LƯƠNG
TÂM VÀ NHIỆM VỤ
Tuần rồi cộng đồng
Việt Nam và Ðại Hàn đã làm một cuộc tiếp đón long trọng
và cảm động dành cho thuyền trưởng Jeon Je Jong, một ân
nhân của 96 người tỵ nạn bằng thuyền Việt Nam. Thuyền
trưởng Jeon Je Jong đã ra tay cứu mạng sống cho nhóm người
tỵ nạn Việt này dù chính sách của chiếc tàu ông đang chỉ
huy không chấp nhận chuyện cứu người tỵ nạn. Nhưng vị
thuyền trưởng người Nam Hàn này đã quyết định hành động
theo trái tim của một con người có lương tâm. Ôâng quyết
định cứu nhóm người tỵ nạn Việt Nam khốn khổ nầy.
Và sau đó ông phải trả giá. Khi về bến, ông thuyền trưởng
này bị tòa kết án 30 tháng tù treo, bị thu hồi bằng lái
tàu và bị cho nghỉ việc vì hành động bác ái cứu người
này. Gia đình ông lâm vào cảnh khốn đốn. Nhưng người thuyền
trưởng giàu lòng nhân đạo này không bao giờ ân hận vì
hành động nghĩa hiệp cứu người này. Ôâng thực sự là
một con người đáng vinh danh và kính trọng. Trong sự mâu
thuẫn giữa lương tâm và nhiệm vụ, ông thuyền trưởng đáng
kính này đã theo tiếng gọi của lương tâm và cách hành xử
thấm đẫm tình người này đã làm cho cuộc đời nhiều điên
đảo xấu xa này bớt phần ô uế . Hành động hướng thượng
của ông cho thấy trong cuộc đời ích kỷ, xấu xa này vẫn
còn có một số người có lòng bác ái, từ tâm sẵn lòng
ra tay cứu giúp người khác trong cơn hoạn nạn, trầm luân
dù chuyện làm cao đẹp này nhiệm vụ không cho phép và sau
đó đưa đến những nguy hiểm và bất lợi cho sự nghiệp
bản thân và gia đình.
Câu chuyện vượt biển
này được một thuyền nhân trên tàu là ông Nguyễn hùng Cường
kể lại là sau khi chiếc thuyền dài 36 feet và rộng 13 feet
chở 96 người rời Việt Nam( trong đó có một phụ nữ mang
thai 8 tháng ), đi được 4 ngày thì tàu bị hư máy và một
cơn bão biển sắp ập đến. Mọi người trên tàu đều mong
mỏi những chiếc tàu lớn trên biển cứu vớt họ, nhưng
rồi có 50 tàu lớn đi qua mà chẳng có tàu nào đoái hoài
đến thân phận thảm thương và số phận nguy cấp của họ.
Chiếc tàu thứ 51 đi qua trong sự thất vọng cùng cực của
họ. Nhưng 10 phút sau thì có chuyện ngạc nhiên tột cùng xảy
ra. Chiếc tàu thứ 51 này quay trở lại để vớt họ lên tàu.
Khi lên tàu họ được phát quần áo khô và thực phẩm. Ðó
là ngày 13 tháng 11 năm 1985. Người thuyền trưởng là ông
Jeon Je Jong, đã làm việc 16 năm với hãng Koryo Wonyang Corp,
thuyền ông trên đường trở về nhà từ biển Aán độ dương
với 25 thủy thủ và 350 tấn cá thu ( tuna) vừa đánh bắt
được. Sau khi đưa những thuyền nhân Việt lên tàu, ông được
lệnh của thượng cấp phải bỏ tất cả thuyền nhân lại
trên biển. Các thủy thủ trên tàu đã sửa soạn một số
phao và dụng cụ cần thiết chuẩn bị thả thuyền nhân trở
lại trên biển. Nhưng đây là lúc vị thuyền trưởng đáng
kính Jeon Je Jong quyết định một chọn lựa khó khăn nhất
trong đời ông : chấp nhận cứu những người tỵ nạn khốn
khổ này dù chuyện làm này đi ngược với nhiệm vụ và đường
lối của công ty và ông sẽ bị trừng phạt lúc về bến.
