ÐÔI
DÒNG GIỚI THIỆU
Trong mấy chục năm nay, guồng máy
tuyên truyền của Hà Nội đã làm cho nhân dân Việt Nam và
thế giới nghĩ về ông Hồ chí Minh như một ông thánh sống,
suốt đời hy sinh cho nước cho non nên không lập gia đình
và quyền uy, quyền lực của ông coi như tuyệt đối trong
chức vụ Chủ tịch Ðảng và Chủ tịch nước.
Nhưng cuộc đời người ta vẫn
thường nói, "Thấy vậy mà không phải vậy." Ðúng vậy, dần
dà qua năm tháng, qua những khám phá của những nhà báo, nhà
nghiên cứu, người ta mới thấy về đời sống tình cảm
cá nhân, ông Hồ không những có một vợ mà có đến mấy
vợ, con rơi con rớt tùm lum !Nông đức Mạnh và Nguyễn tất
Trung là hai đứa con rơi mà ông Hồ chưa dám nhận là cha vì
guồng máy độc ác không cho ông làm chuyện đạo đức ấy.
Nhưng phụ tử tình thâm, chắc ông cũng đau đớn buồn khổ
vì tình trạng không được công khai nhìn nhận con. Ðạo đức
cách mạng của chế độ Cộng sản thật là quái đản, nó
trộn một chút đạo đức phong kiến lẫn một chút đạo
đức Mác Lê và trở nên một thứ hổ lốn vô luân lý khó
coi, có tác dụng tiêu hủy những tình cảm thiêng liêng của
gia đình. Ông Hồ bị buộc phải đóng vai một ông thánh đạo
đức, không được gần gũi đàn bà dù ông là người có
cuộc sống nhục dục bình thường của một người đàn ông.
Về quyền lực chính trị thì những tài liệu mới tìm được
của những học giả Mỹ như Tiến sĩ Sophie Quinn – Judge và
nhà sử học Pháp Pierre Brocheux cho thấy ngay từ lúc thành
lập Ðảng, ông Hồ đã bị phê phán nặng nề và do đó ông
đã không nắm vai trò chủ động trong việc điều hành và
lèo lái Ðảng theo ý muốn. Ông bị Quốc Tế Cộng Sản chế
tài quyền lực lãnh đạo. Khi đến cuối đời thì sự nghiệp
chính trị của ông còn thê thảm hơn nữa. Ông hoàn toàn bị
nhóm Lê Duẩn – Lê đức Thọ tước hết quyền lực , biến
ông thành một biểu tượng cho Duẩn – Thọ sử dụng vào
mục đích tham vọng chính trị riêng của phe nhóm họ. Dĩ
nhiên là có nguyên nhân sâu kín mà các học giả ngoại quốc
dù bỏ ra cả chục năm để nghiên cứu về Hồ cũng chưa
tìm ra câu trả lời rốt ráo cho vấn đề ông Hồ bị thất
sũng này. Cuốn sách này dựa trên chúc thư thật của ông
Hồ đã phần nào giải thích nguyên nhân ông bị tước mất
quyền lực là vì ông đã liên lạc với chính quyền Ngô đình
Diệm ở miền Nam, cụ thể nhất là ông đã gửi cành đào
tặng cho ông Diệm qua ủy hội quốc tế vào dịp xuân 1963.
Quốc Tế Cộng Sản đã cho phép Lê Duẩn và Lê đức Thọ
tước quyền Hồ chí Minh vì tội thỏa hiệp vói chính quyền
miền Nam. Ðó là cách giải thích hợp tình, hợp lý nguyên
nhân ông Hồ bị mất quyền lực vào lúc cuối đời.
Về đời sống cá nhân gia đình
cha mẹ anh em, có nhiều người phê phán ông là loại người
ăn ở bạc bẽo với ông anh tên Ðạt và bà chị tên Thanh.
Khi ông Ðạt mất, ông Hồ viện cớ đang lãnh đạo kháng
chiến vì thế không về dự đám tang. Tuy nhiên sau này có
người tìm ra bức thư ông viết trong thời gian lưu lạc ở
Pháp cho nhà cầm quyền Pháp yêu cầu xin được gửi chút
tiền về cho cha ông là Nguyễn sinh Huy đang ở Việt Nam. Xem
thế thì ông không phải là người không nghĩ đến phúc lợi
của cha ông. Lá thư này được các nhà nghiên cứu tìm thấy
trong văn khố Pháp.
Về đời sống tình cảm cá nhân,
sau khi phải rời xa người vợ Trung Quốc Tăng tuyết Minh năm
1927 vì tình hình biến chuyển, theo học giả Hoàng Tranh, ông
Hồ cũng rán tìm cách viết thư về vấn an vợ và nhạc mẫu.
