TÁC  GIẢ
SÁCH
ÐÃ XUẤT BẢN
CÁC BÀI
VIẾT MỚI
GÓP Ý


 PHỤ LỤC:
ÐÀI RFI ( PHÁP) VÀ BBC (ANH) PHỎNG VẤN TIẾN SĨ SOPHIE QUINN JUDGE VÀ NHÀ SỬ HỌC PIERRE BROCHEUX VỀ HỒ CHÍ MINH


ÐÀI RFI ( PHÁP) PHỎNG VẤN TIẾN SĨ SOPHIE QUINN
JUDGE VÀ NHÀ SỬ HỌC PIERRE BROCHEUX
Chương trình phát thanh RFI ngày 2 tháng 12 năm 2003
* Phỏng vấn bà Tiến sĩ Sophie Quinn Judge
Về nhân vật Hồ chí Minh cho đến nay, có một yếu tố mà hầu như cả những người bênh vực lẫn đả kích ông đều đồng ý với nhau : đó là giả thuyết cho rằng ông Hồ chí Minh luôn luôn là một trong những nhân vật hàng đầu của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là một lãnh đạo đầy uy tín của phong trào Cộng sản Việt Nam từ những năm 30. Trong công trình của một nhà xuất bản Anh ( C. Hurst & Co Publishers, Ltd) tại Luân Ðôn công bố một cuốn sách mang tựa đề, " Ho chi Minh, the missing years " , tạm dịch là " Hồ chí Minh, những năm chưa được biết đến ". Một sử gia người Mỹ, bà Sophie Quinn - Judge, đã tập trung những năm hoạt động của ông Hồ chí Minh từ năm 1919 đến năm 1941 để đưa ra một chân dung thực tế hơn về nhà lãnh đạo Việt này. Theo kết luận của công trình nghiên cứu, trong thời kỳ hai thập niên 20 và 30, khi tiếp cận với Quốc tế Cộng sản, ông Hồ chí Minh hoàn toàn không phải là một nhân vật có tầm cỡ của phong trào. Mặt khác dù đã góp phần gầy dựng phong trào Cộng sản tại Việt Nam từ năm 1930, khi Ðảng Cộng sản Việt Nam được thành lập cho đến năm 1941, vai trò lãnh đạo của ông Hồ chí Minh trong nội bộ Ðảng cũng đã nhiều lần bị phản bác.

Căn cứ vào các chi tiết liên quan đến hoạt động của ông Hồ chí Minh trong giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1941, Sử gia Sophie Quinn - Judge trước hết ghi nhận vị trí rất tương đối của nhân vật Nguyễn ái Quốc trong Quốc tế Cộng sản. Theo bà, Nguyễn ái Quốc đã thành công trong việc thu hút mối quan tâm của Quốc Tế Cộng sản đối với vấn đề các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam. Thế nhưng ông không hề được Quốc tế Cộng sản trọng vọng. Trả lời phỏng vấn của ban Việt ngữ đài RFI, trước hết bà phân tích ( Bà Sophie Quinn - Judge trả lời cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt khá sõi )

Sophie Quinn- Judge: " Trước hết tôi muốn nói Nguyễn ái Quốc là người không có ảnh hưởng. Ông chỉ có ảnh hưởng đối với Quốc tế Cộng sản đối với vấn đề thuộc địa. Phải nói như vầy, Hồ chí Minh là nhân vật không có quyền độc tài, không có một vị trí quyết định tại vì Hồ chí Minh, trước hết phải nói là khi Hồ chí Minh đến Mát xcơ va thì Ðảng Cộng sản Việt Nam chưa có. Hồ chí Minh lúc đó là đảng viên của Ðảng Cộng sản Pháp. Như vậy Hồ chí Minh ( Nguyễn ái Quốc ) không có dự vào nhân viên của ủy ban chấp hành của Quốc tế Cộng sản như một số người nghiên cứu trước đã nói."

RFI : Trong tác phẩm, Sử gia Sophie Quinn - Judge đã ghi nhận thực tế là khi đến Liên Xô vào năm 1923, nhân vật Nguyễn ái Quốc đã có một thông điệp rất rõ về việc phong trào Cộng sản có thể tham gia như thế nào trong phong trào dân tộc tại các thuộc địa. Nhờ vậy ông đã được khuyến khích lên phát biểu tại Ðại hội lần thứ 5 của Quốc tế Cộng sản vào năm 1924. Tuy nhiên hồi ấy ông hoàn toàn không phải là nhân vật hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong Quốc tế Cộng sản. Mặt khác khi được phái cử từ Liên Xô qua Ðông Dương công tác, ông không được giao phó một vai trò chính thức nào.. Quốc tế Cộng sản chỉ cho ông công việc dịch thuật tại hãng phim Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị, đặc biệt là việc đưa các thanh niên từ Việt Nam sang Quảng Ðông, tham gia các khóa đào tạo công tác, vận động tuyên truyền. Giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga, vị trí của ông trong Quốc tế Cộng sản tiếp tục lung lay. Vào lúc ấy, Stalin đã bắt đầu thâu tóm quyền lực tại Liên Xô. Những ai đã từng làm việc ở nước ngoài bị nghi ngờ mang tư tưởng " tiểu tư sản " và khi trở về Nga là phải tự kiểm điểm. Trong trường hợp ông Hồ chí Minh, ông đã từng làm việc với Mặt Trận Thống Nhất giữa Ðảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng tại miền Nam Trung Quốc vào đúng lúc đã xảy ra những vụ truy bắt người Cộng sản tại Hồng Kông, Thượng Hải năm 1931, cơ sở của Quốc Tế Cộng Sản tại Thượng Hải cũng bị phá vỡ. Những người lãnh đạo Ðảng Cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Ở Liên Xô, do đó, đã có các vụ điều tra xem ai có tội và ông Hồ chí Minh đã bị cảnh gần như là bị giáng chức vào năm 1935 và bị cáo buộc là phải chịu trách nhiệm về những vụ bắt giữ năm 1931. Về vai trò của ông Hồ chí Minh trong Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, tức là Ðảng Cộng Sản Việt Nam, từ lúc thành lập cho đến năm 1941. Sử gia Sophie Quinn - Judge đặc biệt chú ý đến những bất đồng giữa bản thân nhân vật Nguyễn ái Quốc và những người lãnh đạo Ðảng Cộng sản Việt Nam thời đó.

Bà Sophie Quinn - Judge phân tích như sau:

" Theo những tài liệu mà tôi đã đọc ở Mát xcơ va và ở bên Pháp _ Chúng tôi có thể hiểu rõ hơn trước một số vấn đề.

Trước nhất chúng tôi biết được Hồ chí Minh đã bị phê bình rất nặng trong những năm 1930 đến năm 1936. Hồi tháng 10 năm 1930 ông Trần Phú đã thay đổi chương trình công tác của Hồ chí Minh cho Ðảng Cộng sản mới. Hồ chí Minh đã bị phê bình là " tiểu tư sản " và chưa hiểu rõ cuộc tranh đấu giai cấp. Và Hồ chí Minh không được tham gia Hội nghị thứ 7 của Quốc tế Cộng sản năm 1935 tại Mát xcơ va tại vì một số người lãnh đạo ở Việt Nam đã viết thư đến Mát xcơ va, đã nói Hồ chí Minh hồi năm 30 chưa phải là Cộng sản. Trong Ðảng Cộng sản Việt Nam, Hồ chí Minh theo ý tôi, không bao giờ có quyền độc tài, không được giải quyết một mình những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam. Hồ chí Minh là một người đảng viên có ảnh hưởng lớn và có một số người cách mạng ủng hộ và theo sau nhưng mà họ không phải là phe mạnh nhất trong Ðảng. Ðặc biệt từ năm 30 đến năm 38."

