NHẬN
ÐỊNH SAI ÐƯA ÐẾN HÀNH
ÐỘNG SAI
(Bổ túc và
sửa chữa lần chót, 10/05/2004)
" Chính phủ của
quý vị đã thất bại và
làm thất vọng quý vị. Những
người được giao nhiệm
vụ bảo vệ quý vị đã thất
bại trong chuyện làm nầy. Và tôi
cũng đã thất bại. Chúng tôi
cố gắng thật nhiều, nhưng điều
đó không thành vấn đề
vì chúng tôi đã thất bại.
Và bởi vì sự thất bại
đó, tôi yêu cầu, khi tất cả
những dữ kiện được
đưa ra, xin quý vị thông cảm và
tha thứ. "
( Your government failed you. Those
entrusted with protecting you failed you. And I failed you. We tried hard,
but that doesn’t matter because we failed. And for that failure, I would
ask, once all the facts are out, for your understanding and for your forgiveness.)
Ðó là lời
của cố vấn về vấn đề
khủng bố của Tòa Bạch ốc Richard
Clarke đưa ra vào cuối tháng 3 năm
2004 trước Ủyban điều tra về
vụ ngày 9 tháng 11 đã làm
Tòa Bạch ốc rúng động. Những
lời nói thống thiết chân thành
này đã làm cho những người
ngồi dự phiên điều trần
hôm ấy cảm xúc sâu sa. Sau khi ông
Clarke nói xong, một số người
trong gia đình nạn nhân để những
hình người thân mà họ đang
cầm trong tay xuống để vỗ tay; một
số người khác ôm chầm
lấy ông sau khi ông điều trần
xong. Ông Stephen Push, có bà vợ tên
Lisa Raines chết trong khi đi chuyến bay số
77 đã nói như sau, " Tôi đã
chờ một lời xin lỗi từ
chính quyền trong suốt hai năm rưỡi
nay.".
Tòa Bạch Ốc
phản ứng bằng cách nói xấu
ông Clarke đủ điều vì những
lời ông tố cáo trong cuộc điều
trần cho thấy mặc dù chính bản
thân ông đã báo động
là Tổ chức khủng bố Al – Queda
sẽ tấn công nước Mỹ nhưng
Tổng thống Mỹ George W. Bush vẫn để
ngoài tai và không có một hành
động nào phòng ngừa mau mắn
và thích đáng cho đến ngày
đại họa 11 tháng 9 năm 2001 xảy
ra.
Ông Clarke cho rằng
trong khi chính phủ Clinton coi Tổ chức
khủng bố Al- Quada là một mối đe
dọa khẩn cấp thì chính phủ Bush
cứ tập trung mọi năng lực vào
chuyện mở cuộc chiến đánh
vào Iraq. Chính phủ Bush lúng túng
vì trong những cuộc vận động
tranh cử vẫn nhấn mạnh đến
chuyện công lao bảo vệ an ninh quốc gia
là chủ đề chính. Bây giờ
bị ông Clarke vạch rõ là chính
phủ Bush đã quá lơ là trong
chuyện ngăn chặn khủng bố để
rồi xảy ra đại nạn 11 tháng 9.
Lãnh tụ đa
số tại Thượng viện Bill Frist ( Cộng
Hòa) chỉ trích ông Clarke là ông
không có quyền nhân danh quốc gia
để xin lỗi vì đó không
phải là quyền hạn, đặc ân
hay trách nhiệm của ông ta. Ông Clarke
nên trả lời về phận sự
của chính ông mà thôi. Ông Frist
cho rằng trong cuộc điều trần trước
Quốc Hội vào năm 2002, ông Clarke đã
trả lời dưới lời
thề hữu thệ rằng chính phủ
Bush đã chủ động truy tìm mối
đe dọa do Al- Queda gây ra trong 7 tháng đầu
nhậm chức. Ông Frist kêu gọi hãy
công bố những lời điều
trần của ông Clarke sau khi kiểm duyệt
( declassify). Nhưng những người trong
Quốc Hội thuộc cả hai đảng có
tham dự buổi điều trần dài
6 tiếng đồng hồ ngày 11 tháng
6 năm 2002 cho biết rằng không có
gì mâu thuẫn trong lời khai năm
2002 và lời khai năm 2004 cả. Nghị
sĩ cựu trưởng khối ủy
ban tình báo Thượng viện Bob Graham(
D-Florida) cũng đồng ý với
nhận xét đó. Ứng viên
dân chủ John F. Kerry ( D- Mass) cho rằng cuốn
sách ông Clarke viết đưa ra nhiều
câu hỏi nghiêm trọng và phe Cộng
Hòa nên bỏ chuyện tấn công ông
Clarke trước công chúng. Ông Kerry
thách thức Tổng thống Bush là
nếu chính phủ Bush cho là ông Clarke
là loại người không đáng
tin thì họ có đủ lý do để
chứng tỏ nó ra, rồi truy tố
ông Clarke vì tội khai man trước
tòa ( perjury) vì đây là lời
khai hữu thệ ( under oath). Họ hoàn toàn
có quyền làm chuyện đó.
