KINH
NGHIỆM CHIẾN TRANH VIỆT NAM
GIÚP
ÍCH ÐƯỢC GÌ CHO MỸ TRONG
CUỘC
CHIẾN IRAQ HIỆN NAY
Tháng 11 năm 2006 vừa rồi Hoa Kỳ có
cuộc bầu cử quốc hội toàn quốc. Chiến sự tại Iraq trong
tháng 10 bỗng nhiên bùng nổ dữ dội một cách bất thường
làm thiệt mạng chừng 100 quân nhân Mỹ. Nhiều chuyên gia quân
sự và ngay cả Tổng thống George W. Bush đều coi chuyện gia
tăng tấn công là một sự tái diễn của cuộc tổng tiến
công năm Mậu Thân của Việt Cộng năm 1968. Việt Cộng thất
bại về quân sự trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân này
nhưng bất ngờ lại thắng lớn về mặt chính trị là làm
cho dân Mỹ không ủng hộ cuộc chiến của Mỹ tại Việt
Nam nữa và coi như khơi đầu cho chuyện Mỹ rút khỏi Việt
Nam trong những ngày tháng sau đó để cuối cùng đưa đến
chuyện Mỹ hoàn toàn bỏ miền Nam vào tháng 4 năm 1975. Phe
du kích ở Iraq tấn công mạnh để dân chúng chán ngán với
cuộc chiến của Mỹ ở Iraq và từ đó có thể dồn phiếu
cho đảng Dân Chủ ở quốc hội và khi đảng Dân Chủ chiếm
đa số ở quốc hội thì sẽ kềm chế Tổng thống Bush, ngăn
chặn sự tăng cường quân sự ở Iraq và như thế là có lợi
cho phe du kích Iraq. Chuyện xảy ra đúng như dự định của
phe du kích Iraq. Ðảng Dân Chủ thắng lớn ở quốc hội, cả
Thượng nghị viện lẫn Hạ nghị viện và coi như có đủ
nghị sĩ và dân biểu để ngăn chận bằng lá phiếu sự bành
trướng chiến tranh của Tổng thống Bush ở Iraq. Chiến tranh
của Mỹ ở Việt Nam trước đây và cuộc chiến hiện nay
ở Iraq có nhiều điểm tương đồng mà nếu rút tỉa được
những ưu khuyết điểm có thể giúp Mỹ tránh khỏi sự thất
bại nhục nhã như Mỹ từng hứng chịu ở Việt Nam năm 1975.
Ký giả Peter Spiegel có viết một
bài phân tích sâu sắc về những tương đồng và những dị
biệt của hai cuộc chiến Việt Nam và Iraq mà Mỹ dính líu
can thiệp vào. Bài được đăng trên báo Los Angeles times ngày
24 tháng 11 năm 2006. Ông Peter Spiegel cho rằng những cấp chỉ
huy Mỹ hiện nay đang theo đuổi những chiến thuật chủ yếu
lấy ra từ kinh nghiệm chiến tranh Việt Nam. Chiến thuật mới
bao gồm chuyện tăng cường nhiều cố vấn quân sự và nhanh
chóng trao quyền lại cho những lực lượng địa phương trong
khi quân Mỹ rút đi dần dần. Ðó là chiến thuật Mỹ đã
từng dùng khi rút quân khỏi Việt Nam.
Theo đánh giá của lịch sử và
sự hồi tưởng của người Mỹ thì Việt Nam là một cuộc
chiến không thể thắng. Nhưng đối với nhiều người trong
quân đội thì cho rằng cuộc chiến Việt Nam đang trên đà
thắng lợi thì bị Tổng thống Nixon và quốc hội , vì chịu
áp lực từ sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, nên đã
bỏ cuộc: đầu tiên là rút quân Mỹ chiến đấu và sau đó
là ngăn chận những ngân khoản viện trợ cho quân đội miền
Nam.
