NGƯỜI
GIÁN ÐIỆP
VỐN
YÊU CHÚNG TA
Cuộc đời hai mặt của phóng viên
tờ báo Time ở Sài gòn trong cuộc chiến tranh Việt Nam
Người phóng viên cuối cùng của
báo Time đánh điện về trụ sở chính của báo ở New York
vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 một thông tin có nội dung như sau,
" Ðây là Phạm xuân Ẩn . Tất cả những phóng viên Mỹ đều
được di tản bởi tình trạng khẩn cấp. Văn phòng báo Time
hiện nay được điều hành bởi Phạm xuân Aån." Aån tường
trình thêm 3 bản tin từ Sài Gòn trong khi quân đội Bắc Việt
khép chặt vòng vây Sài Gòn. Rồi tin tức điện về bị cắt
đứt. Trong suốt năm sau, Aån hành xử như là phóng viên duy
nhất của báo Time trong giai đoạn hậu chiến tranh Việt Nam,
báo đăng những bài của Aån như " Cuộc chia tay tàn nhẫn
cuối cùng " ( The Last Grim Gâoodbye ), " Những người chiến
thắng: Là những người làm nên lịch sử" ( Winner: The Men
who made the history ) và " Sài gòn: Một tuần yên tĩnh dưới
chế độ Cộng sản " ( Saigon: A calm week under communism " ). Aån
là một trong số 39 phóng viên ngoại quốc làm việc cho báo
Time khi văn phòng ở Sài Gòn bị đóng cửa và tên của ông
ta bị xóa bỏ trên danh sách ban biên tập của báo vào ngày
10 tháng 5 năm 1976.
Ðược công nhận là một chuyên
viên phân tích chính trị tài giỏi lỗi lạc, Aån bắt đầu
làm việc trong thập niên 1960 cho hãng thông tấn Reuters và
rồi cho báo Herald Tribune ở New York cùng báo The Christine Science
Monitor, và cuối cùng làm phóng viên cho báo Time trong vòng 11
năm. Phạm xuân Aån dường như làm tốt công việc của mình
trong việc trao đổi tin tức với những đồng nghiệp ở tiệm
café Givral nằm trên đường Catinat cũ. Ở đây ông ta điều
động chuyện cung cấp tin tức vào mỗi buổi trưa và được
coi như nguồn tin chính xác nhất ở Sài Gòn. Ôâng ta được
phong là " Thủ lãnh của đội quân báo chí Việt Nam " và "
Tiếng nói của đài phát thanh Catinat " – tin đồn cứ thế
mà lan xa ra. Với bản tính khôi hài hóm hỉnh cố hữu, ông
thích những cái tên khác dành cho ông như " Bác sĩ về sinh
lý ", " Giáo sư đảo chánh " , " Tư lệnh huấn luyện chó quân
sự " ( một ám chỉ đến con chó bẹc-giê thường đi theo
ông), " Tiến sĩ về cách mạng " hay đơn giản , Tướng Givral.
Giờ đây chúng ta biết đó chỉ
là một nửa công việc mà Aån đã làm với chức vụ phóng
viên, chứ không phải là nửa phần kia. Aån đã gửi cho Bắc
Việt Nam đều đặn những tài liệu quân sự bí mật và những
thông điệp được viết bằng một thứ mực không nhìn thấy,
nhưng tài liệu ông đánh máy gửi đi, hiện giờ nằm trong
văn khố tình báo của Việt Nam và chỉ được chúng ta biết
đến nhờ những bảo sao tường trình, sẽ được đánh giá
một cách không nghi ngờ gì nữa là kiệt tác của ông ta.
Ôâng dùng một máy đánh chữ hiệu Hermes do cơ quan tình báo
Bắc Việt cung cấp để đánh những bản tường trình, có
khi dài cả trăm trang vào ban đêm. Ðược chụp lại và chuyên
chở dưới dạng những phim ảnh chưa rửa, những bản tường
trình của Aån được giao liên đưa đến vùng địa đạo
Củ chi, nơi được dùng làm Tổng hành dinh dưới đất của
Cộng sản. Mỗi vài tuần, từ năm 1952, đích thân Aån rời
văn phòng ở Sài Gòn,lái chừng 20 dặm về phía Tây Bắc về
phía rừng Hố Bò, rồi lẩn vào những đường hầm để nghiên
cứu về chiến thuật cho phe Cộng sản. Từ Củ chi, tài liệu
của Aån được quân hộ tống đưa đến núi Bà Ðen ở biên
giới Campuchea, rồi tới Nam Vang, từ đây được đưa bằng
máy bay đến Guangzhou ( Quảng Ðông) ở phía Nam Trung Hoa, và
rồi được chuyển nhanh về cho bộ chính trị ở Bắc Việt
Nam. Bản tường trình sống động và chi tiết cho đến nỗi
nghe nói Tướng Giáp và Hồ chí Minh xoa tay và hân hoan đón
nhận từ Trần văn Trung – Aån là tên bí danh . Giáp và Hồ
sung sướng kêu lên" Chúng ta đang ở trong phòng chiến tranh
của Mỹ !" . Một số người trong chính trị bộ sau này cho
biết như thế.
Khi Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản,
Aån cũng như những phóng viên đồng nghiệp của ông, hy vọng
là sẽ được di tản đi Mỹ. Cơ quan tình báo Việt Nam có
chương trình tiếp tục công việc ở Mỹ. Bộ chính trị biết
rằng có một cuộc chiến –theo- sau- một- cuộc- chiến, một
giai đoạn cay đắng của sự vận động chính trị trong đó
Mỹ tiến hành những chiến dịch quân sự bí mật và cấm
vận đối với Việt Nam. Còn ai báo cáo tốt hơn Phạm xuân
Aån về những dự tính của Mỹ? Trong những ngày cuối cùng
của cuộc chiến, vợ của Aån và bốn đứa con được máy
bay bốc đi ra khỏi Việt Nam và tái định cư ở Washington,
D.C. Aån nóng lòng chờ đợi chỉ thị để thi hành, rồi lời
truyền đến từ Bộ chính trị miền Bắc cho biết là ông
không được rời khỏi nước.
Aån được phong làm Anh Hùng của
quân đội võ trang nhân dân, được tặng thưởng 4 huy chương
quân đội,và được thăng chức lên cấp bậc thiếu tướng.
Ông bị gửi đi trại cải tạo (1) và cấm gặp khách phương
Tây. Gia đình ông được đem trở lại Việt Nam sau một năm
ra đi. Vấn đề của Phạm xuân Aån, dưới cái nhìn của Ðảng
Cộng sản Việt Nam, là ông yêu nước Mỹ và người Mỹ,
những giá trị dân chủ, và tính khách quan trong báo chí. Ôâng
xem Mỹ như là một kẻ thù ngẫu nhiên vốn sẽ trở lại
để thành một người bạn khi nhân dân ông giành được độc
lập. Aån là loại người Việt Nam im lặng, một nhân vật
đại diện có thời là một người làm cách mạng cả cuộc
đời và là một người ngưỡng mộ nồng nhiệt nước Mỹ.
Ôâng nói ông không bao giờ nói dối với ai, ông đưa những
phân tích chính trị giống nhau cho báo Time cũng như đưa cho
Hồ chí Minh. Ông là một con người bị giằng xé bởi sự
chính trực tuyệt đối, một người sống như một người
dối trá nhưng luôn luôn nói sự thật.
David Halberstam nói, " Câu chuyện
của Aån làm tôi sực nhớ ngay đến Graham Greene " . Davis Halberstam
vốn là bạn của Aån khi ông làm phóng viên báo Time ở Việt
Nam. " Nó đề cập đến tất cả những câu hỏi căn bản
: Trung thành là gì? Yêu nước là gì? sự thật là gì? Anh
là ai khi anh nói ra những sự thật đó? " Ông nói tiếp, "
Có một sự mâu thuẫn trong con người Aån mà chúng ta hầu
như khó tưởng tượng được. Nhìn lại, tôi thấy ông là
người bị chặt đứt ngay ở giữa."
Trong cuốn sách xuất bản năm 1965
nói về Việt Nam, " Sự làm nên vũng lầy " ( The making of a
quagmire) , Halberstam diễn tả Aån như là một người chủ chốt
của " một mạng lưới tình báo tuy nhỏ nhưng rất hữu hiệu
" trong giới ký giả và nhà văn. Ông nói Aån có những đường
dây tiếp xúc về quân sự rất tốt trong nước." Giờ đây
Halberstam biết câu chuyện của Aån, liệu ông có thái độ
hằn học với Aån không? Ông trả lời, " Ồ, không" Ôâng
nói lên ý kiến của hầu hết những đồng nghiệp cũ của
Aån, " Ðó là một câu chuyện đầy những kích thích tò mò,
khói và gương(*), nhưng tôi vẫn nghĩ tốt về Aån. Tôi không
bao giờ có cảm giác bị phản bội bởi Aån. Ông ta phải
đối diện với chuyện là người Việt Nam trong một giai đoạn
nguy kịch trong lịch sử, đó là thời kỳ không có gì ngoài
sự phản bội đầy tràn trong không gian.
Thành phố Hồ chí Minh – hay vẫn
thường được gọi là Sài Gòn – là một nơi thuần túy
thương mại. Những xe đẩy và những xe bán hàng rong nối
đuôi nhau để bán tất cả mọi thứ, từ cháo đến CD, những
đường phố vang lên inh ỏi tiếng xe máy Trung quốc. Khói
bay mù mịt đến nỗi những người đàn bà xinh đẹp của
Sài Gòn bắt đầu dùng khẩu trang để che mặt. Cậu thanh
niên tên Việt, ngồi phía sau chiếc xe máy Honda chở tôi quanh
thành phố này, nói, " Chúng tôi tất cả đã trở thành người
Hồi giáo rồi !"
Ðể đến nhà của Aån – một
cái villa ở quận 3, một vùng đông đúc dân cư gần ga xe
lửa – chúng tôi băng ngang một đoạn đường cắt đầy
những tiệm sửa xe và đến một con đường chuyên bán cá
nhiệt đới, trong đó bao gồm thứ cá đá Thái Lan mà Aån
ưa thích. Tôi ấn tay vào cái chuông treo trên cánh cửa sắt
màu xanh của nhà ông. Những con chó bắt đầu sủa, và tôi
nhìn hé qua tấm lưới sắt để thấy Aån lê bước xuống
tầng cấp. Ðầu tóc rối, ông mặc một cái áo sọc ngắn
tay với cây bút máy trong bọc, quần xám lòng thòng,và đôi
giày sandal bằng cao su. Ông hụt hơi khi đến nhưng mỉm cười,
và chào đón tôi rồi bắt tay bằng đầu những ngón tay. Ông
mới bị nhập viện vì lá phổi hư, đó có lẽ là kết quả
của một đời hút thuốc Lucky Strikes, nhưng ông tướng Givral,
dù ở tuổi 78, khi ông nhăn răng toe toét cười thì ông vẫn
có nét tinh quái như thuở nào.
