ÐỌC
VÀ SUY LUẬN VỀ BÀI
"HỒ
CHÍ MINH, TRUNG QUỐC VÀ LIÊN XÔ"
CỦA
HOÀNG TÙNG
Tài liệu này trích từ hồi
ký " Những kỷ niệm về Bác Hồ " của ông Hoàng Tùng, nguyên
bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên tổng biên
tập báo Nhân Dân. Tập hồi ký này vừa phát hành liền bị
thu hồi vì những điều ông Hoàng Tùng trình bày về ông Hồ
tuy trung thực nhưng có tính cách tiêu cực. Và càng bị cấm
đoán thì người ta càng tin những điều ông Hoàng Tùng về
ông Hồ là chính xác. Đảng Cộng sản vốn biến ông Hồ
thành thánh từ lâu nên không chấp nhận bất cứ quan điểm
tiêu cực nào về ông Hồ. Những tiết lộ của Hoàng Tùng
về ông Hồ đã cho thấy ông có những sự trăn trở, lo lắng,
đau đớn, những thất bại và thất sủng trong suốt cuộc
đời cách mạng của ông. Những chi tiết này sẽ làm cho các
sử gia và hậu thế có một cái nhìn đúng đắn và chân thực
hơn về con người và sự nghiệp cách mạng của Hồ chí Minh.
HỒ CHÍ MINH, TRUNG QUỐC VÀ LIÊN
XÔ
Vì quan hệ của ta với Trung Quốc
và Liên Xô không được thuận tiện, cho nên khi chính quyền
của ta được thành lập thì hai nước đều không công nhận.
Trung Quốc thì quan hệ không chính thức. Hai người sang ta
đầu tiên nhân danh Đảng mà cũng là Đảng địa phương thôi,
đó là Chu Nam và Trang Điền. Một người là chính ủy, một
người là tư lệnh quân khu Hoa Nam sang nhờ ta giúp họ tiễu
phỉ ở Thập Đại Vạn Sơn. Sau đó ta có cử một trung đoàn
do Lê quảng Ba phụ trách sang Trung Quốc. Các đồng chí Việt
Nam ở Diên An và Trung Quốc sau khi thấy cách mạng Việt Nam
thắng lợi thì xin về. Lúc đầu là Nguyễn khánh Toàn, Nguyễn
Sơn, Lý Ban, Trương ái Dân, Cao tử Kiến. Trương ái Dân trong
thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác công vận ở
Liên khu 3 do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng,
sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-1931, đồng chí ấy sang
Trung Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong
cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-1943, đồng chí ấy bị
thẩm vấn lý lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng
Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần văn Giàu,
liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu. Sau đó không
hiểu vì sao được thả. Sau Cách Mạng tháng tám năm 1945,
đồng chí được về nước cùng với một số người nói
ở trên. Cao tử Kiến công tác ở Yên Bái trong thời gian kháng
chiến chống Pháp.
Sau khởi nghĩa ta mở một lớp huấn
luyện ở Vạn Phúc cho cán bộ học. Nghe anh Lê đức Thọ
nói lại là Hồng Lĩnh, tức Nguyễn khánh Toàn, nói chẳng
ai hiểu gì cả. Sau tôi nghe mấy người khác nói ông ta là
một giáo sư giỏi lắm. Cả Bùi công Trừng đi học ở Liên
Xô về nói cũng thế cả.
Về quan hệ với Liên Xô, tôi biết
Liên Xô, nhất là Stalin coi Bác là một người dân tộc chủ
nghĩa cải lương từ năm 1928. Sau lại thêm việc Bác bị bắt
ở Hồng Kông rồi lại được thả, khiến Liên Xô nghi ngờ.
Stalin không hiểu được lại có những người như Loseby (
*). Lại thêm việc Hà huy Tập báo cáo. Anh Lê Duẩn có nói
với tôi là Hà huy Tập báo cáo với Quốc Tế về việc mật
thám đưa bà Thanh ( chị Hồ chí Minh) đi Trung Quốc tìm
Nguyễn ái Quốc và ra nghị quyết phê phán sai lầm dân tộc
chủ nghĩa cải lương của Nguyễn ái Quốc. Bác đến Liên
Xô năm 1934-38 chỉ làm công tác ở Ban thuộc địa của Quốc
tế Cộng sản, không được giao nhiệm vụ cụ thể. Người
được giao nghiên cứu làm luận án phó tiến sĩ về vấn
đề thuộc địa. Bác xin được làm nhưng không được trả
lời. Người xin về nước. Tại Đại Hội Quốc tế Cộng
sản lần thứ 7, Người không tham gia đoàn đại biểu Đảng
ta, chỉ là đại biểu dự thính. Liên Xô vẫn cho rằng Việt
Minh là một thế lực dân tộc chủ nghĩa. Họ không thấy
Đảng Cộng sản đâu, và vì sao Đảng Cộng sản giải tán.
Năm 1948, cả hai nước đều tìm hiểu xem Việt Nam là gì.
Đảng ta cử Nguyễn Chương ( cùng ở xứ ủy với tôi )làm
phó cho Lê đức Thọ sang Xiêm tổ chức lại tổ chức của
ta ở đó. Trong khu ủy của khu bốn, mọi người mâu thuẫn
với nhau, mà toàn những lão thành cả như Nguyễn Sơn, Hoàng
văn Hoan, Hồ tùng Mậu, Trần hữu Dực. Ông Hoàng văn Hoan
thì nổi tiếng về những chuyện kèn cựa ngay từ đầu. Ta
cử Hoàng văn Hoan bàn với Nguyễn Chương ( có thể là do gợi
ý của Trung Quốc ) là cử Nguyễn Chương sang Trung Quốc để
nghiên cứu. Nhưng thực tế Trung Quốc muốn qua Nguyễn Chương
để tìm hiểu tình hình Việt Nam. Nguyễn Chương đến Trung
Quốc báo cáo tình hình. Phương hướng báo cáo cũng hữu khuynh
đúng như họ đánh giá, nói là ta dân tộc chủ nghĩa, đề
cao địa chủ quan lại, không nêu cao vai trò của Đảng và
liên minh công nông. Đại diện của Liên xô ở Praha gặp hai
đại diện của ta là Trần văn Danh và Lê Hy hỏi tình hình.