Ông Frist còn tố
cáo ông Clarke đã dùng những
tin tức thâu lượm được
trong vai trò cố vấn chống khủng
bố để viết sách kiếm tiền.
Ông Frist tố cáo lời xin lỗi
của ông Clarke chỉ là lối " xin lỗi
diễn kịch" ( theatrical apology) tới những
gia đình nạn nhân vào ngày điều
trần ( ngày 24 tháng 3 năm 2004). Dĩ
nhiên phe Cộng Hòa tìm đủ mọi
cách để triệt hạ uy tín của
ông Clarke vì những lời tố
cáo của ông Clarke làm cho Tổng thống
Bush mất uy tín rất nhiều và có
thể có ảnh hưởng đến
chuyện bầu cử tổng thống vào
tháng 11 năm nay.
Ông Clarke đã
chứng tỏ là một cố vấn
chống khủng bố có khả năng
vì mới đây một người
trong ủy ban điều tra vụ 9/11 là cựu
dân biểu Dân chủ Tim Roemer từ
Indiana có công bố một lá thư
của ông Clarke viết cho cố vấn an
ninh Rice vào ngày 4 tháng 9 năm 2001, nghĩa
là 7 ngày trước khi biến cố
9/11 xảy ra, trong đó ông Clarke yêu
cầu, " Bà phải thúc dục những
người làm luật ( policymakers) hãy
tưởng tượng một ngày nào
đó sau khi có hàng trăm người
Mỹ nằm chết ở quốc nội
và hải ngoại sau một trận tấn
công của bọn khủng bố, và hỏi
họ là họ đã có thể làm
cái gì khác."
Clarke nói là guồng
máy tình báo Hoa Kỳ không nhận
thấy được sự hiện hữu
của Al-Queda cho tới năm 1995. Ông nói
thêm " Nếu chúng ta có một guồng
máy tình báo hữu hiệu và
mạnh mẽ vào cuối thập niên 1980
và đầu thập niên 1990, chúng
ta có thể diệt trừ bọn khủng
bố từ trong trứng nước."
Ông tố cáo là vì xâm lăng
Iraq nên Tổng thống Bush đã làm
yếu đi trầm trọng cuộc chiến
chống khủng bố. Trước đây
chính phủ Bush cố làm cho người
dân tưởng rằng họ đã
làm bất cứ những gì để
giữ cho quốc gia an toàn và điều
hành cuộc chiến chống khủng bố
có hiệu quả. Nhưng cuộc điều
trần của ông Clarke đã là
một trái phá bắn vào ảo tưởng
đó. Cái ý tưởng cho rằng
thế giới bây giờ quá
nguy hiểm nên không nên thay đổi
chính quyền ( thay ngựa giữa đường
), nghĩa là không nên đổi chính
quyền Cộng Hòa hiện tại sang Dân
Chủ là một ý tưởng không
có căn bản vững chắc cho lắm.
Nếu những
lời tố cáo của ông Clarke đã
có hiệu quả, thì đó là
do ông sử dụng những phương
tiện của binh pháp cũ, đó là
tạo sự ngạc nhiên và chuẩn
bị kỹ càng. Ðầu tiên là
ông sửa soạn biên soạn cuốn
sách trong vòng hơn một năm trời,
đó là cuốn sách " Against All Enemies
" ( Chống lại mọi kẻ thù ), rồi
ông bộc bạch nội dung cuốn sách
trên chương trình " 60 minutes " ba ngày
trước khi ông ra điều trần.
Cuộc điều trần của ông đã
gây tai họa lớn lao cho chính phủ
Bush. Ông tố cáo chính phủ Bush đã
lưỡng lự và do dự trong
kế hoạch chống khủng bố, bỏ
qua những lời cảnh cáo và
những chiến thuật chống khủng
bố, chính phủ Bush chỉ thật tình
mở chiến dịch chống khủng bố
kể từ sau ngày 9/11 và rồi
đã làm hỏng nỗ lực chống
khủng bố bằng cách tiến hành
cuộc chiến trệch hướng ở
Iraq. Sau ngày ông Clarke ra điều trần,
những cuộc thăm dò công luận
( poll) cho biết có chừng 89 % dân
Mỹ theo dõi những tố cáo của
ông và quyển sách của ông đã
vượt lên hạng bán chạy nhất
nước Mỹ ( number one best-seller ).
Chuyện tố cáo
của ông Clarke làm cho Phó tổng thống
Dick Cheney tiến gần đến chuyện chấp
nhận là chính phủ của ông đáng
lẽ ra phải chú ý nhiều hơn
đến vấn đề khủng bố
trước ngày 9 tháng 11. Rõ ràng
có nhiều chuyện đáng ra cần
phải được làm tốt hơn
nữa.