Lần cuối tôi thăm Aån vào đầu
thập niên 90 trong lúc viết một cuốn sách về trẻ Mỹ lai
– là những trẻ con của lính Mỹ và những người yêu Việt
Nam. Khi sách được xuất bản, tôi gửi tặng ông một bản,
và tôi còn gửi cho ông nhiều sách khác khi có bạn bè chung
của ông và tôi thăm viếng Việt Nam. Aån biết tôi thích thú
muốn nghe câu chuyện của ông. Ông tiếp đãi khách thăm nồng
hậu, đó là những người khách được phép thăm ông sau khi
Việt Nam thi hành chính sách Ðổi Mới, đó là một dạng của
chính sách đổi mới Perestroika của Liên xô vào những năm
cuối của thập niên 1980. Ông bỏ ra hàng giờ để giải thích
lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng có một đề tài ông
im lặng : cuộc đời ông là một viên gián điệp. Dường
như ông là loại người bí hiểm cho đến cuối, có thể là
do tính trung thành với bạn bè hay sợ chính phủ trả thù.
Dù sao vào tháng giêng năm 2004, tôi nhận được một thông
điệp cho biết cuối cùng ông có thể nói chuyện với tôi,
không dưới hình thức phỏng vấn nghiêm túc mà là những
cuộc đối thoại thân mật giữa bạn bè. Chuyện này bắt
đầu vào Tết ta và tiếp tục sau đó vài tuần lễ vào đầu
mùa mưa khoảng tháng 5 ( Tôi gặp Aån lại thêm vài ngày vào
tháng 3 năm 2005.)
Aån dẫn tôi đi ra vườn, đó là
một khoảng đất tươi tốt sum sê đầy những cây khế và
dâu. Nó tỏa đầy hương thơm từ cây hoa đại điểm với
màu của cây mơ và hoa lan đang trổ bông. Có con chim ưng và
3 con gà đá của Aån nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Chúng
tôi dừng ở giữa vườn để ngắm nghía với vẻ thích thú
cái tượng chó làm bằng sành. Ðó là một trong những con
chó bẹc-giê yêu quí của Aån. Aån nói ông học cách dùng
chó trong nghề gián điệp từ một viên chức CIA là Ðại
tá Edward Lansdale – là nhân vật tưởng tượng của nhà văn
Graham Greene trong tiểu thuyết " Người Mỹ trầm lặng " ( The
quiet American). Aån nói thêm, " Tôi huấn luyện con chó để
nó có thể báo cho tôi biết là cảnh sát đang lùng sục nhà
ai đó, dù cách xa cả dặm. Nó là một điệp viên giỏi ."
Bà Thu Nhàn vợ Aån đang làm việc
trước nhà, bà dùng một cây chổi ngắn để quét cổng. Bà
là một phụ nữ dễ thương và mái tóc búi sau lưng. Bà nhỏ
thua Aån mười tuổi, bà đang bận lau chùi quét dọn nhà để
đón khách thăm viếng rộn rịp nhân dịp Tết, trong đó có
cô con gái hiện đang sống ở California. Treo trên cổng và
từ những cọc dọc theo đường đi là những chuồng nuôi
chim của Aån trong đó có những loại chim như chim hét, vàng
anh, ác là, bạch yến, và nhiều loại chim hót khác. Một con
chim Aán độ màu xanh có cái mỏ vàng cất tiếng nói, " Ông
ơi, có điện thoại gọi ông! " Con chim bắt chước tiếng
nói của cháu ông Aån, đứa cháu này hiện đang sống chung
với 3 người con trai lớn của ông.
Chúng tôi tháo giày và bước vào
một căn phòng lớn vẫn được thường dùng làm nơi làm việc
và thư viện của Aån, cũng như phòng tiếp khách và phòng
ăn. Những ngăn bằng kiếng được sắp thành hàng ở phía
tường xa để chứa những sách của ông. Một tranh thủy mạc
Trung Hoa treo trên cái trường kỷ màu xanh và những ghế. Phía
dưới những cửa sổ mở là một cái thùng nước chứa cá
được dùng như một thành phần vật liệu thứ ba tạo nên
chuồng thú của Aån. Aån nói, " Chó thì trung thành. Chim luôn
nhảy nhót loanh quanh trong chuồng, giữ vẻ bận rộn. Cá dạy
cho ta biết câm miệng. Không may thay trong khi tôi nằm bệnh
viện thì đa số cá của tôi chết ."
Căn phòng có phần thay đổi kể
từ cuộc viếng thăm lần trước của tôi. Trên một hốc
tường gần cửa chính, có đặt một cái bàn giấy của Aån,
tủ đựng giấy tờ cùng đống sách báo cao đến trần nhà,
có thêm một cái đàn Dương cầm của con trai Aån đặt ở
đó. Một lát sau, tôi khám phá ra những gì xảy đến cho phòng
của Aån khi ông và tôi đi ngang qua bàn thờ gia đình và ra
ngoài băng ngang qua nhà bếp đến phía đường xe đi ở phía
sau căn nhà. Aån nói, " Ðây là chỗ vợ tôi quăng tất cả
những giấy tờ của tôi." . Ông chỉ vào hai cái hộc tủ
màu xám đựng hồ sơ và một cái bàn giấy chứa đầy những
tài liệu vàng ố. Tất cả được che chở bảo vệ từ môi
trường bên ngoài bởi một cái mái bằng plastic bé nhỏ.
Khi chúng tôi nhìn chằm chằm vào
đống giấy chất chồng nằm trên lối đi, Aån nói pha trò,
" Vợ tôi nói với tôi là đã đến lúc dọn phòng cho thế
hệ trẻ hơn, nhưng tôi chưa chết mà . Không có chỗ nào cho
tôi đi cả. Ðịa ngục được dành cho những tên điếm đàng,
lừa đảo, bọn này ở Việt Nam bây giờ nhiều lắm, đầy
rẫy khắp mọi nơi."
Aån có đôi tai dài lủng lẳng,
cái trán cao vuông vắn, mái tóc ngắn đen dày, và cặp mắt
nâu sống động. Mắt trái của ông hơi lớn hơn mắt phải,
giống như ông đang đồng thời cùng một lúc dùng nhãn quang
dài và ngắn để quan sát những vấn đề của thế giới.
Những bức ảnh chụp ông hồi thập niên 1950 cho thấy ông
bận comlê sát người, áo trắng và quần đen, Aån giống như
một trong những thanh niên dễ thương, gọn ghẽ tham gia vào
Hội sinh viên đại học và sành điệu về chè chén. Ông ấy
cao hơn một người Việt Nam trung bình, là một võ sĩ thích
đánh lộn và bơi lội, sau khi thi rớt hai năm liền, ông có
thể trở thành một thứ du đãng anh chị. Ông không muốn
nói nhiều về bản thân, ông nói – Có quá nhiều thứ để
nhớ . Thật là khó. Và dài dòng quá. Tôi lại già rồi.".
Rồi ngả người về phía trước, ông bắt đầu nói về bản
thân ông, nhắc lại từng chi tiết và thời gian những chuyện
xảy ra cách đây 50 năm. Ông khoa những ngón tay dài nhợt nhạt
vì tuổi tác già nua. Ông ấn định khoảng không trước mặt
ông như là một trái cầu mềm nhão, thỉnh thoảng lại đấm
vào nó. Ông chia những nhận định của mình về giềng mối
tam cương ngũ thường của Khổng giáo hay vẽ một đường
vòng lượn thể hiện một trong những nữ thần, mà ông ta
cho rằng sự thành công trong đời ông là do sự ban phước
che chở của những nữ thần đó.
Aån có thể nói hàng giờ về những
biến cố thế giới, chỉ ra những sự tương đồng song song,
như trường hợp Việt Nam và Iraq ( ông nói có những kỹ thuật
được phát triển đầu tiên ở Á châu và sau đó đem tới
sa mạc ) hay đánh giá ngành điệp báo của thế giới ( " Người
Mỹ là bậc thầy trong việc thâu lượm tin tức tình báo,
nhưng họ không biết làm gì với nó")
Phạm xuân Aån tuổi con mèo, sinh
giờ sửu, vào ngày 12 tháng 9 năm 1927 ở Bệnh viện tâm trí
Biên Hòa, 20 dặm về phía Ðông Bắc Sài Gòn. Vào lúc đó,
bệnh viện này là cơ sở y khoa duy nhất ở Nam kỳ mở ra
phục vụ cho người Việt Nam. Là con trai đầu của một viên
chức hành chánh cao cấp, một thành phần có giáo dục trong
nền hành chánh thuộc địa, Aån có cái vinh dự nhận được
giấy khai sinh của nhà bảo hộ thuộc địa Pháp.
Dòng họ ông vốn bắt nguồn từ
Hải Dương, được coi là trái tim của Bắc Việt Nam, là một
vùng đông đúc dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng, nằm giữa
Hà Nội và bờ biển, ông cố của Aån là một người thợ
bạc, được triều đình nhà Nguyễn gọi vào Huế , Trung phần
, làm những huy chương. Ông nội Aån được thăng chức trong
giới quan lại để trở thành thầy giáo và giám đốc một
trường sơ cấp dành cho nữ sinh, mang một trong những mề
đay vàng đó trên ngực . Có tấm ảnh chụp lại hình đó
được để ở vị trí trung tâm trên bàn thờ gia đình. Ông
được nhà vua trao một mề đay bằng kim loại to bằng cánh
hoa Tulip gọi là Kim Khánh, đã nói lên ông giữ một chức
vụ tương đương với một bộ trưởng trong chính phủ. Sau
đó Aån chỉ cho tôi coi một tấm ảnh của ông hồi còn bé
đeo cái huy chương kim loại này trước ngực. Tôi hỏi ông
còn giữ cái huy chương này không? Ông trả lời, " Nó đã
được gửi cho Hồ chí Minh nhân tuần lễ vàng". Ý ông muốn
nói đến chuyện ông Hồ dùng vàng hối lộ cho đám quân Tàu
chiếm đóng năm 1945 để thuyết phục chúng rút ra khỏi Bắc
Việt Nam sau Thế chiến hai.
