SOLZHENITSYN
CỦA VIỆT NAM
(Cập nhật hóa ngày
23/08/2002)
Cuộc viếng thăm của
Bill Clinton vào tháng 11 vừa qua, trong những
tháng cuối cùng của nhiệm kỳ
của ông, đã tiết lộ cho thấy
có một sự nứt rạn trong giới
trí thức Hoa Kỳ về vấn đề
diễn dịch chiến tranh Việt Nam. Những
chính trị gia dân chủ, như Clinton, Phó
tổng thống Al Gore sắp rời chức
vụ và Thượng nghị sĩ John
Kerry ở Massachusettes, tranh luận cho rằng
sự can thiệp của Mỹ vào Ðông
Dương là một chuyện làm khinh suất,
thiếu thận trọng, nhưng không có
gương mặt quan trọng nào nữa
trong chính quyền từ hồi ấy
công nhận cuộc chiến tranh là vô
luân. Ðồng thời những
bài điểm sách chính và những
tờ báo ngày càng thu hẹp của
phe Tả như hai tờ báo Dissent và
Nation vẫn khăng khăng ca tụng Frances FitzGerald,
George C. Herring và những di sản khác
của thập niên 60 đóng dấu chấp
nhận trên những tuyển tập được
xuất bản đều đặn bởi
những học giả phe Tả để
một lần nữa, nhắc lại những
giáo điều không có giá trị
của phong trào chống chiến tranh – rằng
như Hồ chí Minh là một khuôn mặt
nhân từ, rằng những Tổng
thống Lyndon B. Johnson và Richard M. Nixon là
những tên độc ác giết
người hàng loạt, là những
người kéo dài cuộc chiến
tranh chỉ với mục đích đề
cao những tham vọng chính trị ngắn
hạn của họ.
Tuy nhiên, trong vòng một
thập niên hay hai, sau khi những chủ bút
tuổi trung niên cố gắng duy trì quan
điểm sống động này đã
về hưu, ngay cả giới báo chí
cấp tiến và giới trí thức
sẽ nhận thấy một sự thật là:
Cuộc chiến tranh Việt Nam không phải
là một lầm lỗi, nó chỉ là
một trận đấu trong nửa thế
kỷ chiến tranh lạnh để rồi chấm
dứt bằng sự sụp đổ
của chủ nghĩa Mác xít – Lê nin
nít.
Ðó là quan điểm
của một nhà thơ Việt Nam vĩ đại
nhất hiện còn đang sống ( greatest
living Vietnamese poet) , Nguyễn chí Thiện. Nếu
bạn không đọc thấy tên của
ông ta trong báo New York Times hay New York Review of Books
hay tờ Dissent hoặc tờ Nation, là
cũng do có một lý do. Vào thập
niên 1980, chuyện ủng hộ những người
viết bất đồng chống lại Cộng
sản đã trở nên được
xã hội chấp nhận trong hàng ngũ
của giới trí thức cấp
tiến Mỹ, nhưng chỉ với hai điều
kiện. Thứ nhất, họ phải là
người Âu châu ( giống như
Vaclav Havel và Joseph Brodsky) và thứ hai,
họ phải phê phán chủ nghĩa Cộng
sản từ một cái nhìn Dân
chủ Xã hội ( tiêu chuẩn này
không áp dụng cho nhân vật quốc
gia chính thống Nga xô Alexander I. Solzhenitsyn
). Nguyễn chí Thiện không thuộc vào
hai tiêu chuẩn nói trên – ông là
người Á châu ( đó phải
chăng là những gì giới
Mỹ trắng cấp tiến hay Tả phái
đã được nghe thấy từ
bất cứ nhân vật Á châu
bất đồng chính kiến nào,
ngoài nhân vật Ngụy kinh Sinh ?), và
ông chống chủ nghĩa Mác-xít
ở tất cả mọi hình thức.
