc, cô quạnh của mẹ
cha ông :
Bao năm rồi, tôi không phải là
tôi
Thân bất động vì tình thương
gia quyến
Ôi, những buổi hoàng hôn xao
xuyến
Bóng mẹ già cầu nguyện đau
thương
Bóng người cha thui thủi bên đường
Lê thân ốm trên phố phường
u ám
Nghĩ như vậy lòng tôi ảm đạm
Nhục nhằn ư, còn biết nói sao?
Mắt tôi khô mà ruột tím gan
bào
Bao uất hận dâng trào trong lặng lẽ
!
... Ðời nặng trôi như một
đêm dài
Mắt không nhắm và đầu đau
nhức nhối!
( Tôi sống mãi – 1961)
Sau khi ra tù rồi
, thi sĩ Nguyễn chí Thiện cũng còn
nghĩ đến mẹ cha. Ông kể chuyện
cho biết là cha mẹ ông trước
khi qua đời, đã may áo sẵn
áo quần cho ông để khi ông
ra tù có quần áo mà bận.
Tình thương cha mẹ dành cho ông
như thế nên ông coi đó là
thứ tình cảm mà thế gian này
không có thứ gì có thể
đem so sánh được
Con thành thi nhân cũng chính là
nhờ
Công sức mẹ thầy nuôi cho ăn
học
Gia cảnh bần hàn lo toan chăm sóc
Con chỉ nằm đọc sách, luyện vần
thơ
Không mảy may báo hiếu được
một ngày
Thực có tội với mẹ thầy
biết mấy!
Nhưng lòng già rất thương, đâu
nghĩ ngợi
Chỉ mong con nên sự nghiệp, nên người
Trước lúc qua đời, thầy
mẹ còn lo
May quần áo để tù về con
sẵn có
Tình thầy mẹ mênh mông như thế
đó
Thế gian này không có thứ đem
so !
( Con thành thi nhân- 1980 )
Trường
hợp Nguyễn chí Thiện là một
trường hợp tiêu biểu của
một gia đình Việt Nam: Bố mẹ hy
sinh lo lắng cho con và con cũng hết lòng
thương mến bố mẹ. Ðạo lý
và văn hóa dân tộc đã
hun đúc nên một người con
chí hiếu như Nguyễn chí Thiện,
lúc nào cũng tưởng nhớ
đến sự an nguy của đấng
sinh thành, cho dù đang lúc nằm
tù với muôn ngàn khổ nhọc,
đắng cay.
Nhà lý luận thiên
tài Hà sĩ Phu cũng dành những
lời lẽ cảm động, thiết
tha khi nói đến hai bậc sinh thành
của mình khi hai người khuất bóng.
Ông làm câu đối khóc khi mai
táng mẹ như sau:
Trời dẫu sập chẳng đau bằng
mất mẹ
Ðất tuy dày không cản được
lòng con
Ông còn làm một
câu đối gửi ra từ trong
tù ( 1996) nhân ngày giỗ cha ông:
Nhớ giỗ Cha thắp nén hương
thầm, đem chí khí quyết đền
công dưỡng dục!
Yêu đất Mẹ mở con đường
lớn, lấy bút nghiên mong trả
nợ tang bồng
Nhìn lại cô con gái
lai Mỹ Heidi, cô qua Mỹ sống cuộc
đời sung sướng là cũng
do mẹ cô đẩy cô đi. Nếu
cô không được mẹ đẩy
đi năm 1975 thì khi ở lại cô
có quyền nếm mùi bo bo và cơm
độn chứ không hưởng
được đời sống tiện
nghi vật chất mà cô đang có
hiện tại ở Mỹ. Mẹ cô
đưa đề nghị muốn cô bảo
lãnh mẹ qua Mỹ, cô từ chối.
Nếu không thì mẹ mong cô giúp
đỡ chút ít tiền bạc vật
chất trong lúc tuổi già bóng xế
mà cô cũng lạnh lùng, tàn
nhẫn khước từ. Thật không
biết dùng danh từ nào nữa
đây để nguyền rủa cô
con gái lai khốn nạn, bất hiếu này.
Cô cũng có hai đứa con gái,
chắc là rồi đây khi cô về
già, cô cũng lại gặp sự đối
xử bạc bẽo, vô trách nhiệm
của hai con cô dành cho cô như cô
đã đối xử tàn tệ,
dửng dưng với người mẹ
ruột ở Ðà Nẵng. Khi bà
Mai thị Kim đẩy đứa con lai Mai
thị Hiệp đi Mỹ, bà chỉ có
ý định cứu đứa con
vì sợ Cộng sản làm hại con
bà. Tiếc thay, đứa con lớn
lên trong xã hội Mỹ, tiêm nhiễm
văn hóa Mỹ nên nó từ
khước bà vì sợ mang gánh
nặng cưu mang, cấp dưỡng cho bà.
Bà coi như mất đứa con bạc
bẽo, vô tình này.