Cha của Aån được huấn luyện
thành một kỹ sư tại Ðại học Hà Nội, làm việc thăm dò
địa dư, thiết lập những đường ranh đất đai và hồ sơ
thuế ở biên giới phía Nam Việt Nam. Ông xây dựng đường
ở Sài Gòn và kênh rạch chạy xuyên qua rừng U minh, dọc theo
vịnh Thái Lan. Trong lúc đi đo đạc ở Cambốt,ông gặp mẹ
Aån, là một người nữa di cư từ miền Bắc. Bà là một
người cần cù, siêng năng, trình độ học vấn lớp 2 giúp
bà đọc và viết. Công việc của một người thăm dò địa
chất thời thuộc địa làm việc ở vùng hoang dã miền Nam
bao gồm cả chuyện điều động những nông dân bị bắt lính
mang những dây xích băng ngang qua những vùng đầm lầy sông
Cửu Long và xây dựng những tháp canh trong rừng để thiết
lập những đường ranh nhìn thấy được. Aån nói, " Khi anh
đi thăm dò địa chất và xây dựng đường phố, kênh rạch,
anh thấy những người dân nghèo Việt Nam rán làm thêm để
sống. Anh thấy hệ thống bóc lột lao động, đánh đập và
nhiều điều hành hạ khác của người Pháp. Cách duy nhất
chống lại những sự ngược đãi hành hạ đó là phải chiến
đấu giành độc lập. Người Mỹ đã làm tương tự như thế
vào năm 1776. Gia đình tôi luôn có tấm lòng yêu nước mong
muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam."
Trong thời thơ ấu, Aån sống trên
một chiếc thuyền tam bản ở trong rừng tràm ở phía Nam Việt,
rồi Aån bị thổi bay ra khỏi thuyền và gần chết đuối.
Ông được gửi về ông bà nội ở Huế , rồi lại bị gửi
về Nam khi bà nội qua đời, và gửi ra Bắc lại khi ông thi
rớt lớp 3. Cha ông tách ông ra khỏi anh em và đày ông về
ở dưới làng Truồi quê mùa, với mục đích cho ông thấy
sự khổ cực của nông dân sẽ làm cho ông sợ mà cố gắng
học nhiều hơn. Thay vào đó, Aån chỉ thích trốn học đi
chơi quanh vùng quê này. Khi ông thi rớt lần nữa, ông bị
cha ông dùng roi đánh và tống cổ về Sài gòn để có chương
trình giáo dục nghiêm khắc hơn dành cho ông.
Aån yêu mến ngay Sài Gòn, lúc ấy
là một tiền đồn thuộc địa chậm chạp bao quanh bởi những
đồn điền cao su. Ông bỏ ra hàng giờ để đi dọc theo sông
Sài Gòn, đu đưa trên những cây đa rồi nhảy ùm xuống nước.
Ông làm bạn với những công nhân ở xưởng đóng tàu Ba Son,
họ cho ông những đồng tiền đẹp để chơi. Ông đi xe điện
đến Chợ Lớn là quận của người Hoa, rồi đi về rạp
chiếu bóng nằm gần cầu ở Dakao. Ở đây ông xem tất cả
những phim Johnny Weissmuler đóng vai Tarzan đu dây trong rừng.
Aån nói về những phim này như sau, " Ðó là một giấc mơ
đẹp về tự do trong rừng. Tôi nghĩ dưới chế độ Cộng
sản tôi sẽ sống như Tarzan. Tôi hướng giấc mơ này vào
cuộc cách mạng."
Aån kêu lên, " Hãy nhìn Tarzan! Anh
ta có gì? Chỉ có cái khố quấn ngang lưng. Ðó là chủ nghĩa
Cộng sản ở trạng thái nguyên thủy, một cảnh điền viên
thôn dã của Rousseau. Ðó là thứ triết học Cộng sản thời
trung học mà Aån thâu lượm được từ những sách gửi đến
cho học sinh thuộc địa bởi Ðảng Lao Ðộng Pháp. Ông nói,
" Vâng, tôi là người Cộng sản. Chủ nghĩa Cộng sản là
một lý thuyết rất đẹp và nhân bản. Sự dạy dỗ về Thượng
đế, Ðấng sáng tạo cũng như thế. Cộng sản dạy người
ta thương yêu nhau, chứ không giết nhau. Cách duy nhất để
có thể làm được điều này là mọi người trở thành anh
em, vốn mất cả triệu năm. Ðó là một chuyện không tưởng,
nhưng nó đẹp ."
Là một người phân tích chính trị
Aån biết chủ nghĩa Cộng sản có trách nhiệm đến cái chết
của hàng triệu người trong thế kỷ 20, và ông biết tường
tận sâu sắc về những giới hạn của chế độ Cộng sản
ông đang sống. Nhưng lòng ái quốc đã làm cho Aån quyết định
khi ông còn trẻ là chiến đấu giành độc lập cho một nước
Việt Nam độc lập, và lực lượng hữu hiệu nhất trong cuộc
đấu tranh chống lại Nhật, Pháp, Mỹ , Trung Hoa và những
kẻ xâm lược khác là những người Cộng sản. Ông hỏi,
" Ở Việt Nam, tổ chức nào để anh tham gia đây để chiến
đấu cho đất nước anh? Anh không còn lựa chọn nào khác
hơn là gia nhập Ðảng Cộng sản."
Aån đương là một học sinh trường
Collège Cần Thơ nằm ở vùng châu thổ sông Mekông thì ông
bỏ học năm 1945 để gia nhập vào một chương trình huấn
luyện của Việt Minh. Có hơn trên 100 người mới tuyển mộ
mà chỉ có 50 khí giới, một số do cuộc chiến tranh thế
giới thứ nhất để lại. Những người tập sự phải kiếm
vỏ đạn để làm đạn mới. Dù ông có tham gia vào cuộc
chiến đấu chống Nhật trước rồi sau mới chống Pháp, Aån
coi kinh nghiệm này nhỏ nhoi như chuyện chạy việc vặt. Nhưng
có một trang mạng của nhà nước, coi những hoạt động của
ông như là anh hùng của lực lượng nhân dân võ trang, nói
đến Aån như là " một chiến sĩ tham dự vào tất cả những
trận đánh ở vùng miền Tây của Nam Việt Nam."
Vào năm 1947, Aån rời chức vụ
trung đội trưởng, vốn hoạt động chủ yếu trên mặt trận
tuyên truyền, và đi về lại Sài Gòn trông nom cha già của
ông, là người bị cắt một lá phổi và nằm 2 năm trong bệnh
viện để chữa trị bệnh lao phổi. Aån tổ chức những cuộc
học sinh xuống đường, đầu tiên chống lại người Pháp
và sau này chống người Mỹ. Ông làm chức vụ thư ký cho
hãng dầu Caltex cho đến năm 1950 thì ông thi đậu bằng giám
sát quan thuế của Pháp.
Trong dịp xuân 1952, Aån được gọi
vô rừng phía Bắc Sài Gòn để gặp những cán bộ Cộng sản
là những người đang thành lập Trung ương đảng miền Nam
vốn tổ chức lãnh đạo cuộc chiến tranh chống Mỹ, là phe
ngay trước giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Ðông Dương
lần thứ nhất vào năm 1954, đã bắt đầu thay thế người
Pháp như là kẻ thù chính. Aån thích thú về chuyện được
gọi về vùng chiến, nơi mà ông hy vọng gặp lại người
em( chị?) (2), vốn đã vào bưng ba năm trước đây để trở
thành " Tiếng nói Nam bộ ", tức là xướng ngôn viên truyền
thanh của truyền thông Cộng sản. Aån thỉnh thoảng thăm viếng
cô ta để lấy thực phẩm, thuốc men và ngủ qua đêm trong
những mạng lưới địa đạo của Việt Minh, nơi mà hơi khói
nấu bếp được truyền thoát qua những mô đất do mối đùn
lên nhằm tránh sự phát hiện của máy bay dò tìm của Pháp
bay trên đầu. ( Năm 1955, người em( chị ?) của Aån được
đưa ra miền Bắc làm việc cho những mỏ than của nhà nước.)
Aån thất vọng khi thấy ông không
thể tham gia chung với em( chị?) ông trong bưng nhưng thay vào
đó, ông được tuyển dụng làm gián điệp trong cơ quan tình
báo quân sự của Việt Nam mới thành lập. Ông nói, " Tôi
là người được tuyển mộ đầu tiên.". Aån nhận ra công
việc mới của mình khá hèn mọn. Gián điệp là công việc
của chó săn và chim mồi. Ông nói thêm , " Tôi bị cảnh sát
dẹp biểu tình đánh trong những cuộc xuống đường của
học sinh, và tôi không có ước muốn trở thành người điềm
chỉ hay mật báo viên."
Vấn đề đầu tiên mà Aån phải
đối phó là chuyện lẻn trở lại Sài Gòn như là một gián
điệp mới tuyển mộ là làm thế nào để tránh bị Lực
lượng thuộc địa Pháp bắt đi quân dịch. Ðể thực hành
tiếng Anh mà ông học được ở sở dịch vụ thông tin Hoa
Kỳ, ông tình nguyện làm việc như một chuyên viên kiểm duyệt
tại văn phòng bưu điện trung ương. Tại đây ông được
bảo là kiểm duyệt những bản báo cáo của Graham Greene cho
báo chí Anh và Pháp, một loại người " phá rối " mà Pháp
nghi là làm việc cho tình báo Anh trong những chuyến thăm viếng
Việt Nam thường xuyên của ông.
Aån được chính thức giới thiệu
gia nhập vào Ðảng Cộng sản năm 1953, tại một buổi lễ
ở rừng U minh do Lê đức Thọ chủ trì. Thọ là người có
trách nhiệm lãnh đạo kháng chiến miền Nam chống lại Pháp,
sau này trải qua 4 năm thương thảo với Henry Kissinger tai những
cuộc đàm phán ở Paris. Người em của Thọ là Mai chí Thọ,
người đứng đầu ngành an ninh của những lực lượng Cộng
sản ở miền Nam, là người chỉ huy của Aån.
Mặc dù làm việc khá tự do cho
Phòng nhì tình báo Pháp, Aån vẫn bị bắt quân dịch vào năm
1954. Ðể tránh ăn đạn vào những ngày tàn của cuộc chiến
tranh thuộc địa Pháp ở Ðông dương, Aån lợi dụng những
liên hệ gia đình có công việc làm ăn ở Việt Nam. Ông nhờ
một người bà con là Ðại úy Phạm xuân Giai giúp đỡ. Giai
đang chỉ huy cơ quan G5, là cơ quan tâm lý chiến của bộ tham
mưu quân đội, dùng Aån như là một phụ tá,và cho ông làm
việc ở tổng hành dinh ở đường Gallieni gần Chợ Lớn.