Trong công trình nghiên cứu, bà Sophie Quinn - Judge đã ghi nhận những tranh chấp nảy sinh ngay từ đầu lúc Ðảng Cộng sản của người Việt Nam được thành lập vào tháng 2 năm 1930 tại Hồng Kông. Ðiểm gây bất đồng quan trọng nhất giữa ông Hồ chí Minh và các lãnh đạo Ðảng trong nước vào thời ấy là xung đột về mặt ý thức hệ. Theo bà Sophie Quinn - Judge, ông Hồ bị chỉ trích vì bị xem là một nhà cải cách theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa. Theo ông, Ðảng phải tranh thủ những tình cảm yêu nước của mọi giới để thu hút mọi người. Trong khi đó tại Sài Gòn Ðảng bộ Ðảng Cộng sản đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tế Cộng sản, tức là đấu tranh giai cấp, và Ðảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi. Theo sử gia Sophie Quinn - Judge, quan điểm đoàn kết dân tộc hơn là đấu tranh giai cấp do ông Hồ chí Minh chủ trương bắt nguồn từ việc ông đã hiểu được cần phải theo đuổi với một nước chậm phát triển. Theo bà Sophie Quinn – Judge, ông Hồ không chấp nhận những giải pháp đấu tranh triệt để như Stalin và sau này là Mao trạch Ðông dã đề ra. Trái lại, ông Hồ chí Minh chủ trương những biện pháp từng bước ôn hòa để có thể đạt được mục tiêu tối hậu là nước Việt Nam độc lập và cường thịnh. Trong phần kết luận của công trình nghiên cứu, tác giả đã công nhận, xin trích :

" Qua những năm được nghiên cứu trong quyển sách này, ông Hồ chí Minh rõ ràng là một người đã có quyết tâm và đã khéo léo vận động cho nền độc lập của nước Việt Nam. Từ Hội Nghị Hòa Bình Paris năm 1919 cho đến năm 1945 khi ông đọc tuyên ngôn độc lập. Ðộng cơ thúc đẩy ông Hồ chí Minh là một lòng yêu nước thành thật và một thái độ căm ghét đế quốc Pháp. Tuy nhiên ông Hồ chí Minh không phải là một người Cộng sản thánh thiện. Ông đã nhiều lần chung sống với phụ nữ, sẵn sàng thỏa hiệp và thâm nhập vào các đảng phái khác. Mức độ tin tưởng vào Chủ Nghĩa Cộng Sản của ông rất khó đo lường, nhưng điều người ta có thể nói là ông Hồ chí Minh rất ít chú ý đến giáo điều "
 

* Ðài RFI phỏng vấn Sử gia Pierre Brocheux
Sử gia Pierre Brocheux vừa ra mắt độc giả tại Pháp một cuốn sách viết về nhân vật Hồ chí Minh. Ông Hồ chí Minh là một nhân vật đã được biết rất nhiều, nhất là trong những năm gần đây đã có thêm nhiều tiết lộ mới về đời tư cũng như hoạt động chính trị của ông. Nhưng nay lại có thêm một cuốn tiểu sử của người lãnh tụ Việt Nam này vừa ra mắt độc giả tại Pháp do nhà xuất bản ( ..) ấn hành. Tác giả không ai khác hơn là Pierre Brocheux, một chuyên gia về lịch sử Ðông Dương, một khuôn mặt quen thuộc trong giới nghiên cứu về Việt Nam. Cuốn sách có tên, " Hồ chí Minh, nhà cách mạng được thần thánh hóa ". Cuốn tiểu sử này đã cập nhật hóa những tài liệu có được cho tới nay liên quan đến ông Hồ chí Minh. Trong đó tác giả Pierre Brocheux cũng trích dẫn cả cuốn sách của ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, cuốn sách có tựa đề, " Những kỷ niệm về Bác Hồ "vừa được xuất bản năm ngoái ở Việt Nam. Nhưng sau khi được phát hành thì bị thu hồi và tiêu hủy ngay lập tức. Bản thân tác giả Pierre Brocheux của cuốn sách, " Hồ chí Minh, nhà cách mạng được thần thánh hóa." Cuốn sách không có tiết lộ gì thực sự mới, nhưng ông muốn mô tả nhân vật Hồ dưới một cái nhìn khác.

Pierre Brocheux: Tôi cố gắng mô tả thật xác thực con người của ông Hồ chí Minh hơn là nói về hoạt động của một chính khách. Tôi chỉ cố đào sâu hơn một số mặt của nhân vật này vì hiện giờ chưa có tài liệu gì thật sự mới. Thật ra tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò mà tôi gọi là người chuyển tải giữa phương Tây và phương Ðông. Ông Hồ chí Minh đã ứng dụng một học thuyết của phương Tây vào Việt Nam, nhưng vẫn giữ được tính chất rất là Châu Á, rất là Việt Nam. Tôi muốn nói đến sứ mệnh của một nhà lý tưởng, một nhà nhân bản muốn làm cách mạng nhưng buộc phải thỏa hiệp với thực tế cay nghiệt của cuộc cách mạng. Ðó là điều chủ yếu mà tôi muốn trình bày qua cuốn sách này.

Cuốn tiểu sử Hồ chí Minh do ông Pierre Brocheux viết cũng tuần tự theo thứ tự thời gian, từ khi ông sinh ra ở làng Kim Liên, rời Việt Nam sang Pháp, chu du khắp thế giới, cho đến thời kỳ hoạt động cách mạng ở nước ngoài, rồi hoạt động bí mật trong nước. Trong những khoảng thời gian nói trên, ông Hồ chí Minh, một mặt phải làm theo lệnh của Quốc Tế Cộng Sản, vốn chủ trương đấu tranh giai cấp triệt để. Nhưng mặt khác, lại cố gắng tập hợp mọi tầng lớp, kể cả các thành phần tư sản, để giải phóng đất nước khỏi ách thực dân Pháp.

Về điểm này tác giả Pierre Brocheux cho rằng:

" Tôi nghĩ nên nhìn vấn đề một cách khác. Người ta vẫn thường đặt câu hỏi, " Ông Hồ chí Minh là một người Cộng sản hay một nhà ái quốc." Nhưng theo tôi, ông là một người có bản chất rất Việt Nam, hay đúng hơn là một nhà nhân bản Khổng giáo. Ông muốn giải phóng đất nước, giành độc lập cho Việt Nam nên phải chấp nhận một số thỏa hiệp với thực tế.