Ôâng đã cứu được người và ông đã bị trừng phạt vì
hành động nhân đạo cứu người này ! Vì chuyện cứu người
ngược với luật lệ của công ty, sau khi về bến, ông bị
sa thải ngay lập tức và từ đó sống với tiền tiết kiệm
dành dụm trước đây và phụ giúp công ăn việc làm của
bạn bè thân.
Một trong những người
nhận ơn cứu tử là ông Nguyễn hùng Cường sau này định
cư ở Mỹ nhưng lúc nào trong lòng cũng mong gặp lại người
thuyền trưởng ân nhân đã cứu ông và gia đình trong giờ
phút thập tử nhất sinh. Sau này ở chỗ làm việc, ông Cường
có quen một người đồng nghiệp người Ðại Hàn là bà Xu
Chan. Ôâng Cường có kể lại chuyện cho bà Xu Chan nghe và
ngỏ ý muốn bà di tìm vị thuyền trưởng ân nhân năm xưa.
Bà Xu Chan về Ðại Hàn và nhờ người nhà đi tìm và đã
tìm ra vị Thuyền trưởng Jeon Je Jong năm xưa.
Sau một thời gian thu
xếp, ông Cường cùng với sự hỗ trợ của một số đoàn
thể trong cộng đồng đã sắp xếp một chuyến du lịch dành
cho vị ân nhân cùng vợ và con gái sang Hoa Kỳ. Ban tổ chức
xin được mua vé máy báy cho ong Jong, vợ và con gái nhưng ông
Jong từ chối và bỏ tiền túi để mua vé máy bay cho mình
và vợ con. Trong buổi tiệc gặp gỡ, ông Jong đã lên diễn
đàn ngỏ lời cám ơn tất cả cộng đồng Hoa Kỳ, Ðại Hàn
và Việt Nam tại Nam Cali đã dành cho ông và gia đình một
sự đón tiếp quá sức cảm động và nồng hậu. Ôâng cho
việc cứu 96 thuyền nhân Việt của ông trên biển gần 20
năm qua chỉ là một việc làm nhân đạo mà bất cứ ai cũng
phải làm. Ðó là lời nói khiêm tốn của vị thuyền trưởng
có trái tim vĩ đại. Cuộc đời sẽ đẹp hơn nếu ai cũng
có tấm lòng nhân hậu, bác ái như vị thuyền trưởng đáng
quý và đáng kính này.
Nói đến chuyện ghi
ơn người thuyền trưởng cao quý Jeon Je Jong thì cũng nên ghi
nhận tấm lòng biết ơn và tìm cách trả ơn của người chịu
ơn năm xưa là cựu thuyền nhân Nguyễn hùng Cường. Mặc dầu
đã yên ổn với đời sống mới trên đất Mỹ nhưng ông
Cường không bao giờ quên ơn cứu tử của vị thuyền trưởng
người Ðại Hàn năm xưa và tìm đủ mọi cách để tìm cho
ra vị thuyền trưởng này để tạ ơn. Cách xử sự của ông
Cường thật là đáng quý và đáng khen. Ðó là cách sống
có tình, có nghĩa, có trước có sau. Ðó cũng là cách xử
sự tiêu biểu của một người Việt Nam có truyền thống
văn hóa. Thi ân thì bất cầu báo nhưng chịu ơn ai thì ngàn
đời không quên và tìm đủ mọi cách để đền ơn, đáp
lễ. Ở quận Cam ( Orange county ), hàng năm có những tổ chức
tư nhân người Việt tổ chức một ngày để cung cấp thực
phẩm miễn phí và tặng những phẩm vật cho những người
Mỹ bản xứ vô gia cư để cám ơn nước Mỹ đã cưu mang
người Việt trong những ngày tháng đầu định cư trên vùng
đất hứa này. Người Việt dù đi lưu vong ở nước ngoài
vẫn còn giữ được truyền thống biết ơn và tạ ơn của
nền văn hóa Việt cao đẹp mà mấy ngàn năm dựng nước và
giữ nước đã hun đúc nên.
