GÓP
Ý VỚI SỬ GIA WILLIAM J DUIKER
VỀ
CUỘC ÐỜI HỒ CHÍ MINH
(Cập nhật hóa ngày 13/03/2004;
Sửa chữa lần chót ngày
14/03/04)
Cách đây
không lâu, giới nghiên cứu
lịch sử hải ngoại có dịp
đón chào một cuốn sách nghiên
cứu về Hồ chí Minh của Học
giả William J. Duiker. Học giả Duiker dã bỏ
ra trên 20 năm trời, đi khắp
các thư khố Pháp, Liên Xô và
Việt Nam để tìm tòi những
tài liệu liên quan đến Hồ chí
Minh và từ đó vẽ lại
chân dung Hồ chí Minh từ khi sinh ra
đời cho đến khi qua đời.
Cuốn sách được nhiều học
giả nghiên cứu về Việt Nam hết
lời khen tặng. Nhà báo Stanley Karnow
cho rằng đã có nhiều cuốn
sách viết về Hồ chí Minh nhưng
chưa có cuốn nào có thể so
sánh với cuốn sách viết về
Hồ chí Minh của ông Duiker. Ông Duiker
đã tìm tòi nghiên cứu
tỉ mỉ, kỹ càng, nhận định
sâu sắc và đọc nhiều nguồn
tài liệu nên đã cuối cùng
đã " giải mật " được
một nhân vật được coi là
độc đáo, bí ẩn gây nhiều
tranh luận và ảnh hưởng nhất
trong thế kỷ 20. Học giả Douglas Pike cho rằng,
" Qua nhiều thập niên quả có một
âm mưu ngăn chặn không cho chúng
ta biết được sự thật chủ
yếu của con người Hồ chí
minh. Sự thật Hồ là một con người
dễ ngưỡng mộ và là một
người dễ ghét. Trong thời
gian ông còn sống, ông cũng không
giúp cho thế giới hiểu ông
nhiều hơn vì ông muốn đóng
một vai trò là người muôn
mặt nên tạo hỏa mù cản trở
những cố gắng của thế giới
bên ngoài muốn tìm hiểu ông.
Chuyện bạch hóa mọi sự thật
không phải là một việc làm dễ
dàng gì, nhưng học giả Willian J. Duiker
đã làm được chuyện
đó. Ông ta đã cung cấp đủ
thông tin cho chúng ta để chúng ta
tự quyết định chứ ông
cẩn thận tránh lối kết luận
giáo điều cứng ngắt mà
nhiều người thường làm.
Ðây là một cuốn tiểu sử
đầy tư liệu thông tin, có căn
cứ đích xác và thẩm quyền,
một loại hồi ký nghiêm túc."
Nhà nghiên cứu Frances Fitzgerald nhận
định ông Hồ là một nhà
nhân bản Khổng giáo và là
một nhà cách mạng Cộng sản, ông
là kiến trúc sư của nền độc
lập Việt Nam, đã tiến hành cuộc
chiến đấu chống lại Pháp,
Mỹ và chính quyền Sài Gòn,
Hồ chí Minh quả là một nhân
vật chính trị có ảnh hưởng
nhiều nhất trong thế kỷ 20. Nhưng dù
sau cái chết của ông năm 1969 - cùng
trong những năm có quân đội
Mỹ chiến đấu ở Việt Nam
- ông vẫn giữ hình ảnh là
cái bóng mờ, cuộc đời
và nghề nghiệp của ông bao quanh bởi
huyền thoại và đội lốt vô
số vai trò mà ông phải đóng
trong những năm lưu đày và
trong đời du kích ở Việt
Nam. Nhà báo Pháp Jean Lacouture viết như
sau trong hồi ký xuất bản năm 1967
như sau, " Những gì chúng ta biết
về ông Hồ trước năm 1941
đều là những mảnh rời
rạc, gây nhiều tranh cãi và gần
đúng thế thôi." Nhà nghiên
cứu Frances Fitzgerald cám ơn ông Duiker
bởi vì nhờ cuốn biên khảo
tiểu sử Hồ chí Minh của ông,
cuộc đời Hồ không còn
tối tăm như trước mà đã
tương đối sáng tỏ.
Duiker là một giáo
sư đại học môn Sử đã
về hưu, trước đây ông
từng là viên chức phục vụ
tại Tòa Ðại sứ Mỹ ở
Sài Gòn vào giữa thập niên
1960. Ðể biên soạn cuốn sách
về Hồ chí Minh, Duiker đã bỏ
ra trên 20 năm thu thập tin tức mới
từ những cuộc phỏng vấn
và từ những văn khố ở
Việt Nam, Trung Hoa, và Mỹ. Trước
đây đã có những sử
gia Tây phương nghiên cứu về
Hồ như một con người và xem
xét ảnh hưởng bối cảnh
văn hóa của cuộc cách mạng do
Hồ tiến hành, nhưng Duiker mới
là người không những ghép
lại những khoảng trống trong đời
Hồ mà còn cung cấp những dữ
kiện về Hồ như là một nhà
ngoại giao và chiến lược gia.
Cuộc chiến tranh
Việt Nam là một biến cố trọng
đại trong lịch sử Hoa kỳ vào
thế kỷ 20. Nhưng cuốn sách hồi
ký về cuộc đời Hồ chí
Minh của Duiker đã nhắc nhở
chúng ta là vấn đề lớn
cho người Việt Nam, cũng như cho
những người khác trên hành
tinh này, là phản ứng ra sao đối
với sức mạnh thực dân
và sự phá hủy của xã hội
truyền thống. Hồ chí Minh đã
dâng trọn đời mình cho nhiệm
vụ ấy.
Thời niên
thiếu của Hồ diễn ra trong một thế
giới loạn lạc và xáo trộn.
Ông sinh năm 1890, chỉ 5 năm sau khi người
Pháp thiết lập sự kiểm soát
cai trị trên toàn cõi nước
Việt Nam một cách vững chắc. Ông
sinh ở vùng Nghệ An, một vùng
núi non đẹp đẽ nhưng nhỏ
hẹp và hiểm trở. Ðây là
một trong những vùng đẹp nhất
nước nhưng nó cũng là vùng
nghèo khổ và có truyền thống
cách mạng nổi dậy nhiều nhất.
Cha của Hồ là một viên quan lại,
đã dạy cho Hồ tiếng Hán và
nhiệm vụ của một kẻ sĩ trong đạo
Khổng. Theo Duiker, thân sinh ông Hồ là
cụ Sắc có quen biết lâu năm
với những người khoa bảng
học rộng như Phan bội Châu và Phan
chu Trinh, đó là những nhà
tranh đấu quốc gia quan trọng nhất
trong hai thập niên đầu của thế
kỷ 20. Ông Duiker cho rằng cha Hồ bất
mãn với quan triều và từ
đó quyết định nghỉ việc
nhưng các tài liệu sau này cho thấy
cha Hồ bị cho nghỉ việc vì say rượu
đánh chết người. Hồ được
cha gửi vào trường Quốc
Học ở Huế với ước
mong là Hồ sẽ theo gương quân
sư Nguyễn Trãi thời thế kỷ
15, nghĩa là học hỏi để hiểu
kẻ thù thì mới đánh
bại kẻ thù được.
Khi Hồ và học
trường danh tiếng Quốc Học năm
1907, ông đã là một người
có khuynh hướng nổi dậy. Có
lời kể ông bị đuổi ra
khỏi trường vì đã ủng
hộ nhân dân xuống đường
biểu tình chống lại thuế nông
nghiệp cao và lao động khổ sai. Lại
có dư luận giải thích rằng vì
cha ông bị đuổi việc nên ông
phải rời trường Quốc Học.
Ông đi về phía Nam, làm đủ
thứ nghề lặt vặt để sống
qua ngày.
Năm 1911, ông vào
làm bồi bếp trên một chiếc
tàu thủy dự định sẽ đi
tới Pháp với cái tên
là " Ba ", đây là biệt danh đầu
tiên của ông trong số 50 biệt danh ông
lấy sau đó trong quãng đời
làm cách mạng. Ông tâm sự
về sau với một nhà báo Liên
xô là, " Tôi muốn trở nên
quen biết với nền văn hóa
Pháp để xem thực tế có
giống như những lời hoa mỹ
trên sách báo không "
Hồ đi khắp
các hải cảng từ Á châu
sang Phi châu, ghé New York và London. Ông
có ở lại New York một thời
gian, làm nghề lao động và có
sinh hoạt với Hội Quốc Tế cải
tiến sự tin tưởng cho người
da đen của Marcus Garvey ở khu Harlem.
Tại London, ông làm
bếp phụ cho ông đầu bếp Auguste
Escoffier tại khách sạn Carlton. Tới
cuối thế chiến thứ nhất ông
định cư ở Paris, nơi được
coi là trái tim của đế quốc
Pháp. Trong khi làm nghề sửa ảnh,
ông lập ra Hội Người Việt lưu
vong, lên án sự đối xử
tàn bạo của thực dân Pháp
ở thuộc địa trong những buổi
họp của Ðảng Xã Hội Pháp.
Năm 1919 ông đưa một kiến nghị
lên những chính phủ Ðồng
Minh tại hội nghị Versailles, yêu cầu
họ thi hành quyền dân tộc tự
quyết cho Việt Nam mà Tổng Thống Mỹ
Woodrow Wilson đề ra. Chỉ có cảnh sát
Pháp là lưu ý đến bản
kiến nghị và tác giả của nó
là Nguyễn ái Quốc! Họ theo dõi
Hồ khắp mọi nơi dù Hồ chỉ
là một thanh niên yếu đuối,
nghèo khổ giống như anh hề Chaplin
trên màn bạc.
