SỰ
LIÊN HỆ CỦA HỒ CHÍ MINH
VỚI
HAI TỔNG THỐNG MỸ WILSON VÀ TRUMAN
NÓI CHUYỆN VỚI LỮ PHƯƠNG
VỀ VẤN ÐỀ
HỒ CHÍ MINH
Thư nhà tháng 9-2004
Ð.C.TRÃI: Sau " Huyền
thoại Hồ chí Minh " và " Từ Nguyễn tất Thành đến Hồ chí
Minh " , anh có dự định viết thêm gì về " vị anh hùng "
của mình ?
Lữ Phương : Nếu có
làm gì thêm thì chỉ nhuận sắc lại những gì đã viết hoặc
bổ sung một số tư liệu chưa kịp sử dụng
Ð.CT: Nghe nói vì cuốn
" Từ Nguyễn tất Thành đến Hồ chí Minh " mà anh có gặp
rắc rối ..
Lữ Phương: Cuối năm
kia, nhân Ðại tá Phạm quế Dương vào Sài gòn đến thăm,
tôi có biếu ông bản photo cuốn sách mỏng nói trên, cách
đó mấy bữa thì được điện thoại của ông Nguyễn gia
Kiểng bên Pháp báo tin cho biết Phạm quế Dương đã bị bắt,
sau đó vài ngày thì điện thoại của tôi bị bắt. Tôi không
hiểu tại sao. Ông Phạm quế Dương, tôi mới gặp lần đầu,
chỉ để uống bia. Với ông Nguyễn gia Kiểng thì tôi không
tự ý liên lạc, việc trả lời ông cũng không phải là cuộc
bàn luận về một cương lĩnh chính trị nào. Còn nếu vì
cuốn sách viết về Hồ chí Minh mà tôi bị cắt điện thoại
thì thật... buồn cười !
ÐCT : Nhưng nghe nói mấy
ông Văn Hóa Tư Tưởng trên cấp cao của Ðảng đã phản ứng
rất dữ dội với cuốn sách của anh
Lữ Phương: Tôi cũng
nghe vậy. Nhưng khác với những lần trước, lần này tên
tôi và những gì tôi viết không được nêu ra hoặc photo ra
để tổ chức phê phán, đả kích. Có gì nặng nề cũng chỉ
là những ám chỉ thôi. Vì vậy tôi thấy cũng chẳng có gì
quan trọng lắm. Mấy ông ấy đã biết quá rõ về tôi trong
hơn mười năm qua, với những tiểu luận tôi viết về Mác,
Lênin. Riêng về Hồ chí Minh, đây không phải lần đầu tôi
nói đến công khai bằng chữ viết.
ÐCT: Nhưng lần này tập
trung, có hệ thống và do đó nguy hiểm hơn, nhất là khi Ðảng
đang muốn biến Hồ chí Minh thành ngọn cờ duy nhất đưa
đường cho Việt Nam đi đến tương lai. Những gì anh viết
ra là bất lợi cho tính toán ấy.
Lữ Phương: Tôi không
hề phủ định một cách toàn diện. Tôi vẫn kính trọng Hồ
chí Minh và coi ông là một anh hùng dân tộc của thời hiện
đại. Những gì tôi phê phán chỉ là cái di sản tinh thần
mà Hồ chí Minh mang về cho Việt Nam trong quá trình đi tìm
đường giải phóng dân tộc: đó là những cái được gọi
là " chủ nghĩa xã hội ", " chủ nghĩa Mác – Lênin", những
thứ lý luận này đang cản trở sự phát triển của đất
nước..
ÐCT: Ðó vẫn là thứ
lý luận không được đụng tới vì nó biện minh cho tính
chính đáng của chế độ.
Lữ Phương: Hiển nhiên
là như vậy, nhưng theo chỗ tôi biết thì thứ lý luận đó
đã phá sản từ lâu trong đời sống tinh thần của giới
trí thức Việt Nam. Ở các trường, bắt nói thì cứ phải
nói, bắt dạy thì cứ phải dạy, nhưng chẳng còn ai tin nữa.
Giới lý luận cao cấp của Ðảng vẫn giữ được khí khái
của những năm 1986: không ít người vẫn tiếp tục đề nghị
xét duyệt lại học thuyết Mác-Lênin từ những nguyên lý.
Ðọc bài nói của Ðặng quốc Bảo tại Hà nội tháng 7 năm
ngoái, chúng ta thấy ngay điều đó.
ÐCT: Tôi có đọc bài
đó của ông Bảo, nhưng không thấy ông nói đến Hồ chí
Minh, và nếu có nói tới tôi chắc cũng không dám nói như
anh, rằng Hồ chí Minh là một người theo chủ nghĩa Stalin
và Mao trạch Ðông.
Lữ Phương: Tất nhiên
ông ấy không thể rồi, là người cải cách từ bên trong
ông nói được những điều cần nói như vậy là quá hay.
Nhưng là một người thông minh và nhạy cảm, ông ấy không
thể không đẩy đến tận cùng những tiền đề lý luận
do mình đặt ra để trả lời cho được câu hỏi rốt ráo
này: thực chất của cái gọi là " chủ nghĩa xã hội " ở
Việt Nam là gì. Tôi là người từng đi theo hướng suy nghĩ
của ông Bảo,nay nếu có khác thì chỉ ở chỗ đã dịch sang
một chỗ đứng ít bị ràng buộc hơn, nhờ đó có thể bày
tỏ được một cách nhất quán, triệt để câu trả lời
ấy. Và câu trả lời ấy như anh đã biết là : cái gọi là
" chủ nghĩa xã hội " ở Việt Nam chỉ là sự mạo danh và
mượn danh học thuyết của Mác, đó là chủ nghĩa Lênin suy
thoái thành chủ nghĩa Stalin cộng với chủ nghĩa Mao. Và người
mang thứ " chủ nghĩa xã hội " ấy về cho Việt Nam không ai
khác hơn là Hồ chí Minh – qua con đường dựa vào Ðệ tam
quốc tế, chống lại thực dân Pháp, giành quyền lực cho
Ðảng Cộng sản.
ÐCT: Xét một cách triệt
để thì như vậy, nhưng trong thực tế hiện nay, chẳng lẽ
anh cho rằng hình ảnh Hồ chí Minh không còn vai trò gì tích
cực trong đời sống xã hội sao?
Lữ Phương: Vừa rồi
tôi gặp một ông bạn 84 tuổi, ông đã giảng cho tôi nghe
về tư tưởng của Hồ chí Minh. Tôi hỏi đó là gì thì ông
nói đó là dân tộc, dân chủ, là cải cách ôn hòa, mềm mỏng
uyển chuyển chứ không chuyên chế, giáo điều,quá khích như
đám cực tả trong Ðảng ( ông nêu tên những người đại
biểu cho cánh này trước đây là Trần Phú, Hà huy Tập và
sau này là Lê Duẩn, Lê đức Thọ). Nhìn cách ông diễn giảng
tôi thấy cái ý của ông là muốn dựa vào Hồ chí Minh để
đòi hỏi cải cách Ðảng theo chiều hướng dân chủ. Những
người như ông hiện giờ vẫn còn khá đông, đặc biệt trong
hàng ngũ những nhà cách mạng lão thành, chính các vị ấy
đã tạo ra những kiến nghị, những phê phán làm bối rối
không ngớt những người lãnh đạo bảo thủ trong suốt bao
nhiêu năm qua. Tôi rất quý mến các vị ấy nhưng tôi cho rằng
thái độ đấu tranh tích cực của họ vẫn bị giới hạn
trong những sự vụ chính trị cục bộ, chiến thuật, không
có khả năng mở ra được những chiến lược văn hóa, tư
tưởng những viễn cảnh căn bản và lâu dài cho tương lai.