Ðây là lời
thú nhận có vẻ khiêm tốn của
Phó tổng thống Cheney mặc dù trước
đó đã tấn công ông
Clarke với những lời lẽ
khá ngoại giao như sau, " Ông ta đã
lợi dụng những hoàn cảnh
trong tuần này để đề cao bản
thân và cuốn sách của ông.
Tôi không quen biết nhiều với
ông Clarke..nhưng dựa trên những
gì tôi nhìn thấy, tôi không
quý trọng ông ta lắm." . Một số
người phe ông Bush đã tố
cáo ông Clarke là bạn của người
cố vấn về ngoại giao của ông
Kerry là ông Rand Beers, nên ông Clarke đã
tấn công ông Bush để làm lợi
cho ứng cử viên dân chủ Kerry.
Lời tố cáo chính là cho rằng
ông Clarke đã thay đổi câu chuyện
qua thời gian. Ông Clarke cũng đã
nhận thấy điều này và đã
nói trong chương trình " 60 minutes " là
" Họ xúi dục những người
thân tín của họ tấn công tôi."
Những vị dân
cử phe Cộng Hòa ở Quốc Hội
đã làm một chuyện khá bất
ngờ là tìm cách giải mật
( declassify) buổi điều trần kín (
closed-door testimony) mà ông Clarke đã khai
vào năm 2002 trước ủy ban quốc
hội để quyết định xem những
lời nhận xét hồi ấy của
ông Clarke có mâu thuẫn với
lời điều trần của ông
trước ủy ban 9/11 vừa mới
đây hay viết trong sách. Thượng
nghị sĩ trưởng khối đa số
ở Thượng viện Bill Frist còn
cho biết thêm, " Ông Clarke có thể
dấu diếm trước mặt giới
truyền thông, nhưng nếu ông nói
láo trong khi tuyên thệ trước Quốc
Hội Mỹ thì đó là một
chuyện nghiêm trọng". Nhưng một số
dân cử Dân Chủ đã từng
nghe buổi điều trần năm 2002 đã
lên tiếng ủng hộ ông Clarke, họ
nói là họ không nghe thấy những
gì ông nói hồi ấy nghịch lại
với những gì ông nói bây
giờ.
Với những
lời tố cáo tùm lum của ông
Clarke, câu hỏi Washington có đối
phó hợp lý với những
đe dọa khủng bố hay không coi như
không cẩn đặt ra nữa vì
rõ ràng Washington đã không hành
xử đúng đắn, hợp
lý nên giờ đây có những
vấn đề cần đặt ra như
sau:
Khủng bố không
phải là một vấn đề cấp
bách hàng đầu của chính phủ
Bush trước ngày 11 tháng 9.
Trong cuộc phỏng vấn
với chương trình " 60 minutes", ông
Clarke đã mạnh mẽ tố cáo Tổng
thống Bush đã " phớt lờ
" bỏ qua những mối đe dọa của
khủng bố trước ngày 9/11. Khi
điều trần trước ủy ban
9/11, ông có vẻ điềm đạm
hơn và cho rằng ông Bush coi vấn đề
khủng bố là " một vấn đề
quan trọng nhưng không cấp bách ". Rõ
ràng là tòa Bạch Ốc dưới
chính phủ Clinton chú trọng vấn đề
khủng bố nhiều hơn. Cố vấn
an ninh của Clinton là ông Sandy Berger còn
nhớ là đã nói với
cố vấn an ninh của Tổng thống Bush
là bà Rice trong khi chuyển quyền là,
" Vấn đề quan trọng số một mà
bà cần phải đương đầu
là khủng bố nói chung và phe Al-Queda
cụ thể nói riêng.’
Những giấy
tờ tài liệu lưu trữ của
chính phủ Bush trong nửa năm đầu
cho thấy những thành viên trong chính
phủ này đã không lưu tâm
đúng mức chuyện khủng bố.
Họ chú trọng nhiều hơn đến
nước Nga, Trung Cộng và đặc
biệt là chuyện phi đạn phòng thủ.
Trong cuốn sách " Bush at war " (Bush trong chiến
tranh) nhà báo Bob Woodward đã nhắc
lại lời của Tổng thống Bush nói
về trùm khủng bố Osama Bin Laden như
sau, " Có sự thay đổi rõ rệt
trong thái độ của tôi sau ngày
11 tháng 9. Tôi không chú ý đến
ông ta nhiều trước đây
nhưng vẫn nghĩ ông ta là một mối
đe dọa.. Nhưng tôi không có cảm
giác cấp bách phải trừ khử
ông ta."