Duiker căn cứ
nhiều vào những nguồn tin tình
báo, phần lớn của Pháp, Anh,
Trung Hoa và từ những điệp
viên trong Quốc Tế Cộng Sản, dĩ
nhiên là nhiều tin tức hơn là
là từ FBI hay CIA. Từ những
tài liệu ấy, Duiker đã tìm
ra những chi tiết phong phú. Một gương
mặt xuất hiện từ đống tài
liệu ấy là Nguyễn ái Quốc,
đây là biệt danh mà ông Hồ
dùng trong 25 năm trời ,đi qua các
lục địa, xây dựng liên minh,
khắc chế kẻ thù và dần xây
dựng nên một đảng để
làm cho giấc mơ của ông được
thành sự thật, ông là một
nhân vật có hàng trăm biệt danh
bị hàng ngàn cảnh sát ngày
đêm dòm ngó và săn đuổi.
Hồ lần đầu
tiên nhắm tới viễn tượng
một nước Việt Nam độc lập
là vào năm 1919 tại Versailles, khi ông
cầu khẩn những cấp lãnh đạo
đồng minh phải thi hành lời
kêu gọi của Woodrow Wilson nhắm tới
chuyện làm sao cho xứ Ðông Dương
của người Pháp được
có quyền tự quyết ( self - determination
). Lúc ấy ông mới có 28 tuổi.
Ông là con một viên quan tri huyện tên
Nguyễn sinh Huy. Thật ra anh thanh niên Nguyễn
tất Thành lên tàu sang Pháp năm
1911 không phải là để tìm đường
cứu nước mà bởi vì
bố anh, đầu năm 1910 bị một
án kỷ luật nặng, mất chức
tri huyện Bình Khê, bị hạ bốn
cấp trong ngạch quan lại, bị đuổi
ra khỏi giai cấp quan lại vì cái tội
say rượu, đánh chết một nông
dân tên Tạ đức Quang. Ông
huyện Huy từ đó mất nguồn
sinh sống, phải lang thang làm nghề thầy
lang bốc thuốc khá mất thể diện,
nên ông không bao giờ trở
về Huế và về làng Kim Liên
( Nghệ An) nữa. Anh Thành đang học
trung học, đành phải bỏ học tìm
đường tự cứu mình
và cứu gia đình. Anh làm bồi
bếp tàu thủy, làm bánh ngọt
ở Luân Ðôn, viết thư xin
vào trường học Trường
Thuộc Ðịa, gửi đơn xin viên
khâm sứ Trung Kỳ để mong ông
này rủ lòng thương mà cho bố
anh đi làm lại, dù làm huấn
đạo hay làm biện cũng được.
Phải tới 7, 8 năm sau ở Pháp,
sống bằng nghề rửa ảnh, tiếp
xúc với một số người
Việt như các ông Phan văn Trường,
Phan chu Trinh, Nguyễn thế Truyền thì anh
Nguyễn tất Thành mới dấn
thân đi làm chính trị. Ở
Paris, anh bắt đầu thăm dò dư
luận quần chúng về những tội
ác do thực dân Pháp gây ra ở
Việt Nam. Anh tham gia Ðảng Xã Hội Pháp
và có cảm tình nhiều với
đảng này và sau đó trở
thành đảng viên sáng lập Ðảng
Cộng sản Pháp.
Versailles là nơi
đầu tiên mà Hồ nỗ lực
thuyết phục những chế độ
dân chủ Tây phương tôn trọng
những tự do mà họ theo đuổi.
Nhưng " những quyền thiêng liêng
để quyết định số phận
của riêng mình " ( chữ của ông
Hồ năm 1919) đã không được
áp dụng cho những người ở
các nước nô lệ ở lúc
đó và cũng không áp dụng
cho đến cuối thế chiến 2, khi mà
những lời hứa hẹn tương
tự của Tổng thống Franklin Roosevelt được
đưa ra.
Ông Duiker hình như
đã không chú ý nhiều đến
giai đoạn ông Hồ ở Trung Hoa,
nơi mà Hồ đã sống phần
lớn thời gian trong thập niên
20, 30 và 40. Hồ làm việc với
Mikhai Borodin, vốn là người buôn
vũ khí của Stalin bán cho Tưởng
giới Thạch. Trong thời gian này
Hồ đóng vai một thương gia người
Hoa mang tên Ling. Năm 1945 tại Côn Minh, là
Tổng hành dinh của Không đoàn
số 14 của Mỹ, Hồ gia nhập vào
cơ quan tình báo Mỹ OSS, được
đặt cho bí danh là Lucius. Ðể
đổi lại tin tức tình báo
về quân Nhật ở Việt Nam, người
Mỹ cung cấp một số súng ống
loại nhẹ cùng huấn luyện cho Mặt
trận Việt Minh của ông. Ðây là
một giai đoạn có nhiều chuyện
lý thú nhưng ông Duiker dường
như không mấy quan tâm đến.
Ðể tìm một
phương tiện chống lại thực dân
Pháp tại quê nhà Việt Nam, Nguyễn
tất Thành đã tới với
Quốc Tế Cộng Sản trong khi Quốc Tế
Cộng Sản cũng đang muốn đi tìm
một tổ chức Việt Nam để chống
Pháp.Sau hội nghị Versailles năm 1919, chủ
thuyết Cộng Sản của Ðảng Cộng
Sản Nga dần dần thúc đẩy chuyện
lật đổ những chính phủ thực
dân hồi ấy không những ở
Pháp mà còn ở Anh và ở
Ý nữa. Vào lúc ấy Phi Châu
bị chia thành những thuộc địa
của những quyền lực Âu Châu,
một số nước ở Ðông
Nam Á cũng bị rơi vào hoàn
cảnh tương tự. Miến Ðiện,
Mã Lai, Singapore, Bắc Borneo ( ngày nay là
tỉnh Sabah của Mã Lai ) và Hồng Kông
trở thành thuộc địa của
Anh. Indonesia là thuộc địa của Hòa
Lan, Việt Nam, Lào và Cam bốt bị thực
dân Pháp chiếm.
Vào lúc đó,
trong Ðảng Cộng Sản Nga, không có
sự liên minh chính trị nào với
thành phần quốc gia hay những đảng
không Cộng sản ở bất cứ
nơi đâu trên thế giới.
Trong hoàn cảnh đó, Hồ chí
Minh được chú ý đến
và mở đầu cho những hoạt
động cách mạng sau này. Ðảng
Cộng Sản Nga hồi ấy đề ra nỗ
lực để lật đổ những
chính quyền thuộc địa, đồng
thời không muốn dính líu vào
những hoạt động " quốc gia thuần
túy ". Cho nên chủ nghĩa quốc gia
của Hồ đã bị rơi vào
quên lãng.
Trong những năm
đầu thập niên 1930, Hồ không
được các cấp lãnh đạo
Nga sô ở Moscow sủng ái, bởi
vì chủ nghĩa quốc gia trong đầu
óc Hồ mạnh mẽ hơn nên đã
đè bẹp chủ nghĩa Stalin ( Stalinism).
Stalin thì lại đang củng cố quyền
lực trong Liên Bang Sô Viết thời
đó. Hồ có vẻ không thích
những cuộc đấu đá chính
trị xảy ra ở Moscow trong thập niên
1930 mà chỉ chú ý đến tình
hình ở quê nhà. Vì thế
Hồ bị Nga sô lơ là không để
ý đến.
Lúc ấy hoàn
cảnh chính trị ở Pháp không
giống như những gì xảy ra ở
Việt Nam, mà giống như những gì
đang xảy ra ở phía bên kia biên
giới Pháp, tức là ở
nước Ðức. Chế độ
Phát-xít Ðức ngày càng
hiếu chiến, và viễn cảnh Pháp
lại sẽ phải đối đầu
với Ðức một lần nữa
đã bắt đầu ló dạng
cuối chân trời.
Vào cuối thập
niên 1930 thì tại Moscow giới lãnh
đạo Ðảng Cộng Sản Nga có
sự thay đổi đường lối
về chuyện hợp tác với "
những người quốc gia ". Họ
không còn ruồng rẫy những đảng
phái quốc gia như trước nữa.
Khoảng thời gian này là khoảng
vào năm 1936 và Hồ lại được
Ðảng Cộng Sản Nga ở Moscow tin
dùng trở lại.
Quan trọng hơn nữa
là chuyện cấp lãnh đạo Sô
Viết ký hiệp ước " bất
tương xâm " với Phát - xít
Ðức vào tháng 8 năm 1939. Ðảng
Cộng sản Nga đổi từ thái
độ từ khước sang thân
thiện với những đảng phái
chính trị ở những thuộc địa
Âu châu. Vấn đề trở nên
phức tạp hơn khi Liên Bang Sô Viết
ký thêm một hiệp ước " bất
tương xâm " với Thiên Hoàng
Nhật vào tháng 4 năm 1942, khoảng chừng
1 năm sau khi Phát - xít Ðức
tấn công Pháp. Người ta cho rằng
Liên Bang Sô Viết lúc ấy cần
tất cả tài lực, vật lực
để trấn giữ biên giới
phía Tây của mình. Hồ chí Minh
lúc ấy đang làm công tác
cho Borodin ở Thượng Hải, nghĩa
là đang làm việc cho người
Nga, dù Hồ đã dính líu với
Ðảng Cộng sản Pháp từ lâu,
Hồ là một trong những sáng lập
của Ðảng này vào tháng 12
năm 1920. Từ đó ông ta hay tới
những đại hội tổ chức
ở Liên Bang Sô Viết trong thập
niên 1920 với những câu hỏi
về " vấn đề quốc gia ". Do đó,
ông ta bị mất cảm tình với
Ðảng Cộng sản Nga trong những năm
đầu thập niên 1930 , nhưng lại được
tin dùng trở lại khi Ðảng Cộng
sản Nga thay đổi đường lối
về chuyện hợp tác với những
đảng phái không cộng sản, nếu
những đảng này thật lòng
muốn chống lại Phát xít Ðức.
Chuyện diễn ra đâu đó trong
khoảng thời gian từ 1936 đến
1939.