Lá thư bằng chữ Hán ông viết cho vợ sau này được một
nhà nghiên cứu người Pháp tìm thấy. Xem thế ông cũng không
phải là người tệ bạc với người phối ngẫu. Không thể
đánh giá ông là thứ người lưu manh, lợi dụng con gái đàn
bà xong rồi thì " quất ngựa truy phong". Nhà văn Vũ thư Hiên
còn cho biết ông có dịp nói chuyện với một người bạn
vốn là con một ông lớn trong chính phủ, đã chứng kiến
cảnh Hồ chí Minh và Tăng tuyết Minh gặp nhau ở Hà Nội trong
thập niên 1960. Riêng chuyện người vợ gốc thiểu số Nông
thị Xuân của ông bị thủ tiêu như sự ghi nhận của Nguyễn
minh Cần và Vũ thư Hiên thì ông Hồ có phải là người ra
lệnh giết cô Xuân hay không vẫn chưa có câu trả lời dứt
khoát. Có thể lệnh giết đến từ phe Duẩn – Thọ, vốn
không muốn cho ông Hồ cưới vợ và ra lệnh thủ tiêu cô
Xuân để ông Hồ tiếp tục đóng vai trò hy sinh cả cuộc
đời cho nước non vì thế họ không cho ông lấy vợ dù ông
thú nhận trong chúc thư ông cũng thuộc loại phàm phu tục
tử, chứ không phải là thần thánh gì như chế độ đã tâng
bốc ông.
Ðối với phía Hà Nội thì trước
đây khăng khăng là ông Hồ không bao giờ lấy vợ nhưng dần
dần trước những công bố bút tích và bằng chứng của những
nhà nghiên cứu về chuyện ông Hồ có vợ, Hà Nội đã tương
đối mềm mỏng trong thái độ chấp nhận chuyện ông Hồ
có vợ. Người ta chưa quên chủ biên báo Tuổi trẻ là Kim
Hạnh bị mất chức vì dám loan tin ông Hồ có vợ. Mới đây,
năm 2002, trong cuốn sách " Từ Nguyễn ái Quốc đến Hồ chí
Minh " của Lữ Phương, đã cho đăng nguyên văn bài của Học
giả Trung Quốc Hoàng Tranh tiết lộ chuyện người vợ Trung
Quốc Tăng tuyết Minh của ông Hồ ở phần phụ lục cuốn
sách đã cho thấy Hà Nội đã dần dần chấp nhận chuyện
ông Hồ có vợ. Nói chung cuốn sách của Lữ phương vẫn là
" be bờ và chữa cháy " cho những khuyết điểm của ông Hồ
ở thuở thiếu thời. Chẳng hạn như có bức thư ông Hồ
viết cho chính phủ Pháp xin vào học ở trường Thuộc Ðịa
thì Lữ Phương gượng gạo giải thích là do những người
chung quanh ông Hồ hồi ấy như Nguyễn thế Truyền gợi ý
cho ông Hồ viết lá thư trên. Lữ Phương gắng gượng giải
thích như thế là muốn chạy tội cho ông Hồ. Lá thư trên
làm cho Hà Nội kẹt vì họ vẫn tuyên truyền là ông Hồ ra
đi ngoại quốc tìm đường cứu nước. Nên khi chuyện phũ
phàng là khi tới đất Pháp ông đã làm đơn xin vào học trường
Thuộc Ðịa làm Hà Nội khó ăn khó nói và cuối cùng để
cho Lữ Phương bào chữa cho Bác rằng lá thư " tội lỗi "
ấy là người ta xúi Bác viết !
Nói chung Hà Nội chưa có nổi can
đảm nhìn nhũng sai trái mà ông Hồ phạm phải vì họ đã
biến ông thành ông thánh từ lâu. Khi phê phán một nhân vật
lịch sử, cần phải có sự công tâm, nói lên những cái xấu
và tốt của người ấy, tránh lối phê phán một chiều. Con
người đôi khi không là thiên thần, cũng không là ác quỷ
mà là sự trộn lẫn giữa hai vai trò ấy.
Ðoạn cuối bản chúc thư thật,
người ta sửng sốt khi thấy ước nguyện của ông Hồ, vốn
là ông tổ Cộng sản vô thần ở Việt Nam, là mong ông trời
phù hộ cho đất nước Việt Nam và những nước Cộng sản
khác sớm thoát ách Cộng sản. Thuở thanh niên lúc đọc luận
cương Lê Nin, ông đã kể lại cảm giác hân hoan sung sướng
tột cùng và nói to lên trong tiếng khóc, " Ngồi trong phòng
một mình mà tôi như đứng trước đồng bào. Tôi muốn hét
to lên " Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ. Ðây là con
đường phá vỡ xiềng xích nô lệ cho chúng ta. " Sau khi theo
chủ nghĩa Cộng sản cả một đời người, cái oái oăm là
lúc về già ông trở thành nạn nhân thê thảm của chủ nghĩa
ấy, bị cô lập và giết dần mòn, và ông cũng đã nhìn thấy
sự tệ hại của chủ nghĩa ấy khi ứng dụng vào thực tế
ở Việt Nam. Không ai chối cãi được là phe các nước Xã
Hội Chủ Nghĩa đã giúp ông đánh Pháp thành công nhưng rồi
khi thành công thì nước Việt Nam lại rơi vào trong vòng khống
chế của một chủ nghĩa độc ác mới , còn hung hiểm còn
hơn thực dân Pháp, đó là chủ nghĩa Mác Lê Nin. Cuộc đời
Hồ chí Minh quả là một bi kịch thảm khốc, bi kịch này
xảy ra không chỉ riêng cho cá nhân bản thân ông mà còn cho
cả dân tộc Việt Nam.