Cụ thể ông đã phải thỏa hiệp với Ðệ Tam Quốc Tế. Ông Hồ chí Minh là một người Cộng sản tin tưởng thật sự vì ông nghĩ rằng Liên Xô mang lại giải pháp cho toàn bộ các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội đang đặt ra cho Việt Nam vào lúc ấy, tức là thời kỳ mà Việt Nam bị ngoại bang đô hộ. Những điều mà ông Pierre muốn nhấn mạnh đó là ngay từ trước khi kết thúc chiến tranh, qua cuộc chỉnh huấn trong quân đội, ông Hồ chí Minh đã cảm thấy ảnh hưởng tai hại của Trung Quốc lên cách mạng Việt Nam. Theo tác giả, ông Hồ chí Minh chủ trương " phê bình và tự phê bình " như là một cách để nhìn rõ vào bản thân mình, từ đó sửa đổi. Thế nhưng những người Cộng sản Việt Nam theo ảnh hưởng của Trung Quốc lại dùng " phê bình và tự phê bình " để quy chụp tội cho người này, người kia. "

Trong cuốn sách, ông Pierre Brocheux viết :

" Vào trước chiến thắng Ðiện Biên Phủ, lực lượng kháng chiến Việt Nam đã không còn sự đồng thuận nữa. Một số cách hành xử báo hiệu cho một chế độ chuyên chính vô sản, tức là chế độ của Ðảng Cộng sản . Thật khó mà biết là ông Hồ chí Minh có thái độ như thế nào trước những thay đổi như vậy. Một mặt ông không phải là người hoàn toàn đi theo mô hình lãnh đạo của Trung Quốc, và vẫn nghĩ rằng người Việt Nam phải duy trì đoàn kết dân tộc và phương pháp chiến đấu riêng. Nhưng mặt khác, ông vẫn tin tưởng vào lý tưởng cách mạng kiểu Lê Nin. Trong khi chờ đợi, ông Hồ chí Minh dựa vào kinh nghiệm của các cố vấn Trung Quốc . Cho nên người ta có quyền đặt câu hỏi: Là phải chăng ông đã để cho các cố vấn này lấn lướt đến mức mà những hành xử kiểu Trung Quốc kéo dài cho đến sau khi hòa bình lập lại.

Theo ông Hoàng Tùng là người đã dự nhiều cuộc họp của Ðảng Lao Ðộng, cho biết là các cố vấn Trung Quốc đã muốn thanh lọc hàng ngũ Ðảng Cộng sản Việt nam, bắt đầu từ quân đội, lập ra chức chính ủy, yêu cầu lập danh sách những cán bộ quân đội nào không xuất thân từ thành phần công nông mà đầu tiên là Tướng Võ nguyên Giáp, để thay thế ông bằng những cán bộ gốc vô sản. Ngay khi đọc được danh sách này, ông Hồ chí Minh đã ra lệnh đốt ngay lập tức vì ông cho rằng thành phần xã hội không phải là bảo đảm cho chất lượng của cán bộ và đạo đức chính trị của họ mà phải xét theo từng trường hợp cá nhân. Những câu hỏi đặt ra là những gì xảy ra trong cuộc cải cách ruộng đất, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, trong vụ án Xét lại chống Ðảng, ông Hồ chí Minh phải có trách nhiệm như thế nào?

Ông Pierre Brocheux nhận định :

" Vào lúc đó ông Hồ tin rằng vấn đề trọng yếu đối với xã hội Việt Nam là phải phân chia lại ruộng đất. Ông Hồ chí Minh là một người chủ trương đối thoại, thuyết phục hơn là đối đầu. Nhưng cuộc cải cách ruộng đất đã vượt quá tầm kiểm soát của ông. Trong vấn đề này chúng ta phải tính đến ảnh hưởng rất lớn của Trung Quốc. Cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam đã được tiến hành giống như là ở Trung Quốc, chỉ có khác về tầm mức. Ông Hồ chí Minh đã không đủ can đảm để đối đầu với những người lãnh đạo cuộc cải cách ruộng đất. Trong bản báo cáo tổng kết thực hiện cải cách ruộng đất ở tỉnh Cao Bằng, ông Hồ chí Minh công nhận rằng có nhiều tội ác đã xảy ra, tức là ông biết rất rõ những chuyện đó nhưng vẫn cho rằng cải cách ruộng đất là cần thiết. Trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, ông Hồ chí Minh không hề nói một lời nào để bảo vệ những nhà trí thức và nghệ sĩ bị đàn áp nhưng cũng không có một bản văn nào cho thấy ông tán đồng chiến dịch này.

Có lẽ từ lúc ấy ông đã nhận thấy cuộc cách mạng dẫn đến hậu quả ra sao. Trong vụ Xét lại chống Ðảng cũng vậy, ông Hồ chí Minh cũng đã nhận ra bản chất của chế độ nhưng chẳng làm gì được. Hơn nữa, kể từ năm 1960 chính nhóm Lê Duẩn – Lê đức Thọ, Nguyễn chí Thanh mới thực sự là những người nắm quyền. Kể từ đầu thập niên 1960, ngay từ thuở sinh thời, ông Hồ chí Minh đã bị trở thành một biểu tượng thần thánh hóa như là một công cụ cho một nhóm để chiếm quyền lãnh đạo như nhận định mà ông Pierre Brocheux nêu lên trong cuốn tiểu sử Hồ chí Minh của ông.

" Tôi nghĩ rằng biểu tượng thần thánh hóa ít ra cũng có 3 tác dụng. Thứ nhất, những dân tộc nào đấu tranh giành độc lập cũng cần có một biểu tượng, một huyền thoại để làm động lực. Nhưng sau đó biểu tượng Hồ chí Minh lại trở thành công cụ của những kẻ muốn gạt ông ta ra. Thực ra thì không phải họ gạt ông ta ra mà đúng hơn là họ dựng ông ta lên thành tượng đài để cô lập ông ta đến mức mà Bộ Chính Trị không cho ông lập gia đình. Thứ hai là người ta cũng đã làm trái với di chúc của ông Hồ chí Minh, như đã ướp xác, xây lăng thay vì hỏa táng, trải tro khắp các miền đất nước theo những ý nguyện của ông.

Nói chung ông Hồ chí Minh đã trở thành công cụ để cho một nhóm người tiếm quyền. Về tác dụng thứ ba, hiện nay Việt Nam đang ở trong thời đại toàn cầu hóa, đang trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường, ông Hồ chí Minh tự nhiên trở thành biểu tượng cho một con đường thay thế cho chủ nghĩa tư bản man dại. Ngay cả những nhà đối lập với chế độ cũng nhân danh ông Hồ chí Minh để đấu tranh, nông dân biểu tình ở Hà Nội chống việc trưng thu đất đai cũng giương hình của ông lên, ý muốn nói là ông Hồ chí Minh ít ra còn biết lo cho nông dân. Bây giờ giới lãnh đạo Việt Nam thường hô hào cho cái gọi là " tư tưởng Hồ chí Minh " nhưng tôi nghĩ nếu họ thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ chí Minh như học sinh được giảng dạy thì cũng tốt vì nó là cái để tránh tình trạng cách biệt giàu nghèo quá lớn cho xã hội Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp lúc này."

Nhưng trong phần kết luận ông Pierre Brocheux viết rằng, " Mô hình Xã hội Chủ Nghĩa kiểu Liên Xô mà ông Hồ chí Minh ứng dụng vào Việt Nam đã củng cố thêm những hạn chế đối với các quyền tự do, cũng như đối với việc thực hiện điều mà bây giờ chúng ta gọi chung là Nhân Quyền.

 

BBC PHỎNG VẤN TIẾN SĨ SOPHIE QUINN-JUDGE
VÀ NHÀ SỬ HỌC PIERRE BROCHEUX
 
* BBC Ngày 26 tháng 7 năm 2003 ( Phỏng vấn Tiến sĩ Sophie Quinn-judge)

Trong năm 2003, có một quyển sách mới về Chủ tịch Hồ chí Minh. Quyển sách có nhan đề Ho chi Minh, the missing years ( Tạm dịch: Hồ chí Minh – Những năm chưa biết đến).

Tác giả là Tiến sĩ sử học Sophie Quinn-Judge, Ðại học LSE, London

Quyển sách chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế Cộng sản được giải mật năm 1992 của Trung tâm lưu giữ quốc gia Nga – mà trước đây vốn là Viện nghiên cứu Marx- Lenin, đồng thời lấy tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp.