Nhiều nhà phân tích quân sự tranh
cãi cho rằng nếu không bị cúp viện trợ thì quân đội Nam
Việt Nam vốn được hỗ trợ bởi những cố vấn Mỹ và
đang tiến hành chiến dịch chinh phục " tim , óc " trong những
giai đoạn cuối cuộc chiến, đã có thể ngăn chận phe Cộng
sản miền Bắc. Sự tiến bộ đã bị phá hoại bởi Tổng
thống Nixon khi ông bắt đầu rút quân từ năm 1969 vì bị
áp lực chính trị ở trong nước, dù có nhiều mục tiêu quân
sự mà quân đội Nam Việt Nam chưa chuẩn bị đủ để tiến
hành đánh một mình. Một lỗi lầm khác của Mỹ là sự cắt
giảm viện trợ mạnh mẽ mà quốc hội Mỹ đã làm từ đầu
năm 1974.
Ðối với nhiều chuyên viên quân
sự thì bài học Việt Nam đã quá rõ ràng: Phải duy trì sự
ủng hộ của quần chúng và phải kiên nhẫn. Trong chuyến
đi Việt Nam vừa rồi, Tổng thống Bush bị hỏi là có thể
rút kinh nghiệm gì ở chiến tranh Việt Nam cho cuộc chiến
Iraq. Ôâng Bush không nói đến chiến thuật hay chiến lược
của Mỹ mà thay vào đó, ông chỉ nói về tính thiếu kiên
nhẫn của quần chúng Mỹ và sự thành công trong chiến tranh
có thể đến một cách chậm chạp. Ông nói thẳng, " Chúng
ta sẽ thắng nếu chúng ta không bỏ cuộc ," . Thật ra tính
thiếu kiên nhẫn của quần chúng Mỹ cũng khó mà khắc phục
được khi họ nhìn thấy số thương vong của lính Mỹ mỗi
ngày. Báo chí Mỹ tận tình khai thác sự tổn thất của quân
đội Mỹ và điều này làm cho người dân Mỹ chán ngán với
cuộc chiến tranh Iraq đã kéo dài được 3 năm và không thấy
có viễn tượng chấm dứt. Mỹ chỉ thành công ở những chiến
dịch quân sự khi thi hành trong thời gian ngắn hạn. Ví dụ
cụ thể là cuộc đổ quân vào Grenada và Panama chỉ kéo dài
chỉ có vài tuần. Quần chúng Mỹ chấp nhận sự tổn thất
nhân mạng trong chiến dịch quân sự nhưng họ chán ngán và
ngưng ủng hộ khi thấy cuộc chiến do quân đội Mỹ tiến
hành kéo dài vô thời hạn. Trong một nước dân chủ thật
sự như ở Mỹ , khi người dân không còn ủng hộ chính sách
nào đó của chính phủ, cho dù là dân sự hay quân sự thì
nhà cầm quyền phải thay đổi chính sách đó ngay. Vì nếu
ngoan cố không thay đổi chính sách bị dân phản đối thì
người dân sẽ dùng lá phiếu để thay đổi chính phủ đương
nhiệm bằng một chính phủ mới.
Tuy nhiên khuynh hướng cho rằng chiến
tranh Việt Nam có thể thắng nếu dư luận quần chúng Mỹ
và ý chí chính trị tiếp tục hỗ trợ nỗ lực chiến tranh
là một điều khá xa lạ, đặc biệt là đối với những
sử gia nằm ngoài quân đội Mỹ.
Ký giả Stanley Karnow, một ký giả
từng đoạt giải thưởng Pulitzer và là người từng tường
trình về cuộc chiến tranh từ ngày mà người Mỹ đầu tiên
bị giết ở Việt Nam vào năm 1959 cho đến ngày cuối kết
thúc, nói rằng Hà nội chưa bao giờ ở trong tình trạng đầu
hàng vào năm 1973, là năm mà hiệp định Paris được ký kết.
Karnow cho rằng những người lãnh đạo Mỹ tìm cách viện
cớ này cớ nọ để chứng minh rằng chuyện quân Mỹ tiếp
tục ở lại Iraq là hợp lý. Karnow là tác giả cuốn sách
" Việt Nam: Một lịch sử " ( Việt Nam: A history). Cuốn sách
này được nhiều người coi là bản tường thuật nhận định
chính xác và dứt khoát về cuộc chiến Việt Nam. Ông Karnow
cho rằng, " Theo tôi, cuộc chiến ở Việt Nam là không thể
thắng được vì một lý do đơn giản và căn bản là chúng
ta phải đối đầu với một kẻ thù đã chuẩn bị cho sự
tổn thất nhân mạng không giới hạn. Họ tiếp tục chiến
đấu vô thời hạn."