Trầm trọng hơn nữa, ông lưu
ý giới trí thức Mỹ về
một cuộc chiến trong đó có nhiều
người trong bọn họ tích cực
ủng hộ cho một nền độc tài
vốn bỏ tù ông. Ðiều này
giải thích cái sự thật kỳ
lạ là Nguyễn chí Thiện, đã
nhiều lần được đề
cử giải Nobel, được khắp
mọi nơi trên thế giới biết
đến, ngoài trừ quốc gia mà
ông lưu trú là Hoa Kỳ.
Hiện nay sống lưu vong thay
đổi từ hai nơi Virginia và Paris,
Nguyễn chí Thiện được sinh
ra năm 1939 trong một gia đình thuộc giới
cận trung lưu ( cha ông là một thư
ký tòa án), và nhận được
một nền học vấn tốt trong nền
văn hóa Pháp và Việt. Vào
năm 1954, ở lứa tuổi 15, ông
hân hoan đón nhận sự thiết
lập cơ cấu chính quyền theo Hiệp
định Geneve trên Bắc Việt Nam của
chế độ Cộng sản. Và giống
như nhiều người miền Bắc
khác, ông quay ra chống lại chế độ
trong thời kỳ chế độ cai trị
áp đặt bạo lực sau đó.
Bọn độc tài Hà
nội thiết lập những mô hình
tập trung của Liên Xô và Trung Cộng
như " chương trình cải cách ruộng
đất " gây nên nhiều thảm họa.
" Một nghị định phân biệt quần
chúng " được ban hành ngày
2 tháng 3 năm 1953, đã phân chia mọi
người theo từng loại được
đặt ra bởi Sô Viết trong thập
niên 1920, chẳng hạn như " địa
chủ " và " nông nô ". Tuy nhiên, sự
thật là một chủ đất trung bình
ở Bắc Việt Nam sở hữu
không đến hai mẫu đất trồng
ruộng, có khoảng 10000 đến 15000 người
miền Bắc bị lên án là kẻ
thù giai cấp và xử bắn.
Trong giai đoạn này Hồ
chí Minh và đồng bọn của ông
đã thích thú với sự
diệt chủng dành cho giai cấp ở
mức độ lớn nên họ
mời những người Cộng
sản Trung Cộng đến để giúp
họ phân loại ra ai là người
được sống và ai phải chết.
Một viên chức miền Bắc lưu
vong là Bùi Tín có nói đến
trường hợp của bà Nguyễn
thị Năm. Dù những con của bà
là những viên chức trong Ðảng,
" những cố vấn Trung Cộng kết
luận bà là một địa chủ
tàn bạo và phải bị loại trừ."
Trường hợp này gây được
sự chú ý đến Hồ chí
Minh, nhưng ông ta từ chối can thiệp.
" Bà Năm nhanh chóng bị kết án
bản án tử hình bởi những
người đại diện cho Mao trạch
Ðông, đám này kết tội
bà gian dối len lỏi vào những
hàng ngũ của cách mạng để
phá hoại nó từ bên trong."
Nhiều nông dân dùng
tiến trình cải cách ruộng đất
để trả thù, nhưng khi sự tù
đày và giết người ngày
càng lan rộng thì những người
sợ hãi đã biến thành
những người chống đối.
Vào ngày 2 tháng 11 năm 1956, dân
làng nổi loạn ở Nghệ An, gần
nơi sinh của Hồ, và đã làm
cho chế độ phải gửi sư đoàn
325 của Quân đội Nhân Dân đến
đàn áp họ.
Giống như Stalin ở
Liên Xô và Mao ở Trung quốc,
cải cách ruộng đất của Hồ
ở Bắc Việt Nam được
chấm dứt khi nó đã phục
vụ xong mục đích là phân tán
nhỏ xã hội và thiết lập kiên
cố xong sự kiểm soát của đảng
cộng sản. Hồ chí Minh thú nhận
" có những lỗi lầm " đã
xảy ra, nhưng dửng dưng lờ đi
cái chết của hàng vạn nạn nhân
trong cuộc cải cách ruộng đất.