Hai người này nói cũng ăn khớp với Nguyễn Chương nói. Nói
khớp như nhau bởi vì chúng tôi lúc đầu nghiên cứu theo cương
lĩnh của đồng chí Trần Phú, nghĩa là cương lĩnh thứ hai
của Quốc tế Cộng sản, tức là làm cách mạng tư sản dân
quyền, lấy công nông làm trụ cột, do giai cấp công nhân
lãnh đạo, lập chính quyền xô viết �...Chỉ đến khi Cách
mạng Trung Quốc thắng lợi, Bác trực tiếp sang mới trình
bày rõ vấn đề. Việc này tôi không được nghe trực tiếp,
chỉ nghe anh Lê văn Lương nói lại. Khi gặp Bác, Lưu thiếu
Kỳ nói ngay rằng : " Các đồng chí giải tán Đảng, các đồng
chí tưởng lừa được địch, nhưng địch không lừa được
mà lại lừa chính chúng tôi, vì chúng tôi hiểu rằng các
đồng chí giải tán Đảng thật. Còn địch nó thừa hiểu
các đồng chí không giải tán Đảng." Hôm tuyên bố giải
tán Đảng tôi không được dự, nhưng nghe nói lại rằng,
quyết định này của Bác thật là táo bạo. Lúc đó không
làm thế cũng nguy, vì âm mưu của Tưởng là đánh đổ Cộng
sản. Với bọn Lư Hán, Tiêu Văn, Đảng Cộng sản tồn tại
là chúng nó chết, vì sẽ bị Tưởng trị. Nên ta mới lập
mẹo tuyên bố giải tán Đảng, chỉ tuyên bố về danh nghĩa
mà thôi, còn trên thực tế Đảng vẫn tồn tại. Khi đưa
ra bản tuyên bố giải tán Đảng ở Thường vụ, người không
tán thành nhất là đồng chí Trường Chinh. Sau Tưởng không
có lý do gì thúc ép khi Đảng đã tuyên bố giải tán.
Sau Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ
đạo của Mao. Sang tới Liên Xô, Stalin lại đưa Bác vào quỹ
đạo của Stalin. Chuyến đi Trung quốc và Liên xô năm 1950
của Bác là chuyến đi gian khổ. Khi đó Stalin nói : Bây giờ
cách mạng Trung quốc thành công rồi, Trung quốc có trách nhiệm
giúp đỡ các nước phương Đông, cũng như Liên xô có trách
nhiệm giúp đỡ các nước châu Âu và châu Mỹ. Trung quốc
cho như thế là Quốc tế Cộng sản đã phân công Trung quốc
phụ trách châu Á. Bám vào ý kiến ấy, sau này Trung quốc
coi như là người đỡ đầu ta. Tôi cho rằng vì lý do đó
như thế mà mấy lần Bác từ chối làm Tổng bí thư, có lẽ
Bác cho rằng nếu Bác nhận làm Tổng bí thư thì Liên xô sẽ
gay chuyện. Từ Đại hội Đảng ta lần thứ nhất ở Macao,
Hà huy Tập đã phê phán Bác như Quốc tế Cộng sản đã phê.
Bác không nhận là chủ tịch nước cũng là thật lòng chứ
không khách khí. Sau này anh Lê đức Thọ nói với tôi rằng
khi đề nghị Bác làm chủ tịch nước thì Bác từ chối mãi,
Bác nói mình là chủ tịch nước à ? Mình chỉ đứng đằng
sau thôi, còn tìm người khác làm. Người còn nói nếu tìm
khó quá cứ đưa Bảo Đại ra làm rồi mình thu xếp. Bác thực
sự vì cách mạng chứ không vì mình.
Đây là về phía Liên xô, Trung quốc,
còn về phía Đảng Cộng sản Pháp, là Đảng thân thiết với
ta, lúc đầu họ cũng cho Việt Minh là phái thân Nhật chứ
không phải Cộng sản. Năm 1950, Đảng Cộng sản Pháp phái
Léo Figuères, ủy viên dự khuyết của Trung ương, phụ trách
tờ báo Thanh Niên, sang điều tra tình hình của ta. Léo Figuères
đến Việt Bắc. Về mặt chức vụ, tôi cũng tương đương
với anh ta, nên được cử tiếp anh. Cố nhiên là năm 1946,
khi sang Pháp Bác cũng đã nói được một phần nào rồi, nhưng
Đảng Cộng sản Pháp chưa thể hiểu hết. Léo Figuères muốn
biết thực sự Đảng Cộng sản có tồn tại hay không, anh
ta đi khắp các nơi, ở đâu cũng thấy có Đảng Cộng sản,
mà đảng viên Đảng Cộng sản là những người lao động,
những người công nhân, trí thức, còn quan lại, địa chủ
là tượng trưng bên ngoài thôi. Từ đó Đảng Cộng sản Pháp
mới thực sự công nhận ta. Cũng từ đó mới có các phong
trào ủng hộ Việt Nam. Trước đó, Đảng Cộng sản Pháp
không làm gì để ủng hộ ta. Đó là khó khăn đối với Bác
lúc bây giờ. Trong nội bộ tình hình nói chung ổn định,
trừ mấy trường hợp, như Trần văn Giàu. Giàu học ở Liên
xô về. Tôi biết có người tên là Phi Vân, cũng học ở Liên
xô về, bị đi tù ở Sơn La. Khoảng năm 1935, ở tù cùng với
Phi Vân, tôi hỏi Phi Vân có nhận xét gì về Nguyễn ái Quốc.