Chuyện ông Hồ về già hối lỗi
cũng không có gì là lạ vì con người là một loài có suy
nghĩ, biết nhận xét đúng sai. Sự bồng bột, nhiệt tình
thời thanh niên tuổi trẻ đã được thay thếâ bằng sự
hối lỗi bởi những suy nghĩ chín chắn, già giặn lúc vào
tuổi xế chiều. Cha đẻ của nước Mỹ là Tướng Washington
lúc còn trẻ đã ủng hộ chuyện bắt người da đen làm nô
lệ nhưng đọc trong bản di chúc viết trước khi từ giã cõi
đời, ông Washington đã ước nguyện muốn giải phóng người
da đen khỏi cảnh nô lệ. Người ta thường có cảm giác hối
lỗi, ân hận về những chuyện làm không đúng trong quá khứ.
Hãy nhìn con người độc ác Lê đức Thọ trong những ngày
cuối đời, đã cho mời bà Phạm thị Tề ( là vợ của ông
Vũ đình Huỳnh, và là mẹ của nhà văn Vũ thư Hiên) đến
để xin lỗi vì Thọ đã là người giam cầm, đày ải ông
Huỳnh trong vụ án xét lại. Một Thủ tướng Phạm văn Ðồng
cả cuộc đời theo Cộng sản vô thần, thế mà đến những
ngày cuối đời, khi hai mắt bị bệnh gần như mù, cũng đã
đến chùa xin quy y Phật. Khi sám hối về những mê muội sai
lầm cũng là cách con người tìm lại sự thanh thản cho tâm
hồn trước khi bước qua thế giới bên kia. Nói chung, Hồ
chí Minh, Lê đức Thọ và Phạm văn Ðồng đều có những
hối lỗi chân thành khi hấp hối tàn đời.
Cuốn sách này mổ xẻ những huyền
thoại để vạch ra chân tướng thật sự của ông Hồ không
nhằm mục đích tôn vinh hay bôi bẩn ông mà chỉ có ước
mong vẽ lại cho đúng chân dung của ông để thế hệ sau có
thể rút tỉa kinh nghiệm hầu có những hành động ích quốc,
lợi dân.
Ước nguyện của ông Hồ mong được
nhìn thấy Việt Nam và những nước Cộng sản thoát khỏi
gông cùm Cộng sản cũng là ước nguyện chung của những người
đấu tranh và nhân dân Việt Nam. Nhưng chuyện đưa đất nước
thoát khỏi một hầm chông hiểm độc không phải là một
chuyện làm đơn giản một sớm một chiều mà là một nỗ
lực đấu tranh bền bĩ , một sự hy sinh gian khổ không ngừng
nghỉ trọn tháng trọn năm.
Bên cạnh những bài viết về ông
Hồ, cuốn sách này cũng có bài nói đến tên phản bội khốn
nạn Nguyễn cao Kỳ, tệ nạn phe phái bênh và bảo vệ cho
nhau trong nền công lý Mỹ, đời sống thực vật và động
vật của người tù và người cùng khổ ở Việt Nam, bài
nhận xét về con người của Thượng nghị sĩ Kerry và chuyện
ông Hồ liên quan đến hiệp ước Versailles và với Tổng thống
Truman của Mỹ.
Quê hương vẫn còn trong gông cùm
Cộng sản. Ðồng bào Việt Nam vẫn đang sống kiếp ngựa
trâu. Bổn phận ai còn nghĩ đến quê hương đất nước đồng
bào là phải dấn thân tranh đấu, chuyển lửa tiếp máu cho
những người đấu tranh ở quê nhà. Cái sai lầm của Hồ
chí Minh đã đem lại đau thương, uất hận cho nhân dân Việt
Nam trong gần thế kỷ qua. Người Việt Nam phải sửa cái sai
lầm chết người đó bằng khối óc, con tim và chính thân
mạng của mình thì mới mong ngày tổ quốc bước ra khỏi
cơn đau.
Lawndale, một chiều mưa tạnh hoang
vu đầu tháng 3-2004
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
( Muốn đọc tất cả những
bài viết của Trần viết Ðại Hưng thì vào www.nsvietnam.com
rồi bấm tên Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái) |