Ông cho rằng, " không thể làm sống
dậy người chết được."
Sự tàn bạo của
chính quyền Bắc Việt Nam đã
làm nhiều người trí thức,
trong đó có nhiều người
trong Ðảng Cộng sản xúc động
sâu xa. Họ phản kháng bằng cách
viết những bài in trong hai tờ
báo Nhân Văn ( The Humanities) và Giai Phẩm
( Masterpieces), được gọi là vụ
án Nhân Văn – Giai Phẩm ( 1956 – 1958). Chế
độ ra tay ruồng bố những kẻ
bất đồng chính kiến ( dissidents),
nhưng không thể giết đi tinh thần
phản kháng. Nguyễn chí Thiện bắt
đầu làm những bài thơ
phê bình chế độ, vốn được
phổ biến riêng trong giới thân
hữu. Bộ máy quyền lực đưa
ông vào tù năm 1961.
Trong lời chứng trước
Quốc Hội Hoa Kỳ năm 1995, nhà thơ
diễn tả lại những gì xảy
ra trong thời kỳ đó, " Vào
năm 1961, chính Hồ chí Minh đã
ký một sắc lệnh ra lệnh cho phép
tập trung cải tạo cả trăm ngàn
người, bao gồm những kẻ
đã từng phục vụ trong quân
đội hay chính quyền của chế
độ Bảo Ðại, và những
người trong dân chúng bất mãn
với chế độ, trong đó
gồm những nhà sư, những
linh mục, những thành phần tư sản
và giới trí thức. Tất
cả họ đều bị giam vào trong
những trại lao động khổ sai. Phần
lớn trong số những người
này chưa bao giờ được
đưa ra tòa và số phận của
họ hoàn toàn tùy thuộc vào
những sự sắp xếp, định
đoạt bởi những cán bộ
an ninh nhà nước.."
Ðược thả ra vào
năm 1963, Nguyễn chí Thiện bị bắt
lại năm 1966 và bị giam cho đến
năm 1977. Giống như Solzhenitsyn trong quần
đảo ngục tù Gulag, ông phải làm
thơ và ghi vào trí nhớ. Cho
dù là khi ông ở Hỏa Lò
( tức " Hanoi Hilton ), nơi mà nhiều
tù binh Mỹ bị giam giữ trong thời
kỳ chiến tranh ), hay khi làm công tác
lao động nặng ở miền quê,
ông rán bỏ ra một số ngày tháng
để ôn lại những bài thơ
đã làm. Nỗi sợ lớn
nhất của ông là nếu ông mất
đi trí nhớ thì sự nghiệp
sáng tác của ông coi như tiêu
tan.
Sau khi được thả
ra vào năm 1977, ông sống với
một người bạn và viết xuống
giấy gần 400 bài thơ từ trí
nhớ. Ông chọn ngày kỷ niệm
phá ngục Bastille ( 14 tháng 7) năm 1979 để
mong chuyển tập thơ của ông đến
những nhà ngoại giao ở Tòa
đại sứ Pháp tại Hà Nội.
Không may là sự canh giữ quá
chặt chẽ của lính gác đã
làm ông bỏ cuộc, không thi hành
được dự tính. Hai ngày
sau, sau khi nghiên cứu những chi tiết
canh gác của bọn lính canh, ông nhào
vào tòa Ðại sứ Anh và
nói to lên bằng tiếng Anh, " Tôi
không phải là một người
điên, tôi là một nhà thơ
và tôi có một thứ văn
kiện quan trọng cần trao cho các ông
." Vì tin như thế nên ba nhà ngoại
giao Anh chặn những lính gác người
Việt Nam lại và hỏi ông muốn
gì. Ông trao cho họ bản thảo tập
thơ và ba cái hình của ông,
để chứng tỏ rằng ông không
muốn ẩn danh. Khi rời tòa đại
sứ đi ra, ông bị bắt. Ông
phải trải qua thêm 12 năm tù tội
và làm thêm một loạt thơ thứ
hai. ( 1). Năm 1991, ông được thả
ra và đến Mỹ tỵ nạn năm
1995.