Trong chiến tranh Việt
Nam chuyện Trung úy Calley đã đốc thúc binh sĩ dưới quyền
tàn sát nhóm dân làng vô tội tại làng Mỹ Lai đã làm cho
quân sử Mỹ bị hoen ố khó phai mờ. Nhưng bên cạnh viên
sĩ quan cuồng sát Calley làm nhục quân đội Mỹ, có một sĩ
quan không quân Mỹ tên Hugh Thompson đã có hành động can đảm
cứu một số dân làng Mỹ Lai trong vụ thảm sát này.
Mới đây chương trình
" 60 minutes " của đài CBS ngày 9 tháng 5 năm 2004 có tường
thuật về câu chuyện can đảm cứu người vị sĩ quan trực
thăng giàu lòng nhân ái này. Hôm ấy là ngày 16 tháng 3 năm
1968, khi bay trực thăng đến làng Mỹ Lai để hỗ trợ hành
quân, viên sĩ quan trực thăng Hugh Thompson đã nhìn thấy lính
Mỹ lùa dân làng Mỹ Lai vào một con mương. Lúc đầu Thompson
tưởng là có một trận đụng độ với Việt Cộng nhưng
khi bay đến gần ông thấy rõ đây là một cuộc tàn sát dân
lành không hơn không kém. Bất chấp nguy hiểm ông cho trực
thăng bay xuống con mương để cứu 9 người dân lành. Ông
báo cáo về thượng cấp về chuyện tàn sát của lính Mỹ
nhưng thượng cấp đã tỏ ra muốn bưng bít câu chuyện thảm
sát không hay này. Cùng bay với ông hôm ấy có người phụ
tá tên Larry Colburn và ông Colburn đã chứng kiến từ đầu
đến cuối hành động cứu người của Hugh Thompson.
Sau khi thông báo cho báo
chí biết những chuyện tàn bạo xảy ra thì quân đội không
đánh giá ông như một anh hùng mà coi ông như một kẻ phản
bội. Kể từ đó máy bay trực thăng ông khi đi hành quân không
còn được máy bay bạn theo hộ tống như trước nữa. Khi
không còn được hộ tống như trước, ông sẽ không có được
sự bảo vệ an toàn khi bay trực thăng hành quân. Khi làm như
thế là thượng cấp ông muốn ông dễ bị ăn đạn kẻ thù
hơn để trừng phạt chuyện làm không tuân lệnh thượng cấp
nhằm bưng bít tội ác ở Mỹ Lai. Ðây là một trả thù khá
tiểu nhân và độc ác của thượng cấp ông Thompson. Ông bị
bắn rơi tổng cộng 5 lần và lần cuối thì bị gãy lưng.
Ông nói thẳng là ông chấp nhận sự bắn giết trong chiến
tranh nhưng chuyện tàn sát một cách lạnh lùng người dân
vô tội thì đó là một chuyện khác. Ôâng đã làm đúng lương
tâm của một con người nhưng dưới mắt thượng cấp thì
ông lại vi phạm nhiệm vụ của một người lính. Ôâng đã
đặt lương tâm cứu người lên trên nhiệm vụ quân đội.
Ôâng bị đồng đội đối xử thù hằn và lạnh nhạt. Ôâng
nhiều lần nhận được lời hăm dọa giết và có lần ông
bước vào một hội quán nhà binh thì có một số những người
lính trong hội quán bước ra ngoài vì không muốn nhìn thấy
sự có mặt của ông.
Mới đây, Phóng viên
Mike Wallace đã mời Hugh Thompson và người bạn đồng đội
Larry Colburn về lại làng Mỹ Lai mới đây để gặp lại những
người dân mà ông đã cứu bằng trực thăng trong ngày tàn
sát kinh khiếp đó. Có một bà già trong làng, khi gặp hai ông
Thompson và Colburn, đã nói trong nước mắt để cám ơn tấm
lòng nghĩa hiệp cứu người của ông.
Sau này dần dần chính
phủ và quân đội Hoa Kỳ đã nhận thấy sự thật và quyết
định vinh danh ông và người bạn đồng đội Larry Colburn,
Ôâng được mời đi diễn thuyết tại những nơi như Trường
đại học võ bị West Point, Trường sĩ quan Hải quân và vinh
dự nhất là ông được ghi tên vào Ðài kỷ niệm không quân
( Army aviation hall of fame).. Khi đi nói chuyện với các sinh viên
sĩ quan, ông khuyên họ " Ðã là một người lính thì phải
hành động như một người lính. ".