Hiện thực Việt Nam chưa được nhận diện một cách hiện
thực qua vai trò của Hồ chí Minh đối với đất nước.
ÐCT: Không theo dõi được
sít sao diễn biến của sự việc, nhưng tôi nhận thấy ở
Việt Nam hiện nay, vấn đề này khá tế nhị, khá phức tạp,
không thể đem lý luận ra giải quyết chóng vánh được.
Lữ Phương: Cách đây
mười năm, tôi đã đề cập đến Hồ chí Minh, tuy chưa triệt
để như hiện nay, vậy mà tôi gặp sự e dè của nhiều người,
kể cả những người rất thân. Có lẽ khi ấy người ta chưa
quen với những ý tưởng táo bạo, nhất là khi ta đụng đến
những nhân vật đã bị thần thánh hóa. Bây giờ đề cập
đến Hồ chí Minh triệt để, mạnh mẽ hơn, nhưng mọi việc
đã khác xưa rất nhiều. Người đọc tôi nhiều hơn, nhưng
trong những người tôi biết, thân lẫn sơ, chưa thấy ai phản
bác quyết liệt. Theo chỗ tôi hiểu thì do xã hội phát triển
mà cũng một phần do sự phát hiện những tư liệu mới về
Hồ chí Minh. Ðối với một nhân vật lịch sử mà lý lịch
đã cố tình bị che dấu và xuyên tạc để biến thành huyền
thoại thì cách tốt nhất để đưa huyền thoại ấy trở
về lịch sử là tìm tài liệu lịch sử hiện thực để chứng
minh. Các cuộc tranh cãi về nhân vật này từ nay trở đi sẽ
tùy thuộc rất nhiều vào những phát hiện các tài liệu lịch
sử hiện thực ấy.
ÐCT: Như vậy nếu dựa
trên những tư liệu đã phát hiện rồi, ai cũng có thể tiếp
cận được, tại sao trong giới nghiên cứu phê bình, các quan
điểm khác nhau vẫn xuất hiện và va chạm nẩy lửa? Tôi
nghĩ còn có vấn đề quan điểm, vấn đề cách thức sử
dụng tài liệu nữa.
Lữ Phương: Ðiều này
thì không có gì phải tranh cãi. Nhưng xét về bản thân công
việc nghiên cứu, tôi thấy dù quan điểm có khác nhau thế
nào đi nữa thì người ta cũng không thể nói ngược lại
ý nghĩa các sự kiện hiển nhiên. Thí dụ trước bức thư
Nguyễn ái Quốc gửi cho Manuilsky trong Ban chấp hành Quốc tế
Cộng sản, đề ngày 6-6-1938 than phiền về tình trạng 8 năm
" đau buồn" vì đã bị gạt ra ngoài đời sống chính trị
của Ðảng, làm sao người ta còn có thể cứ giữ mãi sự
tán tụng cho rằng trong những năm đó Nguyễn ái Quốc đã
" ở ngoài chỉ đạo về nước " , như một tài liệu của
Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Ðảng đã viết ? Có hàng loạt những
sự kiện khác tương tự đã được dẫn ra trong cuốn " Từ
Nguyễn tất Thành đến Hồ chí Minh " : việc ra đi tìm đường
cứu nước, chuyện tình ái, hôn nhân của Hồ chí Minh, vấn
đề hợp nhất các " đảng Cộng sản " năm 1930 v..v Hầu hết
những công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh về Hồ chí Minh
– thí dụ như luận án của Sophie - Quinn-Judge ( 2002) hoặc
Ho chi Minh, a life ( 2000) của William J. Duiker - dù khác nhau về
cách nhìn, vẫn phải dựa vào những tư liệu đã phát hiện
để lập luận, chứ không hề nói suông.
ÐCT: Trong cuốn " Từ
Nguyễn tất Thành đến Hồ chí Minh " , anh dựa nhiều vào
Sophie- Quinn- Judge, nhưng tại sao không thấy dẫn Duiker?
Lữ Phương: Lý do tôi
không khai thác Duiker là vì những tư liệu mà tác giả này
sử dụng để viết về những hoạt động của Hồ chí Minh
từ giai đoạn 1911 đến 1941 ( là đề tài chính yếu trong
sách của tôi ) lại dựa trên những nguồn chính thống do
Ðảng Cộng sản Việt Nam cung cấp mà không được phê phán
( thí dụ đã tin hẳn vào những gì Hồ chí Minh đã viết
về mình trong " Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ chủ tịch ", cũng không được kiểm chứng, bổ sung bằng
những nguồn mới phát hiện ( quan trọng nhất là những tư
liệu trong Hồ sơ Quốc tế Cộng sản được mở ra cho sử
dụng công khai sau khi Liên xô sụp đổ, những tư liệu này
được Sophie Quinn- Judge khai thác khá đầy đủ hơn), Tôi nghĩ,
dù có nhiều thiếu sót về mặt đánh giá tư liệu, công trình
của Duiker vẫn nằm chung trong ý hướng của những học giả
muốn phục hồi lại hình ảnh hiện thực của Hồ chí Minh
đối với lịch sử, hình ảnh ấy đã bị làm cho sai lạc,
hoặc bị bôi nhọ hoặc bị thần thánh hóa bởi nhiều khuynh
hướng chính trị khác nhau, suốt thế kỷ 20 đã qua.
ÐCT: Tôi nghe nói, đối
với vấn đề Hồ chí Minh do anh xởi lên, tuy các cơ quan văn
hóa và tư tưởng của Ðảng không chính thức lên tiếng,
nhưng vẫn có những người dựa vào quan điểm của Ðảng
để phê phán anh. Hồ Hiếu cho biết giữa Nguyễn trọng Văn
và anh đã xảy ra một cuộc bút chiến về Hồ chí Minh. Có
không?
Lữ Phương : Ðâu có
gì gọi là " bút chiến " . Chỉ là vài ba cái email trao đổi
giữa Nguyễn trọng Văn và tôi về bài " Huyền thoại Hồ
chí Minh " xảy ra cách đây đã mấy năm.
ÐCT: Nhưng tôi nghe nhiều
người biết đã đọc được photo của những email ấy, do
chính Nguyễn trọng Văn gom lại thành một tập và gửi đến
bạn bè. Chẳng lẽ anh không nhận được sao ?
Lữ Phương : Tôi không
nhận được và cũng không biết đã có những bản photo ấy.
ÐCT: Dù sao cũng đã
có nhiều người biết việc đó rồi, không công khai nhưng
cũng có thể gọi là bán công khai. Các anh tranh cãi nhau như
thế nào ?
Lữ Phương : Quan điểm
của Nguyễn trọng Văn là : Hồ chí Minh đã trở thành huyền
thoại, không nên xóa bỏ huyền thoại ấy mà nên khai thác
để phục vụ cho nhu cầu hội nhập và phát triển của đất
nước hiện nay. Anh ấy cho rằng vì tôi muốn " giải hoặc
" Hồ chí Minh nên đưa ra nhận định đó để phản bác, nhưng
rất tiếc không đi sâu vào chứng minh bằng tư liệu mà lại
xoáy vào việc diễn giải lệch đi một số chi tiết trong
bài viết của tôi, để gọi là " góp ý " . Thí dụ khi tôi
cho rằng ý định " cứu nước " của Hồ chí Minh chưa chắc
đã có ngay từ lúc bỏ nước ra đi, ý định ấy có thể
đến sau những dự định khác ( thí dụ không được chấp
nhận vào trường Ecole Coloniale ) thì Nguyễn trọng Văn lại
biến cái nhận xét rất trung lập ấy thành việc do Nguyễn
tất Thành bị bác đơn xin vào Trường Thuộc Ðịa, " ức
chí nên mới tính chuyện làm cách mạng " để sau đó cho rằng
nhận xét của tôi là " không thuyết phục " . Hoặc khi tôi
dẫn những tư liệu về các cuộc hôn nhân bí mật để bác
bỏ cái tiểu sử thánh thiện phi thực của Hồ chí Minh (
hy sinh hạnh phúc riêng cho sự nghiệp chung) thì anh ấy gọi
đó là hành động của những kẻ " dòm lỗ khóa " , moi móc
đời tư để đánh giá nhân vật. Những trả lời của tôi
với Nguyễn trọng Văn cũng chỉ xoay quanh cái cách đọc như
vậy của anh, cho nên cuộc cãi vã đó thật tầm thường,
chẳng mang lại lợi ích gì cho học thuật về mặt tư liệu
lẫn cách tiếp cận vấn đề cả.