Ðó là nơi mà Ðại tá Edward Lansdale
tìm thấy Aån khi Lansdale tới cung cấp dịch vụ và tiền cho
Ðại úy Giai. Lansdale là một cựu nhân viên làm quảng cáo
và là một chuyên viên trong lãnh vực chiến tranh tâm lý, ông
được gửi đến Việt Nam để điều hành những chiến dịch
bí mật của CIA tại Việt Nam. Ðến Việt Nam ngay sau khi Pháp
thất trận ở Ðiện Biên Phủ, Lansdale tìm thấy cơ quan tình
báo G5 và phần còn lại của thiết bị quân sự thuộc địa
đang trong tình trạng hỗn độn. Họ đều mất tinh thần,
không biết phải làm gì với chính họ, cho đến khi Lansdale
và công tác vô hại mang tên quân sự Sàigòn của ông bắt
đầu biến Nam Việt Nam thành một quốc gia trọn vẹn với
một quân đội, một tổng thống, và một lá cờ.
Nhận thấy người thanh niên Phạm
xuân Aån là một thanh niên đầy hứa hẹn nên Lansdale và những
đồng nghiệp của ông bắt đầu dạy Aån những kỹ năng
nghề nghiệp mà Aån sẽ dùng đến trong 20 năm trong nhiệm
vụ điệp báo cho Cộng sản. Aån nói, " Tôi là một học sinh
của Sherman Kent ", ý Aån muốn nói tới người giáo sư đại
học Yale là người đã giúp thành lập ngành tình báo chiến
lược của cơ quan CIA. Kent viết tài liệu kinh điển ," Tình
báo chiến lược cho chính sách ngoại giao toàn cầu của Mỹ
" ( Strategic Intelligent for American World Policy " ( 1949)", đó là
một " công việc tường trình của ký giả " căn cứ trên
sự nghiên cứu về " cá tính" của những người lãnh đạo
thế giới. Có đoạn như sau, " Phải hiểu biết cá tính và
tham vọng, ý kiến, điểm yếu, ảnh hưởng mà họ dùng, và
những ảnh hưởng trước đó làm cho họ yếu đuối. Phải
biết rõ bạn bè và họ hàng của họ, cùng môi trường chính
trị, kinh tế, xã hội mà họ hoạt động trong đó."
Chuyên viên chiến tranh tâm lý Phạm
xuân Aån đang bắt đầu thâu thập phương pháp " tường thuật
" để sau này ông sử dụng một cách xuất sắc khi làm phóng
viên cho báo Time. Aån nói với nhà văn Nguyễn thị Ngọc Hải,
người vừa xuất bản một cuốn sách về Aån như sau, " Người
ta thường thường có một nghề, trong khi tôi có hai, đó là
công việc đi theo cách mạng và công việc của một nhà báo.
Hai nghề này thường đối nghịch nhau, nhưng cũng rất giống
nhau. Công việc tình báo bao gồm chuyện thu thập tin tức,
phân tích, và bo bo giữ chặt nó, giống như mèo dấu phân
vậy. Trong khi đó, người ký giả thâu lượm tin tức, phân
giải ,và rồi công bố nó ra với thế giới."
Là một điệp viên tay tư làm thêm
cho Phòng nhì Pháp, làm việc cho tình báo nội địa Việt Nam
của người họ hàng và cơ quan bảo trợ CIA, và báo cáo về
những người Cộng sản điều khiển ông, Aån bắt đầu sống
bên bờ vực thẳm của ác mộng cá nhân, ông nói " Tôi không
bao giờ được nghỉ ngơi được một phút, làm gián điệp
thì trước sau gì anh cũng bị bắt, giống như con cá ở trong
hồ. Tôi phải chuẩn bị chuyện bị tra tấn. Ðó rất có
thể là số phận của tôi."
Có một sự an ủi hiếm hoi khi thấy
hầu hết những đồng nghiệp của Aån trong sở tình báo G5
cũng ở trong tình trạng khó khăn tương tự. Aån nói , " Khi
chúng tôi không dò xét theo dõi nhau, chúng tôi hút thuốc phiện
và chơi với nhau như bạn bè." Ông thú nhận đó là một chuyện
khó làm, " Nhưng anh không thể giết người trong mọi lúc.
Khi chiến tranh qua rồi, có những người mà tôi sẽ phải
sống với."
Chính Mai chí Thọ và Mười Hương
là những cán bộ lãnh đạo Aån, đã quyết định gửi Aån
sang Mỹ để được huấn luyện như một ký giả. Trong một
cuộc phỏng vấn với báo Thanh Niên, Mười Hương cho biết
ông nảy ra ý tưởng muốn biến Aån thành một nhà báo là
do nghĩ đến Hồ chí Minh, bản thân ông Hồ cũng đã làm việc
như một nhà báo. Ðó là một thứ vỏ bọc tuyệt hảo cho
một điệp viên, cho phép anh ta quyền tới lui những nơi bí
mật và những người cao cấp. Kế hoạch được những người
cao cấp nhất trong chính trị bộ chấp nhận, nhưng phải bỏ
ra vài năm mới thực hiện được. Cha của Aån đang hấp hối.
Aån được lãnh một học bổng của chính phủ nhưng rồi
bị hủy bỏ để trao cho một người khác có liên hệ tốt
hơn. Rồi visa của ông bị ngăn chận bởi những viên chức
hành chánh do người Pháp đào tạo, vốn không thích cái ý
tưởng gửi một học sinh Việt Nam đi Mỹ. Ðảng Cộng sản
gặp khó khăn trong chuyện kiếm cho đủ tiền đi. Cuối cùng
Mai chí Thọ cóp nhặt được 80000 đồng,và tỷ giá thời
bấy giờ vào khoảng 1000 dollars. Tiền đủ mua một vé máy
bay cho Aån và 4 bộ quần áo mới. Cha của Aån qua đời trên
tay Aån vào tháng 9 năm 1957. Một tháng sau, Aån đến Costa Mesa,
California, để ghi danh nhập học vào một trường đại học
cộng đồng địa phương.
Aån là một gián điệp Cộng sản
31 tuổi, là một viên chức quan thuế về hưu, và là một
chuyên viên chiến tranh tâm lý khi ông bắt đầu học tại
Ðại học Orange Coast, là một trường đại học được một
cố vấn Mỹ khuyến cáo. Ông có lẽ là người Việt Nam đầu
tiên sống ở quận Cam ( Orange county), ( Giờ nầy nó là nơi
ở của 150000 người Việt Nam). Ðược bạn bè gọi là Khổng
tử, ông ghi danh học những môn Khoa học chính trị, Chính
phủ Hoa kỳ, Kinh tế, Xã hội học, Tâm lý học, tiếng Tây
ban nha, và báo chí. Ông thường đi kèm với những sinh viên
nữ 18 tuổi cùng lớp ra biển và bỏ ra nhiều thì giờ để
làm tờ báo The Barnacle của trường, trong đó ông thỉnh thoảng
viết vài bài, như bài điểm phim cuốn phim " Người Mỹ trầm
lặng " ( The quiet American) – là cuốn sách đầu tiên chống
cộng của Graham Greene. Vì cho cuốn phim có những điều có
khả năng gây bối rối, ngộ nhận, Aån khuyến cáo là phim
" không nên chiếu ở Việt Nam."
Aån diễn tả hai năm sống ở Mỹ,
trong đó có cả thời gian làm việc nội trú ở hai tờ báo
Sacramento Bee và Liên Hiệp Quốc, là " thời gian duy nhất trong
đời mà ông không bị lo lắng, băn khoăn." ( Sự di chuyển
của ông ngang qua nước Mỹ được tài trợ bởi Tổ chức
Á châu, sau này mới được tiết lộ là một chiến tuyến
của CIA). Ông yêu nước Mỹ và yêu một người Mỹ tên Lee
Meyer, là một cô gái tóc vàng vốn là chủ bút và là người
dạy ông viết văn ở tờ báo The Barnacle. Ông nói, " Cô ta
biết tôi yêu cô, nhưng tôi không bao giờ nói với cô. Người
Việt Nam chúng tôi không bao giờ nói ra những điều chúng
tôi cảm thấy." Những năm nắng ấm của Aån tại California
lại là thời gian đen tối nhất của Việt Minh ở miền Nam,
là những người Cộng sản ở lại dưới vĩ tuyến 17 khi
Việt Nam bị chia đôi năm 1954. Vào năm 1959 có chừng 85% những
người chiến đấu phe Việt Minh, khoảng chừng 60000, bị giết
hay bị bắt. Aån nhận được một lá thư viết bằng mật
mã từ em của ông cho biết người lãnh đạo của ông là
Mười Hương đã bị bắt và bị tra tấn. Ông cũng biết thêm
là ông bị gọi về nhà vì Việt Minh – sớm được tái sinh
thành Việt Cộng – cuối cùng lao vào cuộc đấu tranh võ
tranh khởi đầu cho cuộc chiến tranh Ðông dương lần thứ
hai.
Aån nhớ rõ ràng lúc ông đứng
dưới cầu Golden Gate vào tháng 10 năm 1959, băn khoăn không
biết ông sẽ làm gì kế tiếp. Trong túi áo của ông là một
vé máy bay về Sài Gòn. Phía dưới ông đứng, nơi phía bến
cảng dâng lên sừng sững một cái tháp cô độc lẻ loi và
những tường xi măng của nhà tù ngoài đảo nổi tiếng Alcatraz.
Ông lo sợ rằng đó là dấu hiệu của số phận đang chờ
ông nếu ông trở về Việt Nam- những năm tù và tra tấn trong
những chuồng cọp của nhà tù Côn Ðảo quỷ quái. Aån đã
được mời dạy Việt ngữ ở một trường sinh ngữ quân
đội tại Monterey. Ông có thể du lịch tới Cuba rồi tìm cách
về lại Việt Nam qua ngả Nga xô. Ông có thể sống lưu vong
ở Pháp. Cuối cùng, vì Aån là người yêu nước trung thành,
người sỡ hữu 4 bộ quần áo thuộc về Ðảng Cộng sản
Việt Nam và nên về với nhân dân là chính đáng, ông lên
máy bay và bay về Sài Gòn để về nhà.
Ông nói, " Tôi có hai tình yêu giống
như Josephine Baker vậy. Tôi yêu đất nước tôi, và tôi yêu
nước Mỹ. Khi cuộc chiến qua đi, tôi muốn họ xích lại
với nhau."