Nói đến
Stalin thì trong cuốn sách, Duiker có kể
chuyện khi Hồ gặp Stalin, Hồ có yêu
cầu Stalin ký trên một cuốn tạp
chí " Nước Nga đang xây dựng
" do Nga xuất bản để lưu niệm.
Nhưng sau đó Stalin cho mật vụ đến
phòng ngủ của Hồ để lấy
lại cuốn tạp chí có chữ
ký Stalin này. Nói như thế để
thấy Stalin khinh thường và coi rẻ
Hồ như thế nào. Thủ tướng
Nga Krushchevs cũng có mặt lúc Stalin gặp
Hồ và sau này viết hồi ký
cũng nói lên chuyện Stalin đối
xử tàn tệ và khinh bỉ Hồ
như thế nào. Có lẽ nhà thơ
Tố Hữu không biết chuyện này
nên khi Stalin chết đã khóc Stalin
mấy vần thơ tâng bốc lên tới
trời xanh !( Mấy câu thơ ấy
là: "Ông Xít-ta-lin ơi, ông Xít-ta-lin
ơi, Nghe tin ông mất đất trời
còn không. Thương cha thương mẹ
thương chồng. Thương mình thương
một, thương ông thương mười
( Tố Hữu )" ).
Trong hồi ký "
Krushchev nhớ lại " ( Krushchev Remembers " xuất
bản năm 1990 , Krushchev đã viết về
Hồ chí Minh như sau, :
" Chúng tôi đã
thành thật và không ngần ngại
trong mọi nỗ lực để giúp
Việt Nam, và sự căng thẳng đối
với chúng tôi do những thành
phần thân Trung Cộng ở Việt Nam
gây ra quả là một viên thuốc
đắng khó nuốt. Tại sao tôi
lại mang chuyện này ra bây giờ?
Tôi mang nó ra vì nó liên hệ
tới một vấn đề chứa
đựng những gì chúng ta có
thể mong đợi hiện nay khi Hồ chí
Minh đã chết.
Theo những gì
tôi đọc trên báo, những
quan hệ giữa Việt Nam và Liên xô
đều thuận tiện, trôi chảy. Những
phái đoàn Việt Nam đang thăm
viếng Liên xô, và có những
phái đoàn báo chí của chúng
ta tới Việt Nam để tường
thuật về cuộc đấu tranh của nhân
dân Việt Nam. Những bài tường
thuật của họ được loan tải
trên báo chí cũng như trên truyền
hình và phim thời sự.
Nhưng có một
vài thông tin cho tôi biết thật ra
mọi chuyện không được trôi
chảy và êm thắm như báo chí
đã loan và truyền hình đã
chiếu. Theo những tin tức tôi
được biết, phía Việt Nam đang
tỏ bày một sự tự chế
không được bảo đảm
lắm đối với chính phủ
và Ðảng Cộng sản Liên xô.
Ðiều đó có nghĩa là
lực lượng thân Trung Cộng vẫn
còn tồn tại trong chính phủ Việt
Nam và ở trong tầng lớp lãnh
đạo của Ðảng Lao Ðộng Việt
Nam. Ở bên ngoài ai cũng nghĩ
là những sự liên hệ thân
thiện và sự hiểu biết hỗ
tương đang phát triển giũa Việt
Nam và Liên xô. Nhưng điều có
thể xảy ra là sự biểu hiện
bên ngoài này chỉ là cái vỏ
bày ra do đám lãnh đạo Việt
Nam tạo nên – ngay cả có thể có
sự chúc lành của phía Trung Cộng
– để không bị mất sự giúp
đỡ của Liên xô và những
Ðảng Cộng sản anh em khác. Tôi
tin chắc đó không phải là
chuyện đang xảy ra , dù tôi vẫn
nghĩ là nó vẫn có thể xảy
ra. Tôi muốn tin rằng Việt Nam thật
sự muốn có những mối quan
hệ tốt đẹp với Liên xô,
nhưng tôi không nghĩ rằng Trung Cộng
sẽ buông tha Việt Nam ra khỏi móng
vuốt của họ, và như thế là
những lực lượng thân Trung
Cộng sẽ còn duy trì sức mạnh
ở Việt Nam. Họ làm tất cả
những gì có thể làm mà
Trung Cộng muốn.
Giờ đây,
với cái chết của đồng
chí Hồ chí Minh, ảnh hưởng
thân Trung Cộng lớn mạnh theo kiểu
truyền nhiễm sẽ lan rộng ra một cách
độc địa hơn bao giờ hết.
Nếu nó xảy ra, thì đó là
một điều đáng tiếc lớn,
và nó sẽ là một thông điệp
kém cỏi gửi đến đồng
chí Hồ chí Minh, là người
đã đầu tư nhiều suy nghĩ
và nỗ lực trong chuyện tăng cường
sự thân thiện của quốc gia ông
với Liên xô.
Từ khi Hồ
chí Minh chết, đã có nhiều
diễn văn và bài tường
thuậ tđược viết bởi
những người có những
chính kiến chính trị khác nhau, tất
cả đều muốn trả lời
những câu hỏi hiện nay đang làm
nhiều người bận tâm: Việt
Nam sẽ phát triển những mối
quan hệ với Liên xô như thế
nào? Với những quốc gia tư
bản ra sao? Liên hệ kiểu gì với
những Ðảng Cộng sản có
quan điểm khác với Mao trạch
Ðông? Những mối quan hệ của
Việt Nam sẽ phát triển như thế
nào dưới sự lãnh đạo
của Ðảng Cộng sản Trung Cộng?Những
thay đổi gì sẽ xảy ra ở
đây trong những chính sách của
Việt Nam? Giờ đây tôi muốn
chia sẻ những cảm tưởng về
những gì mà tôi đã được
đọc và nghe cùng cố gắng diễn
tả suy nghĩ của riêng tôi về
những viễn cảnh của sự phát
triển quan hệ giữa Liên xô và
Việt Nam.
Dĩ nhiên không
ai tiên đoán được những
gì sẽ xảy ra. Có những dấu
hiệu cho thấy những gì mong đợi
kế tiếp, nhưng chúng ta phải cẩn
thận về chuyện tiên đoán vì
không có gì là miên viễn,
thường hằng cả. Mọi chuyện
đều luân lưu, thay đổi liên
tục. Mọi chuyện có thể chuyển biến
bất cứ lúc nào. Chẳng hạn
như trước đây Liên xô
và Trung Cộng có một mối giao hảo
tốt đẹp không lầm lỗi. Ngay
cả mối liên hệ giữa các
cấp lãnh đạo Liên xô và
Mao trạch Ðông cũng rất tốt
đẹp. Nhưng bây giờ tất cả
đều thay đổi. Chuyện tương
tự có thể xảy ra với Việt
Nam. Mối liên hệ của chúng ta lúc
đầu rất tốt; và nếu rồi
đây nó trở nên tồi tệ
đi, thì đó không phải là
lỗi của Ðảng Cộng sản Liên
xô. Ðúng hơn, tôi tin đó
là hoàn toàn kết quả của
bản thân Mao trạch Ðông và ảnh
hưởng của ông trên Việt Nam.
Những văn
kiện tạo cho tôi một sự căn
bản trong chuyện tiên đoán tương
lai của Việt Nam căn cứ vào cái
gọi là " di chúc Hồ chí Minh " và
bài diễn văn nổi tiếng của
Lê Duẩn. Tôi đọc hai văn kiện
kia đến hai lần, và tôi rán
đọc kỹ để có thể diễn
dịch đúng đắn chúng.
Trong Di Chúc của
Hồ chí Minh không nói gì đến
sự giúp đỡ to lớn,
không tính toán mà Liên xô
đã dành cho Việt Nam. Sự giúp
đỡ của chúng ta là một
nhân tố quyết định, vì nếu
không có sự giúp đỡ
của Liên xô, Việt Nam không thể
sống còn dưới những điều
kiện của chiến tranh hiện đại để
chống lại một kẻ xâm lăng giàu
mạnh như Mỹ. Ðể có thể
nhận được vũ khí và
dụng cụ, Việt Nam không có lựa
chọn nào hơn là phải dựa
vào Liên xô. Ðể có thể
đạt được chiến thắng,
họ phải có những vũ khí
thích hợp, và những vũ
khí này họ chỉ có thể có
từ Liên xô. Trung Cộng không thể
cho Việt Nam những gì Việt Nam cần
hôm nay. Báo chí thế giới,
ngay cả những kẻ thù của Chủ
nghĩa Cộng sản, cũng phải công
nhận rằng Việt Nam không thể tiến
hành chính sách kháng cự võ
trang chống lại xâm lược Mỹ
nếu không có sự giúp đỡ
kinh tế và vật chất từ Liên
xô. Lấy ví dụ như quân đội
Bắc Việt Nam bắn một hỏa tiễn
vào một căn cứ không quân
Mỹ. Thường thì những hỏa
tiễn ấy không thể chế tạo từ
trong những rừng Việt Nam. Chúng
đến từ những cơ xưởng
ở Liên xô. Liên xô thường
giúp bất vụ lợi cho tất cả
những lực lượng và cho
tất cả những người chiến
đấu cho độc lập , tự do kinh
tế và chính trị của mình và
chống lại sự xâm lược
của đế quốc.
Mới gần
đây, ngay cả những thành phần
thân Trung Cộng ở Việt Nam đã
bắt đầu hiểu được
sự cần thiết của tình bạn
với Liên xô và truyền thống
Hồ chí Minh được phần nào
tái lập. Người Việt Nam đã
hành động khôn ngoan khi họ tái
định hướng những chính
sách của họ. Tôi nói " tái
định hướng" vì họ không
thay đổi chính sách một cách
căn bản, họ chỉ" tái định
hướng" nó- ước tính
sự cần thiết của chuyện tiếp
tục chiến tranh đến tương lai và
ý thức được rằng chỉ
có Liên xô, chứ không phải
Trung Cộng, có thể giúp họ sự
hỗ trợ mà họ cần đến.