Sự tranh luận
mạnh mẽ nhất của ông Clarke trong cuộc
bàn luận này là nhịp độ
mà chính phủ Bush xem xét kế hoạch
ông trình lên ngày 25 tháng 1 năm
2001 về việc đánh tổ chức
khủng bố Al-Queda. Chương trình kế
hoạch này đã được
tiến triển trong những năm của
chính phủ Clinton, khi Al-Queda đánh bom những
tòa đại sứ Mỹ ở
Phi châu năm 1998 và rồi đánh
vào tàu U.S.S Cole tại Yemen năm 2000. Chính
phủ Bush đưa lời đề nghị
bàn cãi kế hoạch này vào
tháng 4 với những viên chức
cao cấp, điều nghiên thêm vào
mùa hè và cuối cùng mang ra ủy
ban an ninh trong nội các và ngoại giao, để
rồi được chấp nhận thi hành
những biện pháp đối phó,
chuyện này xảy ra trước một
tuần trước vụ 9/11. Không có
lời đề nghị về biện pháp
thi hành được coi là khẩn
cấp cả. Nói chung là bao gồm những
biện pháp tăng cường quân
sự và hành động kín nhằm
phá hoại Al-Queda khắp thế giới,
tăng cường an ninh cho những tòa
đại sứ và những căn
cứ quân sự Mỹ, nỗ lực
truy lùng những mạng lưới
cung cấp tiền bạc cho Al-Qaeda, mở một
chiến dịch ngoại giao quần chúng rộng
lớn mạnh mẽ để lấy cảm
tình và một cuộc vận động
tẩy chay mật khu Al-Qaeda ở A phú hãn
( Afghanistan). Những viên chức của
chính phủ Bush nói rằng họ bỏ
ra hàng tháng để nghiên cứu
và chấp thuận một kế hoạch đánh
Al-Qaeda vì họ muốn tiêu diệt tận
gốc rễ chứ không muốn nó
ngoi đầu lên trở lại như
chính phủ Clinton đã làm. Họ
cũng nói là họ thêm những
yếu tố chủ yếu quan trọng, như
có một kế hoạch quân sự tiến
đánh A phú hãn trong vòng 3 đến
5 năm để tiêu diệt Al-Qaeda. Nhưng
một viên chức cao cấp của chính
phủ Bush thú nhận rằng những
kế hoạch này cũng giống như
lời đề nghị của ông Clarke
ngày 25 tháng 1.
Chính phủ Clinton
đáng lý ra phải tóm được
Bin Laden.
Tại buổi điều
trần, một nhân viên trong ỦÛûy
ban 9/11 là cựu Thượng nghị
sĩ dân chủ Bob Kerry thuộc tiểu bang
Nebraska đã chỉ ra rằng Bin Laden đã
chính thức tuyên bố tuyên chiến
với Mỹ vào tháng 2 năm 1998
và ông lúc đó đã yêu
cầu Mỹ trả đũa thích đáng.
Bà cựu ngoại trưởng Madeleine
Albright khi điều trần trước
Ủûy ban 9/11 đã cho rằng Thượng
nghị sĩ Bob Kerry đã phán đoán
đúng. Nhưng mà rồi nước
Mỹ đã làm gì ?
Tổng thống Mỹ
Clinton đã tìm cách giết Bin Laden.
Sau khi những tòa đại sứ
Mỹ bị tấn công ở Phi châu,
Mỹ cho bắn phi đạn vào những
trại huấn luyện ở A phú hãn,
nơi mà Bin Laden bị phát hiện, nhưng
trong lúc Mỹ bỏ ra thời gian nghiên
cứu lúc nào bắn phi đạn
từ chiến hạm trên biển thì
Bin Laden trốn thoát. Ông ta bị phát
hiện thêm nhiều lần nữa ở
A phú hãn vào tháng 12 năm 1998
và vào tháng 2 và tháng 5 năm
1999. Mỗi lần phát hiện như thế,
những viên chức của Clinton không
ra lệnh bắn hạ vì không có sự
bảo đảm nào là Bin Laden sẽ
ở đó nếu phi đạn bắn
tới, không khéo thì gây thương
vong cho dân thường. Trong một trường
hợp tấn công phi đạn đã
gây tử thương cho một hoàng
tử xứ Emirati.
Nhiều người
phê bình là khi Tổng thống Bush nhậm
chức, chính phủ của ông phải
hành động mau hơn nữa trong chuyện
bố trí phi cơ bắn phi đạn không
người lái ( Predator) để bắt
đầu chuyện săn lùng Bin Laden khi mây
mù mùa Ðông đầu năm
2001 tan đi. Thí nghiệm dùng máy bay
tấn công không người lái
tấn công đãthành công vào
tháng 2 năm 2001. Tuy nhiên loại máy
bay tấn công giết người này
không được dùng ở A
phú hãn cho đến sau khi biến cố
9/11 xảy ra, những viên chức CIA
lo lắng rằng Bin Laden và phe Taliban sẽ
học cách tránh né hay bắn rơi
loại phi cơ không người lái
này trong khi loại phi cơ này chỉ mới
được sản xuất có vài
chiếc, và cơ quan tình báo CIA lo
ngại chuyện ám sát kẻ thù bằng
máy bay không người lái sẽ
tạo sự phẫn nộ của thế giới
đối với cơ quan này.