ÐCT: Nhiều anh em cho
hay trong khi cuốn " Từ Nguyễn tất Thành đến Hồ chí Minh
" chưa được biết đến ở ngoài thì bài " Huyền thoại Hồ
chí Minh " lại khá phổ biến. Một số cơ quan truyền thông
ở Quận Cam và Houston đã đăng lại, nhiều website hải ngoại
cũng đưa bài ấy vào mục hồ sơ hoặc tư liệu. Anh có đọc
được những ý kiến phê bình hoặc tranh luận nào đáng chú
ý hoặc nghiêm chỉnh không?
Lữ Phương : Sau khi bài
viết ấy đăng trên Thư Nhà số 5 năm 2001, tôi được chị
Thụy Khuê ở đài RFI phỏng vấn và giới thiệu một số
đoạn trong bài viết ấy. Gọi là nghiêm chỉnh thì chỉ có
vậy thôi. Còn những cái gọi là " đáng chú ý " khác thì
cũng có. Nhưng lại theo chiều hướng khác hẳn. Chẳng hạn
như ý kiến phản đối những tờ báo đã đăng nguyên văn
bài viết của tôi mà " không bình luận " , cho rằng làm như
vậy thì đã vô tình hay hữu ý gián tiếp tiếp tay cho luận
điệu tuyên truyền của Cộng sản. Người phản đối ấy
là ông Minh Võ, một tác giả chống Cộng ác liệt mà cuốn
mới nhất của ông là " Hồ chí Minh, nhận định tổng hợp
" ( Tiếng Quê Hương xuất bản, Virginia, 2003). Trong cuốn sách
này ông để hẳn một chương giới thiệu cuốn " Con yêu râu
xanh " dày 350 trang của một tác giả ký tên Việt Thường,
cuốn sách này có mục đích, theo Minh Võ cho biết, là " phản
bác luận điệu của Lữ Phương về Huyền thoại Hồ chí
Minh ".
ÐCT: Ðể ra 350 trang
của một quyển sách phản bác một đề cương có mấy trang
! Anh có tìm đọc được cuốn ấy không?
Lữ Phương : Chưa. Nhưng
tôi được một người quen tặng cho bản photo một bức thư
của tác giả Việt Thường gửi cho một người nào đó, trong
đó nội dung " phản bác luận điệu của Lữ Phương " được
trình bày đầy đủ. Bức thư này đã được công bố trên
một địa chỉ của Yahoogroups năm 2001. Tổng hợp những gì
Minh Võ giới thiệu nội dung cuốn " Con yêu râu xanh " với
bức thư này, tôi thấy Việt Thường đã đưa ra mấy luận
điểm sau đây về Hồ chí Minh. 1) Hồ chí Minh là một tên
bán nước cho " thực dân đỏ " . Tổ quốc của Hồ chí Minh,cũng
như của tất cả bọn Cộng sản Việt Nam là Nga. Tên họ,
tâm tình, hành động của chúng đều thuộc về đế quốc
đỏ đó. 2) Hồ chí Minh là tên gian ác, vô đạo, lừa lọc,
sẵn sàng mượn tay thực dân để triệt hạ tất cả những
ai tỏ ra bất lợi cho vai trò đầu sỏ " băng đảng mafia Cộng
sản " của " hắn ", từ những lãnh tụ hoặc tổ chức yêu
nước ( như Phan bội Châu, Việt Nam Quốc Dân Ðảng của Nguyễn
thái Học ) đến cả những đồng chí của mình ( như Lê hồng
Phong, Phùng chí Kiên ) . 3) Hồ chí Minh là người chẳng có
lý tưởng cao thượng gì cả. Mộng ước từ nhỏ đến lớn
chỉ là " được làm cha mẹ dân " , không dựa được vào
cha để làm cậu ấm thì sang Tây xin làm tay sai cho Pháp, bị
Pháp từ chối thì ngả sang Ðệ tam quốc tế để làm " cha
già dân tộc "! 4) Hắn cũng là con quỷ dâm dục, với phụ
nữ thì " già không bỏ nhỏ không tha " , lăng nhăng khắp nơi
từ Tây sang Nga, từ Tàu về Việt Nam, đi đâu cũng có tình
nhân và vợ !
ÐCT: Thật là giật gân
! Nhưng dựa vào đâu mà ông tác giả này lại có thể đưa
ra những kết luận như vậy ?
Lữ Phương : Không biết
cuốn " Con yêu râu xanh như thế nào, nhưng trong bức thư tôi
đọc được của ông này, tất cả đều chỉ là những khẳng
định vô bằng cớ. Cũng có lúc nhắc vu vơ đến những tư
liệu đã được giới nghiên cứu mới phát hiện, nhưng lại
với mục đích xuyên tạc, bịa đặt hết sức trắng trợn.
Thí dụ căn cứ vào một bản khai " đã có chồng " và tên
chồng là " Lin" của Nguyễn thị Minh Khai khi dự Ðại Hội
Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 năm 1935, những nhà nghiên
cứu đã ghi nhận việc Hồ chí Minh,ngoài một người vợ
Trung Hoa là Tăng tuyết Minh cưới ở Quảng Châu năm 1926, có
thể đã có thêm một người vợ Việt Nam là Nguyễn thị
Minh Khai. Ðối với giới nghiên cứu thì đó chỉ là sự kiện,
khi tìm thấy sự kiện thì không thể không ghi nhận. Nhưng
đối với Việt Thường thì hoàn toàn khác. Qua sự trình bày
của ông ta, bản khai lý lịch của Nguyễn thị Minh Khai đã
biến thành " tờ hôn thú " giữa hai người, và vì tờ hôn
thú ấy mà bộ mặt hoang dâm vô đạo của Hồ chí Minh bị
phơi trần. Sauk hi đã cướp Nguyễn thị Minh Khai từ Lê hồng
Phong, và đã " phá trinh" làm cho Minh Khai có thai thì liền đẩy
lại cho Lê hồng Phong để tránh tiếng và chạy dài. Chẳng
những như vậy mà thôi, sau khi Lê hồng Phong về nước hoạt
động, chính Hồ chí Minh, vì sợ vai trò Ủy viên dự khuyết
trong Trung ương Quốc tế của phong có thể làm giảm thế
lực chính trị của mình nên đã báo tin với mật thám Pháp
để Pháp thủ tiêu hộ ! Ðọc những gì ông tác giả này
viết, anh sẽ thấy vô số những sự vụ việc về Hồ chí
Minh được thêu dệt, dàn dựng như vậy.
ÐCT: Bài viết của anh
về Hồ chí Minh bị ông ta " phản bác " chắc chắn là do anh
không biết đến những " sự thật " theo quan niệm trên đây
của ông ta ?
Lữ Phương: Ðiểm chính
yếu tôi bị ông ấy công kích dữ dội là cái nhận định
của tôi cho rằng Hồ chí Minh là một anh hùng dân tộc có
công giải phóng đất nước khỏi chủ nghĩa thực dân. Nhưng
những luận điểm mà ông ấy đưa ra như trên thì chẳng có
gì gọi là " phản bác " cả. Thay vì dựng nên hình ảnh một
Hồ chí Minh tràn ngập hào quang như những nhà tuyên truyền
Cộng sản đã làm thì ông ấy lại tạo ra hình ảnh một
Hồ chí Minh ngược lại, một thứ ác quỷ, xấu xa, gớm ghiếc.