Ngày nay, cuộc
chiến đấu ác liệt vẫn kéo
dài và chiến thắng vẫn còn
xa. Nhưng ánh sáng của sự chiến
thắng của Việt Nam đối với
đế quốc Mỹ có thể dã
được nhìn thấy ló dạng
cuối chân trời. Cho nên nỗ
lực của chúng ta không nên giảm.
Mọi thứ đều phải được
tận dụng để mang cuộc đấu
tranh của người Việt Nam đến
thắng lợi cuối cùng. Có nhiều
nguy hiểm trong cuộc chiến này hơn là
tương lai của người Việt Nam.
Người Việt Nam đang đổ máu
và mất mạng vì lợi ích
của phong trào Quốc Tế Cộng Sản.
Liệu những người kế thừa
Hồ chí Minh có đủ sự thông
minh đưa cuộc đấu tranh này đến
thành công hay không? Chỉ có thời
gian mới trả lời được
điều này
( Hồi ký Khrushchev
( Khrushchev remembers ) trang 485, 486, 487) Bản tiếng
Anh..xuất bản năm 1990
( Sau khi Hồ chết,
trong khi Khrushchev viết những hàng này
để tả lại không khí thời
bấy giờ thì lúc đó,
Thủ tướng Liên xô Aleksei Kosygin
và Thủ tướng Trung Cộng Chu ân
Lai gặp nhau ở phi trường Bắc
Kinh. Kosygin vừa trở về từ
đám tang Hồ. Không có kết
quả tích cực nào từ cuộc
gặp gỡ này, và những cuộc
chạm trán giao tranh nhỏ giữa quân
đội Liên Xô và Trung Cộng và
từ từ biến thành những
trận đánh lớn vào cuối
năm 1969 và1970. Sự lo ngại của
Khrushchev rằng Việt Nam sẽ ngả về
phía Trung Cộng đã không thật
sự xảy ra. Thay vào đó Việt
Nam ký một hiệp ước thân
hữu và cộng tác với Liên
xô vào ngày 3 tháng 11 năm 1978.
Ðể đổi lại viện trợ
kinh tế và quân sự, Việt Nam cho
phép Liên xô dùng căn cứ
cũ của Mỹ ở vịnh Cam Ranh. Vào
tháng 2 năm 1979, chừng 85000 quân Trung
Cộng vượt qua biên giới Hoa-
Việt để đánh vào Việt
Nam. Bắc Kinh gọi cuộc xâm lăng là
" đánh trả để tự vệ
" chống lại " quân xâm lược
Việt Nam ". Có người cho là lý
do Trung Cộng đánh Việt Nam là để
trả thù cho đàn em Khmer đỏ
ở Kampuchia vì năm 1978 Việt Nam đem
quân sang Miên đánh đổ chế
độ đàn em của Trung Cộng là
bọn Khmer đỏ Pol Pot. Trận chiến trừng
phạt kéo dài 27 ngày trước
khi quân Trung Cộng rút về để
lại sự hoang tàn, phá hủy trong
một khu vực rộng 30 dặm vuông cách
biên giới Việt- Hoa. Mối quan hệ
Việt _ Trung từ lâu được
đánh giá là mối quan hệ khắng
khít như môi và răng. Giờ
đây thì răng cắn dập môi
và nhìn thấy hai nước Cộng
sản đánh nhau sứt đầu
lỗ trán người ta mới thấy
thế giới đại đồng còn
lâu mới thực hiện được!)
Hồ chí Minh cố gắng " đi dây
" giữa Liên xô và Trung Cộng,
không làm mất lòng bên nào
để có thể nhận viện trợ
của cả hai bên. Lê Duẩn thì chống
Trung Cộng ra mặt nên mới có cuộc
chiến Hoa,Việt (1979).
Lại có thêm
1 điểm liên quan đến Việt Nam
và Mỹ nũa mà ai cũng biết
là Trân Châu Cảng ( Pearl Harbor ) của
Mỹ bị Nhật tấn công vào ngày
7 tháng 12 năm 1941. Mục tiêu của Mỹ
trong Thế chiến thứ hai là phải
đánh bại quân đội Thiên
Hoàng Nhật Bản ở Thái Bình
Dương. Có sự trùng hợp
giữa mục tiêu chính trị và
quân sự của Mỹ và Hồ chí
Minh vào thời kỳ này. Không
biết đây là sự trùng hợp
ngẫu nhiên hay không mà Mặt Trận
Việt Minh của Hồ chí Minh cũng được
thành lập vào năm 1941.
Rõ ràng là
cơ quan tình báo Mỹ thời bấy
giờ là OSS ( tiền thân của
CIA ) không những biết đến Hồ
chí Minh trong thế chiến hai mà còn
có mối quan hệ thân mật với
ông nữa. Tổ chức Việt Minh
của Hồ thường được
ghi nhận công trạng là đã bỏ
công tìm kiếm những phi công
Mỹ cóphi cơ bị bắn rơi trong
lúc dội bom quân đội Thiên Hoàng
Nhật Bản, đó là một góc
cạnh hợp tác giữa Mỹ và
Hồ chí Minh được nhắc đến
nhiều trong suốt thế chiến thứ
hai. Rồi đến sự kiện gây
nhiều nghi vấn là Hồ có trích
dẫn Bản Tuyên Ngôn của Nước
Mỹ vào trong Bản Tuyên Ngôn Ðộc
Lập chống người Pháp mà
ông đọc tại quãng trường
Ba Ðình vào ngày 2 tháng 9 năm
1945 .Nhưng liệu cái liên minh quân sự
của Hồ và Mỹ trong thế chiến
thứ hai có tạo nên được
sự khác biệt nào không đến
chuyện Hồ vẫn đang hợp tác
với các cấp lãnh đạo
Nga tại Moscow ? Liệu Hồ chí Minh trong giai
đoạn này có đưa ra tuyên
cáo nào chối bỏ tư cách hội
viên lâu đời của ông trong
Ðảng Cộng sản Pháp không? Liệu
những hành động của ông
trong thế chiến thứ hai không chỉ
là vấn đề thuần túy của
chuyện mở rộng liên minh giữa
Mỹ và Liên xô hồi ấy trong
chiến tranh ? Liệu có thể sự liên
minh chính trị của Hồ chí Minh với
Ðảng Cộng Sản Pháp thay đổi
vì những biến cố của năm
1941 không? Ngược lại có thể
nào thế đứng của Hồ
chí Minh đối với Ðảng
Cộng sản Nga được củng cố
thêm vì những hành động
Hồ làm trong thế chiến hai hay không?
Duiker vẫn chưa đào sâu vào
những vấn đề trên để
đưa ra sự nhận định chính
xác, dứt khoát.
Nhưng những câu
chuyện cũ về sự hợp tác
của người Mỹ với Hồ
chí Minh không đưa ra được
sự giải thích rõ ràng cho những
biến chuyển bằng sự tập trung chú
ý phân tích những tình huống
xảy ra trên thế giới vào lúc
thời điểm đặc biệt lúc
bấy giờ, nghĩa là lúc đang
có những sự xâm lăng của
Phát - xít Ðức và Thiên
Hoàng Nhật. Vào lúc ấy, phải
nhận thấy rằng những mục tiêu
chính trị và quân sự của
Mỹ, Nga, Ðảng Cộng sản Pháp
và bản thân Hồ chí Minh có
sự trùng hợp nhau. Ðó là
có một trận tuyến chống lại Nhật
và Ðức. Hồ tình nguyện
chiến đấu chống lại hai thế
lực này và nhiều viên chức
Mỹ còn khám phá ra đa số
người Việt Nam có sự thân
tình, tư cách và sự quyến
rũ mà họ không tìm thấy ở
những giống dân khác trên thế
giới. Thật ra, đường lối
chính trị của Ðảng Cộng sản
Pháp và Nga có thay đổi vào
cuối thế chiến hai, Hồ chí Minh
may mắn có mặt đúng thời
điểm này và phù hợp với
sự thay đổi ấy nên đã
được giao phó trọng trách
chống Quân phiệt Nhật và Phát
- xít Ðức.
Nhưng bất thình
lình những ngày u ám cũ của
thập niên 1920 lại tái xuất hiện
vào năm 1946. Nó không xảy ra đầu
tiên ở Việt Nam mà ở Âu
châu . Ðó là chuyện quân đội
Ðồng Minh phong tỏa Nga ở Berlin và
mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh.
Tổng thống bốn nhiệm kỳ Roosevelt
qua đời năm 1944, trước
khi thế chiến hai chấm dứt. Do đó
cuộc chiến tranh lạnh và đường
lối chính trị mới của Ðảng
Cộng sản Nga và Pháp xảy ra đầu
tiên không phải ở Việt Nam mà
ở Ðức. Ðường
lối " Mặt trận quốc gia " mà Ðảng
Cộng sản Nga và Pháp đề ra
giữa năm 1936 và 1939 một lần
nữa lại trở về chính sách
cũ là không cộng tác với
những đảng phái không cộng
sản.
Có những cuộc
thanh lọc lớn xảy ra tại Ðông
Ðức trong hai năm 1944 và 1945, khi
quân đội Liên xô tiến vào
Ðức. Những người không
Cộng sản không được dung tha.
Lúc đó là
lúc Tổng thống Mỹ Truman nhập cuộc
với hòa đàm Berlin vào cuối
năm 1945. Tại đó, Tổng thống
Truman gặp lãnh đạo Nga Stalin. Vấn
đề giải giới quân đội
Nhật đang đóng tại Việt Nam được
mang ra thảo luận cùng chung với những
vấn đề khác khi thế chiến
hai sắp đi đến giai đoạn cuối.
Ở Việt Nam vào
cuối năm 1945 và 1946 quân đội
Pháp đổ bộ trở lại . Chính
phủ Truman cũng đang theo dõi những
biến cố xảy ra ở Việt Nam cũng
như ở Âu châu. Cục diện ở
Việt Nam lúc đó có lẽ sẽ
đổi khác nếu chính phủ Truman
nghe lời Hồ chí Minh kêu gọi
sự ủng hộ của Mỹ dành cho
nền độc lập Việt Nam từ tay
người Pháp.