Tập trung vào những năm hoạt động của ông Hồ chí Minh thời kỳ trước 1945, quyển sách cố gắng dựng lại chân dung cũng như vị trí thật sự của ông Hồ trong thời kỳ này.

Sau đây là cuộc phỏng vấn của đài BBC với Tiến sĩ Sophie Quinn- Judge

BBC: Cuốn sách của bà mở đầu bằng hội nghị hòa bình tại Paris năm 1919 khi lần đầu tiên ông Hồ chí Minh – mà lúc này có tên là Nguyễn ái Quốc – được nhiều người biết tới. Vậy trước giai đoạn này chúng ta có biết gì nhiều về hoạt động của ông, đặc biệt là việc người cha của ông có ảnh hưởng thế nào đến ông không?

Sophie Quinn – Judge : Cha của ông Hồ là một nhân vật rất đáng chú ý và tôi hy vọng sẽ có thêm nghiên cứu tiếng Việt để hiểu rõ hơn thân thế của người này. Nhưng rõ ràng là việc người cha bị thất sũng, không còn là quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp, đã có tác động đến cuộc sống ông Hồ. Bởi khi ông Nguyễn sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Ðịnh, con ông là Nguyễn tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc Học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và như mọi người đều biết, ông đi Pháp năm 1911. Nếu cha ông vẫn còn tại chức, thì có lẽ người thanh niên Nguyễn tất Thành đã tiếp tục đi học ở Huế và sự nghiệp chống thực dân của ông có thể đã ngã sang một hướng khác. Chúng ta không biết chắc, nhưng những hoàn cảnh bên ngoài đã buộc ông phải ra nước ngoài.

BBC: Bà ngụ ý là ban đầu ông Hồ ra nước ngoài không phải với mục đích tìm đường cứu nước ?

Sophie Quinn – Judge: Không, ý tôi không phải như thế. Dựa trên tài liệu của pháp nói về các anh chị em trong gia đình ông Hồ và những lần họ giúp đỡ cho Phan bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt động yêu nước chống thực dân từ sớm. Tôi tin là ông Hồ chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trường Quốc Học, nên ông ra nước ngoài để tìm biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống người Pháp.

BBC: Khi ông Hồ tới Hội nghị hòa bình Paris 1919, người ta nhìn ông Hồ như thế nào?

Sophie Quinn – Judge: Ðây là một điều mà chúng ta rất khó biết chắc bởi vì có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của ông Hồ. Chúng ta không biết trước năm 1919, ông Hồ hoạt động ở mức độ nào, chuyện chính trị có phải là vấn đề bận tâm duy nhất của ông hay không. Nên khi ông xuất hiện tại hội nghị Paris tháng Sáu năm 1919, phân phát bản kiến nghị cho các đại biểu tham dự, mọi người thấy khó chấp nhận ông ấy như một nhân vật ngang hàng với những người nổi tiếng như Phan chu Trinh hay Phan văn Trường.

BBC: Sau hội nghị ở Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi sau đó đi Quảng Ðông. Trong khoảng thời gian này, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản như thế nào, bởi vì một số tác giả cho rằng lúc này ông Hồ đã được Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều?

Sophie Quinn – Judge : Ðầu tiên ông Hồ lúc đó không phải là thành viên của Ðảng Cộng sản châu Á nào. Ông ấy đang là thành viên của Ðảng Cộng sản Pháp. Vì thế, ông chưa có vị trí vững chắc trong nội bộ Quốc tế Cộng sản. Ví dụ, ông không có chân trong ban chấp hành. Có nhiều nhân vật khác quan trọng hơn như Mahandra Roy từ Ấn Ðộ hay Sen Katayama của Nhật. Nhưng Nguyễn ái Quốc có một thông điệp rất rõ về việc phong trào Cộng sản có thể tham gia thế nào trong phong trào quốc gia tại các thuộc địa. Tôi nghĩ bởi vì thông điệp này nên ông ấy được khuyến khích lên phát biểu tại Ðại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản năm 1924. Nhưng lúc ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải là người phát ngôn hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong Quốc tế Cộng sản. Việc ông Hồ là thành viên Ðảng Cộng sản Pháp cũng có thể đã khiến vị trí ông trở nên phức tạp. Trotsky – đối thủ chính trị của Stalin thời bấy giờ – có một ảnh hưởng đáng kể đối với những người Cộng sản Pháp. Trong một bãi mìn chính trị như vậy, ông Hồ dường như bắt đầu học cách hợp tác với bất cứ ai đang nắm quyền lực và học cách theo đuổi những quan tâm của riêng mình.

BBC: Một số tác giả như Jean Lacouture nói rằng ông Hồ được gửi tới Quảng Ðông để làm trợ lý hay thư ký cho Borodin?

Sophie Quinn – Judge : Tôi nghĩ điều này không chính xác, bởi vì ông Hồ lúc đó từ Nga đi Quảng Ðông mà không mang theo một hướng dẫn rõ ràng về những gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho một vai trò chính thức. Có lẽ như người ta đã tìm cho ông công việc làm người dịch thuật tại hãng tin của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông. Chứ còn lúc mới tới Quảng Ðông, ông Hồ rất vất vả trong việc có đủ tiền giúp cho việc giúp đưa các thanh niên Việt Nam sang Quảng Ðông tham gia các khóa đào luyện. Như vậy, không có một kế hoạch, chỉ thị rõ ràng dành cho ông Hồ và ông phải tự bương chải, đối phó với các vấn đề khi chúng diễn ra.

BBC: Chúng ta có biết tâm trạng của ông Hồ lúc này không?

Sophie Quinn – Judge : Tôi nghĩ ông ấy cảm thấy bức bối vì thiếu sự giúp đỡ cụ thể của Quốc tế Cộng sản, hay người Nga hoặc người Cộng sản Pháp lúc đó. Trong năm 1924, ông Hồ liên tục gửi thư yêu cầu các lãnh đạo Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều hơn đến nhu cầu của phong trào tại Việt Nam. Cuối cùng thì vào đầu năm 1927, thông qua một đại biểu Quốc tế Cộng sản từ Pháp sang Quảng Ðông, ông Hồ nhận được một khoản ngân sách. Nhưng không may là trước khi kế hoạch được thực hiện thì xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng giới Thạch và ông Hồ phải rời khỏi Quảng Ðông trước khi các khóa đào tạo mà ông muốn tiến hành có thể khởi đầu một cách toàn diện.

BBC: Trong khoảng thời gian ông Hồ ở tại Quảng Ðông, có xuất hiện cái tên của bà Tăng tuyết Minh với những lời đồn đoán khác nhau. Theo nguồn tài liệu mà bà có, thì Tăng tuyết Minh là ai ?

Sophi Quinn – Judge: Gần đây đã có một chuyên gia Trung Quốc đề cập đến người này. Còn theo tài liệu mà tôi tìm thấy tại Pháp, Tăng tuyết Minh khi đó là một phụ nữ trẻ ở Quảng Ðông. Và có lẽ bà ấy và ông Hồ đã kết hôn vào tháng Mười năm 1926. Họ ở với nhau cho đến khi ông Hồ phải rời Quảng Ðông vào tháng Năm năm 1927. Như vậy thời gian sống với nhau kéo dài khoảng sáu tháng.

BBC: Từ mà bà dùng – " có lẽ " – ở đây nghĩa là thế nøo?