Rõ ràng chỉ vì hành
động cứu người mà ông đã bị chính tập thể quân đội
của ông coi ông như một kẻ phản bội thời bấy giờ. Ôâng
đã phải trả giá cho hành động nhân ái và cao thượng của
mình. Nhưng dần dà qua năm tháng, chính phủ và quân đội
Hoa Kỳ đã coi ông như một người hùng và quyết định vinh
danh ông với những lễ nghi cao quý nhất dành cho một chiến
sĩ quả cảm trong thời chiến. Còn tên sĩ quan cuồng sát Calley
khi về Mỹ thì bị đưa ra tòa và bị phạt tù. Tổng Thống
Nixon đã đứng ra ân xá cho tên Calley này sau một thời gian
thọ án. Xem thế thì mới biết cái thiện bao giờ cũng thắng
cái ác, dù cho hành động làm việc thiện cứu người vô
tội có bị trả giá bằng sự trù dập của thượng cấp
thì dần dà qua năm tháng, người ta cũng nhận ra được tấm
lòng nhân ái, cao cả của người hiệp sĩ đi cứu người.
Hugh Thompson là một đóa
hoa sen tỏa hương thơm ngát tình người và làm rạng danh quân
sử Mỹ trong khi Calley là một đống bùn nhơ nhớp làm hoen
ố thanh danh người lính Hoa Kỳ.
Năm 1993, cuốn phim "
Schindler ‘s list " ( Danh sách của Schindler ) đoạt 7 giải Oscar
trong đó có giải "Ðạo diễn " dành cho đạo diễn lừng danh
của cuốn phim này là Steven Spielberg. Cuốn phim nói về cuộc
đời của nhà tài phiệt người Áo tên Oskar Schindler, trong
Thế chiến thứ 2, đã tìm cách cứu khoảng 1000 người Ba
Lan gốc Do Thái khỏi những lò giết người của Ðức quốc
xã bằng cách thiết lập một xưởng làm việc nằm cạnh
trại giam và thuê mướn những người Ba Lan gốc Do Thái làm
việc với mục đích là mua thời gian, trì hoãn chuyện đưa
những người này vào trại giết người của Ðức quốc xã.
Ôâng Schindler thiết lập một danh sách mướn người làm việc,
do đó mà cuốn phim có tên là " Danh sách của Schindler " ( Schindler’s
list ).
Oskar Schindler là người
gốc Áo có quê ở Zwittau, vùng này sau trở thành một vùng
đất của nước Tiệp Khắc năm 1918. Ôâng là một nhà tài
phiệt thuộc giới quý tộc ngay từ những năm đầu Thế chiến
thứ 2 đã có một kế hoạch kiếm tiền từ vùng đất Ba
Lan mới bị Ðức quốc xã xâm chiếm bằng cách dùng thuê
mướn những nạn nhân Do Thái từ cơ quan mật vụ SS. Những
người Do Thái này vui lòng làm việc cho ông, lúc đầu chỉ
là lý do được trả bằng những hàng hóa tiêu dùng, nhưng
sau này lý do chính mà ông Schindler mướn họ là để tránh
cho họ bị gửi đi những trại giết người. Những người
Do Thái này bị tập trung và gửi đến trại lao động tên
Plaszow, và vì thế mà ông Schindler cũng đến lập công xưởng
ở gần trại thuê mướn họ làm việc để mua thời gian nhằm
cứu họ khỏi bị đẩy vào những lò giết người. Ông Schindler
coi như chơi trò xiếc đi dây khá nguy hiểm khi bên ngoài thì
ông hành động như là một dịch vụ kiếm tiền, bên trong
thì ông muốn cứu người Do Thái khỏi bị giết. Nếu bọn
Phát-xít Ðức khám phá ra nguyên nhân sâu kín trong chuyện
mướn người của ông thì chắc chắn chúng sẽ trừng phạt
ông. Ôâng luôn có quan niệm rằng chiến tranh không bao giờ