Chẳng cần quan tâm đến sự thật, nếu những nhà tuyên truyền
Cộng sản chỉ viết nhuộm đỏ thì ông ta chẳng làm gì hơn
là bôi đen. Và cái cách mà ông ta bôi đen tôi thì cũng y chang
như vậy vì ông ta cho rằng hiện nay tôi vẫn chỉ là tay sai
của bọn " thực dân đỏ " . Những gì tôi phê phán quyết
liệt về Hồ chí Minh và Ðảng Cộng sản sau khi đã có chính
quyền thì ông ta cho đó là những điều tôi " buộc " phải
nói cho có, nói xong rồi xóa đi ngay bằng những lời tâng
bốc, " nâng bi " theo cung cách của bọn " khuyển mã " ! Anh
có biết ông ta dựa vào đâu để kết cho tôi cái tội đó
không?
ÐCT: Vào đâu ?
Lữ Phương : Không thể
tưởng nổi: để kết tội, ông ta căn cứ vào những sự
kiện mà tôi đã miêu tả Hồ chí Minh như là nhân vật đã
bị huyễn hoặc hóa ( như " tiên ông ", " hiền triết đông
phương ", " lãnh tụ quốc tế tài ba ", " dựng bàn thờ giữa
bùng binh Sài gòn ", " vào miếu, vào đền " ..) ! Ở đây cũng
chẳng có gì gọi là " phản bác " cả vì chắc chắn ông ta
chẳng hề đọc kỹ bài viết của tôi. Bởi vì nếu đọc
kỹ, ông ta sẽ thấy những cái mà ông ta nêu ra để kết
án đó thực sự là những cái tôi nêu ra để phủ định,
phê phán chứ không phải để khẳng định, ca ngợi. Tôi có
cảm giác ông ta chỉ xớn xác liếc sơ qua, gặp mấy chữ
tôi nêu ra như trên là nổi sùng lên, rồi chửi bới lung tung.
Ông ấy gọi tôi là một kẻ " mù lòa trí tuệ " , " dốt nát
" và bắt chước ngôn ngữ của Mao trạch Ðông, ông ta liệt
tôi vào loại trí thức " không bằng cục cứt "! Ðọc ông
này xong tôi đã cười ngất !
ÐCT: Tôi nghĩ chúng ta
có thể hiểu được những người như ông ấy. Sự cuồng
tín của một người chống Cộng cũng chẳng khác gì sự cuồng
tín của một người Cộng sản bao nhiêu. Có thể kể thêm
vào đó sự cuồng tín của một người Hồi giáo, một người
Công giáo.. Tất cả những người như vậy đều có một ngôn
ngữ chung, một não trạng chung.
Lữ Phương : Tôi không
ngạc nhiên khi thấy tại sao hiện nay nhiều người vẫn còn
coi Hồ chí Minh như một ông thánh trong khi đó vẫn có những
người như ông tác giả mà ta đang nói lại coi Hồ chí Minh
là một con quỷ. Cuộc sống ẩn tàng những động lực hết
sức phức tạp, rất khó giải thích bằng lý trí và lẽ phải.
Và cũng vì những bất đồng như vậy, người ta có thể sử
dụng những lời chửi rủa, những quả đấm hay quả bom để
giải quyết. Nhưng trong lĩnh vực nghiên cứu, văn hóa thì
lại khác hoàn toàn : đây là lĩnh vực của những quy ước
về đối thoại dựa trên lẽ phải và lý trí, tất cả những
gì chúng ta phát biểu chỉ có ý nghĩa khi lý trí và lẽ phải
được thừa nhận như chuẩn mực chung, nếu không thì văn
hóa sẽ bị biến thành một vùng sắt máu ở đó thái độ
ngang ngược dối trá, vu cáo, xuyên tạc, hận thù sẽ được
đưa lên thành giá trị.
ÐCT: Tôi thấy rất khó.
Cuộc chiến tranh lạnh trong thực tế đã chấm dứt nhưng
trong tâm thức con người thì chưa. Sự khác nhau trong việc
nhìn nhận nhân vật Hồ chí Minh đã phản ánh sự giằng xé
của các xã hội Việt Nam thời hậu chiến tranh lạnh đó,
trong nước và cả ngoài nước .
Lữ Phương : Thực tế
là như vậy mà cũng chính vì vậy mà tôi cho rằng công việc
của những người cầm bút là phải tìm cách đẩy tinh thần
xã hội đi tới chứ không thể dừng lại ở nguyên trạng,
đặc biệt khi bước vào thế kỷ mới này đất nước đang
chuyển mình sang mộvô tuyến truyền hình khúc quanh. Trước
viễn cảnh ấy, sẽ có hàng loạt những vấn đề cần phải
nhìn lại triệt để về lịch sử, về truyền thống, con
người, cũng sẽ cần phải làm một tổng kiểm kê con đường
đã đi của Việt Nam. Và cũng trước viễn cảnh ấy, do vị
trí quan trọng đặc biệt của Hồ chí Minh trong thế kỷ 20,
vấn đề nhìn lại vai trò của ông sẽ là một thử thách
rất lớn về tính nghiêm chỉnh của những người đang làm
công việc nhận thức lại quá khứ để từ những bài học
của quá khứ suy tưởng về tương lai.
ÐCT: Theo anh vấn đề
nhìn lại quá khứ như một tổng kiểm kê ấy sẽ phải đặt
trên những cơ sở nào về lý luận để có thể phục hồi
lại hình ảnh một Hồ chí Minh hiện thực với tư cách là
một nhân vật lịch sử ?
Lữ Phương: Tôi nghĩ
không thể nhìn Hồ chí Minh như một cá nhân ( để xưng tụng
hay mạt sát ) mà phải đặt ông vào quá trình chuyển động
tìm đường của Việt Nam trong thế kỷ 20 sau khi những nỗ
lực cứu nước của các nho sĩ thế hệ cũ đã thất bại.
Vào lúc này, vấn đề giành lại chủ quyền dân tộc vẫn
được tiếp nối theo truyền thống ( chống ngoại xâm) nhưng
được đặt lại trên những tiền đề mới mà mọi người
đều biết : phải tiếp nhận nền văn minh và khoa học phương
Tây để hiện đại hóa xã hội thì mới tạo ra được tư
tưởng, phương pháp và lực lượng để tiến hành thắng
lợi cuộc đấu tranh đó. Tuy chi tiết có nhiều dị biệt,
nhưng đây chính là điểm xuất phát chung nhất của tất cả
những người yêu nước vào lúc bấy giờ mà hai người mở
đầu quan trọng là Phan bội Châu và Phan chu Trinh, về sau được
Hồ chí Minh nối tiếp bằng con đường Cộng sản Ðệ tam.
ÐCT: Trong cuốn " Từ
Nguyễn tất Thành đến Hồ chí Minh", anh cho biết suốt trong
thời gian đầu mới tham gia phong trào chống thực dân ( ở
Pháp từ 1919 đến 1923), Hồ chí Minh đã hoàn toàn đi theo
con đường của Phan chu Trinh: yêu nước, khuynh tả, cấp tiến,
phi bạo lực. Cần phải nói rõ tại sao Hồ chí Minh không
dừng ở đó ?