Mô phỏng theo tác phẩm
Aùc Hoa ( Les Fleurs du Mal ( Flowers of Evil ) ) , Nguyễn
chí Thiện đặt tên tác phẩm
đầu tay của ông là Hoa Ðịa
Ngục ( Flơwers from Hell). Trong lá thư viết
bằng tiếng Pháp gửi kèm với
bản thảo tập thơ, ông viết, "
Phần lớn ( những bài thơ)
được sáng tác trong những
năm tôi bị quản thúc. Tôi nghĩ
rằng, chính những nạn nhân chúng
tôi có bổn phận, hơn ai khác,
là làm cho thế giới thấy
sự đau khổ vô bờ bến
của dân tộc tôi hiện đang bị
đày đọa và hành hạ thẳng
tay. Cuộc đời tan nát của tôi
chỉ còn có một hy vọng là được
thấy càng đông người ý
thức được Cộng sản là
một tai họa khủng khiếp cho nhân loại."
Vào năm 1980 những
bài thơ trong tập thứ nhất bắt
đầu được phổ biến
trong những cộng đồng người
Việt Nam sống ở Mỹ, Pháp và
những quốc gia khác. Năm 1982, có
một bài viết trong tờ Asiaweek nhan
đề " Một tiếng nói từ
Hà Nội thâm u " ( A voice from the Hanoi underground
), theo sau đó là một chương trình
phát thanh của đài BBC, đã
mang lại sự chú ý ngày càng
nhiều đến nhà thơ phản kháng
này. Ông được tặng thưởng
nhiều giải thưởng danh dự do
những Hội văn bút Mỹ, Pháp,
Thụy Ðiển và Nhật trao tặng. Những
bài thơ của ông được
dịch sang tiếng Anh, Pháp, Nhật, Ðức,
Trung Hoa, Tiệp Khắc và Tây Ban Nha. Nhiều
bài thơ trữ tình của ông
được phổ nhạc bởi nhạc
sĩ người Aùo Gunter Mattisch và
nhạc sĩ Việt Nam lưu vong Phạm Duy.
Toàn bộ thơ ông bao
gồm nhiều loại thơ có số lượng
còn nhiều hơn những bài thơ
phản kháng chính trị. Trong đó
bao gồm những bài thơ tình, thơ
miêu tả cảnh vật và thơ trầm
tư mặc tưởng về thế thái
nhân tình. Nhiều bài thơ nguyên
bản có nhịp điệu từ thể
thơ Việt Nam cổ điển, một số
có cấu trúc phức tạp, một
số khác mang hình thức dân ca
đơn giản. Sự so sánh gần
gũi nhất có thể nêu ra là
sự hỗn hợp của nội dung chính
trị và cách làm thơ theo kiểu
truyền thống trong những bài thơ
của Bertolt Brecht ( dù ông này khó
được đánh giá là
người phê phán chủ nghĩa
Cộng sản ). Ðáng tiếc là bản
dịch của Nguyễn ngọc Bích đã
không gợi cho người đọc
ý niệm gì về những sự
tinh tế, thanh tú của hình thức
trong tập thơ nguyên bản.
Những bài thơ này
thuộc loại " khó nhai" không những
chỉ đối với những người
tả phái thân cộng mà còn cho
thế hệ già hơn của những
người cấp tiến chống những
người chống cộng ( anti-anti- Communist
liberals ), vốn là những người
trố mắt tròn xoe khi nghe thấy Tổng
thống Ronald Reagan gọi Liên Xô là
một " đế quốc ma quỷ " và tiên
đoán chủ nghĩa Mác xít – Lêninít
sẽ sớm chấm dứt trong đống
rác của lịch sử.