Sophie Quinn – Judge : Tôi không chắc vào thời kỳ đó, một cuộc hôn nhân được định nghĩa như thế nào. Ta bắt gặp những ví dụ khác nhau trong các văn bản về phong trào Cộng sản. Ðôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra đơn thuần vì lý do chính trị. Hai người sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ. Thí dụ, nếu họ điều hành tòa soạn một tờ báo, họ sẽ an toàn hơn khi giả làm hai vợ chồng. Và tôi không biết trong các phong trào cách mạng, đâu là các yếu tố tạo nên một cuộc hôn nhân có ràng buộc. Những điều này có vẻ không chặt chẽ, chẳng hạn nếu ta nhìn sự nghiệp của Mao trạch Ðông, mà đã nhiều lần thay đổi người nâng khăn sửa túi cho mình.

Câu hỏi về Nguyễn thị Minh Khai

BBC: Sau khi rời khỏi Quảng Ðông, ông Hồ chí Minh đã bôn ba nhiều nơi trước khi quay trở lại Châu Á. Và rồi chúng ta có sự thành lập Ðảng Cộng sản Việt Nam, mà sau đó có tên Ðảng Cộng sản Ðông dương. Theo quyển sách của bà, thì Ðảng Cộng sản thành lập vào tháng Hai năm 1930 và đến tháng Mười năm đó ông Hồ chí Minh đã đánh mất ảnh hưởng của mình trong đảng ?

Sophie Quinn – Judge : Cân nhắc là ông Hồ đã trải qua một thời gian ở Thái Lan, rồi sang Hồng Kông vào mùa Ðông năm 1929. Hồng Kông là nơi mà tháng Hai năm 1930, một Ðảng Cộng sản thống nhất của người Việt Nam ra đời. Cùng lúc này thì có nhiều sự không rõ ràng xung quanh việc ai là người ban đầu được chính thức giao trách nhiệm thành lập nên đảng. Bởi vì trước đó Quốc tế Cộng sản gửi về hai người là Trần Phú và Ngô đức Trì. Hai người này đã học tại Moscow trong khoảng ba năm và trở về mang theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về cách thức thành lập đảng. Vậy là sau khi Nguyễn ái Quốc thành lập đảng cộng sản vào tháng Hai, hai người này quay về Việt Nam hoạt động. Cuối cùng đến tháng Mười, diễn ra Hội Nghị Trung Ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông. Ðến lúc này hai người, mà đặc biệt là Trần Phú - theo tôi – đã cố gắng ấn định các chỉ thị mà họ mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao gồm đảng phải là tổ chức của riêng giai cấp lao động, một chủ trương mà sẽ dẫn đến việc thanh trừng các thành phần yêu nước gốc trung lưu trong nội bộ đảng.

BBC: Cũng khoảng thời gian này, có một lá thư đề ngày 12 – 01 – 1931 của Văn Phòng Viễn Ðông Quốc tế Cộng sản nhắc ông Nguyễn ái Quốc rằng ông cần thông báo cho họ về cuộc hôn nhân của mình hai tháng trước khi cuộc hôn nhân diễn ra. Ðây là lúc chúng tôi muốn hỏi bà, theo bà, thì có cuộc hôn nhân giữa bà Nguyễn thị Minh Khai và ông Hồ chí Minh hay không?

Sophia Quinn – Judge: Tôi không chắc đó có phải là một cuộc hôn nhân thật sự hay không. Chúng ta biết là khoảng giữa năm 1930, bà Nguyễn thị Minh Khai được giao đến làm việc tại văn phòng của ông Hồ ở Hồng Kông, rồi sau đó được giao công việc liên lạc với Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Vào tháng Hai năm 1931, ông Hồ có nhắc đến việc vợ của ông đang bận chuẩn bị cho ngày Tết và chuẩn bị đón khách từ Việt Nam. Ông Hồ cũng viết thư cho Quốc Tế Cộng sản, có vẻ như trong đó ông đề cập tới một đám cưới sắp diễn ra. Bởi vì sau đó Quốc Tế Cộng Sản viết thư trả lời, nói ông cần đình hoãn đám cưới cho đến khi có chỉ thị mới. Người ta nghi ngờ không biết liệu ông Hồ có phải đang nói về việc đám cưới thật sự hay không bởi trong các thư từ, họ thường sử dụng nhiều loại mật mã. Nhưng trong trường hợp này, có vẻ như lá thư nói những chuyện thật sự đang diễn ra bởi vì trong cùng một lá thư ông Hồ cũng thảo luận nhiều vấn đề khác một cách công khai. Và từ những gì người ta biết vào năm 1934, Nguyễn ái Quốc có một người vợ được cử tới đại hội của Quốc tế Cộng sản ở Moscow. Và trước khi Minh Khai tới Moscow, bà ấy có viết thư nói mình kết hôn với " Lin" – bí danh của ông Hồ thời bấy giờ. Vì vậy, người ta có thể ngờ rằng giữa hai người có một mối quan hệ vào năm 1931.

BBC: Bà nói mình không chắc có thể dùng chữ " hôn nhân " ở đây. Vậy nếu người ta hỏi liệu đã có một mối quan hệ tình cảm giữa ông Hồ chí Minh và bà Nguyễn thị Minh Khai thì bà sẽ trả lời như thế nào ?

Sophie Quinn – Judge: Tôi nghĩ câu trả lời là có, đặc biệt nếu chúng ta dựa vào một số chứng liệu khác. Ví dụ vào năm 1945, trong cuộc nói chuyện với một phóng viên Mỹ, ông Hồ chí Minh có nhắc đến chuyện ông từng có một người vợ nhưng bà đã qua đời. Hoặc có những đề cập nói rằng vào cuối thập niên 1930, khi Nguyễn thị Minh Khai quay về Việt Nam, bà đã chia cắt với người chồng là một nhà cách mạng lớn tuổi đang ở nước ngoài. Ðiều này nghe giống như là một sự miêu tả ông Hồ chí Minh.

BBC: Nhưng nếu dựa trên những nguồn tài liệu của Pháp, ta có khuynh hướng tin là bà Nguyễn thị Minh Khai có nhiều mối quan hệ với các đồng chí khác nhau trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1940 – Vậy thì đâu là thực, đâu là hư ?

Sophie Quinn – Judge : Ðây chính là điểm làm câu chuyện phúc tạp. Thông tin tình báo của Pháp lúc bấy giờ thường đề cập chuyện bà Minh Khai có mối quan hệ với nhiều người khác nhau. Ví dụ, vào năm 1932, mật thám Pháp tin rằng bà là người tình của Trần ngọc Danh, em trai ông Trần Phú. Chúng ta không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân cách mạng hay không, khi mà hai người cùng chí hướng đã giả trang làm người yêu để dễ đánh lạc hướng chính quyền đương thời. Hay còn điều gì hơn thế ! Thật khó để biết rõ cách thức hoạt động của những người hoạt động cách mạng bởi vì họ có thể xem mình thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường.

Mâu thuẫn trong đảng

BBC: Trong quyển sách, bà viết là đến khi hội nghị Trung ương đảng Cộng sản Ðông dương họp tại Sài Gòn ngày 12 – 3 – 1931, mối quan hệ giữa Ban Chấp Hành Trung Ương với ông Hồ chí Minh đã xuống dốc rất nhiều. Vì sao lại như vậy ?