Lữ Phương: Ðứng về
mặt cá nhân thì Hồ chí Minh cho biết là đó cũng chỉ là
động cơ yêu nước thôi. Ông thấy sự hứa hẹn giúp đỡ
của Quốc tế thứ ba đối với những nước bị thực dân
thống trị là thiết thực hơn, cách mạng hơn còn như mọi
thứ liên hệ đến cái gọi là ‘ chủ nghĩa xã hội " , "
chủ nghĩa Mác – Lênin" ..thì ông còn rất mù mờ, do vậy
mà ông gọi đó là một sự lựa chọn " cảm tính " . Nhưng
nhìn vấn đề một cách lịch sử thì cái lý do " cảm tính
" đó lại rất đáng chú ý: nó không ra đời từ hư vô mà
đã dựa vào một bối cảnh tinh thần khá đặc biệt của
những trí thức khuynh tả lúc bấy giờ. Trong tâm thức của
những trí thức này thì cái nền văn minh phương Tây bấy
lâu được cho là xây dựng trên Lý trí, Khoa học và Tiến
bộ, nền văn minh ấy bước sang đầu thế kỷ 20 đã bắt
đầu đi vào mục nát, tan rã với cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất. Nhưng từ đó thì trong hình dung của những
trí thức ấy một nền văn minh mới với một bảng giá trị
mới đã ra đời để thay thế. Và đó chính là cuộc cách
mạng Nga với những vẫy gọi cực kỳ hấp dẫn cho tương
lai. Chính cái bối cảnh tinh thần ấy đã chuyển hướng toàn
bộ phong trào trí thức phương Tây từ chỗ khuynh tả ( xã
hội) sang cực tả ( Cộng sản), rồi từ những trí thức
này tác động đến những nhà hoạt động xã hội và chính
trị mới xuất hiện ở phương Ðông đang thức tỉnh. Sự
lựa chọn của Hồ chí Minh đã được quy định bởi cái
chiều hướng tinh thần khuynh tả đó.
ÐCT: Như vậy, đối
với Hồ chí Minh, chủ nghĩa Cộng sản trước hết không phải
là một ý thức hệ nói chung mà là một ý thức hệ có tác
dụng giải phóng dân tộc. Có thể cho rằng đã có sự " kết
hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô
sản " theo cách diễn tả của những nhà ý thức hệ của
Ðảng ?
Lữ Phương: Tôi nghĩ
phải giới hạn cái khái niệm " kết hợp " đó trong điều
kiện chủ nghĩa Cộng sản đó được tiếp nhận, tức là
trong cuộc tranh đấu chống thực dân. Trong hoàn cảnh ấy,
cách nói trên không phải là không có chỗ đúng. Mục đích
của Hồ chí Minh khi ngả sang Quốc tế thứ ba, trước sau
như một vẫn là giải phóng dân tộc; thái độ ấy không
phải chỉ riêng ông mới có: do nhận thấy Quốc tế thứ
ba ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc một cách rất tích
cực, nhiều người Việt Nam vào lúc bấy giờ cũng có những
suy nghĩ như vậy ( Phan chu Trinh không hề chống lại, còn Phan
văn Trường, Nguyễn thế Truyền, Nguyễn an Ninh lại rất thân
cộng). Chúng ta đừng quên rằng do sự ủng hộ của Liên
xô với những nước bị trị mà ý định muốn dựa vào Liên
xô để giành độc lập và phát triển vẫn là toan tính dai
dẳng của nhiều chính khách của các nước thuộc Thế giới
thứ ba, ngay cả về sau này khi Chiến tranh thế giới thứ
hai chấm dứt, với cái mô hình kinh tế có kế hoạch do Liên
xô đưa ra để thách thức với Mỹ trong cuộc chiến tranh
lạnh.
ÐCT: Nhưng cùng với
thời gian, Liên xô không còn phải là cái thiên đường tưởng
tượng nữa, nó đã trở thành vương quốc của chủ nghĩa
Stalin. Diễn biến ấy chẳng lẽ không có tác động đến
Hồ chí Minh ? Chính vì Stalin, sự nghiệp chính trị của Hồ
chí Minh đã bị khựng lại một thời gian.
Lữ Phương: Về những
suy nghĩ của Hồ chí Minh trong những năm bị giữ lại ở
Liên xô để học tập dưới thời Stalin, chúng ta không có
tài liệu để biết được. Nhưng căn cứ vào hành vi và những
gì mà Hồ chí Minh đã phát biểu về sau, chúng ta thấy điều
đó không hề ảnh hưởng gì đến sự lựa chọn của ông,
khi ông vượt qua những tìm kiếm " cảm tính " ban đầu để
trở thành một cán bộ xác tín. Theo tôi nghĩ dù đã có kinh
nghiệm về sự phức tạp trong phong trào Cộng sản quốc tế,
Hồ chí Minh vẫn không bị khuấy động bởi những băn khoăn
đang nẩy sinh trong giới trí thức khuynh tả do lẽ ông đã
trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp thực thụ: biết
giữ kín những suy nghĩ riêng tư, nhất là những vấn đề
lý thuyết có thể phiền phức cho bản thân, ông cũng đã
biết cách ẩn nhẫn để phục hồi vị trí của mình, hy vọng
mau chóng được hoạt động trở lại. Chính trong thời gian
được đào tạo tại Liên xô này, ông đã cụ thể hóa cái
lý tưởng " chủ nghĩa xã hội " mơ hồ lúc ban đầu thành
mô hình xây dựng của Stalin. Năm 1938, khi trở lại Trung Hoa
để tìm cách liên hệ với phong trào trong nước, Hồ chí
Minh đã hoàn tất sự chọn lựa về ý thức hệ cho mình.
ÐCT: Ðiều đó có ảnh
hưởng gì đến cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc mà
ông đeo đuổi? Vấn đề Cộng sản hay không Cộng sản chẳng
lẽ không được đặt ra trong nhân dân Việt Nam trong cuộc
chiến đấu đó ?
Lữ Phương: Vấn đề
ý thức hệ chỉ đặt ra gay gắt từ khi cách mạng Trung quốc
thành công, không phải chỉ giữa Cộng sản và không Cộng
sản, mà còn giữa Cộng sản đệ tam và Cộng sản đệ tứ
nữa. Và việc Hồ chí Minh đem những quan niệm của Stalin
ra áp dụng vào Việt Nam như giết hại những người yêu nước
theo chủ nghĩa quốc gia, những người Troskít sau cách mạng
1945, phát động phong trào giảm tô, đấu tố, chỉnh phong
chỉnh huấn trong quân đội và cán bộ diễn ra trước 1954
ở Việt Bắc..gây ra tác hại như thế nào cho công cuộc giải
phóng dân tộc thì đã quá hiển nhiên. Nhưng từ những sự
kiện ấy mà đi đến chỗ cho rằng Hồ chí Minh chỉ giả
vờ yêu nước hoặc lợi dụng lòng yêu nước của dân Việt
Nam để thực hiện mưu đồ làm tay sai cho các đế quốc Nga,
Hoa thì không đúng. Không phải Hồ chí Minh không thủ đoạn,
không đóng kịch..nhưng trong viễn cảnh cách mạng thì đó
chỉ là những hành động tình thế, xuất phát từ nhiều
lý do trong đó có cả sự mù quáng Stalinít của ông, không
thể dựa vào đó để quy thành bản chất cuộc chiến đấu
chống thực dân do ông lãnh đạo, được đông đảo người
Việt Nam ủng hộ. Trong cuộc chiến đấu này, những thủ
đoạn dối trá chỉ co thể mang đến những cái lợi nhất
thời chứ không thể tạo ra được động lực để người
ta xả thân hy sinh cho một sự nghiệp khó khăn và lâu dài,
nhất là khi sự nghiệp ấy đã có được một chung cuộc
thành công.
ÐCT: Chúng ta có thể
nói thêm một chút về lý do thành công của Ðảng Cộng sản
trong việc đánh đuổi thực dân. Ðó có phải là nhờ cái
" cẩm nang " Mác – Lênin như Hồ chí Minh đã nói ?