Còn chuyện xâm
lăng A phú hãn trước biến
cố 9/11 sẽ đem lại nhiều khó
khăn về mặt chính trị. Khó có
thể nhờ cậy nước đồng
minh của Mỹ là Pakistan cho mượn
lãnh thổ để quân Mỹ làm
địa bàn tấn công. Và còn
thêm những khó khăn khác nữa.Chẳng
hạn như khi Tổng thống Clinton cho bắn
phi đạn vào A phú hãn vào
năm 1998, ông bị một số người
trong Quốc Hội và báo chí tố
cáo là ông muốn dùng chuyện
bắn phi đạn này để chuyển
hướng của chú ý của quần
chúng ra khỏi chuyện tình ái lăng
nhăng của ông với cô sinh viên
tập sự Monica Lewinsky. Sau khi tàu chiến
Mỹ Cole bị tấn công, ông Clarke đề
nghị tiến hành ngay chuyện đánh
nhõng trại huấn luyện của bọn khủng
bố Al-Qaeda tại A phú hãn nhưng ông
lại không được sự hậu
thuẫn của FBI và CIA, vì hai cơ quan
này cũng chưa được thuyết
phục để có thể tin rằng phe
Al-Qaeda chính là thủ phạm đánh
tàu Cole. Trong lúc đó thì Tổng
Thống Clinton lại quá bận rộn trong chuyện
nỗ lực dàn xếp một hiệp
ước hòa bình cho hai phe Do Thái
và Palestine. Và cũng khó mà tưởng
tưởng quần chúng Mỹ và
những đồng minh của Mỹ sẽ
ủng hộ chuyện Mỹ tấn công Al-Qaeda,
một kẻ thù mà ít người
Mỹ biết đến 3 năm trước
đây, nếu không có sự khiêu
khích của trận đánh 11/9.
Biến cố 9/11
có thể ngăn chận được.
Một ủy viên
của ủy ban 9/11 là ông Slade Gordon đã
hỏi ông Clarke khi điều trần như
sau, " Cứ thử giả định rằng
kế hoạch của ông ngày 26 tháng
1 năm 2001 được thi hành thì
liệu nó có ngăn ngừa được
biến cố 9/11 xảy ra hay không? Câu
trả lời của ông Clarke là không.
Ông cho rằng giết Bin Laden và dội
bom những trại huấn luyện của Al-Qaeda
có thể làm cho hoạt động của
bọn khủng bố khựng lại. Nhưng
một số viên chức Mỹ cho rằng
kế hoạch tấn công đã được
hoạch định từ lâu nên những
hành động tấn công chúng cũng
không ngăn được kế hoạch
đã định của chúng. Nhiều
tên khủng bố không tặc đã
có mặt trên đất Mỹ từ
đầu năm 2000 để bàn thảo
kế hoạch tấn công.
Trên lý thuyết,
sự canh chừng chặt chẽ ở
quốc nội Mỹ sẽ khám phá ra
âm mưu phá hoại của khủng bố.
Có nhiều điều mấu chốt để
có thể nói lên điều đó.
Hai tên trong nhóm khủng bố không
tặc là Khalid al-Midhar và Nawaq al-Hamzi bị
FBI và CIA truy lùng như những tên
tình nghi khủng bố. Một nhân viên
FBI tại Phoenix, Arizona đã ghi nhận hành
vi một số người Ả rập thường
xuyên theo học những khóa bay tại
những trường dạy lái máy
bay. Tên tình nghi không tặc thứ
20 tên Zacarias Moussaoui lúc ấy đang học
bay ở Minnesota, rõ ràng là chỉ
học lái mà không học cách đáp
! Ông Clarke lý luận rằng nếu Tổng
thống Bush đòi hỏi phải hành
động mỗi ngày từ những
vị cố vấn cao cấp thì những
vị cố vấn này sẽ phát đi
tín hiệu khẩn cấp về chuyện phải
đối phó với khủng bố
xuống những cấp dưới, và
có lẽ đã truy tìm ra manh mối
kế hoạch tấn công của bọn không
tặc khủng bố. Sự quan tâm loại
này đã ngăn chặn được
một cuộc khủng bố của bọn Al-Qaeda
tính đánh vào Phi trường
Los Angeles vào cuối năm 1999. Phe của Bush
cho rằng kế hoạch tấn công của
bọn khủng bố bị bẻ gãy là
do may mắn chứ không phải do những
biện pháp đề ra; hôm ấy có
một nhân viên di trú phát hiện
ra một người khả nghi tìm cách
vượt biên giới từ Canada
vào Mỹ và từ đó phát
hiện và ngăn chặn được
âm mưu khủng bố đánh phi trường
Los Angeles từ sự bắt giữ
người đàn ông khả nghi
này. Trong bất cứ trường
hợp nào, không ai chối cãi được
là cần phải có sự may mắn
mới có thể chặn lại cuộc
tấn công ngày 11 tháng 9.