Vân nói ông già này không có gì đâu, ở nhà cứ tưởng là
nhân vật quan trọng lắm, chứ ông ta là loại dân tộc chủ
nghĩa, trình độ lý luận kém. Đó là cách nhận định về
Bác của mấy người đi Liên xô về. Trần văn Giàu thuộc
loại trên. Có lần Trần văn Giàu nói với tôi, năm 1932 về,
anh là bí thư, sau khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, anh em mình
nhiều người bị bắt, anh đứng ra lập một tổ chức tiên
phong, coi như nòng cốt của cách mạng. Cuộc khởi nghĩa ở
Sài gòn chính anh là người lãnh đạo. Còn ở Nam bộ một
số đồng chí của ta như Ung văn Khiêm, Hà huy Giáp, Nguyễn
thị Thập ra nắm vùng nông thôn. Ba người này ra ngoài Bắc
dự Hội nghị Tân Trào. Nguyễn thị Thập đến không kịp,
Ung văn Khiêm đến chỗ tôi rồi đi Tân Trào, chứ Trần văn
Giàu không được thừa nhận. Việc phân xử Trần văn Giàu
có các lớp đàn anh đi tù ở Côn Đảo về. Họ là bậc thầy
ở Nam Bộ, là những người lãnh đạo quen thuộc của nhân
dân Nam Bộ. Thế của Trần văn Giàu yếu đi,về sau cấp trên
điều Trần văn Giàu đi Xiêm.
Trong Đảng có hai nguồn đào tạo,
một học ở Liên xô về, một học ở Trung quốc về. Do đó
họ theo quan điểm của hai nơi, có những ý kiến không giống
nhau, đôi lúc hục hặc với nhau. Nhưng nói chung cả hai bên
đều chịu Bác. Chỉ có Nguyễn Sơn về sau có vấn đề phải
ra đi. Trước khi mất, Nguyễn Sơn có tâm sự với tôi rằng
sai lầm thì phê bình chứ sao lại đuổi đi. Ông ta trách Bác.
Lúc đó tôi hỏi anh Võ nguyên Giáp, anh ta hay hục hặc như
thế để anh ta làm phó cho anh có được không, Võ nguyên Giáp
nói làm phó thế nào được, anh ta suốt ngày chửi tôi, anh
ta còn phê bình trường Nguyễn ái Quốc rất ghê. Sau Bác nói
chú Nguyễn Sơn hữu tài nhưng ..nên mời chú đi..Thực ra cái
khó của hai nhóm này là không hiểu được tư tưởng biện
chứng Mác-xít. Ta làm cách mạng ở một nước thuộc địa
chứ không phải làm cách mạng ở một nước tư bản, hay
quân phiệt nông dân như Trung quốc. Vấn đề thống nhất
dân tộc Việt Nam nhiều người không hiểu được, cho đến
tận bây giờ nhiều người vẫn hiểu là phải nhấn mạnh
liên minh công nông. Bác có lúc nói Đảng của giai cấp là
theo thời cuộc, và cũng là để chiều lòng người..Bác định
nghĩa Đảng đúng nhất là ở Đại hội 2. Đảng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, tức là của dân tộc Việt
Nam. Bây giờ lại càng đúng, vì nông dân, công nhân đâu có
cách biệt gì lớn, không phải là giai cấp bị áp bức, cùng
làm chủ cả, cùng là người lao động tự do, thêm một số
trí thức nữa, chứ không phải chỉ có giai cấp công nhân
mới ra đời mấy chục năm nay. Bác hết sức sâu sắc nhưng
người không nói ra. Những bài viết, những bài phát biểu
của Bác từ năm 1920 đến năm 1925 có phân tích sâu sắc,
lý luận sắc bén. Sau này, từ Cách mạng tháng 8 trở đi,
Người viết ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề, không phân
tích dài dòng để quần chúng dễ hiểu. Hai bên không hiểu,
cứ " chiếu tướng " nhau rồi sinh chuyện. Nói Bác lý luận
kém là hoàn toàn sai.
Sau khi gặp Stalin và Mao, hai bên
cứ thúc ép Bác làm như họ, tức là liên minh công nông, do
Đảng lãnh đạo, lập chính quyền công nông, rồi làm cải
cách ruộng đất. Bác chưa muốn làm cải cách ruộng đất.
Thuyết ba giai đoạn của đồng chí Trường Chinh đưa ra ở
Đại hội 2 là có ý kiến của Bác. Theo thuyết ba giai đoạn
thì cải cách ruộng đất để sau, hãy làm giảm tô, giảm
tức. Đồng chí Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, họp
Xứ ủy, tôi được nghe ông nói : Dưới chính quyền Cách
mạng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều
cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn.
Mùa thu năm 1950, Trung quốc phái
hai phái đoàn cố vấn sang Việt Nam. Một đoàn chính trị
do La quý Ba làm cố vấn. La quý Ba trước là bí thư của Mao,
bí thư Sơn Tây. Ông này là người nghiêm chỉnh, phục Mao
trạch Đông như một ông thánh. Ông là người tin cẩn của
Mao. Còn tổng cố vấn về quân sự là Vi quốc Thanh. Đoàn
cố vấn quân sự đông hơn, vì nó có đủ cả bộ máy của
quân sự. Ta không hiểu thâm ý của Trung quốc là muốn sửa
ta. Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm Trung quốc, lý luận
Mao trạch Đông, lý luận quân sự, tổ chức quân đội. Việc
đầu tiên của họ là sửa quân đội đã. Họ sửa cả Đảng
trong quân đội cho nên mới lập ra chức chính ủy. Trước
ta chỉ có chính trị viên. Cùng là chính trị cả nhưng có
khác nhau về chức năng. Chính ủy là người bao trùm lên tư
lệnh, chứ không phải tư lệnh là người quyết định. Lập
ra chính ủy là để xác định vị trí của Đảng, mà việc
đầu tiên là nhắm vào ông Giáp. Vì ông Giáp xuất thân từ
trí thức, năm 1950 mới có 10 tuổi Đảng, mặc dù ông tham
gia cách mạng từ những năm 1930, nhưng ông hoạt động bị
bắt, rồi lại đi học, mãi đến năm 1940 mới được Bác
kết nạp vào Đảng. Theo Trung quốc, ông là một trí thức,
xuất thân không phải công nông, để ông nắm quân sự là
không ổn. Đặt ra chức chính ủy là để phụ trách Đảng
trong quân đội. Có người đưa ra đoàn cố vấn một danh
sách cán bộ trong quân đội xuất thân từ gia đình không
phải là công nông, định để gait ra khỏi quân đội. Ai đưa
danh sách này cho đoàn cố vấn ? Tôi ngờ rằng đó là một
người trong quân đội, người này là Lý Ban, phó của Văn
tiến Dũng. Văn tiến Dũng là cục trưởng, Lý Ban là cục
phó. Ông Giáp mới đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt
ngay đi, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán
bộ. Nguyễn hữu An, Đặng vũ Hiệp đều trong danh sách ấy
cả, vì thuộc trí thức. Theo họ, chấn chỉnh quân đội trước
để chuyển sang tổng phản công. Lúc đó ta tin tưởng quá
nhiều vào Trung quốc, vì các ông Trang Điền, Chu Hạ sang nói
khi nào Quân giải phóng " nam hạ " thì sẽ giúp Việt Nam đánh
Pháp.