Sophie Quinn – Judge: Thật sự thì Ban Chấp Hành gồm rất ít người, người lãnh đạo chính là ông Trần Phú. Tôi nghĩ có một sự khó chịu với nhau từ cả hai phía – ông Nguyễn ái Quốc ở Hồng Kông và các ông Trần Phú, Ngô đức Trì và các lãnh đạo khác ở Sài Gòn. Than phiền chính của họ là những khó khăn trong việc liên lạc với Quốc Tế Cộng sản, mà đại diện là văn phòng phương Ðông tại Thượng Hải. Có nhiều lý do vì sao việc liên lạc lại khó khăn. Một trong số đó là chi nhánh Ðảng Cộng sản Trung Quốc tại Hồng Kông đã bị người Anh phát hiện vào khoảng đầu năm 1931. Nên không còn một cơ sở hạ tầng cho việc liên lạc như trước đây. Và dĩ nhiên lúc đó Ðảng Cộng sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao vì những đợt bắt bớ của người Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, dễ hiểu là vì sao các bên đổ lỗi cho nhau. Ông Hồ không nhận được thông tin từ trong nước, nên ông yêu cầu ban chấp hành ở miền Trung và Hà Nội. Ðiều này làm các lãnh đạo ở Sài Gòn khó chịu. Vì thế ông Hồ cảm thấy mình không được sử dụng đúng và sau đó đề nghị đảng cho thôi chức vụ của ông tại Hồng Kông.

BBC: Nhưng bên cạnh đó, một lý do khác dường như là xung dđột trong hệ tư tưởng giữa các bên phải không?

Sophie Quinn – Judge : Vâng, theo tôi, ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu hướng quốc gia. Ông ấy coi đảng phải sử dụng những tình cảm yêu nước để thu hút nhiều đối tượng. Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ đảng đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tế Cộng sản, tức là đấu tranh giai cấp và đảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi, sinh viên hay tầng lớp trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ trợ.

BBC: Cái vấn đề là người quốc gia hay Cộng sản đã được bàn đến nhiều xung quanh ông Hồ chí Minh. Có người nói là ngay cả khi xem ông Hồ là người theo chủ nghĩa dân tộc, thì thật ra đó không phải là lý thuyết của chính ông? Bà nghĩ sao?

Sophie Quinn – Judge: Thật khó để biết đâu là xu hướng riêng trong chính sách của ông Hồ lúc đó, đâu là ông đi theo chính sách của Quốc tế Cộng sản thời kỳ thập niên 1920. Nhưng có thể nói xu hướng của ông Hồ lúc đó phù hợp với chính sách của Quốc tế Cộng sản lúc 1920, theo đó, những người Cộng sản nên tập trung vào các cuộc cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa bởi vì giai cấp vô sản hay đảng cộng sản ở những nơi ấy còn rất nhỏ, tự mình hành động thì không có lợi. Ông Hồ theo xu hướng này. Còn ông có những ý tưởng nào vượt ra khỏi điều này không thì tôi không rõ.

BBC: Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như vị trí của ông trong Quốc tế Cộng sản lúc này bị lung lay ?

Sophie Quinn – Judge: Stalin lúc này đã củng cố ảnh hưởng của mình. Nói chung những ai đã từng làm việc ở nước ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư tưởng tư sản. Những ai trở về Nga phải tự thú. Có cảm giác bị coi là kẻ thù ở mọi nơi. Ðặc biệt những người như ông Hồ chí Minh đã từng làm việc với mặt trận thống nhất ở miền Nam Trung Hoa. Thêm vào điều đó, lại còn những vụ bắt giữ người Cộng sản tại Hồng Kông. Thượng Hải năm 1930. Cơ sở của Quốc tế Cộng sản tại Thượng Hải sụp đổ. Và những người lãnh đạo Ðảng Cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên dĩ nhiên diễn ra các vụ điều tra xem ai có tội, và ông Hồ chắc chắn trải qua những ngày vất vả khi đó.

BBC: Sau những vụ thanh trừng tại Nga vào thời kỳ 1937 – 1938, thì nhiều người tự hỏi vì sao ông Hồ chí Minh có thể tồn tại sau những ngày như thế ?

Sophie Quinn – Judge: Ðó là câu hỏi mà các chuyên gia nước ngoài đã tập trung nghiên cứu từ lâu. Quan điểm trước đây của họ cho rằng lý do chính là vì ông Hồ, vào cuối thập niên 1930, đã trở thành lãnh tụ của đảng Cộng sản nên vì thế được Stalin bảo vệ hay ít nhất cũng là một trong những người được tin dùng. Theo tôi, đó là một sự tổng quát hóa không có cơ sở. Stalin có thể diệt trừ những người thân cận nhất của mình, không có ai là an toàn. Những nhân vật thân cận như Kalinin, Molotov cũng là nạn nhân của Stalin. Nên phải nói ngay từ đầu cái ý nghĩ bạn có thể an toàn khi ở cạnh Stalin là điều không có thật. Và ngoài ra, ông Hồ chí Minh đã bị rơi vào cái cảnh gần như bị giáng chức vào năm 1935 vì cáo buộc ông chịu trách nhiệm cho những vụ bắt giữ năm 1931. Nên không thể nói ông ấy lúc đó là nhân vật hàng đầu trong Quốc tế Cộng sản. Kết luận lại, tôi nghĩ lý do chính là vì ông đã sống kín đáo, lặng lẽ. Mà thật sự Việt Nam cũng không phải nằm trong danh sách kẻ thù chính của Stalin. Ông ta quan tâm nhiều hơn đến việc thanh trừng đảng cộng sản ở các nước láng giềng.

Nhìn lại

BBC: Theo tường thuật của bà trong sách, đường cách mạng của ông Hồ chí Minh vẫn còn rất gian nan trong thập niên 30. Vậy ông Hồ đã làm thế nào để có được quyền lực trong đảng Cộng sản để rồi sau này dẫn tới cách mạng năm 1945 ?

Sophie Quinn – Judge: Một trong những điểm tôi cố gắng làm rõ trong quyển sách là quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu. Năm 1938, khi ông Hồ quay lại Trung Quốc, Lê hồng Phong, Hà huy Tập là thuộc trong số những lãnh đạo đảng tại Sài Gòn. Sau đó thì lần lượt từng lãnh đạo tại Sài Gòn bị Pháp bắt sau khi Mặt Trận Bình Dân tại Pháp sụp đổ và người Pháp một lần nữa đưa ra chính sách trừ diệt đảng Cộng sản. Sau đó, tôi nghĩ có một cuộc khủng hoảng lãnh đạo trong đảng. Lúc này ông Hồ đang ở Trung Quốc xây dựng một nhóm thanh niên Việt Nam theo đuổi chính sách thống nhất – một chính sách mà vào lúc này Quốc tế Cộng sản quay lại sử dụng. Tôi nghĩ đến đầu thập niên 40, ông Hồ chí Minh là người Việt Nam cần lúc đó, có mặt và sẵn sàng hành động.

BBC: Như bà viết trong sách, nhiều tác giả – cả Cộng sản và không Cộng sản – đã phần nào phóng đại vai trò của ông Hồ chí Minh. Vì sao?

Sophia Quinn – Judge: Tôi nghĩ đó là điều mà trong giới sử học gọi là phát triển bằng cách viết ngược. Bởi vì ông Hồ trở thành chủ tịch nước năm 1945, người ta đặt ra những tiền đề nghiễm nhiên về sự nghiệp của ông. Và thật dễ dàng để cho rằng ông đã luôn là một trong những nhân vật hàng đầu trong Quốc tế Cộng sản. Dĩ nhiên Ðảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng chấp nhận suy nghĩ này vì nó cho họ một uy tín trong phong trào Cộng sản Quốc tế.

BBC: Nhưng vì sao ngay cả những người không Cộng sản cũng có khuynh hướng chấp nhận điều này ?