Nhưng nếu đường
lối chính trị của Ðảng Cộng
sản Nga và Pháp thay đổi một
lần nữa năm 1946, đi theo đường
lối cũ của thập niên 1920 thì
điều đó có tạo nên được
sự khác biệt nào không khi quân
đội Pháp muốn trở lại vị
trí cũ của họ ở Việt Nam?
Có phải những sự quan tâm
của chính phủ Truman đến những
biến cố ở Âu châu đã
không là chìa khóa của sự
hiểu biết vì chính chính phủ
này đồng ý và ngay cả hỗ
trợ cho chuyện quân đội Pháp
trở lại Việt Nam vào cuối thế
chiến hai? Duiker cũng không đưa ra
được một sự giải thích
rõ ràng nào về những vấn
đề nêu trên.
Theo một chuyên gia
khác nghiên cứu về Việt Nam là
Frances Fitzgerald cho rằng cuốn tiểu sử
Hồ chí Minh của Duiker đã có
ưu điểm là phân tích rất
rõ về con đường Hồ chí
Minh đã đi đến chủ nghĩa
Mác - Lê Nin như thế nào.
Hồ đến với
chủ nghĩa Mác-xít vào mùa
hè năm 1920, qua " Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc
địa " của Lê Nin. Hồ đã
đọc về lý thuyết Mác - xít
trước đó nhưng theo sự
giải thích của Duiker, những sự
lý luận của Lê Nin về mối dây
liên hệ giữa chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa đế quốc
và về sự quan trọng của những
phong trào quốc gia ở Á châu
và Phi châu ảnh hưởng đến
cách mạng thế giới thật sự
đã gây ra những sự chấn
động dữ dội trong tâm thức
Hồ, đã dẫn ông đến
trạng thái chuyển biến. Từ một
người yêu nước đơn
giản với những hiểu biết
sơ sài, đại khái về chủ
nghĩa xã hội thành một nhà cách
mạng Mác - xít. Vào năm 1921, khi Ðảng
Xã Hội Pháp có sự chia rẽ
về vấn đề có nên tham gia
vào Quốc Tế Thứ Ba của Lê
Nin hay không, Hồ trở nên là
hội viên sáng lập của đảng
này. Khi viết bài với bút
danh Nguyễn ái Quốc, ông tranh luận
không chỉ vấn đề chủ nghĩa
Cộng sản có áp dụng được
vào Á châu hay không mà liệu
nó có giữ được những
truyền thống Á châu vốn đặt
căn bản văn hóa trên bình diện
cộng đồng và bình đẳng
xã hội.
Trong vòng 3 năm
Hồ đòi hỏi đảng mới
cần phải hành động về vấn
đề thuộc địa, nhưng những
người Cộng sản Pháp đã
tỏ lộ ra là những người
bênh vực Âu châu của họ, như
ông Duiker đã nói trong sách, cho
nên năm 1924 Hồ bỏ đi Moscow theo lời
mời của Quốc Tế Cộng Sản.
Tuy nhiên những cấp lãnh đạo
Sô viết lúc này đang bận rộn
với những vấn đề đấu
đá nội bộ nên Hồ phải
mất gần một năm mới thuyết
phục nổi những viên chức
trong Quốc Tế Cộng Sản gửi ông
đến miền Nam Trung Hoa, nơi có một
mối liên minh khó chịu giữa
những người Quốc Dân Ðảng
Trung Hoa và Cộng sản theo Mao, tại đây
Hồ bắt đầu thuyết phục lôi
kéo người Việt vào tổ chức
của ông.
Hồ chí Minh trải
qua 15 năm làm việc cho cách mạng Việt
Nam với tư cách là một nhân
viên của Quốc Tế Cộng Sản. Theo
sự ghi nhận chính xác và tỉ
mỉ của Duiker, trong giai đoạn này, Hồ
nhấn mạnh nhiều đến chủ nghĩa
quốc gia, cách tiếp cận kiên nhẫn
và thực tiễn về chuyện tổ
chức đã làm cho ông bị
Moscow mất cảm tình. Ông vẫn cứ
nhất định theo đuổi đường
lối riêng của ông, chờ đợi
cho qua những giai đoạn khó khăn,
bị chống đối và nắm lấy
ngay những cơ hội khi chúng trồi
lên. Ở Quảng Ðông, Hồ
xuất bản một tạp chí, dựng
nên tổ chức Thanh Niên Cách Mạng
Ðồng Chí Hội và thiết lập
một cơ sở huấn luyện tạo nên
nhiều sự hấp dẫn và chú
ý trong giới học sinh, sinh viên khắp
nướcViệt Nam.
Ngoài chủ nghĩa
Mác - xít Lê-nin-nít, ông còn
dạy đạo đức cách mạng
do ông đề ra là : tiết kiệm,
thành thật, quí trọng sự học
hỏi, sự khiêm tốn và sự
quảng đại. Những đức
tính này, theo Duiker ghi nhận, đã
mang màu sắc đạo đức Khổng
giáo nhiều hơn là ý thức
hệ của chủ nghĩa Mác Lê Nin.
Ðối với
những người học trò theo
ông, Hồ dường như là người
biểu hiện cho những đức tính
đó, và sự dạy dỗ của
ông về những châm ngôn trên
sau này đã trở thành một
đặc điểm độc đáo
của cách mạng Việt Nam.
Năm 1927, khi Tưởng
giới Thạch bắt đầu ruồng
bố phe Cộng sản Trung Hoa, tổ chức
của Hồ bị dẹp bỏ và Hồ
bị cảnh sát Trung Hoa đuổi chạy
đến Hồng Kông rồi sau đó
đến Moscow. Quốc Tế Cộng Sản
gửi Hồ đến Pháp và rồi
theo lời yêu cầu của ông, ông
được gởi đến Thái
Lan, tại đây ông sống trong vòng
2 năm để tổ chức và huấn
luyện những người Việt Nam
biệt xứ . Năm 1930, ông trở
lại Trung Hoa làm việc trong khi vẫn cố
gắng tránh né sự truy nã của
cảnh sát Trung Hoa và mật vụ Pháp.
Ông bị người Anh bắt tại
Hồng Kông và bị tù 1 năm,
rồi sau đó ông đến Moscow.
Nhưng ông khó tìm kiếm sự
giúp đỡ dù ít ỏi tại
đây. Trong khi Stalin thanh lọc những
kẻ nào đi ngược lại đường
lối của Lê Nin và ra lệnh cho những
đảng Cộng sản Á châu phải
theo đuổi một mục tiêu không tưởng
là tiến hành một cuộc cách
mạng vô sản quốc tế toàn diện
và triệt để, đồng thời
chỉ thị cho những người Cộng
sản Việt Nam thành lập Ðảng Cộng
Sản Ðông Dương - danh xưng như
thế nhưng mục đích duy nhất là
tìm cách phá vỡ chế độ
thực dân Pháp trong vùng. Cá
nhân Hồ bị phê bình, điều
tra và bị hạ tầng công tác
trong thời gian này.
Năm 1938 số phận
Hồ được coi là có sự
thay đổi một cách may mắn. Vì
Phát - xít Ðức đang lớn
mạnh nên Liên xô thay đổi lập
trường về chủ nghĩa quốc
gia, có nghĩa là họ chuyển hướng
ủng hộ thay vì chống đối như
trước, Liên Xô kêu gọi thành
lập liên minh của những sức
mạnh tiên tiến để chống lại
chủ nghĩa Phát -xít. Ðồng thời
lúc đó Tưởng giới
Thạch thành lập một mặt trận đoàn
kết với Ðảng Cộng sản
Trung Hoa để chống lại quân xâm
lăng Nhật. Chiến lược của
Hồ được sáng tỏ trở
lại, Hồ lại cầm đầu những
hoạt động đấu tranh của người
Việt,và với tình trạng Nhật
xâm lăng Ðông Dương, Hồ
thành lập một Mặt trận quốc gia
gọi là Việt Minh bao gồm thợ thuyền
và nông dân để tranh đấu
cho nền độc lập của Việt Nam.
Năm 1941, Hồ trở
về nước sau 30 năm xa cách để
chỉ huy và điều động một
cuộc chiến tranh du kích trên vùng
núi non Việt Nam.
Vào tháng 8 năm
1945, ba tháng sau khi phe Nhật hạ bệ chính
quyền Vichy của Pháp và chỉ hai ngày
sau khi Nhật đầu hàng Ðồng
Minh, Việt Minh tiến vào Hà Nội. Giữa
tiếng hoan hô ngất trời của
dân chúng, Hồ chí Minh đọc Tuyên
Ngôn Ðộc Lập. Nhưng đó chỉ
là giai đoạn mới bắt đầu.
Hồ chí Minh không
muốn có chiến tranh với người
Pháp. Ông đã làm bất cứ
điều gì để tránh né
chiến tranh. Qua cơ quan tình báo Mỹ
OSS mà ông đã xây đắp
mối quan hệ thân tình trong chiến tranh,
ông kêu gọi chính phủ Mỹ ủng
hộ - ông hứa là sẽ để
cho Mỹ dùng vịnh Cam Ranh để Hải
Quân Mỹ đóng quân. Ông lập
ra một chính phủ liên hiệp, ông
rán kiềm chế sự nóng nảy
và đồng ý chấp nhận sự
hiện diện quân sự của Pháp
và Việt Nam chấp nhận làm hội
viên trong khối Liên Hiệp Pháp, miễn
sao cuối cùng rồi người Pháp
đồng ý trao lại nền độc
lập cho Việt Nam.
Nhưng sau những
thất bại nhục nhã mà Pháp phải
chịu đựng trong thế chiến hai,
ngay cả những người Pháp
trong Ðảng Xã Hội cũng không
chấp nhận nổi ý tưởng từ
bỏ những thuộc địa cũ.
