KINH
QUA VÀ NGHIỆM LẠI VỀ
30
NĂM SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975
Miền Nam mất vào tay miền
Bắc Cộng sản đến nay đã tròn 30 năm. Thời gian 1 phần
3 thế kỷ này cũng tạm đủ để nhìn lại nguyên nhân và
hậu quả của ngày tang thương 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này
đã đem lại sự thống nhất cho dân tộc Việt Nam hay chỉ
làm cho sự phân chia Nam-Bắc ngày thêm trầm trọng vì đất
nước chỉ thống nhất phần lãnh thổ mà không thống nhất
được nhân tâm? Ngày này là ngày giải phóng cho nhân dân
miền Nam hay là ngày nhân dân miền Nam sa vào địa ngục đỏ?
Ðã đến lúc chúng ta cần phải tỉnh táo nhìn lại nguyên
nhân đưa đến thảm họa 30 tháng 4 cùng những hệ lụy tàn
khốc không thể tránh khỏi của nó. Có đánh giá và nhận
xét đúng biến cố 30 tháng 4 thì mới nhìn rõ vị trí của
nước Việt Nam trong tình hình chính trị của thế giới và
từ đó mới mong định hướng được con đường phải đi
sắp đến của dân tộc trong những ngày sắp tới.
Cho đến ngày hôm nay,
sau khi những tài liệu liên quan đến cuộc chiến Việt Nam
được công bố và những nhân chứng Việt Nam cũng như ngoại
quốc ở trong cuộc lên tiếng, người ta có thể khẳng định
nguyên nhân đưa đến chuyện miền Nam sụp đổ ngày 30 tháng
4 là do quyết định của Tổng Thống kiêm Tổng tư lệnh tối
cao khốn nạn Nguyễn văn Thiệu.
Có hai sự suy luận về
chuyện giật sập miền Nam của Nguyễn văn Thiệu:
1)Thiệu giật sập vùng
1 và vùng 2 để tạo sự xúc động trong chính giới Mỹ hầu
được Mỹ viện trợ khẩn cấp nhiều hơn để quân đội
Việt Nam Cộng Hòa có thể đánh trả cuộc Tổng tấn công
của Cộng sản Bắc Việt. Mỹ đã không đáp ứng với sự
tính toán của Nguyễn văn Thiệu mà đã bỏ rơi miền Nam luôn
sau khi vùng 1 và vùng 2 bị mất. Thiệu bị tháu cáy, lên Ðài
truyền hình chửi Mỹ thậm tệ, nào là thất hứa, nào là
bội ước, vô lương tâm, phản bội khi không giúp đồng minh
như đã hứa hẹn. Có điều khó hiểu là sau khi chửi Mỹ
ồn ào vài ngày thì Thiệu và gia đình được Mỹ " bồng
" ra khỏi Việt Nam kèm theo 15 tấn hành lý mà ai cũng đoán
được là tài sản Thiệu thu lượm được sau những năm cầm
quyền. Cho nên liệu chuyện chửi Mỹ có phải là một vở
kịch mà Thiệu đóng khéo quá chăng ?
2)Từ đầu cho đến
cuối , Thiệu đã giật sập miền Nam theo lệnh của Mỹ để
đổi lấy sự an toàn cho cá nhân và gia đình. Ðồng thời
Mỹ cho Thiệu hưởng hết tài sản mà Thiệu thu vén được
trong những năm cầm quyền. Nếu Thiệu không ngoan ngoãn làm
theo lệnh Mỹ thì làm gì có chuyện Mỹ " bồng " Thiệu đi
và sau này cho Thiệu định cư tại Mỹ để sống những ngày
cuối đời.