Trong nhiều năm qua, chuyện thảo
luận về cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm bận rộn nhiều
sinh viên và học giả trong những học viện quân sự và những
trường võ bị. Nhưng với chuyện Ngũ giác đài đang tìm kiếm
những câu trả lời cho cuộc chiến ở Iraq thì những bài
học ở Việt Nam lại càng trở nên được chú ý hơn là chỉ
tranh luận về vấn đề học thuật.
Con đường mà những cấp chỉ huy
quân sự Mỹ đang dò dẫm đi ở Iraq giống như chương trình
" Việt nam hóa chiến tranh " ( Vietnamization) được Tổng thống
Nixon và những chỉ huy quân sự của ông là Tướng Creighton
Abrams thi hành ở Việt Nam.
Tướng chỉ huy quân đội Mỹ ở
Iraq là John P. Abizaid đã trình bày trước Quốc Hội là ông
tiên đoán sự thay đổi lớn nhất trong những tháng sắp tới
là sự tăng cường những cố vấn Mỹ. Ôâng cũng nói thêm
là ông hy vọng sẽ bàn giao trách nhiệm an ninh lại cho những
lực lượng Iraq trong vòng thời gian ngắn không đầy một
năm – thời gian này coi như ngắn hơn thời gian mà Tướng
lục quân George W. Casey tiên đoán nhiều tuần trước đó.
Tướng Abizaid chống đối chuyện tăng thêm binh sĩ Mỹ. Ôâng
cho rằng quân Mỹ càng tăng thêm thì càng ngăn trở người
Iraq làm thêm nhiều việc . Nếu cần thêm quân Mỹ thì số
quân này cần đến để giúp cho quân đội Iraq mạnh thêm.
Ðối với nhiều chuyên viên quân
sự và sử gia cố vấn cho Ngũ giác đài về chính sách ở
Iraq thì chiến thuật trên giống như sự thay đổi của Tướng
Abram ở Việt Nam khi ông thay thế Tướng William C. Westmoreland
năm 1968. Sự sữa chữa này bao gồm chuyện tăng cường thêm
nỗ lực cố vấn và chương trình bình định ( Pacification
program), trong đó có chuyện tăng cường thêm cố vấn Mỹ
cho binh lính Nam Việt Nam. Tất cả đều được tiến hành
vào đầu thập niên 1970.
Những nỗ lực này bị phá hoại
vì ý chí chính trị ở Mỹ, vốn áp lực quân đội Nam Việt
Nam và chính phủ Sài Gòn phải chiến đấu một mình trước
khi họ sẵn sàng. Tướng Westmoreland muốn tiến hành cuộc
chiến bằng quân đội Mỹ; ông cho rằng chuyện nỗ lực cố
vấn cho Nam Việt Nam là chuyện thứ yếu. Khi tướng Abram thay
Westmoreland, ông ta thay ngược hẵn lại chính sách này và nỗ
lực tăng cường chính sách cố vấn và coi đó như là một
phần chuyện phải làm để người Mỹ có thể rút lui.
Tướng Abizaid được biết là đang
học hỏi những kinh nghiệm của Tướng Abram ở Việt Nam.
Cuối năm rồi, ông được biết là có đọc cuốn sách " Một
cuộc chiến tốt hơn " ( A better war) được xuất bản năm
1999 của một chiến binh Mỹ từng tham gia chiến tranh Việt
Nam là ông Lewis Sorley. Ôâng Lewis Sorley cho rằng Abram đang thắng
trước khi bị bỏ rơi bởi những chính trị gia ở Washington.
Chiến thuật " Làm sạch, giữ lại
và xây dựng " ( Clear, hold and build) trong đó quân Mỹ được
giữ lại ở những thành phố chiếm đóng hầu bảo đảm
sự an ninh cho nỗ lực tái xây dựng khởi sự đã được
bà Ngoại trưởng Condoleezza Rice nói đến hơn một năm trước
đây và coi như gần giống với chiến thuật " Làm sạch và
giữ lại " ( clear and hold ) mà Tướng Abram áp dụng không lâu
sau khi ông thay Tướng Westmoreland. Phụ tá của bà Rice là Philip
Zelikow cũng thú nhận là có đọc sách của Sorley.