Lữ Phương : Cái gọi
là " học thuyết Mác- Lênin " chỉ góp phần tạo ra một thứ
lý luận thiên mệnh về quyền lực ( sự phát triển tất
yếu của Lịch sử ) để Ðảng Cộng sản biện minh cho vai
trò độc tôn vĩnh viễn của mình đối với lịch sử. Lý
luận ấy, trong điều kiện Ðảng chưa nắm quyền thì chưa
có gì lá quan trọng lắm. Theo tôi, sự thành công quan trọng
thật sự của Hồ chí Minh đã bắt nguồn từ chỗ ông biết
áp dụng vào hoàn cảnh Việt Nam chiến lược của Lênin về
lập mặt trận thống nhất, bí quyết xây dựng Ðảng cách
mạng và phương pháp tổ chức quần chúng để khởi nghĩa
và làm chiến tranh. Các phương pháp tổ chức này tuy rất
mới mẻ nhưng vẫn dựa trên truyền thống Việt Nam vào lúc
bấy giờ. Ðối với tầng lớp trí thức bất mãn với chế
độ thực dân: đó là cơ sở để thành lập một đảng cách
mạng kiểu mới có lý thuyết " khoa học " hấp dẫn nhưng
vẫn giữ được tính chất thiêng liêng kiểu châu Á để
người ta phải thề nguyện trung thành suốt đời. Ðối với
nông dân cơ cực vì bị bóc lột, chủ thể của những bạo
loạn liên miên trong lịch sử thì đã được giải quyết
quyền lợi ruộng đất để biến họ thành chủ lực quân
của cuộc cách mạng mới, nhờ đó tạo được cơ sở vững
chắc ở nông thôn, chỗ dựa quan trọng bậc nhất cho cuộc
chiến đấu chung. So với nhiều lực lượng chống thực dân
khác, đường lối hành động của Ðảng Cộng sản đã tỏ
ra hơn hẳn về nhiều mặt. Nhận xét này đã được nhiều
chuyên viên " chống nổi dậy" của Mỹ đưa ra trước 1975.
ÐCT: Còn đối với việc
Hồ chí Minh và Ðảng Cộng sản đem lý luận về chủ nghĩa
xã hội ra áp dụng sau khi đã giành được quyền lực từ
tay thực dân, anh đã cho đó là một thất bại toàn diện.
Chúng ta hãy phân tích rõ hơn lý do : cũng thứ lý luận đó
nhưng tại sao lại có sự đối nghịch quá triệt để về
hai thời kỳ như vậy?
Lữ Phương: Nehru là
người không thích Cộng sản nhưng khi trả lời Timor Mende
năm 1956 đã cho rằng chính chủ nghĩa Cộng sản có thể "
tiếp sức " cho phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc.
Tôi thấy ý kiến ấy rất đáng chú ý. Chủ nghĩa Cộng sản
đã tiêm vào cuộc đấu tranh ấy những lời hứa hẹn vô
cùng tốt đẹp về một xã hội trong tương lai, làm cho cuộc
chiến đấu thực tế ấy trở nên lãng mạn hơn, lý tưởng
hơn. Nhưng khi cuộc đấu tranh dân tộc đã chấm dứt thì
những lời hứa đó không bao giờ được đem ra thực hiện,
và cái tương lai ấy cũng sẽ không bao giờ có điều kiện
để thực hiện cả. Không phải vì những người Cộng sản
là một bọn lừa đảo vô đạo ( như luận điệu của những
người chống cộng cuồng tín) mà chính yếu là do cái quan
niệm cách mạng của Quốc tế thứ ba : sau khi hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ thì phải " tiến thẳng" lên chủ nghĩa
xã hội, và trong thực hiện thì cái gọi là " chủ nghĩa xã
hội " ấy không có nội dung nào khác hơn là cái mô hình Stalin
mà Hồ chí Minh đem về từ Liên xô ( sau này có được bổ
sung bằng mô hình Mao trạch Ðông ). Ðó không phải là những
sai lầm cục bộ, là cách vận dụng lệch lạc như những
nhà lý luận của Ðảng đã nói mà là những sai lầm về
đường lối phát triển, về xây dựng xã hội, nói tóm tắt
là những sai lầm về ý thức hệ. Sự sai lầm đó đã được
thực tế cuộc sống xác nhận, hiển nhiên, không có gì có
thể biện minh được. Nó đi ngược lại đời sống và bị
đời sống bác bỏ, nhưng Hồ chí Minh và Ðảng Cộng sản
vẫn cố sức ép cuộc sống phải khuôn nắn theo.
ÐCT: Tại sao lại có
hiện tượng máy móc đó, trong khi như mọi người đều biết
Hồ chí Minh vốn là người rất uyển chuyển trong hành động
và ít bày tỏ về những vấn đề tư tưởng rắc rối ?
Lữ Phương: Quả thật
Hồ chí Minh không phải là một lãnh tụ có ý muốn tạo một
thứ lý luận riêng biệt nào. Nhưng là người hành động
không không thể không dựa vào lý luận. Ông là một idéologue.
Còn tại sao Hồ chí Minh và Ðảng Cộng sản lại cứ nhất
quyết đem cái ý thức hệ ấy ra thực hiện thì có thể giả
định ra rất nhiều lý do. Có thể là vì ảo tưởng hoặc
mù quáng, xác tín rằng đó là ý thức hệ khoa học nhất,
lý tưởng nhất, đích thực nhất, có thể đưa được cả
dân tộc và nhân loại đến bến bờ chân lý, hạnh phúc.
Có thể vì quá chủ quan, ngạo mạn, thấy nhờ biết khai thác,
áp dụng những sách lược và tổ chức của Lênin trong quá
trình chống thực dân mà mang về được quyền lực cho Ðảng
Cộng sản, nên đã khái quát hoá những thứ đó thành cái
" cẩm nang " muôn đời, có thể sử dụng để giải quyết
được mọi thứ khó khăn trên con đường " tiến lên" . Nhưng
cũng có thể đó chỉ là thói quen tinh thần cố hữu của
người Việt Nam khi đã trở thành lãnh đạo: thích nhặt nhạnh
các thứ tư tưởng táp nham của nước ngoài đem về xào nấu
ra thành những lý lẽ để biện hộ cho chế độ của mình
và huyễn hoặc nhân dân. Tôi thấy, trong câu chuyện này, ông
Hồ chí Minh cũng chẳng khác gì mấy ông vua hồi xưa hay ông
Tổng thống Ngô đình Diệm ngày nay bao nhiêu.
ÐCT: Nhưng còn với đông
đảo nhân dân Việt Nam, anh sẽ giải thích thế nào về cái
cảm tình mà họ dành cho Hồ chí Minh và Ðảng Cộng sản
trong thời kỳ chống thực dân và thái độ chịu đựng an
phận của họ trong thời kỳ sau này ?
Lữ Phương : Cách đây
khá lâu, tôi có gặp một giáo sư già đã từng du học ở
Pháp về và được nghe ông ấy cho biết rất tiếc rẻ là
sau 1945, Hồ chí Minh không lên làm vua – Hồ chí Minh mà làm
vua thì " hết ý "! Không phải vua bù nhìn mà là vua thứ thiệt
và như vậy thì sẽ không có chiến tranh với Pháp rồi sau
này với Mỹ ! Không có cả cải cách ruộng đất, đấu tố.