Khi trở về Sài Gòn rồi, Aån lo
sợ quá nên trốn trong nhà ông cả một tháng trời. Rồi trong
một phút mạnh dạn, ông dùng những liên hệ gia đình để
gọi cho Trần kim Tuyến nhờ giúp đỡ. Tuyến vốn là một
y sĩ quân đội, nhân vật nhỏ bé lỗi lạc này đang nắm
ngành tình báo Việt Nam cho Tổng thống Ngô đình Diệm và
người em Ngô đình Nhu. Mạng lưới rộng lớn do CIA bảo trợ
này gồm những gián điệp và những lực lượng quân sự
bí mật hoạt động ngoài nội các của tổng thống dưới
một cái tên hiền lành là Ban nghiên cứu chính trị, văn hóa
và xã hội. Nếu Tuyến mướn ông, Aån nghĩ rằng ông sẽ
an toàn, ít nhất là không bị bắt trong lúc này.
Tuyến giao cho Aån trách nhiệm trông
coi những ký giả Việt làm việc ở ngoại quốc cho Việt
Tấn Xã, là cơ quan tin tức của Việt Nam. Nhiều người trong
bọn họ không được huấn luyện gì trong nghề, chưa bao giờ
tường thuật một câu chuyện như là một ký giả. Aån ra
lệnh cho họ viết một tuần một câu chuyện. Họ than phiền
với Tuyến, nói rằng nghề làm báo sẽ xen lấn vào công việc
gián điệp của họ ï – đó mới là công việc thật sự
của họ. Ðể hỗ trợ Aån, Tuyến chỉ thị những nhân viên
ở ngoại quốc của ông phải " làm việc nghiêm chỉnh" và
bắt đầu tường thuật những câu chuyện giống như " nhà
báo chuyên nghiệp " Aån.
Tuyến mất đi quyền lực sau một
cuộc đảo chánh thất bại, và Aån dời đi từ Việt Tấn
Xã tới Reuter và từ đó đến báo Time. Ðược công nhận
là một ký giả chịu khó làm việc nhất trong thành phố,
lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ những bạn đồng nghiệp
với những ý kiến đầy ắp tin tức hay kể những chuyện
vặt. Aån đưa tin tức để có thể nhận nó. Aån diễn tả
sự tương tự giữa nhà báo và gián điệp với nhà văn Nguyễn
thị Ngọc Hải như sau, " Nguồn sống của họ là tin tức,
tài liệu. Giống như chim phải cho chúng ăn thì chúng mới
hót."
" Tôi có tất cả những nguồn tin
từ quân đội, tình báo, mật vụ. Những người chỉ huy của
nhiều ngành trong quân đội, những viên chức của lực lượng
đặc biệt, tất cả họ đều giúp tôi." Ðể có thể đổi
lại nguồn tin tức liên tục, Aån cho những người báo tin
Nam Việt Nam những tin tức giống như tin ông đưa cho phía
Cộng sản của ông. Aån nói tiếp, " Chúng tôi thảo luận
về những tài liệu đó, trong khi phía Nam Việt Nam cố gắng
tìm hiểu chúng có nghĩa gì. Họ có vấn đề. Họ làm sao
để đối phó với người Mỹ đây? " Rồi Aån quay ngược
và khuyến cáo người Mỹ làm thế nào để đối phó với
người Việt. Ðây là một trò chơi tin cậy cao cấp, với
cái chết treo lơ lững trên đầu nếu ông bị khám phá là
đã chụp những kế hoạch chiến lược và những báo cáo
tình báo được đưa lén cho ông bởi những nguồn từ những
người miền Nam và người Mỹ.
Aån làm việc thâu đêm để chụp
những tài liệu này. Rồi những cuộn phim của ông được
ngụy trang giống như nem Ninh Hòa, là những miếng thịt heo
nướng bọc bởi bánh tráng, hay dấu trong bụng cá đã bắt
đầu thối rữa. Nhiều cá và nem chất vào trong những rỗ
giống như đồ cúng ở những đám tang Phật giáo. Vào buổi
sáng, Aån dẫn con chó bẹc-giê Ðức tới sân đua ngựa, ông
sẽ đặt những gói nem vào trong những tổ chim trống trải
treo cao trên cây.Nếu hàng gửi đi quá lớn,ông dấu những
cuốn phim dưới tấm bia mà ông làm bộ như ngôi mộ là của
người thân trong gia đình. Ðôi khi vợ Aån theo ông cách một
khoảng xa. Nếu ông bị bắt, bà sẽ báo cho những người
giao liên mang hàng biết.
Aån dùng hộp thư sống ( người
trao cho tài liệu cho người), hộp thư chết ( chôn tài liệu
ở một nơi bí mật chờ người đến lấy ), giao liên và
máy truyền tin vô tuyến để nối kết chuyển giao tài liệu
của ông tới Trung ương Ðảng miền Nam rồi chuyển về bộ
chỉ huy ở Bắc Việt Nam, Aån được hàng tá nhân viên tình
báo bộ đội hỗ trợ, đó là những người được cắt cử
thay mặt cho ông làm việc. Trong số 47 giao liên có nhiệm vụ
mang tài liệu của ông ra khỏi Sài gòn, có 27 người bị bắt
và giết. Aån nói, " Có những lúc trước khi tôi ra đi làm
công tác, vợ tôi và tôi đồng ý rằng, nếu tôi bị bắt,
thật là tốt đẹp nhất nếu tôi bị giết." Aån nói với
Ngọc Hải, " Thật là kinh khủng nếu họ tra tấn tôi để
khai thác tin tức và điều ấy sẽ làm cho nhiều mạng người
nguy hiểm. Thỉnh thoảng có khi nguy hiểm đến độ trong khi
tay tôi sẵn sàng thì chân tôi run lên không kiểm soát được.
Dù tôi cố gắng giữ bình tĩnh, sự phản xạ tự nhiên của
cơ thể tôi làm tôi run lên vì sợ."
Nhân viên hỏi cung của CIA Frank
Snepp, tác giả của cuốn sách " Khoảng cách thích đáng " (
Decent Interval) nói về sự sụp đổ hỗn loạn của Sài Gòn
năm 1975 nói, " Aån có một tầm quan trọng tột bậc đối
với Cộng sản, vì không những cung cấp tin cho miền Bắc,
mà còn chứng thực những gì họ nhận từ nhiều nguồn khác
. Aån nắm được đường dây mối nhợ về tình báo chiến
lược. Ðó là điều quá rõ ràng. Nhưng không ai làm một cuộc
giảo nghiệm tử thi ngược dòng về những tổn thất do ông
đã làm. Cơ quan tình báo không còn tinh thần bụng dạ nào
về chuyện đó. " Snepp đề nghị có một nguồn tìm hiểu
về hoạt động tình báo của Aån là ký giả báo New Yorker
tên Robert Shaplen. Là bạn và là người hợp tác với nhau,
Aån và Shaplen trải qua hàng giờ nói chuyện kín trong phòng
của Shaplen ở tầng thứ 3 khách sạn Continental Palace, đôi
khi họ bước ra ngoài ban công để tránh bị nghe trộm. Snepp
nói tiếp, " Shaplen là một trong những ký giả được chúng
tôi ưa thích. Chúng tôi được lệnh từ cấp trên cho ông
được tiếp cận với tòa đại sứ và tình báo cao cấp một
cách không thể tưởng tượng."" Chúng tôi ước lượng có
chừng 14000 gián điệp hoạt động ở Nam Việt Nam. Cộng sản
đã thâm nhập vào được ngay chính trái tim của kẻ thù.
Ðây là một chính phủ có nhiều lỗ hổng như miếng phó-mát
Thụy sĩ." . Diễn tả những bước ngoặt trong cuộc chiến,như
những hội đàm bí mật của Henry Kissinger ở Paris và quyết
định của chính phủ Nam Việt Nam năm 1975 bỏ những vị trí
ở Cao nguyên,Snepp nói, " Phe Cộng sản biết những gì xảy
ra trước Tòa đại sứ Mỹ"
Snepp tiếp tục, " Chúng ta không
hiểu nổi mức độ tham nhũng trong chính phủ Nam Việt Nam.
Chúng ta không muốn nhìn vấn đề tham nhũng hay đạo đức.
Chúng ta không muốn biết là chúng ta đang hỗ trợ một con
ngựa sai. Ðiều này cũng đúng ở Iran hay Iraq hay bất cứ
đâu khác là nơi mà chúng ta hỗ trợ những chính phủ tham
nhũng. Dĩ nhiên Aån muốn biết rất nhiều về những điều
này. Ông ta biết dưới những điều kiện này thì chương
trình Việt nam hóa chiến tranh ( vietnamization) sẽ không thực
hiện được."
Những cuộc đối thoại hàng ngày
của tôi với Aån bắt đầu đi vào khuôn khổ. Tôi tới cổng
nhà ông vào buổi sáng và kéo chuông. Aån lê chân xuống lối
đi và bắt tay tôi bằng những ngón tay lòi xương của ông.
Chúng tôi đi qua vườn, ngắm nghía những con gà đá và những
con chim hót của ông, chào 2 con chó nhỏ ông cột gần cổng
chính, và rồi ngồi hàng giờ nói chuyện trong phòng nghỉ
của ông. Giọng ông thấp, còn nhỏ hơn tiếng thì thầm trong
khi tiếng xe cộ ào ào phía bên ngoài cổng. Thời gian trôi
qua, tôi di chuyển từ ghế dài đến ngồi ở cái ghế cạnh
ông. Giả vờ điều chỉnh cái micrôphôn ở cổ họng ông,
tôi cúi người để tai xuống phía môi ông. Giống như một
Jean-Paul Sartre, vốn thích bàn cãi chuyện chính trị bên tách
cà phê tại quán Café de Flore, Aån hiếm khi thú nhận là làm
cái gì hơn trong chiến tranh ngoài chuyện quan sát và phân tích
những biến cố. Nhưng chúng tôi biết trong vài trường hợp
ông có ra phía sau màn che để điều chỉnh chuyện xảy ra.
Một trong những chuyện là trận đánh Aáp Bắc năm 1963, là
trận đánh dấu một bước ngoặt trong việc mở rộng chiến
tranh Việt Nam. Ðây là lần đầu tiên, Việt Cộng dùng sức
mạnh của một tiểu đoàn để tấn công và thắng một trận
quyết định quân miền Nam được hỗ trợ bởi trực thăng
Mỹ, xe thiết giáp,và đạn dược. Có hai bộ đội Việt Cộng
được tặng huy chương quân đội cao nhất của Bắc Việt.
Một là người chỉ huy của lực lượng Cộng sản. Người
kia là Phạm xuân Aån, vốn là người bày ra kế hoạch chiến
thuật đưa đến chiến thắng.