Vùng 1 do danh tướng
Ngô quang Trưởng chỉ huy đã không có dịp đánh một trận
nào ra hồn với Cộng quân vì những lệnh bất nhất từ Sài
gòn do Thiệu đưa ra. Bảo giữ Huế rồi ra lệnh bỏ Huế,
nói tập trung lực lượng giữ Ðà Nẵng rồi chỉ thị bỏ
Ðà Nẵng. Những lệnh quái gỡ nói trên đã làm cho tướng
tài Ngô quang Trưởng không thể nào bày binh bố trận để
đối phó với Bắc quân mà rốt cuộc cuối cùng để cho quân
đoàn 1 phải tan rã một cách đau đớn. Khi quân đoàn 1 đã
tan rã, tướng Trưởng phải đi tàu ra khơi thì lúc đó Tổng
tư lệnh tối cao khốn nạn Nguyễn văn Thiệu ra lệnh tướng
Trưởng điều quân để tái chiếm lại Ðà Nẵng! Ông Trưởng
trả lời là trong tay ông không còn quân thì lấy gì mà tái
chiếm! Những lệnh bất nhất do Thiệu đưa ra không phải
vì Thiệu hoang mang, bối rối mà cả là một sự tính toán
chi li, độc ác để giật cho vùng 1 sụp đổ mà thiên tài
quân sự Ngô quang Trưởng đành phải bó tay, không thể điều
binh khiển tướng hay xoay xở gì theo ý của ông được. Thiệu
giật sập quân đoàn 1 như thế mà sau này Trung tướng phó
tư lệnh quân đoàn 1 là Lâm quang Thi vào tới Sài gòn thì
Thiệu ra lệnh bắt giam để chạy cái tội khốn nạn của
Thiệu. Với tư cách là tư lệnh vùng Tướng Trưởng phản
đối chuyện này và cộng khai bày tỏ sự phẫn uất trong
một buổi họp ở Sài gòn trước 30 tháng 4 năm 1975. Nếu
chuyện ra lệnh rút lui khỏi vùng 1 là một cuộc " di tản
chiến thuật " thì tại sao Thiệu không công khai tuyên bố
thẳng thừng với quân đội và nhân dân. Rõ ràng là Thiệu
đã làm một chuyện khuất tất và tìm đủ mọi cách để
che dấu hành vi hèn nhát và khốn nạn của mình về chuyện
làm cho vùng 1 tan rã. Dĩ nhiên đã làm cho bao nhiêu binh lính
và thường dân bị thiệt mạng và đó là tội ác của tên
Tổng thống mặt trơ trán bóng tham nhũng hèn nhát Nguyễn văn
Thiệu.
Về chuyện vùng 1 sau
này có một số sĩ quan còn cho biết trong thời gian tình hình
căng thẳng, Mỹ đã cho mời một số sĩ quan Việt Nam Cộng
Hòa ra hạm đội Mỹ đậu ngoài khơi để họp và giữ họ
lại luôn không cho về lại đơn vị. Mỹ cố tạo ra tình
trạng quân sĩ không có cấp chỉ huy thì như " rắn mất đầu"
, đưa đến tình trạng hỗn loạn và tan rã sau đó. Nói chuyện
này để thấy cái ý định giật sập miền Nam của Mỹ đã
quá rõ ràng. Và người cộng tác hữu hiệu trong chuyện giật
sập miền Nam không ai khác hơn là Tổng thống khốn nạn Nguyễn
văn Thiệu.
Về vùng 2, sau này một
số sĩ quan cho biết trong chuyện rút quân của Quân đoàn 2
theo liên tỉnh lộ số 7, đã có chuyện một đơn vị Biệt
Ðộng Quân bị không quân Việt Nam Cộng Hòa oanh kích " lầm",
gây ra sự hoang mang cùng cực trong đoàn quân lui binh. Lúc oanh
kích hoàn toàn không có chuyện quân Cộng Hòa đụng độ quân
Cộng sản nên đây không phải là một oanh kích lầm như mọi
người đã lầm tưởng mà đã có một " bàn tay lông lá "
nhúng vào, điều động phi cơ của phe ta oanh kích phe mình
để tạo sự hỗn loạn và từ đó đưa đến tình trạng
tan hàng. Thật không còn gì độc ác và dã man hơn khi phải
dùng bom phi cơ giết quân bạn để đạt đến nhu cầu giật
sập miền Nam của các thế lực ngoại bang đen tối , cấu
kết nhịp nhàng với bọn lãnh đạo tham nhũng, lưu manh, vô
liêm sỉ để làm cho quân đội miền Nam tan rã càng sớm càng
tốt.
Vùng 1 và Vùng 2 mất
rồi thì chuyện mất miền Nam chỉ còn là vấn đề thời
gian. Một số người trách móc ông Tổng thống Dương văn
Minh đầu hàng để miền Nam mất vào tay Cộng sản nhưng thật
tình là lúc Dương văn Minh lên ngôi tổng thống thì thánh
cũng không cứu được miền Nam. Tội làm mất miền Nam là
của Nguyễn văn Thiệu chứ không phải của Dương văn Minh.