Lại tha hồ làm chuyên chính khỏi cần nhân danh " vô sản"
và có quyền được cưới nhiều vợ ! Nghe chẳng nghiêm túc
tí nào, nhưng cái ý vừa phục vừa trách Hồ chí Minh thì
quá rõ rệt. Tôi thấy hầu như tất cả những người trí
thức Việt Nam trước 1954 đều nhận ra tính chất nhiều mặt
trong con người của Hồ chí Minh, cho nên dù có hay không có
cảm tình gì với cái gọi là " Cộng sản " nhưng ít thấy
ai phủ nhận lòng yêu nước của ông. Sau 1954 tình hình có
khác đi, khía cạnh ý thức hệ giữa " Tự do và Cộng sản
" được thổi bùng lên khi đất nước bị chia hai, từ đó
tạo nên một lớp người chống Hồ chí Minh và chống cộng
rất dữ dội. Tuy vậy đa số những người không có ân oán
trực tiếp với Cộng sản đều giữ cảm tình với ông, đặc
biệt trong những năm Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam, và
đánh phá miền Bắc. Cho đến bây giờ khi cuộc cách mạng
Cộng sản đã bộc lộ hết những điều tệ hại trước
thực tế, nhiều người vẫn muốn bênh vực ông, cho ông là
người theo xu hướng ôn hòa và đã bị bọn quá khích trong
Ðảng vô hiệu hóa. Nói chung, nếu đưa lên cán cân so sánh
giữa " nội địa " và " quốc tế " thì khía cạnh thứ nhất
trong con người của ông vẫn được đông đảo người Việt
Nam chú ý nhiều hơn.
ÐCT: Vượt lên những
sự kiện, trong quá trình tìm hiểu, anh thấy có những nhận
xét nào tương đối khách quan về vai trò của Hồ chí Minh
đối với sự chuyển động tìm đường của Việt Nam trong
thế kỷ đã qua?
Lữ Phương : Tôi thấy
bài tham luận của Nguyên Ngọc ( đọc tại cuộc Hội thảo
ở Ðại học NYU, tháng 12/2003) đã gợi ra nhiều ý kiến rất
thực tế để trả lời cho vấn đề đó. Quan điểm của
Nguyên Ngọc khác rất xa với quan điểm chính thống hiện
nay của Ðảng – quan điểm này cho rằng sự chọn lựa của
Hồ chí Minh đã giải quyết xong " trọn gói " mọi vấn đề
do Việt Nam đặt ra từ dầu thế kỷ 20: vừa đem lại độc
lập cho đất nước vừa đưa đất nước hội nhập vào dòng
chảy tất yếu của lịch sử loài người là tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Nguyên Ngọc không phủ định tất cả nhưng
anh cho rằng việc Hồ chí Minh phải chọn Quốc tế thứ ba
và " phe xã hội chủ nghĩa " chỉ là để tìm chỗ dựa cho
việc đấu tranh vũ trang chống thực dân thôi. Còn sau khi giành
được độc lập rồi thì cái gọi là con đường " tiến
lên " ấy lại có tác dụng cản trở sự phát triển tự nhiên
của đời sống bởi hàng loạt những thuộc tính tùy tùng
do nó đẻ ra như phủ định cá nhân, xóa bỏ tư hữu, xem
thường trí thức.. Qua cách trình bày của Nguyên Ngọc, người
ta thấy cái ý định rất rõ rệt của anh là giới hạn lại
vai trò của Hồ chí Minh trong lịch sử hiện đại của Việt
Nam, vai trò ấy chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ chống thực
dân bằng biện pháp vũ trang, một sự lựa chọn mà anh cho
đã bị quy định bởi những hoàn cảnh khắc nghiệt, " chẳng
đặng đừng " , không có gì tuyệt đối. Xét về lâu dài,
sự chọn lựa ấy không thể vạch ra được chiến lược
để từ một xã hội phong kiến lạc hậu đất nước bước
được vào thế giới dân chủ và hiện đại – vai trò vạch
đường này Nguyên Ngọc trang trọng dành cho Phan chu Trinh, người
đỡ đầu Hồ chí Minh trong những năm mới vào đời, nhưng
cũng là người mà Hồ chí minh đã từ bỏ để đi đến với
chủ nghĩa Cộng sản Ðệ tam. Bởi vậy, mặc dù đã có độc
lập, thống nhất và hòa bình, nhưng do cuộc canh tân xã hội
theo mô thức Cộng sản đã thất bại, nên những vấn đề
do Phan chu Trinh đặt ra cách đây đã có cả trăm năm nay vẫn
còn nguyên.
ÐCT: Anh nghĩ gì về
ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc ?
Lữ Phương : Tôi thấy
trong bài tham luận của Nguyên Ngọc có nhiều điều mà có
lẽ do cố ý kềm chế, anh ấy không nói rõ ra. Thí dụ như
khi nói đến " cái giá khá đắt " để giành độc lập bằng
con đường " xã hội chủ nghĩa " và Quốc tế thứ ba, anh
chỉ nói đến cái tác hại của chủ nghĩa tập thể trong
phạm vi tư tưởng và văn hóa. Nói rất chung chung, nếu có
đúng thì phần lớn với lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật.
Tôi tin rằng nếu xoay sang các lĩnh vực khác như chính trị,
kinh tế, đạo đức, chắc chắn anh sẽ có nhiều điều nói
thêm về " cái giá khá đắt" đó. Nặng nề hơn rất nhiều.
Và thí dụ như khi đề cập đến sự chọn lựa về ý thức
hệ của Hồ chí Minh, anh chỉ dừng lại khái niệm " chủ
nghĩa xã hội " , như một thứ lý tưởng rất trừu tượng,
không theo dõi quá trình định hình của cái khái niệm ấy,
sự định hình mang nội dung cụ thể cuối cùng mà Hồ chí
Minh đã đem về đất nước để sau này gây ra không biết
bao nhiêu những điều tệ hại chưa biết bao giờ mới chấm
dứt. Tôi nghĩ rằng sở dĩ Nguyên Ngọc chỉ lướt qua những
khái niệm chứ không đi nhiều vào nội dung của chúng khi
phân tích, có lẽ do anh ngại phải đối mặt trực diện với
hình ảnh một Hồ chí Minh đang được chế độ hiện hành
coi như thần thánh, vì thế cũng đã tìm cách né tránh việc
xởi lên các vấn đề có tác dụng truy cứu đến tận cùng
cái trách nhiệm của Hồ chí Minh, với tư cách là một lãnh
tụ, trong việc tạo ra vô vàn những điều mà nhân dân phải
" trả giá " . Còn nhiều chi tiết khác phải bàn luận, nhưng
nếu bỏ qua tất cả, tôi thấy cái cách Nguyên Ngọc nhìn
lại vai trò Hồ chí Minh trong lịch sử hiện đại của Việt
Nam là khá " hiện thực " . Những ai đã trải qua những năm
tháng khó khăn đó của lịch sử, những ai muốn nhìn lại
những cái đã qua một cách bình thản đều dễ dàng chia sẻ
cách nhìn ấy của những tình thế " khắc nghiệt " mà Hồ
chí Minh đã phải đối mặt và chọn lựa cho người Việt
Nam: đó là một sự chọn lựa đầy bi kịch. Không phải là
một bi kịch của một cá nhân Hồ chí Minh đã xả thân cả
đời cho sự chọn lựa của mình mà là bi kịch của cả một
đất nước đã đi theo ông, ngay sau ngày vinh quang ấy không
lâu, đẩy đến chỗ tuyệt vọng tột cùng khi thấy cái hạnh
phúc mà nền độc lập do ông mang lại cho mình thật sự chỉ
là một bong bóng xà phòng. Nhất là đối với cái bộ phận
người đã xả thân cho những năm tháng đã qua, bây giờ nhìn
lại thấy thực tại xã hội mà mình đem máu dựng nên chẳng
có gì khá hơn ngày xưa – một thực tại phải được làm
lại tất cả. Anh Trần Ðô là một trong rất nhiều người
đã ra đi trong nỗi khổ tâm đó.
ÐCT: Theo anh thì thế
hệ trẻ ngày nay nên ứng xử như thế nào trước hình ảnh
một Hồ chí Minh của một quá khứ có nhiều chiều, nhiều
mặt phức tạp như vậy ?