Sophie Quinn – Judge : Theo tôi, đó là vì một chân dung như thế cũng hợp với những nghị trình của họ. Họ muốn tin rằng ông Hồ đã luôn là một người Cộng sản ẩn đàng sau cái vỏ dân tộc chủ nghĩa. Tôi nghĩ đây là vấn đề người ta muốn tin vào một cái gì.

BBC: Khi đọc về những bước đầu tiên trong sự nghiệp của ông Hồ chí Minh, nó có giúp gì cho người ta hiểu về phần đời sau này của ông hay không ?

Sophie Quinn – Judge: Vâng, tôi nghĩ phần nào đó, những gì diễn ra trong thập niên 30 cũng tái lặp trong cuối thập niên 40 đầu 50. Mâu thuẫn trong phong trào Cộng sản tại Việt Nam và quốc tế không bao giờ vụt tắt. Một bên muốn đi tới thật nhanh, xây dựng điều mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội bằng cách loại trừ tầng lớp trung lưu. Một bên lại cho rằng chủ nghĩa Cộng sản phải được xây dựng từ từ, trải qua giai đoạn của chủ nghĩa tư bản. Tôi nghĩ người ta cần hiểu hai quan điểm này cứ thay nhau được chấp nhận, rồi gạt bỏ. Cứ như vậy. Ðó là một trong những lý do – tôi nghĩ – vì sao ông Hồ chí Minh không phải bao giờ cũng duy trì được vị trí là một nhà lãnh đạo có thực quyền.

Trích đoạn trong phần Tổng kết của tác phẩm " Hồ chí Minh – Những năm chưa biết đến " của Sophie Quinn – Judge.

" Trong Lời Tựa của quyển sách, tôi đã đề cập đến cách thức mà những thái độ thời chiến tranh lạnh ảnh hưởng đến cách hiểu của chúng ta về ông Hồ chí Minh và những nỗ lực của ông nhằm phát triển một đảng Cộng sản tại Việt Nam. Việc sử dụng các nguồn tài liệu mang tính tuyên truyền khiến nhiều tác giả nhìn ông Hồ chí Minh hoặc như một vị thánh dân tộc vô cùng quan trọng hoặc như một ông thần ác. Ông không chỉ là lãnh tụ tối cao của Bắc Việt – ông được coi như một nhân vật Cộng sản nhiều ảnh hưởng ngay từ khi mới gia nhập Ðảng Cộng sản Pháp. Tuy vậy, như nghiên cứu này cố gắng chỉ ra, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế Cộng sản và phong trào Cộng sản châu Á trước 1945 không rõ ràng như nhiều người sau này vẫn nghĩ. Trong năm 1920 hay 1930, ông không xuất hiện như một nhà Cộng sản nhiều ảnh hưởng trên trường quốc tế, và ông gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút sự chú ý của Ðảng Cộng sản Ðông dương trong năm 1939 – 1940. Uy thế của ông năm 1945 như biểu tượng của phong trào độc lập Việt Nam không phải là một tiến trình nghiễm nhiên có từ đầu..

.. Không thể phủ nhận việc lý thuyết của Quốc tế Cộng sản thời kỳ đầu về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đã là công cụ tri thức quan trọng cho ông Hồ chí Minh. Nó cho ông một khung lý thuyết vững chắc để kết hợp tình cảm chống thực dân và khao khát công bằng xã hội. Tuy nhiên, ý tưởng của Lệ Nin về chủ nghĩa đế quốc và các vấn đề thuộc địa không chỉ là công cụ phân tích – việc ông Hồ phát hiện và truyền bá các tư tưởng này còn là nguồn quan trọng đem lại cho ông sự chính danh trong phong trào Cộng sản Việt Nam. Khi những tư tưởng này bị thay thế bởi khung phân tích mới thời kỳ 1928 – 1929, sự lãnh đạo của ông Hồ bị xem xét lại. Như đã nói trong Lời Tựa, các đối thủ cạnh tranh thường xuyên muốn chứng tỏ họ nắm vững hệ tư tưởng và đường lối của Quốc tế Cộng sản hơn ông Hồ. Ðôi khi, đường lối này chỉ là những tập hợp ý tưởng manh mún không ai hiểu, lấy từ Marx, Plekhanov, Lê Nin, Trotsky, Stalin và những nhà tư tưởng thời trước Cộng sản, nhưng nó cũng đủ để là phương tiện giành lấy sự chính thống. Như Amo Mayo nói, " Hệ tư tưởng là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng.. Nó gắn với nhu cầu của một nhóm xã hội (mới ) muốn thể hiện hình ảnh của mình." Sự quan trọng của việc nắm vững lý thuyết để xác lập tư cách lãnh đạo cũng có thể liên quan tới truyền thống Khổng học, vốn trọng khả năng sáng tác một văn bản chính thống hơn mọi kỹ năng thực tế khác.

Cuộc sống vợ chồng của ông Hồ chí Minh và bà Minh Khai ở Nga.

Ðề cập tới các tài liệu liên quan đến ông Hồ được Quốc tế Cộng sản lưu giữ ở Nga, bà Sophie Quinn – Judge cho biết, " Ðống hồ sơ này cũng chẳng có được bao nhiêu, sắp xếp lộn xộn, đôi khi in lại hoặc đánh máy, cũng có khi nguyên bản như một lá thư, một vài tài liệu có chữ ký của ông Hồ chí Minh hoặc ký tắt với danh xưng là Quak, Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay là Lin. Sau này khi tra khảo tới các hồ sơ lưu trữ về thuộc địa của Pháp tại Aix-en-provence, tôi thấy có được lợi ích là góp phần để sắp đặt cho các tài liệu về Quốc tế Cộng sản theo thứ tự hợp lý hơn là dựa vào các tài liệu tại hai nơi thường khi cùng ghi nhận đến các diễn biến như nhau."

Về quan hệ của ông Hồ và bà Minh Khai, bà Sophie Quinn – Judge cho biết thêm :

" Một tiết lộ khác được khám phá qua các tài liệu này là có hai sự kiện liên quan đến thời kỳ hoạt động của bà Nguyễn thị Minh Khai chứng tỏ bà là vợ của ông Hồ chí Minh. Một sự kiện thể hiện qua lá thư được viết vào năm 1934 của ông Hà huy Tập gửi tới Ban Bí Thư Miền Ðông, nêu tên đại biểu được cử đi tham dự Ðại Hội Quốc tế Cộng sản lần thứ Bảy, trong đó có một người nói là " vợ của Quốc ", còn sự kiện kia là ở một chỗ khác thấy nói tới danh xưng người đàn bà đó là bà Vải ( bà Minh Khai vào thời gian những năm đầu hoạt động có làm nghề hàng vải ). Vì trong phái đoàn chỉ có một phụ nữ cho nên dĩ nhiên đó phải là có ý nói tới bà Nguyễn thị Minh Khai.

" Sau này tại Mạc tư Khoa, khi phải làm tờ khai lý lịch cá nhân, khi điền vào câu hỏi về tình trạng gia đình, bà đã ghi là có chồng và kể tên chồng là Lin. Ðó cũng là danh xưng của ông Hồ tại Mạc tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến năm 1938.

" Ngược trở lại vào năm 1931, người ta thấy trong một lá thư ông Hồ chí Minh có nói đến bà vợ đang chuẩn bị để đón khách vào dịp tết. Ðây có thể là một cách nói để ám chỉ bao che cho các hoạt động chính trị, nhưng nếu xét đến những điều vào năm 1934 hàm ý là bà Nguyễn thị Minh Khai, tôi e rằng quả có thêm phần xác đáng hơn.