Nhưng những hành động hèn hạ, nín thở qua sông của Dương
văn Minh trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 và sau đó khiến dư luận
không thể không khinh bỉ thái độ " tham sinh úy tử " khá
hèn kém của ông. Người ta ngao ngán khi thấy ông Minh " hồ
hỡi , phấn khởi " đi bầu quốc hội Cộng sản sau 30 tháng
4, 75. Dĩ nhiên là ông đang đóng trò " giả dại qua ải " và
hành động yếu hèn đó bị dư luận phê phán nặng nề. Tới
ngày tan đàn xảy nghé thì không chỉ có một tên Tổng thống
Nguyễn văn Thiệu hèn nhát bỏ chạy mà có thể kể thêm những
tên tướng tồi bại tham sinh úy tử như Ðại tướng Cao văn
Viên, Thủ tướng ( Ðại tướng ) Trần thiện Khiêm, Trung
tướng Vĩnh Lộc, Thiếu tướng Nguyễn cao Kỳ..v..v. Nước
loạn mới biết trung thần. Người ta yêu kính 5 vị tướng
tuẫn tiết ( Nguyễn khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê nguyên Vỹ,
Trần văn Hai, Lê văn Hưng ) trong biến cố 30 tháng 4 bao nhiêu
thì lại càng khinh bỉ bọn tướng hèn nhát, khốn nạn, bỏ
quân, bỏ dân để leo phi cơ mà chạy, không có một chút danh
dự và liêm sỉ tối thiểu của người lãnh đạo. Ngay cả
một người thuộc phe đối nghịch là Ðại tá Bùi Tín của
phe miền Bắc cũng tỏ thái độ kính trọng sự tuẫn tiết
của 5 vị tướng trên trong những cuốn sách của ông xuất
bản ở hải ngoại sau ngày ông tỵ nạn chính trị ở Pháp.
Ở đây cũng xin ghi nhận
một chuyện là có một cựu Tổng trưởng kinh tế của Tổng
thống Thiệu là Tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng cách đây 20 năm
có cho ra đời cuốn sách " Hồ sơ mật Dinh Ðộc Lập " ( bản
tiếng Anh và tiếng Việt) đề cập đến những bức thư mà
Tổng thống Nixon gửi cho ông Thiệu nhằm bảo đảm sự can
thiệp của Mỹ nếu Việt Cọng vi phạm Hiệp Ðịnh Paris.
Mùa quốc hận 30 tháng 4 năm nay, Tiến sĩ Hưng cho ấn hành
cuốn sách " Khi đồng minh tháo chạy " ( bản tiếng Việt,
chưa có bản tiếng Anh) nói lên sự bỏ cuộc của người
Mỹ. Nói chung hai cuốn sách của Tiến sĩ Hưng cung cấp khá
nhiều tài liệu quý cho những nhà viết sử và làm cho quần
chúng hiểu rõ tình hình đưa đến ngày 30 tháng 4. Nhưng có
điều phải nói ra ở đây là Tiến sĩ Hưng quy hết trách
nhiệm cho Mỹ trong chuyện mất miền Nam và bóng gió bênh vực
cho Nguyễn văn Thiệu. Người ta ghi nhận cung cách ăn ở có
trước có sau, có tình có nghĩa của ông Hưng đối với người
lãnh đạo cũ là ông Thiệu, nhưng ông Hưng chỉ là một thứ
ngu trung bênh vực cho vua tham nhũng Nguyễn văn Thiệu, coi ông
Thiệu không có trách nhiệm gì trong chuyện sụp đổ miền
Nam. Tất cả là do lỗi của Mỹ! Thật ra không thể đổ lỗi
hoàn toàn cho Mỹ mà không tính tới tội lỗi của Nguyễn
văn Thiệu trong chuyện làm mất miền Nam. Ngay khi ký Hiệp
định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, nếu là một người lãnh
đạo yêu nước, thương dân, ông Thiệu phải có kế hoạch
xây dựng mật khu ở miền Tây để sau này Sài gòn có mất
thì di chuyển chính phủ về đó để kháng chiến. Mỹ ép
ông Thiệu ký Hiệp định Paris là Mỹ muốn bỏ rơi miền
Nam rồi. Ở vị trí lãnh đạo chắc chắn ông Thiệu biết
điều đó, nhưng ông không làm gì cả. Ngày nào Mỹ còn viện
trợ là ông còn chống Cộng. Khi thấy tình hình tuyệt vọng
thì ông leo phi cơ bỏ chạy. Từ năm 1973 đến 1975, ông chưa
bao giờ thảo luận với Quốc Hội về tình hình đất nước
để nghe ngóng thêm ý kiến hầu cứu nước, cứu dân. Ông
coi chuyện đất nước là chuyện của cá nhân ông, và ông
đã hành động sao cho quyền lợi ông được bảo đảm, chứ
không đoái hoài gì đến quyền lợi của nhân dân và đất
nước. Cuộc bầu cử độc diễn năm 1971 do Thiệu chủ động
đã cho thấy con người xấu xa, xôi thịt của Nguyễn văn
Thiệu. Có người ghi nhận câu nói của Thiệu, " Làm chính
trị thì phải lì". Ðúng là cái cung cách lì lợm, vô liêm
sỉ của Nguyễn văn Thiệu đã hiển hiện rõ ràng trong khi
tranh giành quyền lực và cái thái đô hèn nhát bỏ chạy trước
địch quân đáng cho nhân dân nguyền rủa muôn đời. Người
phụ tá Nguyễn tiến Hưng dù khéo léo bênh vực cho chủ trong
2 cuốn sách nói trên thì cũng khó mà tránh được sự phê
phán nghiêm khắc mà nhân dân miền Nam dành cho ông Tổng thống
mặt trơ trán bóng, xôi thịt , hèn nhát và vô liêm sỉ này.