Cuộc chiến Iraq
làm chuyện chống khủng bố tệ
hại thêm
Trong cuốn sách
và trong những lần xuất hiện
trước truyền thông để quảng
cáo cho sách, ông Clarke còn đi xa
hơn lời phê bình mà tố
cáo thêm rằng chính phủ Bush đã
thất bại vì bỏ qua chuyện tiến
hành một cuộc chiến chống khủng
bố trước ngày 9/11. Ông tố
cáo chính phủ Bush đã làm
cho vấn đề tệ hại thêm bằng
cách tiến hành một cuộc chiến
không cần thiết tại Iraq. Ông nhắc
lại lời của cựu bộ trưởng
ngân khố Paul O’Neil cho rằng chính phủ
Bush đã tính chuyện xâm lăng
Iraq từ khi mới nhậm chức.
Ông Clarke tố cáo, và Thượng
nghĩ sĩ John Kerry cũng đồng ý,
là cuộc chiến ở Iraq đã
lái nỗ lực chống khủng bố
của Mỹ sang hướng khác với
hướng tìm cách diệt trừ
Al-Qaeda, làm tổn hại nỗ lực cộng
tác toàn cầu chống khủng bố
và làm cho chiều hướng phe đạo
Hồi cực đoan ngày càng mạnh
thêm.
Chính phủ Bush cho
rằng họ làm cả hai việc cùng
một lúc: chống khủng bố và
dẹp đi mối đe dọa trầm trọng
ở Iraq. Thật ra những viên chức
của Bush xem hai chuyện này có dính
líu đến nhau. Họ tin rằng chúng
ta cần tấn công mạng lưới
khủng bố một cách trực tiếp,
giảm số quân của chúng và
dẹp đi nguồn cung cấp từ những
nước liên minh của khủng bố
và thay đổi hoàn cảnh vốn
nuôi dưỡng khủng bố. Phát
ngôn viên của Hội đồng an ninh
quốc gia Sean McCormack cho rằng Iraq đã
đóng góp nhiều cho bọn khủng
bố.
Ðiều đó
cần phải được xét lại.
Cuộc đánh bom mới đây
tại Madrid, Tây ban nha cho thấy cuộc chiến
ở Iraq đã làm nẩy nở
ra thêm nhiều cuộc khủng bố khác.
Và chính phủ Bush cũng thú nhận
là tổ chức Al-Qaeda đã bám
sâu gốc rễ ở Iraq và tập
trung tấn công vào người Mỹ.
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ
Donald Rumsfeld không còn nói cái luận
điệu " thà chống khủng bố trên
đất Iraq còn hơn phải chống
khủng bố trên đất Mỹ" nữa.
Một nước Iraq hết Saddam Hussein chưa
chắc đã là một nước
bạn với Mỹ trong chuyện chống
khủng bố, sự rối loạn hiện
nay cho thấy kết quả tích cực
và có lợi cho Mỹ chưa được
chắc chắn. Ông Clarke nói thêm rằng
không có bằng chứng nào cho
thấy Saddam và Al-Qaeda đã cộng tác
với nhau để tấn công Mỹ.
Những quân nhân Mỹ tử trận
ở Iraq khi đánh trận cứ
nghĩ rằng là họ đang đánh
khủng bố để trả thù cho vụ
9/11.
Cuộc điều
trần ly kỳ của ông cố vấn
Clarke không chỉ nói về cuộc tấn
công sau cùng của khủng bố mà
nói đến cuộc tấn công sắp
tới. Từ khi Uûy ban bắt tay vào
làm việc điều tra vào đầu
năm 2003, Uûy ban đã tìm ra nhiều
sai lầm nghiêm trọng trong hệ thống
an ninh quốc gia, trong đó bao gồm cả
chuyện một chỉ thị ra lệnh của tổng
thống có thể bị hiểu nhầm
trong khi ra lệnh từ trên xuống dưới.
Nhưng những nguy hiểm này bị quên
lãng trong những cuộc so tài chính
trị. Trừ phi Washington cần tập trung
vào chúng, nếu không thì lại
có người nào đó van nài
sự tha thứ sau khi có chuyện tấn
công của khủng bố xảy ra.
Nói chung ông Clarke
cho rằng Tổng thống Bush đã thất
bại không làm trọn nhiệm vụ bảo
vệ quốc gia khi quốc gia tối cần
ông ở giây phút cấp kỳ.