Từ lúc mới
trưởng thành, Nguyễn chí Thiện
đã khẳng định, giống như
những tác giả người Pháp
của cuốn sách " Hắc thư Cộng
sản " ( The Black book of communism) mới đây,
là ( theo lời của họ ) " tội ác
hàng loạt, tội ác có tổ chức,
và tội ác chống lại nhân loại
" phải là " một yếu tố chủ
yếu trong khi phân tích chủ nghĩa Cộng
sản." Một trong những đoạn thơ
ghi chép vụn vặt ( Scribblings), nhà thơ
đã từng bày tỏ, " Ôâi
chủ nghĩa Mác Lê buồn bã.
Tới trời Nam ngươi bậy bạ
hơn nhiều. Bên trời Âu dù
nhục nhã bao nhiêu. Cũng chưa đáng
phần ngàn nơi đất Á ! ) (
" Oh, doleful Marxism-Leninism!/ By the time you get here, to Viet Nam,
you’ve become a real crime!/ No matter hơ shameful you’ve been in
Europe/ All your crimes amount to but a thousandth of what took place here
in Asia!)
Sau đây là một bài
thơ làm từ năm 1960 có tên
" Nếu trời còn " ( Should Providence Exit
) : Nếu trời còn để có
một ngày mai. Tôi sẽ kể chuyện
đêm dài khủng khiếp. Cho thế
hệ hiện nay cùng đàn sau kế
tiếp. Giật mình thức tỉnh, thương
đau. Phẫn nộ trào dâng, dốc
sức cùng nhau. Ðánh phọt óc
con rắn hồng độc hại. Giải phóng
cả một phần ba nhân loại. Bị nó
cuốn tròn sống trong ngắc ngoải
( 1960).
( Should Providence exit and there remain a tomorrow.
I will tell the stories of this horrible night. So that the present generation
and the next and the next. Would wake up to this suffering. And animated
by rightful anger, they would pool their forces. To kill this poisonous
red snake, smashing its brain. Thus liberating one third of mankind. Which
is currently in its grasp, more dead than alive.)
Năm 1973, trong khi những
chuyên gia trí thức Mỹ vẫn cứ
tin Cộng sản Việt Nam là kết quả
dân tộc tự nhiên
(indigenous outgrowth) của lòng
ái quốc, Nguyễn chí Thiện đưa
ra một cái nhìn khác hẳn trong bài
thơ "Ðảng"
"Ðảng thực
chất chỉ là đảng cướp
…… Nhờ súng đạn
Tàu Nga bắt bớ."
(This Party in fact is nothing more than a gangster
mob Made possible by Russian and Chinese arms and the weapons of arrest
)
Bài thơ " Thế lực
đỏ " ( Red Power) được làm
trong nhà tù năm 1975, một thời
gian ngắn trước khi Tổng thống
Carter gạt bỏ những gì mà ông
gọi là " nỗi sợ quá trớn
về Cộng sản " ( inordinate fear of Communism): " Thế
lực đỏ: phải đồng tâm
đập nát. Ðể nó hoành
hành họa lớn sẽ lan nhanh. .. Nên
phải viết, phải muôn ngàn kẻ
viết. Những tội tầy đình
được bưng bít tinh vi. .. Sự
hiểu biết sẽ là mồ hủy diệt
" ( Red Power: We must be of one mind to crush it. For if we let it roam,
catastrophes will follow..One must write , thousands of us must write .
About its colossal crimes, however subtly camouflaged.. Knowledge then
will be its destroyer, its grave."