Cựu tướng Ðỗ Mậu
trong cuốn Hồi ký " Việt Nam máu lửa quê hương tôi " có
nhận xét trong sách là dù quen ông Thiệu từ lâu nhưng đến
ngày 21 tháng 4 năm 1975, khi ông Thiệu lên truyền hình đọc
bài diễn văn từ chức thì ông Mậu mới nhìn thấy cặp mắt
" láo liên " của Nguyễn văn Thiệu. Ông Mậu nhận xét là
cặp mắt láo liên đã nói lên tính tính gian giảo của Nguyễn
văn Thiệu. Về Phó Tổng thống Nguyễn cao Kỳ thì có " quý
tướng " là có cặp mắt một mí ti hí như mắt lươn, và
cuộc đời ông Kỳ cũng có thể đánh giá là " lừa thầy,
phản bạn, lấy vợ đàn em" đúng như ca dao Việt Nam đã nhận
xét ( Ðàn ông mắt ti hí thì trộm cướp, đàn bà mắt ti
hí thì buôn chồng người). Nói chung, ông Tổng và ông Phó
có " quý tướng " về mắt như vậy nên hành động quái gỡ
của hai ông trong biến cố 30 tháng 4 cũng không làm ai ngạc
nhiên. Nguyễn cao Kỳ mới đây lại vô liêm sỉ về Việt
Nam lạy lục Cộng sản để xin một chút cơm thừa canh cặn
sống cho qua tuổi già. Thứ " hàng thần lơ láo " như Nguyễn
cao Kỳ thì Cộng sản cũng sẽ sử dụng cho phù hợp với
nhu cầu chính trị của chúng nhưng làm sao chúng không khinh
bỉ và coi rẻ thứ người tồi bại như Kỳ.
Sau khi chiếm được
miền Nam, Lê Duẩn đã tuyên bố câu " Không có kẻ thắng
người bại, nhân dân Việt Nam là người chiến thắng, chỉ
có Ðế quốc Mỹ là kẻ thua cuộc." Trên báo chí , Cộng sản
cho rao giảng luận điệu hòa hợp, hòa giải, nói rằng Cách
Mạng không đánh người ngã ngựa. Chao ôi! lời lẽ Cộng
sản sao mà ngọt ngào, nhân hậu và hợp với lẽ phải đến
thế.! Sau đó là thông cáo những sĩ quan miền Nam cũng như
những người công chức cao trong guồng máy hành chánh miền
Nam cần đem theo 2 tuần lương thực để học tập cải tạo.
Sau khi lừa được những người ngã ngựa vào trại cải tạo
thì thời gian 2 tuần biến thành 5, 10 , 15 năm và đã có rất
nhiều người ngã gục trong những trại cải tạo tàn bạo
có một không ai của Cộng Sản. Người miền Nam từ từ nhận
ra cái cung cách nói toàn điều đẹp đẽ thanh cao và làm toàn
chuyện tàn bạïo độc ác và dối trá của bọn Cộng sản
miền Bắc.
Miền Nam đã không có
tắm máu tập thể sau ngày 30 tháng 4 như các ký giả ngoại
quốc tiên đoán nhưng máu đã đổ từ từ trong những trại
cải tạo chết người, những nấm mồ tức tưởi vẫn mọc
lên quanh trại cải tạo dù tiếng súng tiếng bom đã ngưng.
Số cải tạo viên được trả về sau này đa số là thân
tàn ma dại. Tên cuồng sát Pol Pot của Kampuchia đã giết người
bằng cách cho Khmer Ðỏ dùng cán cuốc đánh vỡ sọ nạn nhân
đã làm cho thế giới lên án về nạn diệt chủng của chúng.
Cộng sản Việt Nam là bậc thầy của Pol Pot về môn giết
người. Chúng cho những người cải tạo chết dần mòn vì
đói rét, bệnh tật để tránh mang tiếng giết người, thế
giới do đó khó lên án về hành vi giết người của Cộng
sản Việt Nam. Giờ này sau 30 năm , mới đây người ta thấy
có sự lên tiếng muộn màng của Võ văn Kiệt, cho rằng chiến
thắng 30 tháng 4 đem lại cho nhiều triệu người niềm vui
mà cũng đem cái buồn đến cho triệu người khác. Sự lên
tiếng của Kiệt có thể coi như những giọt nước mắt cá
sấu nhỏ ra của một thứ " đao phủ ngồi thiền", nhằm vuốt
ve những gia đình nạn nhân trước tình hình mới chứ không
thể coi là một sự sám hối chân thành được.