Đầu năm 1950, Bác cùng bộ chính
trị phân tích tình hình, mối quan hệ giữa thế và lực.
Lực của ta còn yếu, mới có một đơn vị tổ chức thành
đại đoàn 308. Còn lại là tiểu đoàn và trung đoàn. Lực
lượng thực sự cũng yếu. Tổng phản công lúc này cũng khó.
Chỉ hy vọng ở cái thế. Bác đã viết trong " Học đánh cờ
": Lực yếu nhưng thế mạnh thì lực sẽ tăng. Về lý luận
thì đúng, nhưng còn trong điều kiện cụ thể lại khác. Nên
ta tính năm 1950 chưa thể tổng phản công được. Vi quốc
Thanh chuẩn bị, mọi việc nhất nhất xin ý kiến của Mao.
Mùa thu năm 1950, ta đánh chiến dịch Biên giới Đường số
4. Trần Canh trực tiếp sang giúp. Tôi nghe nói lúc đầu ta
định đánh từ Cao Bằng ( theo ý ông Giáp ). Trần Canh nói
ta nên đánh Đông Khê. Vì Đông Khê là tuyến chính nhất ở
trên này. Mà đánh vào điểm yếu thì cả phòng tuyến của
địch sẽ bị rung. Đánh vào điểm mạnh thì ta chưa đủ
sức. Đúng là Trung quốc có công giúp ta trong trận Biên giới.
Sau thắng lợi mới, tổng kết chiến dịch và sau đó là tiến
hành chỉnh huấn, chỉnh quân, thay đổi lại tổ chức quân
đội.
Thế là năm 1950-51 đoàn cố vấn
thực hiện chỉnh đốn quân đội. Các chỗ khác họ chưa
đụng tới. Đại hội Đảng ta năm 1951, đại biểu nước
ngoài tới dự chỉ có La quý Ba, bên Kamphuchia có Xiêng Hiêng
( sau phản bội ), phía Lào có một đại biểu. Tại Đại
hội, La quý Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp.
Sau đó bắt đầu đánh thuế. Họ đem các nề nếp từ bên
Trung quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh đảng, chỉnh phong từ
Diên An sang. Sau Đại hội ta không nói gì đến cải cách ruộng
đất, chỉ thấy nói đến lý thuyết ba giai đoạn, vì thế
nên mùa hè năm 1952, Mao trạch Đông và Stalin gọi Bác sang,
nhất định bắt phải thực hiện cải cách ruộng đất. Sau
thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định
phải thực hiện cải cách ruộng đất. Bác viết một bài
nhan đề , " Terre et eau " ( đất và nước ), ký tên là Le Ding,
đăng ở tạp chí " Vì một nền hòa bình lâu dài, vì một
nền dân chủ mới ". Bác nói đại ý: Đất và Nước bao giờ
cũng đi liền với nhau, muốn giải phóng nước phải đưa
đất cho dân. Bác nói khéo để nói lên việc phải cải cách
ruộng đất. Năm 1952, sau khi đi Trung quốc và Liên xô về,
Bác chuẩn bị cho Hội nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết
định cải cách ruộng đất. Trung quốc cử đoàn cố vấn
sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn
tuyên truyền. Đoàn cố vấn cải cách ruộng đất do Kiều
hiểu Quang làm trưởng đoàn. Kiều là phó bí thư tỉnh ủy
Quảng Tây. Họ muốn qua cải cách ruộng đất để chỉnh
đốn lại Đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành cải cách
ruộng đất đến lúc dừng là 3 năm. Khi đó tôi thường được
dự họp Bộ chính trị do đó cũng biết một số việc. Đó
là việc làm thí điểm ở đồng bằng và chọn đồn điền
Nguyễn thị Năm. Nguyễn thị Năm tức là Cát Thành Long có
một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính trị của
Văn tiến Dũng. Gia đình bà trong dịp Tuần lễ vàng có hiến
100 lượng vàng. Bà còn tham gia công tác của Hội phụ nữ
từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh
Trường Chinh, Hoàng quốc Việt, Lê đức Thọ thường hay ăn
cơm ở nhà bà. Gia đình Nguyễn thị Năm cũng giống như các
gia đình Đỗ đình Thiện, Trịnh văn Bô giúp đỡ nhiều cho
Cách mạng. Chọn địa chủ Nguyễn thị Năm để làm trước
là do có người mách cho cố vấn Trung quốc. Họp bộ chính
trị, Bác nói, " Tôi đồng ý người có tội thì phải xử
thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu
tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng
giúp đỡ cho Cách Mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn
bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa. " Sau cố vấn Trung
quốc là La quý Ba đề nghị mãi, Bác nói, " Thôi tôi theo
đa số,chứ tôi vẫn cứ cho là không phải. " Và họ cứ
thế mà làm. Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ
mà tổ chức lại một số tổ chức khác của Đảng, họ
phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn
thể. Ai lãnh đạo Cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh
đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953?Thế mà
họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử
tử. Mục đích của họ không phải là cải cách ruộng đất
mà là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng
lại, nếu không thì tan nát hết. Sau này có những phiên họp
Bộ chính trị tôi hay ngồi lại cùng Bác nói chuyện. Có lần
Bác trầm ngâm nói, " Mình đã nói để kháng chiến xong đã,
mới tiến hành cải cách ruộng đất, cứ ép mãi. Mà nếu
có làm cũng làm theo cách ta, chứ không theo họ. "
Đánh thuế công thương nghiệp,
cải tạo tư sản là do Trung quốc đề ra. Hậu quả là hơn
một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ,
điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta làm vội, làm
ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm
chí trung nông cũng đánh. Đảng viên nhiều người tốt cũng
bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc đó
là như thế. Do đó khi Cách mạng tháng tám thắng lợi , không
khí vui mừng đến như thế, mà chiến thắng Điện biên Phủ
không khí không được vui bằng.