Nhiều thế hệ người
Tây phương khi được cho đi
xem những làng " kiểu mẫu " Potemkim
ở những nước Liên Xô,
Trung Quốc, Bắc Việt Nam, Bắc Hàn
và Cuba, đều ngớ ngẩn tin rằng
chủ nghĩa Mác xít- Lêninít đã
đưa ra một đường lối
nhằm thoát khỏi sự nghèo khó
cho những quốc gia phát triển. Chẳng
hạn như hai nhân vật Barbara Tuchman và
John Kenneth Galbraith trước đây khi đi
thăm viếng nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa vào đầu thập
niên 1970, đều lên tiếng rằng
Mao đã trông nom và kiểm tra sự
tiến bộ diệu kỳ về kinh tế
( giờ đây chúng ta đều
biết có hàng triệu người
chết đói vì chiến dịch " Bước
nhảy vọt " đề ra chỉ một thập
niên trước đó).
Năm 1974, Nguyễn chí Thiện
phân tích nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa trong bài thơ " Miếng thịt
lợn " ( A Cut of Pork) như sau: " Miếng thịt
lợn chao ôi là vĩ đại! Miếng
thịt bò lại vĩ đại bằng
hai. Chanh, chuối, cam, đường, lạc,
đỗ, gạo, khoai.. Ðảng mó tới
tự nhiên thành vĩ đại) (
What a miracle, a cut of pork. A double miracle, a beef cut, my friend!
Lime, banana, orange, sugar, peanut, bean, rice, yam. Everything and anything
that one can chew on. At the Party’s magic touch becomes a miracle hard
to find.).
Vì viết những vần
thơ như thế nên nhà thơ đã
phải trải qua gần hết tuổi thanh xuân
trong tù và chuyện này làm cho sức
khỏe ông bị yếu đi vĩnh viễn.
Chính phủ Hồ chí Minh chỉ thích
những bài thơ giống như bài
thơ của nhà thơ công thần của
Ðảng là Tố Hữu viết
khi nghe tin Stalin chết vào năm 1953, "Ôi
Stalin! Nghe tin ông mất đất trời
còn không! Thương cha thương mẹ
thương chồng. Thương mình thương
một thương ông thương mười.
) ( Stalin, oh Stalin, alas he is gone. Do Heaven and Earth still exist?
Devotion to father, to mother, to husband. Devotion to Him ten times more
than to oneself. ) Trong tập thơ " Hoa Ðịa Ngục"
, Nguyễn chí Thiện mỉa mai thứ
người làm văn hóa đáng
khinh này là " bồi bút" ( pen pals) của
chế độ độc tài.
Chế độ độc
tài Bắc Việt Nam muốn chắc chắn
những tù nhân của họ ( loại
bao gồm những người Việt
Nam bên ngoài cũng như bên trong những
nhà tù và những trại cải
tạo ) biết đến những lời
nói và hành động của những
nhân vật hoạt động chống chiến
tranh Việt Nam ở Mỹ và Âu châu.
Cố nhiên chuyện tham dự của Triết
gia Bertrand Russell vào trong tòa án lố
bịch Stockholm để tuyên án Mỹ
có tội về những tội ác
chiến tranh là một sự quảng cáo
rùm beng cho chế độ Hà Nội.
Nguyễn chí Thiện có làm một
bài thơ trong tù nhằm trả lời
cho chuyện đó năm 1968. Bài thơ
tên " Gửi Bertrant- Rút-Xen " ( Letter to Bertrand
Russell): Ông là một bậc triết nhân.
Nhưng về chính trị ông đần
làm sao. Ông bênh Việt Cộng ồn
ào. Nhưng ông hiểu chúng tị nào
cho cam. Mời ông tới Bắc Việt
Nam. Xem nô lệ đói phải làm
ra sao. Mời ông tới các nhà
lao. Xem bò, lợn được đề
cao hơn người. Không ai kêu nổi
một lời. Mồm dân Ðảng
khóa đã mười mấy năm!
Xem rồi ông mới hờn căm.
Muốn đem bọn chúng ra băm ra vằm.
Tuổi ông ngót nghét một trăm.