Cho nên đầu năm 1947, Hồ rút
vào rừng rậm để tiến hành
cuộc chiến tranh du kích. Ông được
ghi nhận có nói với người
bạn Pháp Jean Sainteny như sau, " Pháp có
thể giết 10 người Việt Nam trong
khi Việt Nam giết một người Pháp,
nhưng Pháp cuối cùng là phe sẽ
mỏi mệt và thua cuộc ." Diễn tiến
tình hình xảy ra sau này đúng
y như thế.
Trong cuộc chiến
tranh chống Pháp cũng như trong thế
chiến hai, Hồ và những đồng
chí của ông ta sống trong những
hang động hay những túp lều tranh
trên núi, phải di chuyển thường
xuyên để tránh sự truy lùng
của Pháp và thường xuyên
chịu cảnh đói, bị bệnh sốt
rét và kiết lỵ. Năm 1954, Việt
Minh thắng trận chiến quyết định
Ðiện Biên Phủ nhưng chiến tranh
vẫn cứ tiếp tục. Mao trạch Ðông
bắt đầu cung cấp chiến cụ
và sự huấn luyện cho quân Việt
Minh đang ở trong tình trạng trang bị
kém cỏi. Trong lúc đó Mỹ
bắt đầu chi viện cho những nỗ
lực chiến tranh của Pháp. Những
siêu cường giờ đây
đã dính líu sâu đậm vào
Việt Nam, và năm 1954 họ gặp nhau ở
Genève để thảo luận, dàn xếp
về vấn đề Việt Nam.
Dưới áp
lực của Bắc Kinh và Moscow, Việt
Minh đồng ý và chia đôi ở
vĩ tuyến 17. Chuyện chọn vĩ tuyến
17 cũng không do chính phủ ông Hồ
quyết định mà do Tàu và Nga
định đoạt. Nói như thế
để thấy chính phủ ông Hồ
chưa có sự độc lập thật
sự trong quyền hành mà hoàn
toàn bị lệ thuộc vào hai nước
Cộng sản đàn anh Nga, Tàu. Theo hiệp
định, một cuộc bầu cử sẽ
được tổ chức trong vòng
2 năm để thống nhất đất
nước. Tuy nhiên Bắc Kinh và Mạc
tư Khoa không bảo đảm chuyện bầu
cử sẽ được tiến hành
như dự tính, Mỹ không ký
vào hiệp định và một thời
gian sau hiệp định Genève không lâu,
Ngoại trưởng Mỹ John Foster tuyên
bố Mỹ sẽ bắt đầu bảo
trợ một quốc gia không Cộng sản
ở miền Nam. Dưới nhãn quan
của những nhà cách mạng Việt
Nam, hiệp định Genève là bước
đầu đưa đến chiến tranh
Ðông Dương lần thứ hai.
Vào năm 1954, sau
khi Việt Minh cuối cùng đánh đuổi
quân Pháp được Mỹ hỗ
trợ ra khỏi Việt Nam. Nhưng chuyện
đó cũng là lời cam kết
của những đồng minh Cộng sản
của Hồ, vốn thích hòa dịu
với Washington sau chiến tranh Triều Tiên
hơn là cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Tại hiệp định Genève
năm 1954, những nhà thương thảo
Trung Cộng và Liên xô rút bỏ
sự ủng hộ cho vấn đề một
nước Việt Nam thống nhất và
có ý muốn đi theo kế hoạch
chia quốc gia này ở vĩ tuyến
17 cho đến năm 1956 hơn, khi mà những
cuộc bầu cử được tổ
chức ( thực tế là những
cuộc bầu cử đã không xảy
ra ) để quyết định phần còn
lại của đế quốc gọi là
miền Nam Việt Nam có muốn gia nhập
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa không, nơi mà Hồ đã
tuyên bố độc lập từ năm
1945.
Theo nữ ký
giả Carol Brightman, trong một bài điểm
cuốn sách Hồ chí Minh của Duiker,
đã nhận định là Sử
gia Duiker đã cung cấp nhiều tin tức
mới về những mối quan hệ
đầy sóng gió mà Hồ có
với cả Liên xô và Trung Cộng.
Sự chú ý của Liên xô dành
cho cách mạng Việt Nam đã ở
mức độ sút kém, không
chỉ sau thế chiến 2 và năm 1954 mà
từ năm 1923, khi Hồ đến Moscow
tập tành làm cách mạng và gia
nhập vào cách mạng thế giới,
và Stalin nghi ngờ Quốc Tế Cộng
Sản ( Comintern ) đã mang một khuôn
mặt quốc gia hơn là quốc tế.
Năm 1924, khi Hồ rời Moscow để
rán thành lập một đảng Cộng
sản trong giới những người
Việt Nam lưu vong ở Trung Hoa, Hồ làm
điều này không có sự tán
thành đồng ý của Stalin. Vào
cuối thế chiến 2, khi Hồ thiết
lập một mối quan hệ mong manh với
Hoa Kỳ - một bước đi cực
kỳ khôn ngoan, đã giúp Hồ
chế ngự được phe quốc
gia đối thủ, và sau khi Nhật đầu
hàng, cho phép Hồ thâu tóm quyền
lực nhanh chóng - Stalin nghi ngờ nhiều
về sự trung thành của Hồ.
Vào năm 1947, hai
năm sau khi Việt Nam tuyên bố độc
lập - khi Hồ giới thiệu nhà nước
mới với những lời
" Mọi người sinh ra đều bình
đẳng. Họ được Thượng
đế cho những quyền không thể
chuyển nhượng được.." -
Phe Trung Cộng công nhận tính chất hợp
pháp của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa trong khi Liên xô không làm như
vậy. ( Khi nhân viên tổ chức tình
báo OSS của Mỹ tên Archimedes Patti đọc
bản thảo bài Tuyên Ngôn Ðộc
Lập của Hồ năm 1945, ông hỏi
có vẻ ngạc nhiên là Hồ có
thật tình muốn mượn câu viết
trong Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Mỹ
để đem vào trong Tuyên Ngôn
Ðộc Lập của Việt Nam không? Patti
hỏi Hồ vì bản thân Patti cảm
thấy cái gì đó lấn cấn
không ổn trong người. Hồ ngả
người trên ghế, lấy ngón
tay đặt lên môi và hỏi nhỏ,
" Tôi không nên dùng nó à
?"
Vào năm 1950, một
năm sau khi Cộng sản lên nắm quyền
ở Trung Hoa, Hồ được mời
đi xe lửa cùng chung với Mao và
Chu ân Lai tới Moscow, nơi mà Trung
Cộng và Nga sẽ ký một hiệp ước
kéo dài 30 năm. Hồ hy vọng sẽ
" đối chất " với Stalin về
cuộc chiến tranh chống Pháp và lấy
cảm tình của Liên xô trong sự
hỗ trợ. Nhưng theo lời thuật
lại của Nikita Khrushchev, Stalin đã đối
xử tàn tệ và khinh miệt Hồ.
Tại buổi lễ ký kết, Khi Hồ
đề nghị Stalin nên ký một hiệp
ước tương tự với
Việt Nam, Stalin trả lời rằng vì
Hồ tới Moscow với tư cách
viếng thăm không chính thức nên
không Nga không ký với Việt Nam
được. Hồ đề nghị
một cách vui vẻ pha chút đùa
cợt rằng ông sẽ bay quanh thành
phố bằng trực thăng và sau đó
sẽ đáp xuống phi trường
với những nghi lễ long trọng thích
hợp. Stalin cắt ngang lời , " Ồ
mấy ông Á châu nhà ông bày
đặt ra nhiều chuyện tưởng
tượng quá. "
Nhưng Hồ đã
thuyết phục được Liên xô
công nhận nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa trong năm ấy và
cung cấp sự giúp đỡ vật
chất cho Việt Minh với một điều
kiện của Stalin là Trung Cộng phải đóng
một vai trò chủ chốt trong việc hướng
dẫn cuộc đấu tranh. Bây giờ
nhìn lại người ta mới thấy
Stalin đánh giá Hồ sai rất nhiều;
Hồ là một người của quốc
tế và trở thành một người
Cộng sản vì ông cũng là người
quốc gia. Giống như người đồng
chí đàn em Phạm văn Ðồng
từng nói, " Người Cộng sản
là người yêu nước
chân thành nhất."
Vấn đề thật
sự của nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa xảy ra sau này với
phía Trung Quốc, là phía tin chắc
là năm 1950 cuộc chiến với Mỹ
có thể nổ ra bất cứ lúc
nào ở bất cứ chỗ nào
dọc theo những biên giới của
họ. ( Ðúng vậy, sau cùng, đó
là năm quân đội Trung Cộng vượt
qua vĩ tuyến 38 ở Triều Tiên.)
Cho nên điều quan trọng là phải
xây dựng hàng rào phòng thủ
Trung Hoa ở Ðông Dương. Quyết
định này tự nhiên đã
khiêu khích chính phủ Truman dính líu
sâu đậm hơn vào Ðông Dương
và vào tháng 4, cả Washington và
Bắc kinh đều cung cấp vũ khí
và gửi những công tác giúp
đỡ đến đồng minh của
họ ở Việt Nam. Nhìn lại những
biến chuyển nóng bỏng vào năm
1950, người ta thấy rằng Trung Cộng
và Mỹ đã có những chiến
thuật ngăn chận tương ứng nhiều
như thế nào ở Ðông Nam
Á châu cho tới thử thách
cuối cùng đưa tới đụng
độ ở Triều Tiên và làm
thế nào mà cuộc chiến của
Mỹ đã bị lôi cuốn vào
cuộc chiến tranh lạnh một thời
gian dài trước khi quân Pháp
bại trận ở Ðiện Biên Phủ
năm 1954.