Cho dù những lời khuyến cáo có
thể thực hiện đang được bàn cãi thảo luận ở Ngũ giác
đài, thì ủy ban hành động được biết là đang tính một
kế hoạch tăng cường ngắn hạn về số lượng binh sĩ Mỹ,
có thể chừng độ 20000 quân để nỗ lực huấn luyện và
cố vấn cho quân Iraq, trong đó bao gồm chuyện tăng cường
quân số lính Iraq.
Ngay cả phía Bắc Việt Nam cũng
thú nhận chương trình Việt Nam hóa và bình định của Tổng
thống Nixon và Tướng Abram đã gây khá nhiều tổn thất cho
họ. Những nỗ lực của chương trình bình định như chiến
thuật đẩy lực lượng quân Nam Việt Nam về vùng quê để
tạo ra một cảm giác an ninh về mặt thực tế cũng như tinh
thần, đã tạo ra sự thành công to lớn vào năm 1972. Quân
đội Nam Việt Nam đã tự đứng vững mà không cần sự giúp
đỡ của quân Mỹ cho đến khi Quốc Hội Mỹ quyết định
cắt viện trợ quân sự cho SàiGòn không lâu sau khi quân đội
Mỹ rút ra khỏi Việt Nam năm 1973. Mỹ đã huấn luyện quân
đội Nam Việt Nam chiến đấu với tiêu chuẩn Mỹ để rồi
sau đó rút lui mọi sự viện trợ, và cuối cùng đưa đến
sự sụp đổ của Nam Việt Nam.
Nhiều chuyên gia quân sự thú nhận
rằng giống như 30 năm trước đây, bất cứ chiến thuật
nào mà quân đội địa phương mới thành lập dựa trên lực
lượng quân sự Mỹ như là một cột trụ có đầy rẫy những
khó khăn về quân sự và chính trị.
Có lẽ chuyện quan trọng nhất giống
Việt Nam là chiến thuật mới được ứng dụng sau vài năm
tiến hành những trận đánh lớn gây ra cái chết cho hàng
ngàn du kích, nhưng nó cũng tạo ra sự cách biệt đối với
dân chúng địa phương.
Thêm vào đó quân đội Nam Việt
Nam và quân đội Iraq cũng khó mà so sánh với nhau. Cho dù quân
đội Nam Việt Nam bị mang tiếng là tham nhũng và bị chính
trị hóa, nhưng đó là một quân đội có sức mạnh thật
sự và đã chiến đấu đánh Cộng sản trong nhiều thập niên.
Ngược lại, quân đội Iraq được xây dựng từ con số không
và không giống như quân đội Nam Việt Nam rõ ràng là chịu
sự chỉ huy của chính phủ ở Sài Gòn, chính phủ Iraq không
hoàn toàn làm chủ quân đội Iraq.
Có lẽ vấn đề nhức nhối nhất
bây giờ, giống như chương trình của Tướng Abram thi hành
từ năm 1968 đến năm 1973, là nỗ lực huấn luyện lực lượng
quân sự Iraq xảy ra đúng vào lúc sự ủng hộ của quần
chúng Mỹ đối cuộc chiến tranh ngày càng giảm dần và những
ngọn gió chính trị đang thổi theo chiều hướng muốn Mỹ
rút quân nhanh ra khỏi Iraq.
Có những điều cần phải chú ý
không thể làm trong một tình trạng quân sự giống như ở
Iraq hay Việt Nam là nếu vi phạm những điều ấy thì sẽ
bị nguy hiểm trầm trọng. Một trong những điều ấy là để
quá lâu mới tìm ra được cách giải quyết trong khi dư luận
Mỹ đã thay đổi và không còn ủng hộ cuộc chiến. Thái
độ ủng hộ hay chống đối của quần chúng Mỹ có ảnh
hưởng rất nhiều đến những chiến thuật quân sự. Không
may thay, thời gian dùng để xây dựng một lực lượng quân
sự Iraq hữu hiệu lại dài hơn thời gian mà quần chúng ủng
hộ cuộc chiến. Có nên có sự trật đường rầy về thời
gian. Sự phản đối của quần chúng Mỹ thường làm cho Ngũ
giác đài bỏ dở chuyện huấn luyện quân Iraq trước khi quân
đội này có đủ sức mạnh chiến đấu.