Ông Clarke cảm thấy khó chịu khi thấy
ông Bush vận động tái tranh cử
dựa trên thành tích thành công
chống khủng bố của ông. Rõ
ràng là ông Bush đã bỏ qua
chuyện chống khủng bố trong nhiều
tháng, đáng lý ra ông có
thể làm một vài điều gì
để ngăn chận biến cố 9/11. Nên
nhớ là bỏn khủng bố Al-Qaeda
tấn công tàu Cole chỉ vài tuần
trước cuộc bầu cử của
Bush, giết chết 17 thủy thủ Mỹ. Toán
cố vấn an ninh quốc gia của Tổng
thống Clinton trước khi ra đi có
dặn dò toán cố vấn của Bush
tới nhận nhiệm vụ là phải
coi chuyện đối phó với bọn
khủng bố Al-Qaeda là ưu tiên số
một. Thế mà chuyện chống khủng
bố vẫn bị chính phủ Bush để
rơi vào quên lãng. Ông Clarke chưa
bao giờ được mời để
trình bày về chuyện chống khủng
bố với Tổng thống Bush trước
ngày 11/9, ngay cả khi ông viết một
tờ tường trình khẩn cho
cố vấn an ninh quốc gia Condoleeza Rice báo
động về nguy cơ tấn công sắp
tới của bọn Al-Qaeda.
Sau khi trên dưới
3000 người bị giết trong biến
cố 9/11 bởi 19 tên không tặc,
không có tên nào là người
Iraq cả, thế mà sau đó Tổng
thống Bush kéo ông Clarke vào một
góc phòng cùng một số ít người,
đóng cửa lại nói, " Tôi
muốn ông tìm xem có phải Iraq làm
vụ này không" . Ông Bush không nói
ông Clarke phải tạo ra một bản báo
cáo cho rằng Iraq làm vụ này, nhưng
toàn bộ cuộc nói chuyện đã
cho ông Clarke không còn nghi ngờ gì
nữa là Tổng thống Bush muốn
ông viết một bản tường trình
cho rằng Iraq làm chuyện này. Một lý
do thâm sâu khiến Tổng thống Bush
con thâm thù và muốn đánh
Iraq nữa là vì lý do trước
đây Tổng thống Saddam Hussein của Iraq
đã có lần có kế hoạch
mưu sát Tổng thống Bush cha khi ông
Tổng thống Bush cha đi viếng thăm
Kuwait. Ông Bush con tiến đánh Iraq có
lẽ để trả thù cho chuyện Hussein
dám mưu sát cha ông. Ông Clarke nói
thẳng với ông Bush là không
có sự nối kết nào giữa
Iraq và những tên khủng bố tấn
công vụ 9/11. Ông Bush quay lại và nói
với ông Clarke với vẻ đe
dọa, " Iraq! Saddam! Hãy kiếm xem có sự
nối kết nào không " . Ông Clarke
đã làm bản báo cáo nói
rõ là Iraq không dính líu vào
vụ này nhưng khi bản báo cáo
nộp lên thì bị văn phòng an ninh
quốc gia chận lại và yêu cầu
làm báo cáo lại vì báo cáo
sai! Nếu ông Clarke nói đúng thì
dân Mỹ cần phải khôn ngoan suy tính
kỹ trước khi bầu cho ông Mỹ
vào nhiệm kỳ 2 của chức vụ
tổng thống Hoa Kỳ.
Trong cuộc trả lời
chương trình " 60 minutes " ngày 21 tháng
3 năm 2004, ông Clarke đã mỉa mai so
sánh chuyện ông Bush cất quân đánh
Iraq sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm
2001 cũng giống như chuyện Mỹ đem
quân đi đánh Mexico sau khi bị quân
Nhật tấn công vào Trân Châu
Cảng ( Pearl Harbor) vào năm 1941 ! Có nghĩa
là ông Bush đánh sai mục tiêu
và sai đối thủ. Sau gần 4 năm
cầm quyền, ông Bush đã chứng
tỏ ông là một cấp lãnh đạo
kém cỏi, nước Mỹ mất
chừng 3 triệu công việc kể từ
ngày ông nhậm chức. Ngay cả ông
cựu Bộ trưởng tài chánh
Paul O’Neill trong cuốn hồi ký " The price of royalty
" ( Cái giá của sự trung thành
) đã cho biết những cuộc họp
của ông Bush và những cộng sự
viên là cuộc họp của " những
người đui và điếc ", nghĩa
là ông Bush không có khả năng
điều hành và chỉ đạo
công việc quốc gia gì cả.
Vì nhận định
sai nên ông Bush đã hành động
sai. Sau khi bọn khủng bố Al-Qaeda do Bin Laden chỉ
huy đánh vào nước Mỹ
vào ngày 11 tháng 9, ông Bush không
có kế hoạch truy kích bọn Al-Qaeda tới
nơi tới chốn mà lại cất
quân đi đánh Iraq, một nước
không dính líu gì trong biến cố
9/11, nên đã làm cho vấn đề
chống khủng bố càng khó khăn
và thiếu hiệu quả. Nước
Mỹ là nước phải trả giá
cho sự sai lầm của ông Bush, cho tới
giờ phút này thì hơn 600 quân
nhân Mỹ đã tử trận ở
Iraq một cách khá oan uổng.