Tôi nhớ có chuyện thế này, đầu
năm 1951, lúc đó tôi là Chánh văn phòng của Tổng bí thư
nên được dự các cuộc họp của Thường vụ Trung ương.
Trong một cuộc họp Thường vụ Trung ương, Bác nói Stalin
không được như thế đâu, chỉ vì người ta cần có một
ngọn cờ mà đưa lên như thế. Nghĩa là Bác biết rõ Stalin.
Người không sùng bái, cũng như không sùng bái Mao trạch Đông.
Nhiều lúc Bác cũng phải ngoại giao. Cũng như Bác không thích
gì Tưởng giới Thạch, nhưng Bác vẫn dịch cuốn " Trung Quốc
mệnh vận " do Tưởng viết, rồi đem biếu Trương phát Khuê.
Tranh thủ để giữ vững chính quyền, giảm được kẻ thù.
Bác hết sức tinh trong nhìn nhận tình hình chính trị. Nhưng
người ít nói. Nhiều người không biết cứ tưởng Bác mơ
hồ trong vấn đề này khác. Chính trị Bác sắc sảo, nhưng
Người rất ghét nói ba hoa. Bác bao giờ cũng vì dân, vì nước,
chứ không vì cá nhân mình. Nhiều người sắc sảo nhưng lại
vì bản thân mình nhiều, củng cố vị trí cá nhân mình nhiều
hơn. Nếu người lãnh đạo Cách mạng nào cũng được như
Bác thì không bao giờ chính quyền bị đổ, vì Bác lúc nào
cũng có Đảng có dân, quan hệ với dân chặt chẽ, không bao
giờ làm điều gì vì mình, tất cả đều xuất phát vì nhân
dân. Tôi cho rằng hiểu được Bác không dễ, làm như Bác
càng khó hơn.
( ...)
Tìm hiểu về Bác, tôi thấy Bác
có 10 nỗi đau lớn ( 1)
Một là gia đình tan nát. Mẹ và
người em út mất sớm vì nhà nghèo không đủ tiền mua thuốc,
không ai chăm sóc, trong lúc bố đi vắng. Cụ Nguyễn sinh Sắc
bị thù oán nên bị hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng
thắn những người xấu và làm theo ý mình cho là phải. Bọn
quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị phạm tội đưa
đến, lệ ngày xưa trước khi xử án phải nọc người đó
mấy chục roi trước. Chẳng may người phạm tội bị bệnh
từ trước nên sau khi bị đánh trả về một thời gian người
ta chết. Nhân việc này mới cách chức cụ và đày đi biệt
xứ. Còn ông anh và bà chị Bác cũng bị tù đày, rồi sau
mất sớm.
Nỗi đau thứ hai là, sau vụ chính
biến Tưởng giới Thạch, Bác đi Liên xô. Trước đó Bác
phụ trách phòng Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản. Bác
có đi dự Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản nhưng không được
bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của
mình, Bác bị Liên xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn Cộng
sản. Sang Liên xô Bác không được giao việc gì cả, không
có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về,
họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về.
Bác về Xiêm tìm đến các gia đình người Nghệ như gia đình
cụ Đặng thúc Hứa. Bác hoạt động trong giới Việt kiều.
Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó. Như
thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải
là do Quốc tế phân công. Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh
niên cách mạng đồng chí hội để lập Đảng Cộng sản.
Bác cho rằng chưa phải lúc. Bác cho rằng lúc đầu hãy tập
hợp thanh niên và giương cao ngọn cờ yêu nước đã. Có tổ
chức Đảng Cộng sản chỉ là tổ chức bí mật chứ chưa
đưa Đảng Cộng sản ra và nói đấu tranh giai cấp vội, cứ
nói đánh Tây cho quần chúng dễ hiểu. Theo tôi vì sao lại
lập Đảng Cộng sản ? Chuyện này có lẽ bắt nguồn từ
Đảng Cộng sản Pháp. Đảng Cộng sản Pháp sợ liên lụy
không dám bênh vực phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa nữa. Sau Cách mạng tháng mười, hai người Cộng sản
Pháp sang Liên xô gặp Lênin là Frossard và Cachin. Frossard không
đồng ý với Lênin một số điểm cho nên về nước không
được dùng mà chỉ có Cachin được dùng. Những điều này
tôi đoán lúc đầu Bác không biết, vì lúc đó Bác đang là
một nhà cách mạng chân thành trong sáng, không nghĩ đến những
điều phức tạp bên trong. Đảng Cộng sản Pháp cho rằng
Bác không lập ra Đảng Cộng sản mà chỉ tuyên truyền chủ
nghĩa yêu nước, lại phê phán Đảng Cộng sản Pháp khá nhiều,
trên báo chí và ở Đại Hội Quốc tế Cộng sản. Đảng
Cộng sản Pháp có ý không tán thành Bác. Năm 1923, Nguyễn
văn Tạo là học sinh bãi khóa ở Sài goon được sang Pháp
học, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp, rồi vào
Trung ương ngay. Nguyễn ái Quốc không được bầu vào Trung
ương, Bác làm ở Ban thuộc địa, Đảng Cộng sản Pháp cử
3 người trong đoàn Pháp sang Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản,
trong đó có Nguyễn văn Tạo. Nguyễn văn Tạo đề nghị là
ở Đông Dương điều kiện đã chín muồi, đề nghị cho thành
lập Đảng Cộng sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc
kỳ gồm Ngô gia Tự, Nguyễn phong Sắc, Nguyễn đức Cảnh,
là ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương Cộng sản
đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội. Việc đó chính là phê phán Nguyễn ái Quốc, hay
gọi là sự sửa sai đối với Nguyễn ái Quốc. Nhưng Bác
vẫn im lặng tìm cách sửa sai việc đã rồi, vì ba tổ chức
tìm cách chống nhau, gây chia rẽ. Sau Lê văn Lương nói với
tôi là khi Bác về, Trịnh đình Cửu có hỏi Bác giấy ủy
nhiệm của Quốc tế Cộng sản, vì Bác nói là Quốc tế cử
về. Bác trả lời, " Đồng chí thử tưởng tượng xem, nếu
tôi mang trong người giấy ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản,
thì liệu tôi có về được đến đây không? ". Trong số những
người dự hội nghị hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng
sản có Lê hồng Sơn ( Đông Dương Cộng sản đảng ). Có
người nói không có Đông Dương Cộng sản đảng là không
đúng, Người sáng lập An Nam cộng sản đảng là Hà huy Giáp,
nhưng anh theo quan điểm công nông, đưa công nhân lên là chính,
nên mới đưa Hạ bá Cang lên. Hạ bá Cang, Nguyễn Thiệu, Châu
văn Liêm được cử đi dự hội nghị hợp nhất. Nhưng Hạ
bá Cang bị bắt ở Hải Phòng nên không dự được. Đại
diện cho Bắc kỳ là Trịnh đình Cửu và Nguyễn đức Cảnh.