Cho dù có nhiều trở ngại, có những
dấu hiệu cho thấy chính phủ Bush đang dùng những chiến thuật
của tướng Abram trong chiến tranh Việt Nam là chuyện rõ ràng
hiển nhiên. Tổng thống Bush cũng công nhận là sự thụt lùi
của quân Mỹ ở Baghdad mới đây có thể so sánh với cuộc
Tổng tấn công tết Mậu Thân 1968, là trận chiến giữa quân
Mỹ và Việt Cộng . Và trong thời điểm này quần chúng Mỹ
bắt đầu phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam.
Nhưng cũng có những quan điểm cho
rằng dù có học được những kinh nghiệm quý báu từ Việt
Nam thì bây giờ đã quá trễ và làm quá ít vì Mỹ đã trải
qua 3 năm đi theo một chiến thuật sai lầm nên Ngũ giác đài
đã làm mất sự ủng hộ của quần chúng Mỹ. Chương trình
của tướng Abrams cũng đang tiến hành tốt nhưng rồi cũng
bị bỏ dở vì thiếu sự ủng hộ của quần chúng. Ðó là
điểm giống nhau của chiến tranh Iraq và Việt Nam.
Hơn một năm qua, những cấp chỉ
huy quân sự Mỹ đồng ý với nhu cầu cho cố vấn Mỹ kèm
sát vào những đơn vị quân sự Iraq để giúp làm ổn định
tình hình và từ đó cho phép quân Mỹ từ từ rút ra. Nhưng
chỉ có chừng 5000 trong số 135000 lính Mỹ ở Iraq là thực
sự đóng vai trò cố vấn toàn phần.
Cần phải đưa cố vấn Mỹ lên
tới con số 20000 thì mới có thể tính chuyện rút hầu hết
quân tác chiến Mỹ ra khỏi Iraq vào đầu năm 2008. Nhưng gia
tăng thêm phần huấn luyện và cố vấn không phải là đương
nhiên làm cho Iraq an toàn hơn để mở đường cho quân Mỹ
rút nhanh và gọn. Nhiều chuyên gia quân sự cho biết vai trò
cố vấn cũng có nhiều vấn đề nhiêu khê của nó.
Nếu không có lực lượng tác chiến
Mỹ hỗ trợ gần gũi thì số phận của những cố vấn Mỹ
đi kèm với quân Iraq sẽ khá nguy hiểm. Bài học chiến tranh
Iraq và Việt Nam cho thấy rằng những đoàn quân tác chiến
chỉ có thể rút đi sau khi những cố vấn giúp cải tiến
khả năng chiến đấu của những đơn vị quân sự Iraq. Những
lực lượng tác chiến Mỹ hiện đang kềm chế sự tàn bạo
kịch liệt trên đất nước Iraq. Nếu quân tác chiến Mỹ
rút đi, quân du kích sẽ gia tăng chuyện đặt bom trên đường
và sự tổn thất nhân mạng của dân chúng sẽ leo thang.
Kinh nghiệm của Mỹ ở Việt Nam
cho thấy cần có bài học thận trọng. Gia tăng vai trò cố
vấn quân sự đã làm sức mạnh quân sự của quân đội Nam
Việt Nam tăng trưởng rất nhiều trong những năm cuối của
cuộc chiến tranh. Nhưng có một số học giả quân sự tranh
luận cho rằng sự giảm quân tác chiến Mỹ trong ba năm đã
làm suy giảm đến những tiến bộ mà những cố vấn quân
sự thành đạt được.
Ở Iraq những nỗ lực để giảm
quân số tác chiến Mỹ đóng ở miền quê không phải không
có vấn đề. Kế hoạch này bị đóng lại khi có sự bạo
loạn mãnh liệt xảy ra ở Baghdad vào mùa hè này. Những cấp
chỉ huy Mỹ buộc phải đưa thêm quân vào.