tạo nên sự tốt đẹp cho con người mà chỉ tạo ra sự xấu
xa, tồi tệ. Có chừng 6 triệu người Do Thái bị Ðức quốc
xã giết trong Thế chiến thứ 2. Dù ông Schindler có cứu được
chừng 1000 người Do Thái thì đó cũng nói lên tấm lòng vị
tha bác ái của ông. Người ta chỉ nhìn thấy tấm lòng nhân
ái bao la của ông sau khi ông qua đời và cuốn phim " Schindler’s
list" ( Danh sách của Schindler) đã mô tả chuyện làm cao cả
cứu người Do Thái của ông từ đầu đến cuối bằng cách
giả vờ mướn họ làm việc trong công xưởng của ông nằm
cạnh những lò giết người. Ðoạn cuối cuốn phim có quay
cảnh những người Do Thái sau này lần lượt đến mộ của
ông Schindler để thăm viếng tặng hoa thật cảm động. Lòng
tốt nhân ái cứu người của ông được mọi người nhìn
thấy sau khi ông qua đời. May mắn là bọn Ðức quốc xã cũng
không nhìn ra " kế hoạch mướn người để cứu người "
Do Thái của ông, nếu chúng biết, chắc chắn ông sẽ phải
bị trả giá rất đắt cho hành động làm bộ thuê mướn
công nhân làm việc để cứu người của ông.
Sau khi phim " Schindler’s
list " được chiếu rộng rãi và tạo tiếng vang khắp thế
giới, người ta lại phát hiện thêm một Schindler khác giàu
lòng nhân ái và đã cứu chừng 6000 đến 7000 người Do Thái
khỏi bàn tay tàn sát của Phát-xít Ðức. Ðó là một nhà
ngoại giao Nhật có tên là Chiune Sugihara. Một người đã vì
lương tâm đứng ra cứu người và bị trừng phạt bởi guồng
máy ngoại giao bởi ông đã bất tuân thượng lệnh đã giao
phó nhiệm vụ cho ông.
Câu chuyện xảy ra vào
năm 1940, lúc ấy quân đội Phát-xít Ðức đang xâm lấn khắp
mọi nơi, hàng ngàn người Ba Lan gốc Do Thái bỏ nhà chạy
trốn vào nước Lithuania ( Một nước sau này nằm trong Liên
Bang Sô Viết và mới được độc lập sau khi Liên Bang Sô
Viết tan rã ). Ðây là con đường chạy thoát duy nhất từ
Ba Lan. Muốn chạy ra khỏi Âu Châu thì phải băng qua Liên Bang
Sô Viết để tới vùng Vladivostok, rồi qua Nhật và sau đó
đi đến Trung Hoa hay Bắc Mỹ. Hoa Kỳ và Anh lúc đó cũng từ
chối nhận người tỵ nạn mới. Ông Chiune Sugihara lúc ấy
làm Tổng lãnh sự của Nhật tại Vilnius, Lithuania.
Một buổi sáng có một
đám đông chừng 200 người Ba Lan gốc Do Thái tụ tập trước
tòa lãnh sự Nhật ở Vilnius nơi ông đang làm việc yêu cầu
ông cấp cho visa để họ có thể rời nước. Ông đánh điện
về nước tổng cộng ba lần xin chỉ thị thượng cấp ở
Tokyo thì cả ba lần đều được ra lệnh là không được
cấp visa cho nhóm người tỵ nạn trên để họ có thể qua
Nhật rồi đi một nước thứ ba hầu trốn chạy sự tàn sát
của Ðức quốc xã.
Vào sáng ngày 31 tháng
7 năm 1940, Sugihara quyết định bất tuân thượng lệnh của
chính phủ Nhật và bắt đầu cấp phát visa cho nhóm người
tỵ nạn. Vào cuối tháng 8, văn phòng lãnh sự bị đóng cửa
và Sugihara được lệnh phải đi đến Ðức. Ngay cả khi ngồi
trên xe lửa chuẩn bị rời ga, ông vẫn tiếp tục ký tên
cấp phát visa cho đám người tỵ nạn khốn khổ. Ôâng nói
với những người tỵ nạn đang đứng dưới sân ga, " Làm
ơn tha thứ cho tôi, tôi không thể viết được thêm nữa.