Bác đưa ra Chính cương vắn tắt và điều lệ vắn tắt,
thật sự là Bác đã trở lại đường cách mạng với 3 mục
tiêu: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Mà dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc chính là tư tưởng của
Tôn Văn. Nhưng cách thực hiện khác hoàn toàn. Tôn Văn dùng
cách mạng tư sản. Bác là làm cách mạng nhân dân, cách mạng
quần chúng rồi tiến dần lên cách mạng xã hội chủ nghĩa
thực sự. Bác nói là làm từ từ, dần dần. Tiến lên chủ
nghĩa xã hội ngay làm sao được với một nước có nền nông
nghiệp lạc hậu. Mẫu của Stalin không phải đâu cũng áp
dụng như thế. Nhiều ông cách mạng còn trẻ, kinh nghiệm
ít, cứ tin theo sách, nhưng Bác không khờ như thế.
Năm 1931-32 ở Hương Cảng, Bác không
có chức vụ gì, nhưng vì sự nghiệp cách mạng nên Bác vẫn
làm. Bác gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị giao việc,
vì thời gian đó Bác chỉ làm nhiệm vụ của một hộp thư.
Đường giao thông của ta với Pháp bị vỡ do một anh thủy
thủ Pháp bị bắt khai ra. Khi tôi ở trong tù thì được thông
báo cho biết là Trần văn Giàu bị bắt khai ra đường day,
nhưng sau này tôi hỏi lịch sử Đảng Sài gòn, họ nói có
tài liệu chứng minh là không phải Trần văn Giàu khai. Mật
thám tìm được chỗ Bác ở và bắt Bác. Việc Bác được
tha là nhờ luật sư Loseby. Ông luật sư cãi cho Bác là ông
Stafford Cripps sau này là bộ trưởng dưới thời Thủ tướng
Churchill. Việc Bác bị bắt rồi lại được tha, Liên xô không
hiểu, họ nghi ngờ có điều gì phức tạp trong vụ án. Tại
sao lãnh tụ Cộng sản mà được đế quốc tha yên ổn, cho
nên trong vùng 4 năm họ không giao việc gì. Bác là nhân viên
thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận làm nghiên cứu
sinh phó tiến sĩ , nhưng Người rất chán. Tại Đại hội
lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản, Bác không có cương vị
gì cả. Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp trước
đó, bầu Bác là Ủy viên dự khuyết, và còn ghi rõ là chỉ
công tác ở nước ngoài. Chính vì thế nên Bác không có tên
trong đoàn đại biểu của Đảng ta sang dự Đại hội lần
thứ 7 của Quốc tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng
Việt Nam chỉ có Nguyễn thị Minh Khai, Lê hồng Phong. Sau khi
xin việc mãi không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi
có gặp một nhà trí thức Việt Nam, người này có gặp một
nhà trí thức Pháp, họ nói Bác suýt bị hạ vì những chuyện
lôi thôi này. Ông lãnh tụ Nhật Bản Nosaka Sando cũng bị rầy
rà. Những chuyện này Bác biết cả.
Thời gian này quan hệ với Trung
quốc không gay go, vì tình bạn của Bác với Chu ân Lai, Lý
phú Xuân, Diệp kiếm Anh..khi Bác ở Quảng Châu là thân thiết.
Năm 1938-39 Chu ân Lai cũng giúp đỡ Bác nhiều. Chỉ có sau
này với Mao trạch Đông là Bác gặp khó khăn thôi.
Về việc Bác bị bắt năm 1942 ở
Trung quốc, tôi được biết như sau: chuyện này do Hoàng Điền,
đại tá về hưu, người được dự các lớp huấn luyện
ở Liễu Châu năm 1944, nói với tôi. Mục đích chuyến đi
này của Bác là gặp Chu ân Lai để hỏi thăm tình hình quốc
tế. Lúc Bác bị bắt, trong người có tấm danh thiếp :Hồ
chí Minh, Việt Nam hoa kiều ký giả và một số giấy tờ
khác. Hoàng Điền nói Trương bội Công đứng đầu bọn tình
báo của Trương phát Khuê đã bố trí Trần Báo ở với những
người cách mạng của ta thường đi qua để bắt. Tên này
là em bà Ngô khỏa Duy, vợ ông Hồ học Lãm, người đã biết
rõ Bác Hồ. Bác bị hành hạ khổ sở. Nhưng nỗi đau nhất
của Bác là Người bị bắt trong lúc tình hình thế giới
và trong nước có nhiều biến động. Nếu ở nhà lúc đó
không có anh Trường Chinh thì thật sự chúng ta không có ngày
nay đâu. Tả lại phần nào nỗi đau của mình trong những
ngày bị bắt giữ, Bác có viết bài thơ, " Trên đời ngàn
vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự do."Càng
cay đắng hơn là Bác bị bắt trong lúc Cách Mạng rất cần
Người.