Aån lại nổi bật lên vào dịp
Tổng tiến công vào dịp tết, một cuộc tấn công đồng
thời vào hơn 100 thị xã Nam Việt Nam và những mục tiêu khác
trong dịp ngưng chiến vào đầu năm 1968. Chuyện chuẩn bị
kế hoạch tấn công đã được chuẩn bị từ 2 năm trước,
khi người cầm đầu mạng lưới tình báo của Aån là một
đại tá có bí danh là Tư Cang, rời rừng vào Sài Gòn. Tư
Cang là một thứ dân chơi nổi tiếng, táo bạo và lịch sự,
hòa nhã, là người có thể sử dụng một cặp súng K-54 và
có thể bắn vào một mục tiêu cách xa 50m dù với tay trái
hay tay phải. Là một học sinh danh dự của trường lycée Pháp
ở Sài Gòn, Tư Cang đã sống dưới đất trong những địa
đạo Củ Chi quá nhiều năm đến nỗi khi ông vào lại Sài
Gòn, ông quên cách mở cửa xe hơi. Aån thay đôi dép râu của
Tư Cang bằng đôi giầy mới và mua cho ông một bộ quần áo.
Rồi sau đó hai người đi xe quanh thành phố trên cái xe Renault
4Cv nhỏ của Aån như là những người bạn cũ.
Giả bộ như đang nói chuyện về
chó và gà đá, họ ấn định mục tiêu cho cuộc tấn công
Tết. Tư Cang đề nghị đánh vào Ty Ngân Khố để lấy một
số tiền. Aån nói cho ông biết Ty Ngân Khố là một mục tiêu
sai – Aån nói " Họ chỉ phát lương ở đó thôi." Aån nói
một mục tiêu tốt hơn là tòa án, nơi có nhiều vàng được
giữ như là bằng chứng của những bọn ăn trộm và buôn
lậu. Ông khuyến cáo Tư Cang hãy mang theo một cây đuốc đốt
bằng khí acetylene.
Tư Cang chọn ra 20 mục tiêu ở Sài
Gòn, trong đó bao gồm Dinh Ðộc Lập và Tòa Ðại sứ Mỹ.
Ông đích thân điều động trận tấn công vào Dinh Ðộc Lập,
nơi mà 15 trong số 17 thành viên trong đội của ông bị bắn
chết tươi. Bản thân ông thoát trong đường tơ kẽ tóc vào
một căn nhà an toàn kế cận, và ông trốn với 2 cây súng
kê vào đầu, thề sẽ tự sát còn hơn để bị bắt. Ngày
hôm sau, ông và Aån lại lái xe đi vòng vòng thành phố, lần
này để đếm xác những lính Việt Cộng bị chết trong cuộc
tấn công. ( Ðể tưởng nhớ đến vai trò của 2 người này
đã làm trong cuộc chiến đấu, những cây súng của Tư Cang
và chiếc xe Renault màu xanh được trưng bày trong viện bảo
tàng quân đội tại Bộ chỉ huy quân đội ở Hà Nội.)
Vào cuối mùa xuân đó, trong một
cuộc tấn công được gọi là tiểu tấn công Tết, phe Việt
Cộng bắt đầu pháo bừa bãi vào Sài Gòn, làm nổ tung nhiều
cao ốc và giết một số nhiều thường dân. Aån gửi một
mẫu ghi chúù ra ngoài bưng, " Tôi bảo họ hãy ngưng pháo kích
đi. Nó không có mục đích quân sự gì cả và làm cho dân
chúng giận ghét, xa lánh."
" Kế tiếp xảy ra ra sao?" Tôi hỏi.
" Chuyện pháo kích chấm dứt."
Năm 1970, một phóng viên bạn cùng
làm báo Time của Aån là Robert Sam Anson bị quân Bắc Việt
và quân Khmer đỏ bắt ở Cam bốt, nơi đó có ít nhất 25
ký giả khác đã chết hay mất tích. Sau khi vợ của Anson cầu
cứu với Aån giúp bà, ông bí mật dàn xếp việc thả Anson
ra. Cũng mất chừng 17 năm sau Anson mới biết được câu chuyện
Aån nhúng tay vào cứu ông. Khi Anson gặp lại Aån năm 1987,
ông hỏi Aån, " Tại sao anh cứu tôi, nếu anh là kẻ thù của
đất nước tôi?" Aån đáp, " Vâng, tôi là kẻ thù của đất
nước anh, nhưng anh là bạn tôi ". Cho tới ngày nay, Anson làm
việc trên một cái bàn có để hình Aån.
Aån lấy được một huy chương
chiến công quân đội cuối cùng về vai trò ông làm trong chiến
dịch Hồ chí Minh, được chấm dứt với sự kiện Cộng sản
chiếm Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Hành động cuối
cùng của ông lại là một việc nghiã hiệp giúp bạn. Vài
giờ trước khi thành phố rơi vào tay Cộng sản, Aån sắp
xếp cho sự trốn thoát của người đỡ đầu của ông là
trùm tình báo mật vụ Nam Việt Nam tên Trần kim Tuyến. Trong
một bức hình nổi tiếng chiếu cảnh trực thăng bay đi từ
một nóc nhà mà nhiều người tưởng lầm là tòa đại sứ
Mỹ ( thật ra là một nhà an toàn của CIA cách đó 2 khu phố
), người cuối cùng leo lên cái thang lung lay khập khiễng chính
là Trần kim Tuyến. Người đứng bên ngoài vẫy tay chào giã
biệt là Phạm xuân Aån.
Khi những đồng nghiệp cũ của
Aån nghe chuyện của ông lần đầu tiên – từ những tin đồn
bắt đầu lan ra trong thập niên 80 – họ nhớ lại như in
một cảnh tượng, một sự phát giác lúc đó, đột nhiên
được giải thích bằng tin tức. Người xếp của Aån tại
Reuters là Nich Turner, xác nhận sự nghi ngờ của ông về những
sự vắng mặt không báo cáo của Aån từ văn phòng. Ký giả
H.D.S. Greenway, được bạn bè biết đến với cái tên David,
đột nhiên hiểu tại sao người đồng nghiệp cũ của ông
ở báo Time biết rõ hơn ông về cuộc hành quân 719, là một
nỗ lực đầy tai họa của phía quân đội Nam Việt Nam tấn
công vào Lào năm 1971.
Greenway nói với tôi, " Tôi đã lên
vùng biên giới gần Khe Sanh, nhìn những binh sĩ bị thương
nặng rút về từ Lào. Tôi diễn tả họ như là những người
sống sót từ đội quân dẫn đến trận tấn công. " Không",
Aån nói, không một chút do dự, " Ðội quân đầu tiên bị
xóa sổ. Những gì anh thấy là những người sống sót từ
nỗ lực để cứu đội quân, vốn cũng thất bại luôn." Sau
này, khi nghĩ lại, tôi thấy Aån có vẻ nắm vững tin tức
một cách kỳ lạ. Ðó là loại sáng suốt anh chỉ có được
từ chuyện biết rõ cả hai bên trong trận chiến làm gì."
Ký giả Nayan Chanda lúc ấy đang
làm việc cho hãng tin Reuters và báo Far Eastern Economic Review,
nhớ lại hình ảnh Aån đứng phía trước Dinh Ðộc Lập vào
ngày cuối cùng của cuộc chiến, lúc chiếc xe tăng mang số
843 húc sập cái cổng sắt. Chanda nói, " Có nụ cười kỳ
quái, khác lạ nở trên khuôn mặt ông. Tôi cảm thấy có cái
gì đó quái lạ. Vợ và con ông đã được máy bay chở ra
khỏi nước, và ông dường như không quan tâm gì đến thế
giới ." Sau này Chanda mới biết Aån đang ăn mừng chiến thắng
của Cộng sản, đó là phe mà ông đã làm việc trong ba mươi
năm.
Bỏ qua cái nhìn thoáng nhỏ nhặt
của Chanda, Aån giữ vỏ bọc kín sau 1975. Ông nói, " Ðó là
một thời điểm nguy hiểm cho tôi. Thật là dễ dàng cho ai
đó cho vào đầu tôi một viên đạn. Tất cả những gì tôi
có thể làm là đợi người nào đó trong rừng ra và nhận
diện tôi."
Aån và mẹ ông dọn vào khách sạn
Continental. Ðầu tiên họ sống trong phòng cũ của Robert Shaplen.
Rồi Aån dọn vào trụ sở hai phòng của báo Time. Ông thường
bị công an gọi lên thẩm vấn, cho đến khi những cán bộ
tình báo đứng ra can thiệp. Mọi người bắt đầu nghi ông
là " người của cách mạng " khi họ thấy ông lái xe đạp
đến nhà kho chứa gạo quân đội và đem về những bao gạo
và thịt treo trên ghi đông xe đạp của ông. Họ cho ông là
thứ " cách mạng 30 tháng 4 ", tức là là người nhảy vào
tham gia phía Cộng sản sau khi Sài Gòn sụp đổ.
Ngay cả những cán bộ quân sự
cao cấp như Bùi Tín cũng không biết được câu chuyện của
Aån. Tín là một đại tá của Bắc Việt Nam chấp nhận sự
đầu hàng của chính phủ Nam Việt Nam. Ông đang làm việc
với tư cách là chủ bút tờ báo Quân Ðội Nhân Dân, là tờ
báo của Quân Ðội miền Bắc, khi ông đi trên một chiếc
xe tăng vào Dinh Ðộc Lập vào ngày 30 tháng 4. Bất ngờ trở
thành cán bộ cấp cao nhất ở đó, Tín chấp nhận sự đầu
hàng của chính phủ Nam Việt Nam và ngồi ở bàn làm việc
của tổng thống để viết bài về cho báo ông. Giống như
nhiều ký giả mới tới Sài Gòn, chuyện kế tiếp ông làm
là đi tìm Phạm xuân Aån. Tín nói, " Vào buổi sáng ngày 1
tháng 5, tôi đến gặp Aån tại văn phòng ông ở khách sạn
Continental. Vào lúc đó tôi không có ý nghĩ gì về chuyện
ông ta là một người điệp báo. Tất cả những gì ông ta
nói với tôi ông là phóng viên làm việc cho báo Time và Life.