Ba mươi năm qua thái
độ của chính quyền Mỹ đối với việc đấu tranh cho tư
do dân chủ ở Việt Nam nói chung là lưng chừng, lập lờ khó
hiểu. Người Việt hải ngoại dành nhiều cảm tình sâu đậm
cho ông Ðại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam là ông Marine đã ra Bình
Ðịnh vấn an Ðức Tăng Thống Huyền Quang cũng như vào Sài
Gòn đến Thanh Minh thiền viện thăm Hòa Thượng Quảng Ðộ.
Nhưng rồi cũng chính ông Ðại sứ Marine này, trong một dịp
gặp gỡ với đồng bào Việt Nam ở San Jose, đã dội nước
lạnh vào mặt người Việt hải ngoại bằng câu nói , " Mỹ
không có chìa khóa để mở cửa tù cho những người đấu
tranh chống Cộng sản ở Việt Nam!". Ðây là một câu nói
khá phũ phàng và tàn nhẫn cho những người Việt vốn đặt
quá nhiều hy vọng vào Mỹ trong chuyện tìm kiếm dân chủ
và nhân quyền cho Việt Nam.
Người ta còn nhớ hồi
tranh cử tổng thống Mỹ năm 2004 giữa ông John Kerry và ông
George W. Bush . Vài ngày trước ngày bầu cử, ông em của ông
George W. Bush là ông Thống đốc Florida Jeff Bush đã ồn ào
cho vinh danh lá cờ vàng của Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng là
ông nhằm vuốt ve tình cảm của người Việt chống cộng
để lấy phiếu thêm cho ông anh đang tranh cử của ông. Nay
thì lời tuyên bố phũ phàng của Ðại sứ Marine ở San José
không khỏi làm cho người Việt chống cộng hải ngoại chưng
hửng và khó chịu. Người Việt hải ngoại vẫn có một thành
kiến sai lầm là Ðảng Dân Chủ là thứ bồ câu thân cộng
và Ðảng Cộng Hòa là thứ diều hâu chống Cộng. Họ có
nhiều ác cảm dành cho ứng cử viên dân chủ Kerry khi ông
này dìm dự luật nhân quyền về Việt Nam, không cho đem ra
bỏ phiếu ở Thượng viện nhằm chế tài Cộng sản Việt
Nam. Nhưng nay không hiểu người Việt hải ngoại nghĩ sao về
chuyện chính quyền Bush sắp mời Thủ tướng Việt Cộng Phan
văn Khải thăm Mỹ năm 2005 và Tổng thống Bush sẽ đi Việt
Nam năm 2006? Phải nhìn thấy một điều là cho dù Cộng Hòa
hay Dân Chủ thì chính quyền Mỹ chỉ hành động theo quyền
lợi trong khi bang giao với Việt Nam. Khi vui vẻ thì " giung giăng
giung giẻ" hợp tác, khi quyền lợi kinh tế hay chính trị bị
đụng chạm thì dùng món võ nhân quyền ra để cảnh cáo và
chế tài. Cho nên nói Ðảng Dân Chủ thân Cộng hay Ðảng Cộng
Hòa chống Cộng là một nhận xét hời hợt, nông nổi và
không hiểu chính sách ngoại giao của Mỹ. Người Việt chống
Cộng hải ngoại hôm nay cũng không nên đi theo vết xe đổ
của Tổng thống tham nhũng Nguyễn văn Thiệu, suốt ngày chỉ
biết dựa vào Mỹ để chống Cộng cho đến ngày bị Mỹ
bỏ rơi. Ta chống Cộng vì Cộng làm hại quê hương đất
nước , Mỹ góp tay vào thì cám ơn mà Mỹ lạnh nhạt thì
cũng vẫn cứ tiến hành đấu tranh. Mỹ sẽ đến với ta khi
ta mạnh, chứ ngồi đó mà chờ Mỹ bật đèn xanh, đèn đỏ
là một thái độ tay sai nhu nhược và vọng ngoại. Mà " vọng
ngoại thì tắc tử " như nhà Ðại văn hào cách mạng Phan
bội Châu đã ân cần nhắc nhở từ mấy chục năm trước.