Vấn đề nhức đầu cần phải
giải quyết nữa là sự sẵn sàng chiến đấu của quân đội
Iraq. Có sự nghi ngờ về tình trạng sắc tộc và sự trung
thành trong quân đội Iraq cùng vấn đề lãnh đạo, võ khí
trang bị và nhân lực.
Những vấn đề này đã cho thấy
không phải chỉ đơn giản gia tăng số cố vấn Mỹ vào những
đơn vị Iraq là có thể chuyển hóa ngay lập tức quân đội
hay cảnh sát Iraq thành một lực lượng có khả năng chiến
đấu. Những lực lượng này có rất ít tinh thần chiến đấu
và rất ít bản sắc quốc gia dân tộc.
Cho tới bây giờ chuyện huấn luyện
cho những lực lượng Iraq được tiến hành một cách chậm
chạp. Ngay cả những đơn vị được sự giúp đỡ mạnh mẽ
tận tình từ nhiều lực lượng Mỹ khác nhau, trong đó bao
gồm những huấn luyện viên Mỹ sống và làm việc với những
binh sĩ Iraq. Cũng phải mất hơn một năm mới có thể huấn
luyện xong những hoạt động đơn giản chống du kích cho những
cuộc hành quân nhỏ. Rồi lại có chuyện cố vấn tài giỏi
và yếu kém nữa và chuyện những cố vấn khi được gửi
đi sẽ bị rầy rà hay nề hà nhiệm vụ nhiều khi không tương
xứng với cấp bậc trong quân đội của mình.
Mỹ hiện nay ở trong tình trạng
tiến thoái lưỡng nan ở Iraq. Mỹ khó có thể chiến thắng
bằng quân sự nhưng nếu rút lui kiểu tháo chạy thì sẽ làm
cho tình hình bất ổn và rối rắm thêm ở vùng Trung Ðông.
Không những Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld là một người
không có khả năng điều hành chiến tranh ( Ôâng Rumsfeld vừa
bị giải chức sau khi Ðảng Dân Chủ thắng ở Quốc Hội)
mà cả Tổng thống Bush và Phó tổng thống Cheney cũng bất
lực trong việc giải quyết cuộc chiến tranh ở Iraq. Giờ
này trong thâm tâm có lẽ Mỹ không còn nghĩ đến chuyện chiến
thắng vinh quang ở Iraq nữa mà chỉ mong muốn rút quân êm
đẹp. Chuyện rút quân thì dù chính phủ Bush không muốn làm
thì Quốc Hội do phe Dân Chủ mới thắng lớn trong kỳ bầu
cử vừa qua, sẽ áp lực ông Bush phải rút quân trong những
ngày tháng sắp tới.
Mỹ dính líu vào cuộc chiến tranh
Việt Nam với mục đích là ngăn chặn làn sóng đỏ Cộng
sản lan tràn trên khắp thế giới. Dù sao đó cũng là lý do
chính đáng. Còn chuyện Mỹ tấn công Iraq dựa trên lý do Iraq
có vũ khí hủy diệt là một lý do sai lầm vì sau này Mỹ
không tìm thấy có vũ khí tàn phá lớn gì cả. Trong khi Bắc
Hàn thử bom nguyên tử thì Mỹ không dám làm gì Bắc Hàn cả.
Cái cung cách xử sự của Mỹ như thế thì không thể tạo
được sự kính trọng của các nước trên thế giới được.
Giờ đây sau 3 năm chiếm đóng Iraq và đang phải đối diện
với những khó khăn không vượt qua nổi kèm với con số tử
vong của lính Mỹ đã lên tới trên 2900 người, Mỹ đang tính
chuyện rút quân..trong " danh dư ". Ðó là thứ " danh dự " của
Mỹ được thế giới nhìn thấy khi Mỹ tháo chạy nhục nhã
khỏi miền Nam Việt Nam cách đây hơn 30 năm !
Los Angeles, một ngày tạnh ráo mùa
thu giữa tháng 12 năm 2006
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
* Muốn đọc tất cả những bài
viết của Trần viết Ðại Hưng thì xin vào www.nsvietnam.com,
rồi bấm vào tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái.
|