Nhưng thua cậu bé mười lăm
đói gầy. Về môn " Cộng sản
học " nầy! ( 1968) ( Letter to Bertrand Russel": " The worlds
respects you as a philosopher. But in politics, you are only a novice.
After all your noisy defenses of the Viet Cong. Can you in truth say you
really know them? Please come and have a look at our country. Come and
see for yourself our system of slavery. Come and visit our countless prisons.
When even pigs and cơs fare better than people. Just come and seek
one angry testimony. You will learn how we have bêen hushed forever.
Only then will you understand them, your allies. Whom you will want chopped
into many pieces. My dear sir, you’re a hundred years of age. But in "
Communistology" you’re a mere babe."
Cũng vào năm 1968, trong
lúc sinh viên ở những trường
đại học Mỹ và Âu Châu
xuống đường biểu tình ủng
hộ Việt Cộng, Nguyễn chí Thiện đã
viết bài thơ, " Tôi có thể
ăn " ( I can eat), một bài thơ mà nhịp
điệu của nó, chứ chưa nói
đến nội dung, cũng đã đủ
chất liệu để tạo cảm hứng
cho Bob Dylan, hay Peter, Paul và Mary viết thành
một bản nhạc.
"Tôi có thể ăn:
Tôi có thể ăn vài cân sắn
sống. Ngon lành như nhai kẹo xô-cô-la.
Bạn phục tôi tài hơn cả lợn
à? Tôi đương sống trong nhà
giam Việt Cộng ! Mùa đông rét,
ào ào gió lộng. Ðứng
ngâm mình vớt nứa giữa
dòng sông. Bạn tưởng tôi
xương sắt, da đồng? Tôi đương
sống trong nhà giam Việt Cộng! Chỗ
tôi nằm sau mười phân chiếu
rộng. Hai người bên, một hủi,
một ho lao! Bạn bảo tôi còn biết
làm sao? Tôi đương sống trong
nhà giam Việt Cộng! ( 1968) ( I can eat a few kilos
of raw manioc. And enjoy them as if they were chocolate!. Aren’t you impressed
that I can outdo a hog? It’s because I am living in a Viet Cong jail. In
the winter when blow wintry blasts. I am half submerged in water gathering
sharp bamboo. Do you think that I have copper skin and iron bones? No,
I am just living in a Viet Cong jail. My bed is a piece of mat about two
fêet wide. On one side is a leper, on the other a TB case. What
do you think that I should do? I am living, though, in a Viet Cong jail.)
Trong bài điều trần
trước Quốc Hội Mỹ năm 1995,
Nguyễn chí Thiện giải thích những
quan điểm của ông về chiến
tranh Việt Nam như sau, " Thật ra, cuộc " chiến
tranh giải phóng " này không có gì
hơn là một nỗ lực nhằm áp
đặt chủ nghĩa Cộng Sản, hay loại
Mác- xít Lêninít của nó, lên
toàn thể nước Việt Nam như
là một tảng đá thống trị
đè nặng lên phần còn lại
của vùng Ðông Nam Á . Sau khi miền
Nam Việt Nam sụp đổ năm 1975, hàng
trăm ngàn người bị gửi
vào những trại cải tạo tập
trung. Cho nên Cộng sản không cần dùng
đến những cuộc tắm máu,
vì làm như thế thì rõ ràng
và lộ liễu quá. Thay vào đó,
dưới chế độ mới,
hàng trăm ngàn người đã
phải chết vì lạnh, hay chết đơn
giản không ai ngó ngàng tới
trong những xó xỉnh hoang vắng nào
đó của rừng rậm.
Nhà thơ phản kháng
tiếp tục " Cuốn sách mới đây
của ông Robert Mc Namara về chiến tranh ở
Việt Nam ( cuốn In Retrospect) cho thấy sự
hiểu biết ít ỏi của ông về
Việt Nam và người Việt Nam. Hơn
thế nữa, ông đã lăng
nhục trí nhớ của những người
đã từng chiến đấu và
hy sinh cho lý tưởng và dân chủ
ở Việt Nam, vốn giống với
lý tưởng của thế giới
và ngay cả tại nước Mỹ.