Tôi cầu nguyện cho quý vị được an toàn". Một người trong
đám đông tỵ nạn đứng dưới sân ga la to trong tiếng khóc,
" Ông Sugihara, chúng tôi không bao giờ quên ông ". Vào những
giây phút cuối ông viết thêm được chừng 1600 visa, quăng
ra ngoài cửa sổ cho đám đông bên dưới sân ga và coi như
cứu thêm được chừng từ 2000 cho đến 6000 người Do Thái.
Một cái visa di chuyển cho thể dùng cho cả một gia đình có
vài người. Trong vòng bảy tuần lễ sôi động từ đầu tháng
7 đến gần cuối tháng 8. ông làm việc 20 giờ mỗi ngày,
và ký chừng 6000 đến 10000 cái visa cho những người tỵ nạn
để họ có thể ra đi tìm sự sống. Ôâng bỏ cả ăn trưa
để có thể ký càng nhiều càng tốt để cứu người. Khi
hết những mẫu visa được in sẵn, ông cấp visa bằng giấy
thường. Buổi tối bà vợ Yukiko phải thoa bóp bàn tay đau
nhức của ông vì phải ký quá nhiều visa vào ban ngày. Bà
khuyến khích ông rán cấp thêm visa vì mỗi cái visa ông ký
ra là cứu được một mạng sống. Với cái visa này, người
tỵ nạn có thể đi xe lửa tới Siberia, xuyên qua Vladivostok
và cuối cùng đến được Nhật hay những quốc gia khác. Ở
những nơi đó người tỵ nạn được đối xử tử tế trong
thời kỳ chiến tranh. Dù Nhật có liên minh với Phát-xít Ðức
nhưng quốc gia Nhật ít có chuyện bài Do Thái. Ngay cả khi
những người tỵ nạn thiếu thốn thực phẩm thì cũng được
chia sẻ phần ăn. Sau chiến tranh nhiều người tỵ nạn này
định cư tại Hoa Kỳ.
Sau chiến tranh chấm
dứt, Sugihara lúc ấy đang làm việc tại Romania, bị quân Liên
xô bắt và bị gửi đi trại tập trung chung với vợ và con
trai ông trong vòng 18 tháng rồi mới được thả ra.
Sugihara trở về Nhật
năm 1947, ông đến bộ Ngoại giao Nhật thời hậu chiến hy
vọng sẽ được tiếp đón trong sự thông cảm và có thể
được giao nhiệm sở mới. Nhưng rồi ông cũng giống như
Thuyền trưởng Jeon Je Jong, ông bị bộ Ngoại giao Nhật cho
nghỉ việc !
Ông sau đó sống trong
bóng tối trong nhiều thập niên, làm nghề bán bóng đèn điện,
rồi nhập cảng dầu. Thế giới không biết gì nhiều về
ông cho đến năm 1968, khi có viên phụ tá kinh tế của Tòa
đại sứ Do Thái ở Tokyo tên Joshua Nisri tìm cách mang ông Sugihara
ra ánh sáng. Nisri là một thiếu niên Ba Lan hồi năm 1940, và
là một trong những người tỵ nạn được ông Sugihara cứu.
Từ đó, câu chuyện
thấm đẫm tình người bác ái của Sugihara dần dần thấm
sâu vào ý thức của toàn thế giới.
Vào năm 1985, một năm
trước khi ông qua đời. Chính phủ Do Thái vinh danh ông là
" Người của công lý thế giới ". Câu chuyện ông càng được
lan truyền rộng rãi khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ ở
Lithuania và những quốc gia Ðông ÂÂâu. Vào năm 1991, khi làm
lễ tuyên ngôn độc lập của Lithuania, một bức tượng được
dựng lên và một con đường mang tên Sugihara. Năm 1997, có
một cuốn phim tài liệu nói về cuộc đời ông có tên " Visas
and Virtue" của hai người làm phim Chris Tashima và Chris Donahue
đã đoạt một giải Oscar về thể loại phim ngắn sinh động
( Live Action Short Category ). Năm 2002, một tượng của ông được
dựng lên ở khu phố nhỏ Tokyo ở thành phố Los Angeles. Bức
tượng thể hiện hình thể một nhà ngoại giao đang ngồi
trên một chiếc ghế , tay phải cầm một cái visa. Trong một
bài diễn văn đọc năm 1985, ông Sugihara cho biết lý do đơn
giản tại làm sao ông cấp visa cho những người tỵ nạn ,
" Tôi nghĩ ai cũng có cảm giác bất nhẫn khi nhìn thấy những
người tỵ nạn van nài trong nước mắt. ". Con trai ông cho
biết ông luôn là một người sống kín đáo và tốt bụng.