Ba mươi năm qua đã cho
thấy trong cộng đồng hải ngoại đã thấy những tên trí
thức, nhà văn như Trương Vũ hô hào người Việt hải ngoại
xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải với bọn cầm quyền
trong nước. Chúng lên mặt rao giảng từ bi hỉ xả như những
vị chân tu nhưng thực chất là nhằm cứu vãn cho chế độ
độc tài toàn trị đã đến hồi bị lịch sử và nhân dân
đào thải ở quê nhà. Chúng không bao giờ nói đến tội ác
bán nước, dâng biển và đàn áp người đấu tranh cho dân
chủ của bọn cầm quyền độc ác Cộng sản. May thay, người
Việt hải ngoại cũng đã kinh qua bao máu xương, nước mắt
để không uống vào những viên thuốc độc bọc đường hòa
hợp hòa giải của bọn thân Cộng khốn nạn này. Cuộc đấu
tranh chống Cộng sản Việt Nam là một cuộc đấu tranh chống
lại cái ác, cái sai trái, phản dân chủ, tụt hậu, nghèo
đói về kinh tế chứ không phải là cuộc tranh đấu giành
quyền lực và quyền lợi như bọn thân Cộng hải ngoại thường
bêu riếu. Có điều mỉa mai là những tên lên tiếng kêu gọi
hợp tác với bạo quyền Cộng sản hôm nay là những tên đã
ba giò, bốn cẳng chạy trốn Cộng sản không lâu trước đây
! Giữa người Việt với nhau không có vấn đề thù hận,
vấn đề phải đấu tranh diệt cái ác là một chuyện làm
chính nghĩa, hợp lẽ phải và lòng người mà ngay đến những
vị chân tu như Hòa thượng Quảng Ðộ cũng đang theo đuổi.
Luận điệu của bọn thân Cộng như những cái loa rè, rỉ
sét, nhai lại những điều giả dối nên không còn thuyết
phục được ai. Chúng nhân danh đất nước, con người Việt
Nam nhưng thực chất là hoạt động cho quyền lợi bản thân
của chúng, mong được bạo quyền ban phát cho chúng quyền
xuất bản tác phẩm của chúng trong nước , kèm thêm một
chút cơm thừa cá cặn sống qua ngày. Bọn nay cần phải vạch
mặt chỉ tên và cô lập chúng, không để chúng gieo nọc độc
bọc đường trong cộng đồng tỵ nạn nữa. Thứ hàng thần
lơ láo như Phạm Duy, Nguyễn cao Kỳ và đồng bọn bị người
trong nước khinh bỉ vì thái độ cung phụng, vuốt đuôi của
chúng với bạo quyền và người Việt hải ngoại cũng nguyền
rủa không hết lời . Theo Cộng sản giờ thứ 25 quả đúng
là ngu xuẩn hết chỗ nói và nói chung hành vi thân Cộng của
chúng không có chỗ đứng trong Cộng động Việt lưu vong hải
ngoại. Chúng sớm muộn gì cũng bị đào thải một cách nhục
nhã vì những lời đường mật của chúng bị thực tế xấu
xa ở quê nhà bác bỏ, nên không còn dụ dỗ và lôi kéo được
ai nữa.
Sau 30 tháng 4, 1975, từ
hải ngoại đã có những dũng sĩ của thời đại đã can đảm
từ giã nếp sống sung túc, an nhàn ở hải ngoại để về
nước tranh đấu cho tự do, dân chủ của đồng bào. Anh hùng
Trần văn Bá, Hoàng cơ Minh đã anh dũng hy sinh, Võ đại Tôn
bị bắt, chứng tỏ sự can đảm hiếm có trong cuộc họp
báo " phản phé " ở Hà Nội, sau đó được thả về Úc. Lý
Tống bị bắt sau khi rải truyền đơn bằng phi cơ dân sự,
được thả ra, lại làm một cuộc rải truyền đơn khác bằng
phi cơ Thái Lan, và giờ đây vẫn còn ngồi tù ở Thái Lan
vì phía Mỹ không tận tình can thiệp cho người anh hùng tranh
đấu cho tự do này. Bên cạnh những hành động anh dũng và
hy sinh bất khuất của những dũng sĩ thời đại đó, có những
tổ chức chống Cộng dỏm ở hải ngoại. Chúng thành lập
những chính phủ ma, tổ chức dỏm để thâu tiền đồng bào
hải ngoại. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng bày trò kháng chiến
ở Thái Lan để rồi bán đứng anh em kháng chiến cho Cộng
sản bắt như bọn Nguyễn hữu Chánh đã làm. Ðồng bào hải
ngoại cần phải tỉnh táo để nhận rõ và không mắc mưu
bọn buôn bán kháng chiến xôi thịt này.