Ông giới thiệu tôi với tất cả những ký giả trong thành
phố, và tôi giúp họ gửi những bài tường thuật ra nước
ngoài. Ba tháng sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi vẫn
không biết Aån là một gián điệp. "
Có những dấu hiệu cho thấy có
chuyện tranh cãi trong hệ thống quyền lực về Aån – Sự
đọ sức xảy ra giữa những cán bộ tình báo quân sự muốn
gửi ông sang Mỹ đối nghịch với ý kiến của những cán
bộ trong bộ chính trị – những chuyện này chỉ được tiết
lộ cho Bùi Tín khi chính quyền tiến hành chuyện đem vợ và
những đứa con của Aån hồi hương về nước.Ði ngược lại
với dòng người tỵ nạn đang ồ ạt ra khỏi nước, gia đình
Aån trải qua 1 năm trong sự cố gắng tìm cách trở lại Việt
Nam bằng phương tiện là đường đi vòng ngang qua Paris, Mạc
tư khoa, và Hà nội. Lời công bố chính thức đầu tiên về
nhiệm vụ của Aån trong thời chiến xảy ra vào tháng 12 năm
1976, khi ông bay ra Hà nội như là một đại biểu quân đội
tại Ðại hội 4 của Ðảng. Bạn bè thấy ông đi dạo quanh
Hà nội trong bộ quân phục,là bộ áo quần lính ông bận
đầu tiên trong đời, đã sửng sốt khi thấy sự biến đổi
của một ký giả thành anh hùng lẫm liệt.
" Sau 1975, Sài Gòn biến thành thành
phố Hồ chí Minh, " Aån nói, về cái năm mà ông điều hành
văn phòng của báo Time, trước khi nó bị đóng cửa vào tháng
5, năm 1976. " Sự kiểm duyệt thật quá khắt khe, nó giống
như những ngày xưa thời kỳ Graham Greene. Tôi không viết nhiều
bài cho lắm, vì tôi không biết làm sao để tránh sự kiểm
duyệt. Tôi chơi gà đá và cá đá cho qua ngày."
Có hàng trăm ngàn người Việt biến
mất vào những trại tù và trại lao động, Aån cũng bị đưa
vào " cải tạo". Vào tháng 8 năm 1978, ông bị gửi ra Hà nội
trong 10 tháng để cải tạo tư tưởng tại Viện chính trị
thuộc bộ quốc phòng, một trại huấn luyện tư tưởng Mác
xít- Mao ít cho những cán bộ trung và cao cấp. Aån nói, " Tôi
đã sống quá lâu với quân thù. Họ gửi tôi đi để được
tái lập sự tuần hoàn."
Vốn lúc nào cũng là một học sinh
dở, Aån tốt nghiệp vào hàng gần chót trong lớp ông." Họ
không thích những chuyện cười của tôi." Aån nói đến những
người miền Bắc khắc khổ rán sức dạy ông nói về con
người " mới " Việt Nam, đầy những danh từ chính trị vay
mượn của Trung quốc. Aån thấm mệt với cái mưa lạnh thấu
xương của mùa đông Hà nội, ông ngủ trên một cái giường
bằng gỗ và nệm bằng bông. " Tôi bận một cái áo lạnh
bằng bông Trung quốc làm tôi giống như một xác ướp vậy.
Tôi xin một cái áo ấm của Nga. Nhưng tôi vẫn lạnh, cho nên
tôi quay lại và hỏi loại áo ấm " một trăm mười một độ
" – là 3 cô gái, một cô nằm bên phải, một cô bên trái
và một cô trên người tôi.
Aån nói về những người tái giáo
dục chính trị cho ông như sau, " Họ không thích tôi chút nào
cả. Nhưng tôi chưa làm lỗi lầm gì quá lớn để bị bắn."
Năm 1990, Ðại tá Aån được phong
lên tướng. Vào thời đó, Việt Nam bắt đầu áp dụng chính
sách đổi mới, là " chính sách cải tiến " mở cửa đất
nước ra với phương Tây. Cho dù những người Cộng sản có
công nhận những công lao của Aån, xấu hổ trước cảnh thiếu
thốn xác xơ mà ông sống, hay vận động giữ ông bằng một
sợi dây chặt hơn được phơi bày thể hiện ra công khai.
Như thường lệ Aån giải thích sự thăng chức của ông với
sự diễu cợt. Khi những ký giả ngoại quốc bắt đầu trở
lại Việt Nam, người ta sẽ tìm gặp" Tướng Givral " Ðể
tránh sự bẽ bàng, nhà nước quyết định thăng cấp cho ông
để phù hợp với danh hiệu của ông.
Vào năm 1997, chính phủ Việt Nam
từ chối không cho phép Aån thăm viếng Hoa Kỳ để tham dự
một hội nghị mà ông được mời như một khách đặc biệt,
và sự từ chối tiếp tục cho đến tháng 3 năm 2002, khi ông
tướng 74 tuổi mang bệnh khí thủng được cho phép nghỉ hưu.
Ông nói, " Họ muốn kiểm soát tôi. Ðó là lý do tại sao họ
giữ tôi trong quân đội lâu đến như vậy. Tôi phát biểu
lung tung. Họ muốn bịt miệng tôi." Ðó có thể là một lối
giải thích, nhưng đối với Aån thì lúc nào cũng có một
hình bóng khác được đem ra thảo luận. Chúng ta đều biết
rằng, ít nhất là 27 năm sau khi kết thúc cuộc chiến, Aån
vẫn còn là một thành viên hoạt động trong mạng lưới tình
báo Việt Nam.
Một vài đồng nghiệp cũ của Aån
tố cáo ông là làm" tay sai cho thế lực" mà công việc là
để chế biến tin tức và bày đặt ra những câu chuyện trên
báo Time. David Greenway, người rời báo Time năm 1973 và cuối
cùng trở thành chủ bút báo Boston Globe nói, " Chúng tôi nghĩ
đây là chuyện nực cười. Những chủ bút ở báo Time không
lắng nghe chúng tôi. Không có ký giả nào ở báo Time chế
biến tin tức. Ông ta không có sự may mắn nào hơn số người
còn lại của chúng tôi."
Chuyện thêu dệt những câu chuyện
là chuyện xa vời, Richard Pyle vốn là giám đốc văn phòng
của hãng tin A.P nói, " Aån cứu báo Time khỏi sự bẽ bàng
bằng cách không cho in những câu chuyện không thật. Ðây là
sự mưu mẹo tài tình của ông. Bằng cách không tiết lộ
làm thế nào ông biết những gì ông biết, ông cho bạn biết
bạn có đi đúng đường hay không."
Theo cựu phóng viên báo Time Zalin
Grant, Aån bị tố cáo là " Trường hợp đầu tiên của một
điệp viên Cộng sản xuất hiện trong bản danh sách ban biên
tập của một cơ sở xuất bản lớn của Hoa Kỳ như là một
phóng viên." Murry Gart được ghi nhận là đã nói câu này sau
khi ông biết rõ chuyện Aån, " Aån là một thằng chó đẻ.
Tôi muốn giết hắn."
Một ký giả khác cũng phê phán
Aån, tuy bởi nhiều lý do khác nhau, đó là Peter Arnett. Aån
mướn một cái nhà từ người bà con bên vợ của Arnett, và
cả hai đều gặp nhau thường xuyên ở Givral để trao đổi
chuyện trò. Arnett nói, " Ðó vẫn còn là một điểm mới đối
với tôi. Dù tôi hiểu ông ta là một người Việt Nam yêu
nước, nhưng tôi vẫn nghĩ là báo chí đã bị phản bội.
Có nhiều lời tố cáo trong suốt cuộc chiến là chúng ta đã
bị Cộng sản xâm nhập. Những gì ông ta làm đã cho phép
phe hữu nêu lên và đập vào mắt chúng ta. Trong chừng một
năm, tôi cho nó là chuyện của mình. Rồi tôi quyết định
nó là chuyện của ông ta. "
Với một vài ngoại lệ này –
và ngay cả Arnett chấm dứt cuộc đối thoại với chúng tôi
bằng cách ca ngợi Aån là " một người dũng cảm, táo bạo
"- những bạn bè đồng nghiệp của Aån đoàn kết hỗ trợ
ông. Frank McCulloch, người đứng đầu văn phòng Á châu của
báo Time và là người mướn Aån làm việc ở văn phòng Sài
Gòn với số lương 75 dollars một tuần, nói " Tôi có tức
giận không khi tôi biết chuyện về Aån ? Chắc chắn là không.
Tôi nghĩ đó là đất nước của ông. Nếu tình trạng ngược
lại, tôi chắc sẽ làm giống như vậy."
McCulloch, hiện nay đã nghỉ hưu
sau khi để lại một sự nghiệp xuất sắc là chủ bút điều
hành của báo Los Angeles Times, The Sacramento Bee, và nhiều tờ
báo khác, nói tiếp, " Aån là đồng nghiệp và là một ký
giả tài ba. Aån có một hiểu biết sâu sắc về chính trị
Việt Nam, và ông chính xác một cách đặc biệt. " McCulloch
bật lên cười, " Dĩ nhiên là ông chính xác, hãy nhìn những
nguồn lấy tin của ông ! "
McCulloch nhớ về Aån với lòng yêu
mến và kính trọng lớn lao, và ông nói thật là " một sự
vui sướng lớn lao " vào năm 1990, đã tổ chức ra một quỹ
quyên góp thâu được 32000 dollars để gửi cho người con trai
lớn nhất của Aån là Phạm xuân Hoàng An, được mọi người
biết đến với cái tên An trẻ, đi học ngành Báo chí tại
trường Ðại học North Carolina. Danh sách của những người
đóng góp cho quỹ đọc giống như Tự điển danh nhân Who ‘s
Who của những ký giả tường trình về chiến tranh Việt Nam.
( Hoàng An tốt nghiệp ngành Luật từ Ðại học Duke năm 2002,
hiện nay làm việc cho Bộ ngoại giao Việt Nam.)
Người xếp cũ của Aån là Mai chí
Thọ sau chiến tranh đã nổi bật lên là một trong những gương
mặt có quyền lực mạnh nhất của Việt Nam, phục vụ với
tư cách là người cầm đầu Ðảng bộ chỉ huy Nam Việt Nam
và là bộ trưởng bộ nội vụ. Tại ngôi nhà villa của Thọ
– là tòa Ðại sứ Thụy sĩ cũ – tôi được dẫn vào một
phòng lỗng lẫy ở tầng trệt, được trang hoàng đầy bàn
ghế làm bằng gỗ đào hoa tâm và những tượng đẽo từ
đá thâu thập từ những địa danh cách mạng nổi tiếng.
Phần chiếm ưu thế ở phía xa cuối phòng là một bàn thờ
được trang hoàng bởi hoa, những mâm trái cây và 4 cái ảnh
to bằng bàn tay của song thân Mai chí Thọ và hai người anh
nổi tiếng : Ðinh đức Thiện, là tướng hai sao giúp xây dựng
đường mòn Hồ chí Minh và Lê đức Thọ, là người lãnh
giải Nobel hòa bình và là người đưa Henry Kissiger vào tình
thế khó khăn ở Hòa đàm Paris.