Ðạo diễn Michael
Moore có lời phát biểu chống
đối Tổng thống Bush sau khi nhận được
giải Oscar về phim tài liệu vào năm
2003 như sau, " Chúng ta sống trong một thời
kỳ có những kết quả bầu
cử giả định, để bầu
lên một ông tổng thống giả định.
Chúng ta sống trong một thời kỳ
có một người gửi chúng
ta ra cuộc chiến vì những lý
do giả định, cho dù đó là
sự giả định của băng keo
dán hay sự giả định của
những báo động màu cam. Chúng
tôi chống lại cuộc chiến tranh này,
ông Bush ơi, ông là đồ xấu
hổ, ông là đồ xấu hổ
" ( We live in a time where we have fictitious election results, that elect
a fictitious president. We live in a time where we have a man sending us
to war for fictitious reasons, where it is the fiction of duct tape or
the fiction of orange alerts. We are against this war, Mr Bush, shame on
you, shame on you..)(*) Dĩ nhiên trong một nước
tự do như nước Mỹ, một
người dân như đạo diễn
Michael Moore có thể thẳng thắn phê
bình ông Bush mà không sợ bị
trả thù, vùi dập.Ðó là
ưu điểm của một chế độ
tự do và chính vì có quyền
tự do ngôn luận phê phán này
mà không một chính phủ độc
tài nào có thể tồn tại trong
thể chế tự do. Còn trong chế
độ Cộng sản thì dù cấp
lãnh đạo có ngu dốt sai lầm
đưa đất nước đi xuống
thì người dân cũng không
có quyền phản đối gì cả
mà chỉ phải vâng lời răm
rắp cấp trên, và nếu chống
đối lại người lãnh đạo
cầm quyền thì chỉ mang họa tù
tội vào thân vì bị tố cáo
là làm mất an ninh ! Còn chừng
5 tháng nữa là bầu lại tổng
thống và người dân Hoa Kỳ
có quyền dùng lá phiếu để
giữ ông Bush lại tiếp tục làm
tổng thống nhiệm kỳ thứ hai nếu
nhận thấy ông có khả năng an
dân, trị quốc hay mời ông về
tiểu bang Texas làm anh cao bồi vườn
nghỉ hưu, an hưởng tuổi già
vì đã tỏ ra bất tài vô
tướng trong bốn năm cầm quyền.
Ðó là ưu điểm của thể
chế tự do và cũng nhờ
ưu điểm này mà người
dân trong thể chế tự do mới
hoàn toàn làm chủ vận mạng chính
trị của đất nước mình.
Lawndale, một chiều
hâm hấp nóng đầu tháng 5
năm 2004
TRẦN VIẾT ÐẠI
HƯNG
(*) Trong lời phát
biểu này, Ðạo diễn Michael Moore có
nói đến " tổng thống giả định
" là muốn mắng khéo ông Tổng
thống Bush đã lên ngôi tổng
thống trong một cuộc bầu cử đầy
mờ ám năm 2000. Phó tổng thống
Al Gore của Ðảng Dân chủ có
nửa triệu phiếu dân bầu hơn
Thống đốc Texas George W. Bush trên toàn
quốc và ngay cả ở tiểu bang
Florida, ông Gore cũng hơn phiếu ông
Bush nếu đếm lại đàng hoàng,
chứ không phải là ông Gore thua
ông Bush chừng 500 phiếu như được
công bố. Chính vì được
công bố hơn ông Gore hơn 500 phiếu
mà ông Bush thắng phiếu cử tri
đoàn đưa đến chuyện ông
thắng cử tổng thống. Phải nói
là 5 người trong Tối Cao Pháp
Viện Hoa Kỳ vốn thân Ðảng Cộng
Hòa đã bỏ phiếu cho ông Bush
thắng cử sau một thời gian kiện
tụng lôi thôi về phiếu bầu.
Ông Bush đúng ra thắng kiện chứ
không thắng cử. Vì thế ông
Ðạo diễn Michael Moore mỉa mai và xách
mé gọi ông Bush là tổng thống
giả định. ( fictitious president).
Ông Michael Moore nói
chuyện băng keo dán giả định
( fiction of duct tape) là muốn ám chỉ chuyện
sau ngày 11 tháng 9, vì sợ bị
tấn công bằng vi trùng sinh hóa
học nên các cơ sở đôi
khi bị dán băng keo để chống
lại hơi độc. Ðôi khi chẳng
có chuyện gì nhưng cũng dán băng
keo, vì thế ông Moore mới gọi
là băng keo dán giả định. Còn
chuyện báo động màu cam là mức
báo động cao nhất về khủng
bố ( fiction of orange alerts). Ðôi khi vì
sợ hãi quá mức và vô
căn cứ nên chính phủ Mỹ
công bố là mức báo động
lên tới màu cam. Vì thế ông
Moore đùa gọi là mức báo
động màu cam giả định . (Ghi
chú của Trần viết Ðại Hưng).
|