Nỗi đau thứ tư là sau năm 1945,
Liên xô, Trung quốc không công nhận ta. Đảng Cộng sản Pháp
cũng nghi ngờ.
Nỗi đau thứ năm là 1950-52, Mao
trạch Đông và Stalin gọi Bác sang phê phán gay gắt, buộc
phải thay đổi đường lối, dẫn ta đến sai lầm trong cải
cách ruộng đất. Tuy nhiên Trung quốc giúp ta chỉnh lại quân
đội có phần đúng. Mục đích của họ là sửa lại cả
quân sự, chính trị, tổ chức, cách dùng người. Nhân nói
về chính sách dùng người của Bác, tôi muốn kể chuyện
này. Có lần trong một cuộc hội nghị về công tác tổ chức,
Lý Ban nói, " Đối với con cán bộ khi kết nạp vào Đảng
không cần phải thời gian dự bị, mà được chính thức ngay."
Bác nói ngay, " Chú nói như thế không đúng. Đối với
cách mạng phải xem cụ thể người ấy như thế nào. Vì có
chuyện hổ phụ sinh khuyển tử, tức là hổ đẻ ra chó. Phan
bá Ngọc là con của Phan đình Phùng đã đưa mật thám bắt
Phan bội Châu. Nhưng cũng có những địa chủ lớn như Bành
Bái, địa chủ nổi tiếng ở tỉnh Quảng Đông lại là người
tiến bộ, Đảng Cộng sản coi là anh hùng. Cho nên không được
máy móc, không được xem nguồn gốc xuất thân, lý lịch làm
quan trọng."
Họ sửa khá nhiều nên Bác đau
long. Bao nhiêu nhân sĩ Bác lôi kéo tranh thủ, sau đó phải
gạt hết, có những người còn bị đấu tố nữa.
Nỗi đau thứ sáu là Bác không ngờ
Liên xô và Trung quốc lại xung đột, mâu thuẫn đến gay gắt
như thế. Bác nói phe xã hội chủ nghĩa do Liên xô và Trung
quốc lãnh đạo. Nhưng Liên xô và Trung quốc cùng lãnh đạo
thế nào được. Một nước chỉ có một mặt trời. Mao trạch
Đông là mặt trời hay Stalin là mặt trời đây. Liên xô hay
Trung quốc đứng đầu lãnh đạo ? Chỉ có một mà thôi. Hai
bên xung dột nên bên nào cũng muốn lôi kéo Bác về phía mình.
Bác bị giằng xé trong suốt những năm cuối của cuộc đời.
Nỗi đau thứ bảy là sự bất hòa
giữa mấy người lãnh đạo của ta. Không phải mọi việc
đều êm đẹp cả. Họ nhất trí với nhau về quan điểm đánh
Mỹ, nhưng quan điểm quốc tế không thống nhất, về quan
hệ cá nhân với nhau không thuận lợi. Sau này Bác bảo tôi
viết bài " Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân." . YÙ Bác muốn nói mấy ông này. Bài đó tôi
viết Bác sửa lại nhiều. Sau Bác nói anh Tố Hữu cùng sửa
nữa.Tôi được biết từ năm 1966, cứ mỗi chiều thứ bảy,
Bác lại làm cơm và nói, " Mấy chú cứ đến đây ăn cơm
vui vẻ với nhau, có gì khúc mắc cứ nói hết ra. Không nên
để bụng ."Anh Nguyễn chí Thanh làm thư ký cho những cuộc
họp đó cho đến khi anh đi vào Nam. Sau anh Lê văn Lương nói
lại với tôi là họ cứ đến ăn cơm, chén hết rồi họ
về, chẳng ai nói với ai điều gì. Nếu không biết việc
này thì không hiểu hết tại sao trong di chúc Bác lại dặn
phải đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương đến địa phương.
Trên mà đã đoàn kết rồi thì cần gì nói đến cơ sở nữa.
Trên đoàn kết mà dưới không thì lôi thôi to, các ông trị
cho chết. Chính vì thế mà Bác rất buồn. Có thể có một
vài hiện tượng, có đồng chí nào muốn vượt Bác. Bác biết
hết nhưng Bác không quan tâm.
Nỗi đau thứ năm là tình hình trong
nước và thế giới trước khi Bác qua đời đều căng thẳng,
nên đầu óc Bác không được thư thái. Cuộc kháng chiến
chống Mỹ kéo dài, nhân dân ta hy sinh nhiều của, nhiều người,
Bác rất đau long. Tuy Bác nói là trường kỳ kháng chiến nhưng
thực sự Bác không muốn cuộc chiến tranh phải kéo dài. Từ
đầu đến cuối, Bác không muốn có chiến tranh. Cho nên mới
có cuộc hòa hoãn với Pháp. Đối với Mỹ cũng thế, Bác
muốn tranh thủ, nhưng không được mới phải đánh. Cộng
thêm những năm tháng ốm đau kéo dài ( trên 3 năm ), có lúc
Người cáu gắt cũng vì lẽ đó. Tất cả những nỗi đau
này Bác không thố lộ cùng ai, kể cả với anh Lê Duẩn, anh
Trường Chinh. Nếu chúng ta không hiểu những nỗi đau của
Bác, không hiểu được sự chín chắn, đúng đắn của Bác
trong chính trị thì ta sẽ giáo điều, nói không sát.
Tổng kết lại, cho đến nay Đảng
ta có 4 thắng lợi lớn và 4 thất bại. Bốn thắng lợi thì
đã rõ: thứ nhất là Tổng khởi nghĩa, thứ hai là kháng chiến
chống Pháp, thứ ba là kháng chiến chống Mỹ, thắng lợi
thứ tư là thực hiện công cuộc đổi mới đang thắng lợi
dần dần. Thắng lợi trong công cuộc đổi mới tuy Bác không
còn, nhưng đường lối độc lập tự chủ, tức là trở lại
với chính mình, trở lại với tư tưởng Hồ chí Minh mới
đổi mới được. Cứ để như cũ chắc hôm nay nước đổ
rồi. Bốn thắng lợi đều do tư tưởng độc lập tự chủ,
do tư tưởng Hồ chí Minh quyết định.