..Nhìn lại, cuộc chiến Việt Nam có
thể so sánh như một trận đánh
– một trận đánh lớn nếu
bạn muốn nghĩ như thế – đã
bị thua, nhưng cuối cùng đã
đóng góp vào sự chiến
thắng ở mức độ lớn
nhất."
Sự vui sướng mà
những người trẻ Việt Nam đón
chào Tổng thống Clinton trong chuyến viếng
thăm Việt Nam vào tháng 11 đã
gợi ý cho thấy nền độc
tài Mác-xít Lêninít trong một
quốc gia nghèo đói, không tự
do sẽ không sống vài năm lâu
hơn những người lãnh đạo
Việt Nam già nua. Nhưng tương lai sẽ
có thể chứng kiến sự trở
lại của nền cai trị độc ác
như quỷ ở đâu đó
dưới chiêu bài của những
phong trào mới và những ý
thức hệ mới. Ðiều nguy
hiểm và lầm lạc nhất của những
loại này , giống như chủ nghĩa
Cộng sản, có vẻ hấp dẫn tới
những lý tưởng tiến bộ
và thức tỉnh. Sự anh dũng
trí tuệ ( intellectual heroism) của Nguyễn
chí Thiện, Solzhenitsyn và nhiều người
tiên tri không võ trang khác đã
trực diện đối đầu với
sự gian trá độc hại nhất
của thế kỷ 20, nó sẽ cần
đến để gây hứng khởi
cho những người nối tiếp
của họ trong trận đấu với
những hình thức khác của
chuyên chế. Bài thơ " Ðảng đầøy
tôi ( 1972)" ( They Exiled Me) có thể coi là
một bản quốc ca vô tận cho sự
sống còn của những nhà bất
đồng chính kiến ở khắp
mọi nơi:
" Ðảng đầy tôi
trong rừng. Mong tôi xác bón từng
gốc sắn. Tôi hóa thành người
săn bắn. Và trở ra đầy
ngọc rắn, sừng tê. Ðảng
dìm tôi xuống bể. Mong tôi đáy
nước chìm sâu. Tôi hóa
thành người thợ lặn. Và
nổi lên ngời sáng ngọc châu.
Ðảng vùi tôi trong đất nâu.
Mong tôi hóa bùn đen dưới
đó. Tôi hóa thành người
thợ mỏ. Và đào lên quặng
quý từng kho. Không phải quặng
kim cương hay quặng vàng chế đồ
nữ trang xinh nhỏ. Mà quặng uranium chế
bom nguyên tử."
(They exiled me to the heart of the jungle. Wishing
to fertilize the manioc with my remains. I turned into an expert hunter.
Anh came out full of snake wisdom and rhino fierceness. They sank me in
the ocean. Wishing that I would remain in the depths. I became a deep sea
diver. And came up covered with scintillating pearls. They squeezed me
into the dirt. Hoping that I would become mire. I turned instead into a
miner. And brought up stores of the most precious metal. No diamond or
gold, though. The kind to adorn women’s baubles. But uranium with which
to manufacture to atom bomb.) MICHAEL LIND
(Trần viết Ðại Hưng
chuyển ngữ từ bài " The Solzhenitsyn
of Viet Nam" đăng trong tạp chí "The New Leader"
số tháng 2 năm 2001 của Michael Lind.)
Lawndale, một chiều có
nắng hanh hao và mưa lấm tấm đầu
tháng 9 năm 2002.
1. Loạt thơ thứ hai
này được in dưới cái
tên "Hạt máu thơ" sau khi nhà thơ
Nguyễn chí Thiện đến Mỹ định
cư năm 1995.
|