Ở trong nước những
hoạt động chống đối bạo quyền vẫn âm ỉ từ 30 tháng
4 năm 75 cho đến ngày hôm nay. Những gương mặt đấu tranh
dân chủ tiêu biểu như Nguyễn đan Quế, Nguyễn đình Huy đều
không dưới 20 năm tù nhưng Cộng sản không tiêu diệt được
ý chí đấu tranh của những người này. Về tôn giáo thì
phía Thiên chúa giáo có 4 linh mục Nguyễn văn Lý, Chân Tín,
Phan văn Lợi, Nguyễn hữu Giải , Phật giáo Hòa Hảo có cụ
Lê quang Liêm, Phật giáo Thống Nhất có những gương mặt
bất khuất như
Ðức Tăng thống Huyền
Quang, Hòa thượng Quảng Ðộ, Thượng tọa Trí Siêu, Tuệ
Sỹ, Thiện Minh. Thượng tọa Thiện Minh sau 26 năm tù tội,
vừa được thả đã minh định lập trường đấu tranh , "
Có áp bức thì có đấu tranh. Nhà nước đừng đặt vấn
đề lo ngại có người chống đối mà nên tự hỏi là còn
đi áp bức người khác nữa hay không. " Ðể trả lời cho
luận điệu ngáo ộp nhằm quy chụp cho những tăng sĩ có sinh
hoạt chính trị, Hòa thượng Quảng Ðộ đã dõng dạc trả
lời, " Giáo Hội Phật giáo không làm chính trị nhưng chúng
tôi phải có thái độ chính trị." Linh mục Phan văn Lợi hết
lòng tán dương lời tuyên bố khẳng khái và khéo léo của
Hòa thượng Quảng Ðộ trong một cuộc phỏng vấn với Ðài
phát thanh Quê Hương ở San Jose. Miền Bắc có các cụ Hoàng
Minh Chính, Phạm quế Dương, Nguyễn thanh Giang đều giữ vững
ý chí đấu tranh. Nhà đấu tranh Hoàng minh Chính và nhà văn
Hoàng Tiến cũng đã công khai lên tiếng ủng hộ lời kêu
gọi dân chủ đa nguyên của Hòa thượng Quảng Ðộ. Riêng
giới trẻ thì có những gương mặt đáng kính như Phạm hồng
Sơn, Nguyễn vũ Bình, Nguyễn khắc Toàn và mới đây có người
bạn trẻ Phương Nam Ðỗ nam Hải du học Úc về nước nhập
cuộc. Những nhà đấu tranh trẻ này có kiến thức rộng rãi
và có trái tim yêu nước nồng nàn và chắc chắn trong tương
lai sẽ làm nên việc lớn. Vấn đề cấp bách ở hải ngoại
là phải tiếp tay, tiếp máu với những chiến sĩ đứng dậy
đấu tranh trong nước. Thử hỏi Phạm hồng Sơn, Nguyễn vũ
Bình, Nguyễn khắc Toàn đi tù thì chúng ta đã giúp gì cho
họ và gia đình họ chưa? Tiềm lực hải ngoại quá lớn,
tiếc rằng chuyện tiếp máu cho những chiến sĩ đấu tranh
trong nước chưa được đẩy mạnh. Khi những người đấu
tranh đi tù, nếu họ biết hải ngoại lo lắng cho gia đình
của họ thì họ sẽ vững tâm đấu tranh hơn. Người Việt
hải ngoại phải bảo đảm một điều rằng: Hễ có người
nào trong nước đứng dậy đấu tranh thì bổn phận của hải
ngoại là phải lo chuyện cơm áo cho gia đình người đấu
tranh tù tội và bản thân người tù tội ấy đến nơi đến
chốn. Tiếc rằng ở hải ngoại này còn quá nhiều tổ chức
đấu tranh dỏm, háo danh, ăn tục nói phét thì nhiều mà không
làm được một hành động đấu tranh nào có ý nghĩa cả.
Thật là đáng buồn và xấu hổ trước sự hy sinh quả cảm
của những người đấu tranh ở quê nhà. Phải có kế hoạch
tiếp máu cho họ và gia đình họ thì mới giữ vững được
tinh thần và ý chí đấu tranh ở quê nhà.
Tới giờ này thì chính
quyền thất nhân tâm Cộng sản ngày càng rã rời. Ðã có
những cuộc nổi dậy ở Thái Bình và Tây nguyên để phản
đối chính sách đàn áp và sai lầm của chúng. Chúng chia nhau
làm hai phe đấu đá nhau là phe của Ðại tướng chột mắt
Lê đức Anh và Ðại tướng cai đẻ Võ nguyên Giáp. Chúng
đang bày binh bố trận để giết nhau một trận cuối cùng
đưa đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của Ðảng
và nhà nước Cộng sản Việt Nam. Mâu thuẫn giữa hai phe đã
quá trầm trọng tới mức không thể hòa giải được nữa.