Cơn hồng thủy
30/4/75 không chỉ làm cho bà mẹ Mai
thị Kim phải xa rời đứa
con lai Mỹ Mai thị Hiệp mà còn làm
cho bao nhiêu gia đình Việt Nam khác
ly tán khắp bốn phương trời
như những cánh hoa bay tơi tả trong
một chiều gió lộng. Những người
Việt ly hương, vì được
lớn lên trong xã hội và nền
văn hóa Việt Nam, nên họ có một
lối xử sự hoàn toàn khác
hẳn cô con gái Heidi Mai thị Hiệp.
Họ làm việc cực khổ nhưng khoan
khoái, nhẹ người khi gửi cho
gia đình còn kẹt lại ở Việt
Nam những thùng quà hay tiền. Họ
vui vẻ sung sướng khi nhận thư báo
tin nhà đã nhận được
quà hay tiền. Qùa cáp hay tiền
không phải là chuyện thù tạc
cho vui mà chính là những phương
tiện để nuôi sống gia đình
còn kẹt lại. Ðạo lý Việt
Nam đã dạy cho họ cách hành
xử hợp lý, hợp tình
như vậy. Ðối với họ, lo lắng
cho cha mẹ lúc tuổi già sức yếu
hay giúp đỡ cho anh chị em không
phải là một gánh nặng khó chịu
mà là niềm vui của người
con hiếu thảo, của một người
em, chị, anh có trách nhiệm trong lúc
ở xứ người. Phần lớn
đều hoàn thành những thủ
tục bảo lãnh để đem thân
nhân qua sống ở vùng đất
lạ tạm dung để con và cha mẹ được
chung sống với nhau sau bao ngày xa cách,
anh chị em được dịp sum họp,
quây quần để cùng nhau xây
dựng cuộc đời mới.
Chiến tranh Việt
Nam đã để lại nhiều di sản.
Di sản không chỉ có những bom
đạn mìn bẫy còn sót lại
tiếp tục gây thương tích cho người
dân Việt Nam vô tội mà di sản
còn có thể kể đến những
đứa con lai mà những quân
nhân Mỹ còn để lại sau chiến
tranh. Vì lớn lên trong nền văn
hóa Tây phương, những quân
nhân Mỹ này đa số không ai
nghĩ đến những hòn máu
rơi mà họ đã để lại
vì Tây phương vốn coi thường
quan hệ máu mủ ruột thịt. Rất
hiếm trường hợp có người
quân nhân Mỹ đi tìm lại hòn
máu rơi của mình. Khi về Mỹ
họ xây dựng cuộc đời
mới và không muốn vướng
mắc về những chuyện tình cảm
và con rơi ngày xưa. Mai thị Hiệp
là một thí dụ điển hình,
tới giờ này cô cũng
chẳng biết cha cô là ai. Những
đứa con lai như Hiệp lớn lên
trong nền văn hóa “ vô tình bạc
nghĩa “ Tây phương nên đã
gây ra nhiều đau khổ cho những
người mẹ sinh ra chúng. Mai thị
Hiệp đã thật sự làm cho mẹ
đau khổ bởi cách hành xử
tàn tệ, bội bạc của Hiệp không
đúng với đạo lý làm
người Á đông.
Cách đối
xử tốt đẹp hay tàn tệ của
con cái đối với cha mẹ không
phải là một chuyện làm ngẫu
nhiên tình cờ mà là cả
một quá trình giáo dục và đào
tạo cùng sự ảnh hưởng
của môi trường sống nơi
đứa con lớn lên. Cho dù
thời thế có thay đổi thế
nào chăng nữa thì “ cha mẹ từ,
con hiếu “ vẫn là câu châm ngôn
muôn đời để cho mọi gia
đình Việt Nam noi theo. Lối sống có
tình, có nghĩa có thủy có
chung, có hiếu có đễ không
phải là chuyện một sớm một
chiều là có được mà
phải trải qua nhiều quá trình tập
nhiễm, rèn luyện. Còn có biết
bao nhiêu đứa con bạc bẽo, bất
hiếu như Heidi Mai thị Hiệp nằm trong
những gia đình Việt Nam hải ngoại
mà phương cách ngăn ngừa
hữu hiệu nhất là các bậc
phụ huynh cần phải dạy con sống theo
nếp sống cổ truyền, luân lý
Việt Nam nói riêng và Á đông
nói chung. Ðây là một chuyện
không dễ làm nhưng nếu muốn
có một gia đình sống trong hạnh
phúc, thương yêu, cha mẹ lo cho con khi
còn nhỏ, con lo lắng phụng dưỡng
cho cha mẹ lúc về già thì thiết
tưởng nỗ lực khó nhọc
mà các bậc phụ huynh bỏ ra dạy
dỗ các con không phải là chuyện
làm vô bổ.
Quê hương xa cách
ngàn trùng nhưng nếu trong gia đình
có những đứa con hiếu
thảo biết lo lắng phụng dưỡng
cho cha mẹ lúc tuổi già bóng xế
thì chuyện đó cũng làm ấm
lòng bao bậc cha mẹ trong những ngày
tháng buồn nản ở xứ lạ,
quê người.
Lawndale, một chiều hoang lạnh
đìu hiu đầu thu đầu tháng
11-2003
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
|