Lữ Phương: Theo tôi
nghĩ nếu đã xem Hồ chí Minh như biểu tượng của sự chọn
đường trong một giai đoạn chuyển mình đã qua thì sự ứng
xử của các thế hệ hiện tại là phải nhìn lại giai đoạn
quá khứ đó để tìm ra những bài học cho cuộc chuyển mình
mới thật sự quan trọng đang diễn ra trên đất nước. Một
cái nhìn mang được tinh thần trách nhiệm như vậy chắc hẳn
sẽ làm cho lịch sử tái hiện khách quan hơn và từ đó cũng
sẽ làm cho màn sương huyễn hoặc phủ lên hình ảnh Hồ chí
Minh không còn quá dày đặc. Dưới ánh sáng của hiện thực,
những tượng đài của Hồ chí Minh sẽ bình yên đứng yên
bên cạnh tượng đài của những anh hùng dân tộc khác. Chúng
ta sẽ nhìn về ông với tình cảm của những công dân chứ
không phải với thái độ của những tín đồ. Ðặt trên
cái mặt bằng của lịch sử, những sai lầm của Hồ chí
Minh cũng sẽ được trả về cái hoàn cảnh đã quy định
chúng như những giới hạn của bản thân đời sống, hoàn
toàn giải thích được. Chúng ta hiểu được lý do ông đến
với chủ nghĩa Lênin, cũng hiểu tại sao từ chủ nghĩa Lênin
ông đã sa lầy vào chủ nghĩa Stalin như một chọn lựa bất
toàn trước những tình thế đầy khó khăn trên con đường
giành độc lập cho dân tộc. Các thế hệ đi sau phải có
đủ bản lĩnh để nhận ra những mặt sai lầm trong sự chọn
lựa ấy của Hồ chí Minh một cách khách quan, nghiêm chỉnh.
Thời gian đã cho chúng ta khoảng cách để đảm nhận công
việc đó một cách bình thản. Nguyện vọng của chúng ta là
chính đáng : mong mỏi những tàn tích của cái quá khứ sai
lầm ấy không còn đè nặng lên cuộc sống hôm nay. Sự phê
phán Hồ chí Minh vì vậy sẽ mang ý nghĩa phản tỉnh của
một cộng đồng biết can đảm nhìn lại mình để hướng
tới tương lai. Trong viễn cảnh đó, Hồ chí Minh sẽ nhận
được từ những thế hệ đi sau sự quý trọng mà ông đáng
được quý trọng. Công bằng. Tử tế. Nhưng không còn huyễn
hoặc và cũng không còn bị lợi dụng để huyễn hoặc nữa.
Thư nhà ( Paris) tháng
9 – 2004
Người thực hiện :
Ð.C.Trãi
Góp ý:
Dù Lữ Phương có can
đảm vạch ra những sai trái của Hồ chí Minh nhưng chủ đích
cuối cùng của ông là mong thuyết phục người đời hãy chấp
nhận Hồ chí Minh là một anh hùng dân tộc như những anh hùng
dân tộc khác.
Chỉ nhìn cuộc cải
cách ruộng đất thì thấy ý định của Lữ Phương còn lâu
mới thực hiện được. Nếu Hồ chí Minh nghe lời quan thầy
Nga- Hoa để tiến hành cuộc cải cách điền địa để giết
dân vì quá say mê chủ nghĩa thì tấm lòng thương dân của
ông ở đâu ? Một người như thế có thể gọi là anh hùng
như Lữ Phương đã xưng tụng hay không?
Còn nếu Hồ chí Minh
nhu nhược và chịu lệ thuộc quá nặng nề vào Nga – Hoa,
rốt cuộc để cho ngoại bang tiến hành cải cách ruộng đất
giết dân lành Việt Nam thì tài trí của ông ở đâu? Ông
thực sự có bản lĩnh chính trị không?
Cho nên suy luận cách
nào thì qua vụ cải cách ruộng đất Hồ chí Minh đã chứng
tỏ nếu không có " lòng lang dạ sói " với nhân dân thì cũng
không có tài trí và bản lĩnh chính trị vì quá lệ thuộc.
Ðàng nào thì Hồ chí Minh cũng lộ ra cái khuyêát điểm không
thể xưng tụng anh hùng như Lữ Phương nói được. Một người
khi được xưng tụng là anh hùng của dân tộc là phải có
tài trí lớn lao và không phạm tội ác gì với nhân dân. Ngô
Quyền, Trần hưng Ðạo và Quang Trung rất xứng đáng được
tôn vinh là anh hùng vì công trạng đối vối đất nước và
nhân dân. Hồ chí Minh thì nên đanh giá là gian hùng. Tài thì
có nhưng đức độ và lòng yêu nhân dân thì không. Sự gắng
gượng tôn vinh Hồ chí Minh làm anh hùng của Lữ Phương cho
thấy ông cũng thuộc loại tôn sùng Hồ chí Minh quá độ và
không có được sự tỉnh táo và vô tư trong sự phê phán.
Qua những lần phỏng
vấn với Phóng viên Ðinh quang anh Thái ở hải ngoại. Lữ
Phương cứ cằn nhằn mãi về chuyện nhà nước Việt Nam không
xây dựng đúng theo mô hình chủ nghĩa Mác. Có lẽ Lữ Phương
ngầm ý muốn nói là vì nhà nước Việt Nam không xây dựng
chính quyền theo mô thức Mác nên đã có nhiều sai sót trầm
trọng trong chuyện phát triển chăng? Xin hỏi Lữ Phương có
nhà nước nào trên thế giới xây đúng mô hình của chủ
nghĩa Mác như Lữ Phương mong đợi? Liên xô và Ðông Âu có
xây dựng theo đúng mô hình chủ nghĩa Mác chăng?
Là người bỏ ra nhiều
năm nghiên cứu chủ nghĩa Mác nhưng Lữ Phương không thấy
nổi cái sai lầm bản chất của chủ nghĩa này như nhà trí
thức Hà sĩ Phu đã thấy và vạch ra trong những bài viết
trí tuệ làm chấn động dư luận.
Ngày xưa vì văn hóa
kém mà Hồ chí Minh đưa chủ nghĩa Mác vào Việt Nam " không
qua vọng gác của trí tuệ " để rồi gây bao nhiêu tang tóc
và khổ lụy cho dân tộc Việt Nam . Nhưng nay có Lữ Phương
dù bỏ ra nhiều năm nghiên cứu chủ nghĩa Mác nhưng cái nhìn
của Lữ Phương về chủ nghĩa Mác còn phiến diện, không
nhìn thấy nổi bản chất sai lầm và hoang tưởng của chủ
nghĩa này trong bài toán xây dựng đất nước.
Bởi vậy mới có chuyện
Lữ Phương xưng tụng Hồ chí Minh, người du nhập chủ nghĩa
Mác phản tiến hóa này vào Việt Nam một cách mù quáng , là
" anh hùng " ! Ngay chuyện phe Hồ chí Minh- Võ nguyên Giáp bị
phe Lê Duẩn- Lê đức Thọ khống chế mà chính bản thân Lữ
Phương cũng phải công nhận trong bài viết " Huyền thoại
Hồ chí Minh" của ông thì thử hỏi tài trí Hồ chí Minh ở
đâu khi bị hai đàn em Duẩn, Thọ hạ bệ và tước hết quyền
lực. Người thiếu tài trí như thế có đáng được xưng
tụng là anh hùng không như Lữ Phương cố tình xưng tụng
Hồ chí Minh !
Lữ Phương chưa hiểu
rõ tinh túy của hai chữ " anh hùng " cao quý thì làm sao mà
hiểu nổi Hồ chí Minh để rồi xưng tụng lố bịch làm trò
cười cho thiên hạ và nói lên cái đầu óc còn trì trệ thấp
kém trong suy luận và đánh giá con người của Lữ Phương.
( Ghi chú của Trần viết
Ðại Hưng)
|