Những rắc
rối mà Hồ gặp phải với
chuyện Trung Cộng xía vào những
vấn đề nội bộ dần dần
lớn dần lên. Bộ trưởng
quốc phòng Võ nguyên Giáp đã
dùng khuôn mẫu chiến tranh nhân dân
của Trung Cộng để chống lại Pháp,
và sự có mặt của những
cố vấn Trung Cộng không phải không
được tiếp đón niềm
nở. Nhưng rồi chuyện dần dần
sáng tỏ về vấn đề chỉ
thị của Stalin gửi Mao trong đó
bao gồm việc cần phải tái tổ
chức Ðảng Cộng Sản Ðông
Dương ( mà Hồ đã sáng
lập ở Hồng Kông năm 1930) theo
chiều hướng chính thống nhiều
hơn.Dưới sự hướng
dẫn của Hồ, mô hình Lê-nin-nít
của cuộc cách mạng trải qua hai giai
đoạn - trong đó một mặt trận
liên kết rộng rãi sẽ hoàn
thành công tác giải phóng quốc
gia trước khi Ðảng bắt đầu
sự chuyển hóa lên chủ nghĩa
xã hội - đã xảy ra một cách
chần chừ, dằng dai, đối với
những người chủ trương
cứng rắn như Trường Chinh
( cũng như Mao và Stalin), giai đoàn
đầu đã kéo quá dài
thời gian. Với sự chiến
thắng của phe Cộng sản Trung Hoa trên
đại lục và viễn cảnh chiến
thắng quân Pháp của Việt Nam ngày
càng tăng lên, những cấp lãnh
đạo Ðảng bỏ phiếu năm
1951 để tiến vào giai đoạn hai.
(Nhắc đến
Võ nguyên Giáp người ta chưa
quên phe Lê Duẩn - Lê đức
Thọ đã làm nhục Giáp sau này
bằng cách phong cho ông cựu Tổng
tư lệnh quân đội kiêm Bộ trưởng
quốc phòng Võ nguyên Giáp làm
chức " Trưởng ban sinh đẻ
có kế hoạch " ( nói nôm na là
" cai đẻ " ) vào tháng 4 năm 1984
. Giáp phải cắn răng mà nhận
vì không dám chống lại liên
minh Duẩn- Thọ. Sau này có dịp nói
chuyện với nhà văn Sơn Tùng,
Giáp phân bua, chống chế cho hành
động hèn kém cúi đầu
nhận chức " cai đẻ" của mình
như sau:
" Tôi làm tất
cả việc này vì tôi nhận được
ở Bác Hồ một điều khi
cùng ở với Bác ở
hang Pắc Bó, khi lót cây Bác có
nói như thế này, " Việc gì dù
nhỏ đến mấy mà có lợi
có ích cho nhân dân, cho tổ quốc
thì làm. Việc gì dù nhỏ, nhỏ
đến mấy mà có hại cho dân
cho nước thì nên tránh. " )
Khi chiều hướng
ngả sang bên tả rồi thì những
cuộc vận động " tố khổ " kiểu
Trung Cộng đã được tiến
hành ở mức độ những
làng xã, nơi mà những quy luật
cải cách ruộng đất tập trung
chú ý vào chuyện giảm thiểu
ảnh hưởng kinh tế và chính
trị của tập lớp địa chủ.
Duiker căn cứ nhiều vào tình
báo Pháp và những người
Việt Minh hồi chánh để thấy
những cuộc thảo luận phần lớn
được coi như những sự
đấu tranh quyền lực giữa
những cấp lãnh đạo Ðảng,
nó đi ra ngoài phạm vi đường
lối mà trở thành một cuộc
" cách mạng chống địa chủ "
vào giai đoạn hai. Ðó là một
cách để lôi kéo nông dân,
một cách để thưởng nông
dân vì sự trung thành và để
cho những sự hy sinh thêm có ý
nghĩa, đó là cách làm lớn
cái " biển " lên để Ðảng
và quân đội bơi trong đó.
Lê đức Thọ có phát biểu
về những nhu cầu thực tế
như sau vào năm 1952, " Nếu ai muốn
nông dân tham gia đấu tranh quân sự,
điều cần thiết đầu tiên
là phải gợi lòng căm phẫn
kẻ thù trong lòng họ."
Duiker đoán rằng
Hồ vốn là một người thích
làm từ từ, đã nổi
cáu trước chiều hướng
mới này vì nó giới hạn
khả năng của ông để vận
động tình hình quốc tế và
bởi vì nó tạo nên một thái
độ quỳ lụy trước sự
dạy dỗ của Trung Cộng mà Hồ
đã từng chống đối trong
quá khứ qua câu nói để
đời, " Thà phải hửi phân
thằng Tây thêm một chút còn
hơn phải ăn phân thằng Tàu suốt
đời." (Hồ nói câu này
vào khoảng năm 1946, đúng vào
lúc ông cố gắng thương thảo
với Pháp trong lúc đám quân
Quốc dân đảng của Tàu đang
đóng tại miền Bắc Việt Nam).Duiker
ghi nhận khi Hồ lên tiếng ca ngợi
chính quyền Cộng sản mới thành
lập ở Bắc Kinh, ông chỉ đóng
kịch tài tình để làm vừa
lòng nước viện trợ mà
thôi. Trong bất cứ tình huống
nào, khi một chương trình được
đưa vào hành động, nó
chỉ có hình thức trình diễn
bên ngoài nhiều hơn là thực
chất lợi lộc bên trong; và chính
sách của Hồ luôn đi theo con đường
ôn hòa đã tiếp tục được
tiến hành cho đến năm 1954, khi những
tiếng nói đối lập được
thúc giục bởi những cố
vấn của Mao, đã dập tắt ý
muốn của Hồ.
Sau khi ý muốn
Washington muốn ngăn chặn cuộc bầu cử
ở miền Nam đã lộ ra quá
rõ ràng, ở miền Bắc một
cuộc cải cách mới với
nhiều sự trả thù hơn được
tiến hành, trong đó những địa
chủ cứng đầu, đa số là
người Thiên chúa giáo, đôi
khi bị tra tấn và ngay cả bị giết.
Hồ lên án những vụ tra tấn
mà ông ta cho là trò mọi rợ
của đế quốc. Ông đặt
câu hỏi rằng, " Tại sao chúng ta đang
tiến hành một chương trình công
bằng chính đáng mà lại đi
dùng những phương pháp tàn
bạo ?" . Chỉ khi có những bộ đội
Việt Minh phản đối những trận
đấu tố gia đình họ thì
cuộc cải cách mới thối lui và
các viên chức thú nhận là
" đã đánh giá quá cao quân
thù ."Tuy nhiên đã quá trễ
để giữ lại những người
muốn Thiên chúa giáo di cư vào
Nam. Có chừng 600000 người theo
" Ðức mẹ đồng trinh " vào
Nam trong khi chừng 900000 người Thiên
chúa giáo ở lại.
Duiker phê phán
nặng nề Hồ trong giai đoạn này
chứ không đổ lỗi cho cơ
chế Cộng sản. Dù Hồ không trực
tiếp thi hành cuộc cải cách ruộng
đất hay vụ đàn áp những
trí thức phản kháng trong " Nhân
Văn Giai Phẩm " sau đó, ông sẵn
lòng tha thứ cho những hành động
tàn bạo của cấp dưới vì
lợi ích của sự nghiệp cách
mạng. Duiker nhận xét rằng, " Hồ chí
Minh trở thành tù nhân của sự
sáng tạo của ông ta.. vì trong khi uy
tín đang xuống nên ông không
tránh được đường
đi cứng ngắt của một hệ
thống tàn sát số phận của
nhiều người để đạt
cho được chỉ tiêu đạo
đức cách mạng của kế hoạch
của cấp trên"
Sự thận trọng
của Việt Nam đối với ảnh
hưởng Trung Cộng gia tăng thêm trong
thời gian chiến tranh với Mỹ.
Những viện trợ cho Hà Nội
đôi khi bị tắc nghẽn vì sự
tố cáo lẫn nhau giữa Moscow và
Bắc kinh. Nga theo đường lối
sống chung hòa bình với phương
Tây năm 1956, trong khi Bắc Kinh vào cuối
thập niên 1960 đã cổ súy cuộc
cách mạng văn hóa. Duiker ngạc nhiên
khi thấy lớp đàn em kế tục
Hồ không phải là Phạm văn Ðồng
và Võ nguyên Giáp mà là
Lê Duẩn và Lê đức Thọ,
Duẩn và Thọ là những kẻ
giáo điều, những kẻ mà
Tổng Thống Mỹ Johnson gọi là " những
kẻ hiếu chiến từ miền Bắc."
Những kẻ chủ chiến Lê Duẩn
và Lê đức Thọ sau khi tước
quyền Hồ chí Minh đã tiến
hành cuộc chiến tranh nhuộm đỏ
miền Nam cho đến ngày toàn thắng
năm 1975.
Ở Hà Nội,
Hồ sống đơn giản như khi còn
sống trong vùng du kích kháng chiến.
Ông từ chối dọn vào dinh toàn
quyền mà sống trong một ngôi nhà
sàn sau lưng dinh toàn quyền nằm cạnh
một dòng suối. Ông là Chủ tịch
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa nhưng ông muốn người
dân gọi ông là Bác Hồ. Người
ta thường thấy ông bận bộ
đồ Kaki, đi dép râu nói chuyện
với nông dân hay với những
trẻ em hớn hở. Ðối với
những nhà quan sát bên ngoài
thì cách sống của ông có vẻ
như là một màn tự trình diễn
màu mè giả tạo. Sau hết, ông
là người chinh phục người
nghe bằng cách nói nhiều ngôn ngữ
khác nhau, thích sự khen ngợi và
tình yêu phụ nữ dành cho ông.
Duiker kể rằng lúc ở Trung Hoa ông
đã lấy vợ hai lần và
khi ở Hà Nội ông đã làm
cha một đứa nhỏ. Duiker không giải
thích nhiều về tài đóng kịch
của Hồ, nhưng có nhiều điều
đạo đức Khổng giáo mà
Hồ chưa làm được. Theo truyền
thống Khổng giáo, vua phải mẫu mực
trong chuyện hành động đúng.