Ông Sugihara mất name 1986, thọ 86 tuổi.
Những người như Thuyền
trưởng Jeong Je Jong, hai phi công Mỹ Hugh Thompson va Larry Colburn,
nhà tài phiệt Áo Oskar Schindler, nhà ngoại giao Nhật Chiune
Sugihara đều có tấm lòng thương người sâu xa và đã ra tay
cứu mạng sống họ. Họ đều hành xử với tinh thần " Thương
người như thể thương thân " , họ luôn tâm niệm " Dù
xây chín bậc phù đồ. Không bằng làm phước cứu cho một
người " . Họ đặt chuyện cứu người là ưu tiên đầu
vượt lên biên giới của chủ nghĩa, màu da, chủng tộc, bạn
thù. Trừ nhà tài phiệt thương người Oskar Schindler không
bị phiền toái gì trong chuyện cứu người của ông vì Phát
xít Ðức, cho tới ngày sụp đổ, không khám phá ra " âm mưu
" cứu người Do Thái của ông, còn lại Thuyền trưởng Jong,
hai sĩ quan Mỹ Thompson và Colburn cùng nhà ngoại giao Nhật Sugihara
đều bị thượng cấp trừng phạt vì hành động cứu người
cao cả của họ. Họ đã đặt lương tâm lên trên nhiệm
vụ, họ cảm thấy thanh thản tâm hồn trong khi cứu người
mà bỏ qua những sự chế tài sau này mà họ biết chắc là
họ sẽ gặp phải. Thường chuyện cứu người được
đánh giá là một chuyện làm nghĩa hiệp, cao thượng, thế
mà những hiệp sĩ nói trên lại bị trù dập và bỏ rơi bởi
guồng máy công ty hay quốc gia mà họ đang phục vụ. ïÐoù
là một điều nghịch lý mỉa mai! Nhưng rồi bản chất của
con người cuối cùng đều hướng về điều thiện nên tất
cả những người trên đều được vinh danh về những hành
động cứu người cao cả của họ. Ðó là phần thưởng tinh
thần xứng đáng dành cho họ sau những ngày tháng bị trù
dập, bỏ rơi vì hành vi từ bi, độ lượng của mình.
Mới đây, vào hai ngày
27 và 28 tháng 7 năm 2004, có chừng 400 người tỵ nạn Bắc
Hàn được máy bay chở đến Nam Hàn từ Việt Nam . Những
người Bắc Hàn này đã chạy qua Việt Nam từ phía Trung Cộng
trước đây. Nhà nước Việt Nam đang làm ăn buôn bán với
nước Ðại Hàn nên dấm dúi cho người tỵ nạn Bắc Hàn
được tạm thời ở lại và sau đó được đưa đi định
cư tại Ðại Hàn. Nhưng sau này khi chính phủ Cộng sản Bắc
Hàn lên tiếng phản đối cho là những người dân Bắc Hàn
bị bắt cóc thì chính phủ Việt Nam sợ hãi và không muốn
làm mất lòng nước bạn xã hội chủ nghĩa lâu đời nên
quyết định trả một số người tỵ nạn Bắc Hàn đến
Việt Nam sau này về lại Trung Cộng, và có lẽ Trung Cộng
sẽ giải giao lại cho Bắc Hàn. Những người tỵ nạn Bắc
Hàn này đã vào Việt Nam qua ngả Trung Cộng. Những người
tỵ nạn Bắc Hàn không may bị trả về này chắc sẽ cầm
chắc cái chết vì sự tàn bạo của chế độ Cộng sản Bắc
Hàn. Nhà cầm quyền Việt Nam đã không có nổi tấm lòng hy
sinh cứu người của Thuyền trưởng Jong, của hai phi công
Mỹ Thompson, của nhà tài phiệt Aùo Schindler, của nhà ngoại
giao Nhật Sugihara nên đã có một quyết định giết người
là trả người tỵ nạn Bắc Hàn về lại Trung Cộng để
rồi sẽ bị giải về quê hương của họ. Thật ra được
nhồi sọ bởi chủ nghĩa Mác- Lê cực đoan và độc ác từ
bé đến lớn nên họ mất đi cái tính thiện căn bản của
con người và chỉ biết hành động theo lợi nhuận và theo
nguyên tắc ngoại giao mà không lưu ý gì đến mạng sống
của con người.