Bổn phận của người đấu tranh hải ngoại là phải đổ
dầu thêm vào lửa cho chúng sớm giết nhau càng sớm càng tốt
bằng cách gửi tin tức đấu đá giữa hai phe về nước bằng
mọi phương tiện và hình thức ( email, điện thư, điện thoại,
internet)cho đồng bào quốc nội biết . Làm như thế là đào
sâu thêm mối mâu thuẫn giữa chúng với nhau để đưa đến
tình trạng đụng độ quyết liệt một ngày không xa.
Ba mươi năm kể từ
ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã trôi qua. Thời gian là liều thuốc
hay nhất làm hàn gắn mọi vết thương lòng nhưng tấm lòng
nung nấu đấu tranh giải thể chế độ Cộng Sản của những
người đấu tranh ngày càng sôi sục khi nhìn thấy bọn Cộng
sản nội xâm đã bán đất, dâng biển cho kẻ thù truyền
kiếp Trung Cộng . Một chế độ được xây dựng nên bằng
huyền thoại chống ngoại xâm lại trở thành một chế độ
bán nước bỉ ổi nhất. Ðó là chế độ Cộng sản Việt
Nam hiện nay. Trong nước thì đàn bà được rao bán như những
món hàng vật dụng, đàn ông thì đi xuất khẩu lao động
ở nước ngoài, chỉ riêng có bọn đảng viên là phè phỡn
sống trên xương máu của nhân dân. Hố ngăn cách giữa người
giàu và nghèo ngày càng lớn và đây cũng sẽ là một nguyên
nhân chính đưa đến biến động trong một ngày gần. Tất
cả đều căm phẫn trước một chính quyền thối nát, tham
nhũng, bất công và chờ đợi một giọt nước làm tràn ly
để đứng lên quật ngã bọn bán nước, hại dân.
Xin kết thúc bài viết
bằng bài thơ " Sẽ có một ngày " của Ngục sĩ Nguyễn chí
Thiện để thấy một bình minh tươi sáng sẽ đến với dân
tộc Việt. Ước mơ sẽ chóng thành tựu nếu mỗi người
chúng ta, trong cũng như ngoài nước, đều góp một bàn tay
vào công cuộc đấu tranh chung.
SẼ CÓ MỘT NGÀY
Sẽ có một ngày con
người hôm nay
Vất súng, vất cùm,
vất vờ, vất Ðảng
Ðội lại khăn tang,
quay ngang vòng nạng
Oan khiên!
Về với miếu đường,
mồ mả, gia tiên.
Mấy chục năm trời
bức bách lãng quên
Bao hận thù, độc địa
dấy lên
Theo hương khói êm lan,
tan về cao rộng
Tất cả bị lùa qua
cơn ác mộng
Kẻ lọc lừa, kẻ bạo
lực xô chân
Sống sót về đây an
nhờ phúc phận
Trong buổi đoàn viên
huynh đệ tương thân
Ðứng bênb nhau trên
mất mát quây quần.
Kẻ bùi ngùi hối hận
Kẻ bồi hồi kính cẩn
Ðặt vòng hoa tái ngộ
lên mộ cha ông
Khai sáng kỷ nguyên
tã trắng thắng cờ hồng !
Tiếng sáo mục đồng
êm ả
Tình quê tha thiết ngân
nga
Thay tiếng Tiến quân
ca
Và Quốc tế ca
Là tiếng sáo diều
trên trời xanh bao la !
Hoa địa ngục (1979)
Ðúng vậy ! Ngày mà
có kỷ nguyên " tã trắng thắng cờ hồng" , ngày mà có tiếng
sáo mục đồng êm ả, ngân nga thay thế những bài ca sắt
máu như "Tiến quân ca " và "Quốc tế ca" thì ngày đó mới
là ngày nhân dân Việt Nam đích thực có tự do, dân chủ,
có cơm ăn áo mặc và có quyền làm người chứ không phải
là thứ thân phận trâu bò, ngựa chó bị đầy đọa mấy
chục năm nay dưới chế độc Cộng sản vô thần độc ác.
Phải nghĩ đến tương
lai rạng rỡ và tươi sáng của cả dân tộc để nuôi ngọn
lửa đấu tranh trong lòng mà dấn thân tranh đấu. Chế độ
tàn độc do bầy quỷ đỏ dựng lên đã tới thời cáo chung
đi vào hậu trường để nhường chỗ cho một thế hệ trẻ
có nhiều trí tuệ, quả cảm đứng lên thay thế.
Giờ hành động đã
điểm, vận nước đã tới rồi...
Lawndale, Một chiều có
nắng vàng hiền hòa và gió thổi mơn man cuối tháng 4 năm
2005
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
|