" Vì một vài lý do nào đó các giới chức tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả động gì đến những điều tiết lộ theo đó ông Hồ có liên hệ tình cảm thực sự với những người thuộc phái nữ. Mặc dầu giờ đây phía Trung Quốc đã trình bày trước công luận cả một bức ảnh và một bài viết nói về việc ông Hồ kết hôn với một phụ nữ vào tháng Mười năm 1926 ( Tăng tuyết Minh), nhưng Hà Nội vẫn chưa chính thức xác nhận.

" Mặt khác, vào năm 1930, Nguyễn thị Minh Khai đến Hồng Kông và làm việc trong văn phòng của ông Hồ. Và khi đó quan hệ giữa hai người đã bắt đầu. Trong năm 1931, có một lá thư của ông Hồ báo cáo rằng ông sẽ lấy Nguyễn thị Minh Khai làm vợ. Người ta có thể coi đó là một cách nói để giữ bí mật, nhưng toàn bộ nội dung lá thư cho thấy ông Hồ nói thẳng về sự kiện đó. Rồi đến năm 1934, trước ngày Quốc tế Cộng sản lần Bảy tổ chức thì trong các tài liệu về các đại biểu tham gia đại hội đều nói về Nguyễn thị Minh Khai là vợ của Quốc tức Hồ chí Minh. Và trong toàn bộ thời gian sau đó hai người sống ở Mạc tư Khoa như vợ chồng."
 

* BBC ngày 28 tháng 10 năm 2003 ( Phỏng vấn nhà sử học Pierre Brocheux) Nhà sử học Pháp Pierre Brocheux có cuộc nói chuyện tại Toronto, Canada chiều 29/10/2003 về cuốn sách của ông mang tựa đề " Vietnam expose, and new biography of Ho chi Minh" . Ban Việt ngữ BBC hỏi ông muốn trình bày hình ảnh gì mới về ông Hồ?

Pierre Brocheux : Tôi nghĩ rằng ông Hồ chí Minh về bản chất thực ra là một người theo Khổng giáo. Ông luôn cố gắng kết hợp những ý tưởng của Khổng giáo, một truyền thống ý thức hệ Ðông Á, với các dòng tư tưởng châu Aâu, từ Marxism đến Lenism. Tôi bỏ cách nhìn từ trước đến nay là tranh luận xem ông Hồ thực sự là một người Cộng sản hay một người theo đường lối dân tộc chủ nghĩa.

Theo tôi, trước sau ông là một người tốt, một người Khổng giáo. Những gì người ta nói về ông ở Việt Nam hiện nay chỉ đúng một phần mà thôi. Theo tôi, ông đã cố gắng đưa vào thực tế tính nhân đạo và tính công bằng xã hội theo kiểu của Khổng giáo.

BBC: Vậy ông nghĩ là những gì ông tìm ra trong tính cách của ông Hồ chí Minh có thể có một tác động nào đó lên xã hội Việt Nam hiện nay không?

Pierre Brocheux : Ðúng, trong xã hội Việt Nam bây giờ, đồng tiền là quan trọng nhất thì Hồ chí Minh là một sự lựa chọn khác cho người ta .

BBC: Ông có nghĩ rằng theo dòng tư tưởng của ông Hồ chí Minh thì giả sử vào thời điểm bây giờ của Việt Nam, ông Hồ sẽ có quan điểm như thế nào?

Pierre Brocheux: Tôi nghĩ ông ấy sẽ giữ cách nhìn của một người theo Khổng giáo và một phần theo Lê Nin. Nhưng cũng phải nói rằng ông Hồ sẽ ủng hộ các vấn đề như nhân quyền.

BBC: Ông nghĩ nhân quyền theo quan điểm châu Âu hiện nay à ?

Pierre Brocheux : Không hoàn toàn như thế. Có thể ông ấy sẽ thay đổi đôi chút. Nhưng vẫn là nhân quyền. Ta không nên quên rằng ông Hồ chí Minh sang Pháp vì muốn biến tự do, bình đẳng, bác ái thành sự thật. Chỉ sau nước Pháp, ông ta mới sang theo nước Nga Cộng sản.

BBC: Nhưng đối với nhiều người thì ông Hồ chí Minh vẫn là người đem chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam dù hiện nay các sử gia có nói gì khác đi nữa.

Pierre Brocheux : Ông ấy đã đưa chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam nhưng con người và tính cách của ông ấy phức tạp hơn vậy. Theo nghiên cứu của tôi thì cả một giai đoạn trước khi qua đời, ông Hồ bị cách ly khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì. Ông ấy bị biến thành một biểu tượng. Vì thế cuốn sách của tôi còn có một tựa đề nữa là, " Hồ chí Minh, một nhà cách mạng biến thành một biểu tượng. " Ý tôi muốn nói ông bị người ta biến thành một biểu tượng không có quyền, một biểu tượng yếu về quyền lực.

BBC: Cứ cho là ông Hồ chí Minh có tính cách như ông nói đi, thì theo ông, ông Hồ nếu sống đến thập niên 70 thì liệu có cách giải quyết khác cho miền Nam sau 1975 hay không?

Pierre Brocheux: Tôi tin là khác, chắc chắn không có cách giải quyết như các ông Lê Duẩn, Lê đức Thọ. Hồ chí Minh khác Lê Duẩn, Lê đức Thọ rất nhiều. Sẽ không có chuyện bắt người miền Nam đi cải tạo hàng loạt hay những điều tương tự. Sau 56 năm nghiên cứu Hồ chí Minh, tôi có thể nói rằng ông Hồ chí Minh là một người ưa các giải pháp ôn hòa hơn là cực đoan.

BBC: Vậy vai trò của ông Hồ chí Minh trong Cải Cách Ruộng Ðất, rồi vụ Nhân Văn Giai Phẩm ra sao, theo những gì ông tìm ra?

Pierre Brocheux: Hồ chí Minh bị coi là phải chịu trách nhiệm về những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Ðất nhưng tôi tìm thấy nhiều tài liệu như các báo cáo chính trị của chính ông, lên án các vụ đánh người, giết người trong Cải Cách. Ông gọi làm như thế là hành xử như " bọn đế quốc ", rằng đó là những hành vi tội phạm. Ông nói tra tấn người là tội ác. Về Nhân Văn Giai Phẩm thì phải thấy rằng ông Hồ có viết và phát biểu đúng một lần, về phong trào Trăm Hoa Ðua Nở ở Trung Quốc, ông lên án những nhà văn bị coi là phái hữu như Ðinh Linh, nhưng không hề nói đến tên của bất cứ một nhà văn hay nghệ sĩ Việt Nam nào.

BBC: Còn về những người phụ nữ mà người ta cho là hoặc là vợ hoặc là người yêu của ông Hồ?

Pierre Brocheux: Tôi tin vào chứng cớ của một sử gia Trung Quốc, ông Hoàng Tranh đưa ra là bà Tăng tuyết Minh là vợ ông Hồ. Theo tôi, điều mà Bộ Chính trị Ðảng Cộng sản Việt Nam làm, tức là che dấu chuyện này, là một sự kiện rất quan trọng. Ðiều này chứng tỏ họ có một chính sách biến ông Hồ thành một biểu tượng cho họ. Nhưng tôi không tìm thấy chứng cớ ông Hồ chí Minh từng có một bạn gái người Pháp như một số người nói.

BBC: Xin cám ơn ông.

------------

TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]

( Muốn đọc tất cả những bài viết của Trần viết Ðại Hưng thì vào www.nsvietnam.com rồi bấm tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái)

Hosted by www.Geocities.ws

1