Gần đây đã nổ ra
trận chiến lớn của Ðại tướng chột mắt Lê đức Anh
và Ðại tướng cai đẻ Võ nguyên Giáp đã cho thấy Ðảng
Cộng sản của chúng trên đà sụp đổ không thể cứu vãn
nổi. Bao nhiêu năm gìn giữ tình đồng chí sắt son chỉ là
sự che đậy giả dối, và cây kim trong bọc lạu ngày cũng
lòi ra và bây giờ là thời điểm chúng quyết tâm đấu đá,
chém giết nhau quyết liệt vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm.
Tới giờ phút này thì không còn theo lý tưởng tốt đẹp
gì nữa mà chỉ là giành chức vụ, giành ăn, tham nhũng, vơ
vét bằng mọi cách cho đầy túi tham. Chúng đấu đá nhau trên
tinh thần" trâu cột ghét trâu ăn" và ‘ lừa thầy phản bạn
‘ .Thật ra Ðảng của chúng là một thứ đảng cướp không
hơn không kém thì chỉ sinh ra toàn bọn ‘ đầu trâu mặt
ngựa ‘’ độc ác xấu xa thì cũng không làm ai ngạc nhiên.
Ðối với bọn mặt người dạ thú này thì " lương tâm không
bằng lương thực ". Mặc dù sống phè phỡn trên xương máu
của dân chúng , chúng vẫn sẵn sàng giết nhau để thu vén
lợi nhuận độc quyền cho cá nhân và phe nhóm mình. Cái chết
đột tử của những tướng Hoàng văn Thái và Lê trọng Tấn
trước đây là cũng do phe phái trong Ðảng chơi nhau, thanh toán
nhau sát ván. Bổn phận của người đấu tranh hải ngoài là
phải " đổ thêm dầu vào lửa " bằng cách gửi tất cả những
bài viết đấu đá, tranh chấp nhau giữa hai phe về quốc nội
cho đồng bào quê nhà biết những gì đang xảy ra để chế
độ chúng chóng sụp đổ, cho quê hương dân tộc có cơ hội
sống trong tình thương nhân bản, trong tự do dân chủ và trong
hòa hợp yêu thương.
Một chủ nghĩa ác độc
cổ súy cho chuyện ác như chủ nghĩa Mác thì chỉ sinh ra toàn
một bọn đầu trâu, mặt ngựa, bán nước hại dân như bọn
bất tài vô tướng hiện nay đang ngồi ở Bắc bộ phủ là
chuyện hiển nhiên thường tình thôi. Chắc chắn rằng sau
khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ ở Việt Nam và một chế
độ nhân bản được khai sinh ở Việt Nam thì sẽ sản sinh
ra những con người luôn lo lắng thương yêu và cứu giúp người
khác. Và khi làm như thế thì sẽ được công ty hay nhà nước
của người ấy vinh danh hay trọng thưởng chứ không bị trù
dập, bỏ rơi như những người có tấm lòng nhân ái được
nhắc đến ở trên.
Nhân chi sơ bao giờ cũng
tính bản thiện và cái thiện đó cần được ngày càng xiển
dương bằng gương sáng và giáo dục để làm thăng hoa và
tô điểm cho cuộc sống của con người thêm phần ý nghĩa
đẹp đẽ.
Cuộc đời sẽ đẹp
hơn nếu trong cuộc đời này còn có những con người biết
thi ân và báo ân.
Lawndale, một chiều hạ
oi ả, êm đềm giữa tháng 8 năm 2004
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
(email: [email protected])
|