Hồ chưa phải là người mẫu
mực trong đời sống tình
cảm cá nhân, có thể là do
bản thân ông mà có thể là
do tổ chức chính trị ( Ðảng)
không cho phép ông công khai sống
đời tình cảm bình thường
của một người đàn ông
vì Ðảng muốn biến ông thành
một biểu tượng siêu phàm có
lợi cho cuộc đấu tranh. Bằng cách
từ chối nếp sống xa hoa vương
giả, Hồ muốn chứng tỏ chính
chân thực của cuộc cách mạng
của ông đến toàn dân là
đoạn tuyệt với quá khứ
phong kiến.
Vào cuối thập
niên 1950 và đầu 1960, Hồ đi
nước ngoài nhiều để khéo
léo vận động làm sao cho Liên
xô và Trung Cộng viện trợ cho chính
quyền của ông ta dù mối quan hệ
Nga-Trung ngày càng đổ vỡ trầm
trọng. Nhưng vai trò của ông ngày
càng có tính cách nghi lễ nhiều
hơn. Lê Duẫn, một người trải
qua nhiều năm tù trong nhà giam thực
dân Pháp, đã lên nắm quyền
và hất cẳng ông Hồ ra rìa.
Chịu chung số phận với ông là
Ðại tướng Võ nguyên Giáp.
Duiker cho rằng Hồ mất dần quyền
lực từ cuộc cải cách ruộng
đất tàn bạo vào những
năm 1955-1956, vào lúc ảnh hưởng
Trung Cộng đang đè nặng lên cuộc
cách mạng Việt Nam. Theo Duiker, Hồ không
trực tiếp dính líu đến
cuộc cách mạng cải cách ruộng
đất nhưng với danh tiếng của
ông là một người lãnh đạo
biết hết mọi chuyện và lo hết
mọi điều, uy tín ông bị sứt
mẻ nặng nề vì sự tàn bạo
trong chiến dịch.
Ðầu thập niên
1960, Hồ cảnh cáo những đồng
chí của ông về quyết định
ra lệnh tổng nổi dậy quá sớm
ở miền Nam và chống lại chuyện
quá đề cao vấn đề đấu
tranh quân sự. Hồ muốn tránh
đem Mỹ vào cuộc chiến tranh, và
cho đến khi chính phủ Johnson bắt
đầu ném bom miền Bắc, Hồ
vẫn tin tưởng Washington sẽ từ
bỏ sự ủng hộ chính quyền
Sài Gòn. Nhưng chuyện không diễn
ra như thế. Khi quân Mỹ bắt đầu
đổ vào Việt Nam năm 1965, Hồ
đã 75 tuổi và không còn chút
quyền lực gì trong chính quyền
do ông tạo dựng nên.
Năm 1962, có một
nhà báo Pháp tên Bernard Fall đến
Hà Nội phỏng vấn Hồ chí Minh
và mong sẽ tìm ra những câu
trả lời cho những chuyện bí
ẩn trong đời Hồ. Hồ cũng
đã nói thẳng là ông không
muốn nói hết những bí ẩn
về mình, Hồ nói với Bernard
Fall như sau, " À, như ông thấy, tôi
là một người đã già,
rất già.. Tôi muốn giữ lại
một số bí mật nhỏ của tôi."
Bản thân Hồ không muốn khai ra những
bí mật về mình thì cũng khó
mà bạch hóa tất cả những
bí ẩn của ông được.
Duiker đánh giá
Hồ chí Minh là " Một nửa Lê
Nin và một nửa Gandhi " , có nghĩa
là con người Hồ chí Minh vừa
độc ác, tàn bạo như Lê Nin,
vừa đạo đức, thánh
thiện như thánh Gandhi. Phần tàn bạo
Lê Nin trong người Hồ đã
quá rõ ràng, nhưng phần thánh
thiện Gandhi trong Hồ vẫn còn mờ
nhạt tuy Hồ luôn tìm kiếm cách
giải quyết vấn đề mà không
cần đến sức mạnh quân
sự và khác với những
đồng chí của ông, ông có
một tầm nhìn xa nhạy bén về
những thực tế về quốc tế
và quốc nội, từ đó đưa
ra một giải pháp thực tiễn, khéo
léo và kiên nhẫn để khôn
ngoan tìm kiếm những giải pháp
bằng đường lối ngoại giao.
Không may thay, Duiker trách cả Pháp lẫn
Mỹ đều không cảm thấy điều
đó để đáp ứng
đúng lúc, để cho vấn đề
tranh chấp được giải quyết
theo đường lối hòa bình
và có thể đã tiết kiệm
xương máu cả hàng triệu nhân
mạng.
Học giả Trần
trọng Kim trong hồi ký " Một cơn gió
bụi ", có kể lại chuyện năm 1946
có qua Hương Cảng ( Hong kong) gặp vua
Bảo Ðại. Khi gặp nhau, lời đầu
tiên mà vua Bảo Ðại nói với
cụ Trần là:
" Chúng mình già
trẻ mắc lừa bọn du côn."
( Trích từ
cuốn hồi ký " Một cơn gió bụi
" trang 146 của Trần trọng Kim )
Chữ" du côn"
mà vua Bảo Ðại dùng để
chỉ Hồ chí Minh và tổ chức
Việt Minh ngay từ năm 1946 thật là
quá đúng. Hồ chí Minh, qua tổ
chức Việt Minh, ngay từ 1945 đã
có những hành động bạo
ngược, bắt người lấy
của, giết hại những người
không theo đảng họ, hay vì tư thù
chém giết một cách tàn nhẫn.
Họ đánh Pháp nhưng mục đích
cốt yếu đạt được không
phải vì quốc gia, nhưng họ phải
lợi dụng hai chữ quốc gia để
chống với quân địch mà
đứng vào cái địa vị
tranh đấu cho nền độc lập nước
nhà. Chỉ trong mấy năm thành lập,
Việt Minh do Hồ chí Minh lãnh đạo
đã lòi ra nanh vuốt của loài
quỉ dữ, của bọn người
bất nhân tàn độc nên đã
bị vua Bảo Ðại gọi là bọn
du côn.
Ngay trong di chúc thật
Hồ chí Minh cũng thú nhận ông
không ngại làm việc ác vì muốn
noi gương Trần thủ Ðộ ngày
xưa, sẵn sàng làm ác mà vẫn
làm cho nước giàu dân mạnh.
Thật ra Hồ chí Minh có sự nhầm
lẫn lớn lao khi so sánh chuyện làm
ác của mình với Trần thủ
Ðộ. Trần thủ Ðộ vì muốn
bảo vệ ngôi báu cho nhà Trần
nên đã tàn nhẫn ra tay tàn
sát hậu duệ của nhà Lý. Nhưng
đối với nhân dân Trần
thủ Ðộ không có hành động
nào có thể gọi là thất nhân
tâm, giết người vô tội như
Hồ chí Minh đã làm trong cải
cách ruộng đất. Vì không làm
điều gì sai quấy với nhân
dân nên Trần thủ Ðộ đã
đoàn kết được nhân
dân chống giặc Nguyên và sau đó
xây dựng một đất nước
giàu mạnh. Hồ chí Minh thì ngoài
nhiệm vụ giành độc lập dân
tộc, ông còn có bổn phận đối
với Quốc Tế Cộng Sản mà
ông là hội viên, nên sau khi kháng
Pháp thành công ông đã nghe
theo lời Trung Cộng để làm cuộc
cải cách ruộng đất tàn bạo,
giết hại cả trăm ngàn dân vô
tội.
Nhưng rồi cuối
đời, ông sống những ngày
thê thảm như ông đã trối
trăn trong chúc thư thật và bị
chính chế độ do ông dựng
ra đày ải, giam cầm ông. Ông
như một phù thủy ác độc
tạo ra âm binh để dùng trong những
việc mờ ám. Nhưng vì là
loại phù thủy không cao tay ấn nên
âm binh quay ngược lại hãm hại
người phù thủy đã tạo
ra chúng.
Cuộc đời
của Hồ chí Minh là một bi thảm
kịch. Thảm kịch không chỉ xảy
ra cho bản thân ông mà còn cho cả
dân tộc Việt Nam.
Bài học mà
chúng ta có thể rút được
từ cuộc đời Hồ chí
Minh là đừng bao giờ áp
dụng một cách máy móc một học
thuyết ngoại lai nào ( Tây, Tàu, Nga,
Mỹ ) vào đất nước Việt
Nam mà không cân nhắc, cẩn thận
vì học thuyết nào cũng có
cái đúng, cái sai. Ðem áp
dụng một cách mù quáng thì lợi
bất cập hại như Hồ chí Minh đã
đem với học thuyết Mác - Lê
vào Việt Nam. Sai lầm của một thầy
thuốc thì giết mất một con bệnh,
sai lầm của một nhà chính trị
là giết luôn không phải một
thế hệ mà nhiều thế hệ người
dân. Ðất nước Việt Nam ngày
hôm nay vẫn còn tiếp tục chảy
máu vì những di sản độc
hại do Hồ chí Minh để lại. Máu
sẽ phải chảy một lần nữa
để rửa cho sạch những tàn
tích độc hại của một chủ
nghĩa ngoại lai và hy vọng đây
là lần chót người Việt
Nam sẽ tỉnh táo nắm giữ vận
mạng đất nước mình, xây
đắp một nền độc lập thật
sự cho quê hương Việt Nam mến
yêu chứ không còn làm bù
nhìn và tay sai cho ngoại bang như Hồ
chí Minh và những đám lãnh
đạo hai miền Nam Bắc đã làm
trong suốt thế kỷ qua.
Lawndale, Một ngày tạnh ráo
có nắng vàng hoe đầu tháng
3 năm 2004
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
|