Mai chí Thọ đứng trước bàn thờ,
cầm một bó nhang nhẹ trong tay và vái trước hình của cha
ông. Hôm nay là ngày mất của cha ông, theo tục lệ đó không
phải là ngày tiếp người lạ, nhưng Thọ biết thời gian
tôi ở lại trong nước ngắn ngủi. Ông cắm nhang vào trên
bàn thờ và đến bắt tay tôi. Ông bận một quần xám và
một áo tím, ông trông bệ vệ với mái tóc bạc trắng và
có cái nhìn thẳng chăm chú. Thọ cao to hơn một người Việt
Nam bình thường, có một đường hầm thật rộng dành cho
ông trong suốt 10 năm ông sống dưới địa đạo ở Củ Chi.
Ðược rèn luyện từ những nhà
tù nổi tiếng ở Việt Nam, bao gồm cả Hỏa Lò, sau được
biết đến với cái tên khách sạn Hilton ở Hà Nội, nơi mà
John McCain đã trải qua 5 năm và nhà tù ngoài biển Côn đảo,
theo lời Thọ kể là nơi 2 phần 3 bạn tù của ông đã chết
trước khi ông được thả vào năm 1945, Tướng Thọ là một
người dày dạn trong chiến tranh, ngày hôm nay là một người
chủ nhà nhã nhặn, niềm nở đón tiếp người bạn Mỹ với
trà và trái cây. Ông nói đến nỗ lực kiếm tiền của ông
để gửi Aån sang Mỹ năm 1957, " Ðó là một việc làm khó
nhọc, nhưng chúng tôi phải làm nó. Ðảng có rất ít tiền,
nhưng chúng tôi nghĩ đó là nỗ lực đáng giá – Aån là người
đầu tiên chúng tôi gửi đi Mỹ – để học văn hóa của
loại người thay Pháp và trở thành kẻ thù của chúng tôi."
Ông nói thêm, " Aån là một người
tốt nhất cho công việc. Ðó là một hành động táo bạo
lớn cho chúng tôi."
Tôi hỏi Thọ về một cơ hội khác
mà Việt Nam đã bỏ lỡ – đó là cơ hội gửi Aån đi Mỹ
một lần nữa năm 1975. Ông nhìn chằm chằm vào tôi bằng
cặp kính có gọng thép. " Tôi không biết làm sao mà câu chuyện
lan ra ngoài," ông nói, rõ ràng tỏ ý hối tiếc về chuyện
tôi biết đầy đủ để hỏi câu hỏi đó. " Anh ta sẽ tuyệt
vời nếu chúng tôi gửi anh ta đến Mỹ." Ðây là lời ám
chỉ duy nhất trong ý kiến của Thọ về chuyện này, trước
khi ông chuyển sang nói đường lối của Ðảng cho rằng Aån
đã chịu đủ những khó nhọc từ chuyện làm việc nhiều
năm ở hậu trường lãnh thổ quân thù và anh ta cần được
cho phép nghỉ hưu trong sự an bình."
Tôi biết trước khi tôi hỏi câu
hỏi kế tiếp này, sẽ không được trả lời, " Aån đã thực
sự làm gì cho ông ? "
Bộ trưởng Thọ mỉm cười và
mời tôi thêm một tách trà nữa, ông nói " Aån có những nguồn
tin tốt nhất và tiếp cận được những thông tin bí mật.
Anh ta nghe ngóng mọi chuyện không giống bất cứ ai ở Sài
Gòn. Nếu bạn muốn biết những gì thật sự xảy ra,Aån là
người nên hỏi. Sau chiến tranh, chúng tôi phong anh lên tướng
và anh hùng lực lượng võ trang nhân dân. Không cần cho ông
bất cứ chi tiết nào, điều đó thôi cũng đủ nói cho ông
biết sự quan trọng mà Aån đã làm cho đất nước anh."
Tôi bấm chuông để gặp Aån lần
cuối cùng. Tối hôm qua có cơn mưa phùn thổi từ hướng Ðông
và mưa rơi rả rích suốt sáng hôm nay. Giờ đây khi mưa rơi
xuống, phòng Aån phủ đầy hơi của những con chó ướt và
phân chim,và mắt cá của tôi trở thành một mảng đầy những
chấm đỏ và bắt đầu sưng lên bởi những vết cắn của
bọï chét. Vào khoảng giữa buổi sáng, không khí dày đặc
với mùi tiêu và rau rán rồi tan đi khi Aån bắt đầu nói
chuyện suốt giờ ăn trưa qua tới buổi chiều. May thay tôi
biết trước nên ăn một bữa ăn điểm tâm thịnh soạn trước
khi đến gặp ông.
Có những dòng nước chảy lai láng
làm vấy bẩn cái vườn và làm cho không khí mù sương. Tôi
quan tâm lo lắng đến những cuốn sách vàng ố của Aån, chúng
bị hoen ố bởi mốc meo và từ từ biến thành một đống
giấy bầy nhầy không thể đọc nổi. Aån thỉnh thoảng ngưng
lại để đứng lên lấy một trong những cuốn sách đó. Ông
kiếm một câu trích dẫn hay dúi vào tay tôi một một bản
văn để chứng thực cho sự phân tích của ông. Nhiều cuốn
sách của Aån được ký tặng, hoặc là do tác giả cuốn sách
hay là những người đến tặng sách cho ông. Về hai cuốn
sách " Sự lừa dối hào nhoáng " The bright shining lie" do tác
giả Neil Sheehan của Aån, một cuốn được chính tác giả
Sheehan đề tặng, cuốn kia do phóng viên CBS Morley Safer mang
biếu.
Vào buổi trưa khi mưa tạnh, Aån
đứng dậy lê bước đi qua nhà bếp ra khỏi cửa sau tiến
vào vườn. Ông mở ngăn hộc bàn chỉ cho tôi coi nhiều ảnh
cũ. Ông liệng bỏ nhiều ảnh mới hơn, chụp ông trong bộ
quân phục tướng lãnh đứng gần những thành viên trong chính
trị bộ. Aån nói, " Họ muốn xem tôi giống gì. Họ trải
qua cuộc chiến trong rừng và chưa bao giờ gặp tôi."
Tôi moi thấy trong hộc bàn một
huy chương bọc dây ruy-băng đỏ. Tôi hỏi," Cái gì đây?"
, ông nói, " Họ cứ đưa tôi những thứ này. Tôi không hiểu
thứ đó có ý nghĩa gì."
" Tôi sống trong bóng tối và chết
trong bóng tối," Ông nói, và đóng lại hộc bàn.
Ði trở lại nhà, chúng tôi một
lần nữa dừng lại trước thư viện của Aån. Ông nói, "
Tôi sẽ nhớ những thứ này khi tôi không còn ở quanh đây.
Tôi là người duy nhất quan tâm đến những câu chuyện cũ."
Tôi ngạc nhiên khi thấy sách sưu
tầm của Aån bao gồm những cuốn tiếng Anh và tiếng Pháp
và rất ít sách tiếng Việt. Ông nói, " Người ở đây không
thể viết tự do. Ðó là một lý do tôi không viết về cuộc
đời của tôi. Tôi sẽ gặp rắc rối nếu tôi nói về cuộc
đời tôi hay những gì tôi biết."
Ðôi khi tôi cảm thấy những cuốn
sách Aån dúi vào tay tôi giống như những thông điệp mật
mã, là những cách nói về những kinh nghiệm vẫn còn quá
nguy hiểm để đối diện trực tiếp. Cứ mỗi ngày thăm viếng,
Aån dường như chọn một văn bản hay một đoạn văn để
đan kết vào cuộc đối thoại của chúng tôi. Có ngày dùng
đến nhà văn Dickens có đoạn viết, " Ðó là thời gian tốt
nhất, đó là thời gian tệ hại nhất." Ngày khác, bài học
lấy từ cuốn sách " Những truyện hoang đường " của Jean
de La Fontaine. Aån thích thú với những truyện thú vật xử
sự như người, và người yêu thú vật.
Vào lần gặp cuối cùng, Aån chỉ
cho tôi một cuốn sách của Gérald Tongas, một nhà giáo dục
người Pháp có đến Hà Nội để giúp Cộng sản thành lập
một trường trung học sau chiến thắng của họ đối với
Pháp năm 1954. Theo Aån, Tongas cũng giống như Edward Lansdale,
có một con chó thông minh và một ngày nọ đã cứu ông khỏi
bị đầu độc chết.
Tôi nhìn thấy lời đề tặng ở
trên bìa ngoài cuốn sách Tongas được tặng cho Aån bởi người
đứng đầu Tổ chức Á châu ( the Asia Foundation), là tổ chức
đã bảo trợ cho những chuyến du hành của ông ở Mỹ. Cái
tên thôi dường như có hàm ý, " Tôi đã sống trong địa ngục
của Bắc Việt Nam, và tôi chọn Tự Do " ( J’ai Vésu dans l’Enfer
Communiste au Nord Viet Nam et J’ai Choisi la Liberté ") (" I haved
lived in the Communist Hell of North Viet Nam , and I have chosen Liberty
")
Aån nói, " Ðó là một cuốn sách
quan trọng, một cuốn sách thật. Anh phải đọc nó trước
khi anh viết cái gì."
THOMAS A . BASS
( Trần viết Ðại Hưng lược dịch
từ bài " The spy who loved us " của ký giả Thomas A. Bass đăng
trong tạp chí The New Yorker số ngày 23 tháng 5 năm 2005 )
Los Angeles, một chiều mùa đông
có nắng vàng héo úa, ủ rũ cuối tháng 12 năm 2006
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
( Muốn đọc tất cả những bài
của Trần viết Ðại Hưng thì vào www.nsvietnam.com,
rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng nằm ở bên trái ).
Phụ chú của người dịch
-
Những đảng viên như Aån được đi
học lớp " bồi dưỡng " do Ðảng tổ chức sau chiến tranh.
Nói chung chuyện đi học bồi dưỡng nhẹ nhàng, khác với
những trại cải tạo khắc nghiệt, độc ác,vô nhân đạo,
giết người dành cho những sĩ quan và công chức cao cấp ngã
ngựa của miền Nam. Những trại tù cải tạo này là những
địa ngục có thật. Cho nên nói loại đảng viên như Phạm
xuân Aån đi học cải tạo sau 1975 là không đúng, ông ta chỉ
được đi học bồi dưỡng nhẹ nhàng thôi
-
Trong bài, tác giả dùng chữ " sister"
nên không đoán được là em hay chị Phạm xuân Aån. Chữ "sister"
trong tiếng Anh chỉ em hay chị trong gia đình
(*) Khói ( smoke) đây là khói mù tức
là hỏa mù, nghĩa là những tin không thật. Gương ( mirror)
đây là gương trong, nghĩa là soi sự thật. Ðây là 2 thuật
ngữ của nghề gián điệp.
|