Bốn lần thất bại là do học theo
Trung quốc, học theo Liên xô. Đó là xông thẳng tới chính
quyền mà là chính quyền công nông thôi, đó là cải cách
ruộng đất, đấu địa chủ. Bác không phải là không nói
tới đấu tranh giai cấp. Cụ nói đấu tranh giai cấp phụ
thuộc vào đấu tranh dân tộc ( ..)
Sai lầm lớn nhất của chủ nghĩa
xã hội là cứ xông thẳng tới chính quyền. Và khi đã nắm
được chính quyền rồi, đáng lẽ phải thực hiện dân chủ
thì lại nhấn mạnh chuyên chính. Cái sai nữa là, sau khi giành
được chính quyền rồi thì thực hiện công hữu ngay lập
tức, công hữu cực đoan, tức là vô sản hóa hơn cả tư
sản. Mọi người không ai có gì cả, chỉ là người làm công
ăn lương, nên động lực mới yếu đi. Marx dự báo khoa học
có cái đúng cái trật. Nhưng về xu thế lịch sử là Marx
nói đúng. Chủ nghĩa tư bản không thể tồn tại dài lâu
mà nó phải thay thế bằng công bằng hơn, cuối cùng là chế
độ công hữu. Hiện tại không phải là công hữu hết mà
chỉ cần xây dựng một nền kinh tế hợp tác là đủ. Chúng
ta chưa dám nói khác. Người cầm quyền lại càng sợ nói
khác đi.
HOÀNG TÙNG
( *) Ông Loseby là người luật sư
phụ trách cãi cho Nguyễn ái Quốc tại Hồng Kông lúc Nguyễn
ái Quốc tức Hồ chí Minh bị bắt tại Hồng Kông năm 1931.
* SUY LUẬN VÀ GÓP Y' VỀ BÀI VIẾT
CỦA HOÀNG TÙNG:
Nói đến Hồ chí Minh không ai là
không biết đến câu nói nổi tiếng của ông, " Không có gì
quý hơn độc lập tự do". Để giành lại độc lập tự do
cho dân tộc Việt Nam, ông đi theo Quốc tế thứ ba để mong
nhận được sự viện trợ kinh tế và quân sự cần cho cuộc
kháng chiến chống Pháp. Có điều đau lòng là khi gia nhập
vào Quốc tế thứ ba, ông gần như hoàn toàn lệ thuộc và
chịu sự điều động của hai nước đầu nậu trong Quốc
tế thứ ba là Liên xô và Trung quốc để rồi gây ra những
tội ác tày trời đối với dân tộc.
Theo sự tiết lộ của Tổng biên
tập báo Nhân dân là ông Hoàng Tùng trong bài viết nói trên,
dù Hồ chí Minh tỏ ý miễn cưỡng không muốn tiến hành cuộc
cải cách ruộng đất, nhưng dưới áp lực và sự thúc ép
của Mao trạch Đông ( Trung quốc ) và Stalin ( Liên xô), ông
đã để cho đoàn cố vấn Trung cộng vào Việt Nam để tổ
chức đấu tố và xử bắn con dân Việt Nam. Cái đau đớn
và mỉa mai là đã đem nạn nhân đầu tiên ra bắn lại là
người đã có công đóng góp tiền bạc và công sức trong
cuộc kháng chiến chống Pháp là bà Nguyễn thị Năm. Người
ta nói bọn Cộng sản có một lối ăn ở " lừa thầy phản
bạn " đúng là không sai.
Nên nhớ là cuộc cải cách ruộng
đất được tiến hành mạnh mẽ sau 1954, nghĩa là sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, người ta không hiểu là sau khi kháng
chiến chống Pháp thành công rồi mà Hồ chí Minh lại phải
chịu lệ thuộc và chấp nhận sự sai khiến của Trung Cộng
để làm cuộc cải cách giết dân lành vô tội như thế. Nếu
cuộc kháng chiến chống Pháp còn dài mà Hồ chí Minh đành
chiều ý Trung cộng làm cuộc cải cách ruộng đất để nhận
viện trợ chống lại Pháp thì điều đó còn có thể hiểu
được, chứ kháng chiến chống Pháp xong rồi mà vẫn quỳ
lụy và chấp nhận theo lệnh sai khiến của ngoại bang để
phát động chiến dịch cải cách ruộng đất tàn sát dân
lành là một tội ác khó có thể tha thứ.
Giáo sư Nguyễn mạnh Tường, khi
qua du lịch Pháp sau 1975, trong một cuộc phỏng vấn dành cho
báo Quê Mẹ, đã cho biết ý kiến là trong lịch sử Việt
Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng
giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc cải cách ruộng
đất. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay
của cố vấn Trung Cộng. Điều đó cho thấy chính quyền Hồ
chí Minh lệ thuộc vào ngoại bang Trung cộng như thế nào.
Học giả Hoàng xuân Hãn, một trí
thức dù có nhiều cảm tình với Hồ chí Minh và chính phủ
Cộng sản Việt Nam, cũng đã nói cho Đạo diễn Trần văn
Thủy biết là " Cái mất mát lớn nhất bởi những sai lầm
trong cải cách ruộng đất là nó đã phá vỡ mất nông thôn
Việt Nam và phá vỡ mất lòng tin. Cái nguy hại của cải cách
ruộng đất là ở chỗ nó đã phá vỡ một tế bào quan trọng
vào bậc nhất của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là LÀNG
QUÊ."
Nhà văn Dương thu Hương cũng có
đề cập ít nhiều về những tội ác của cải cách ruộng
đất trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng " Những thiên đường
mù " của bà. Nhưng có một số người đọc sách cho biết
những gì Dương thu Hương nói về cải cách ruộng đất trong
cuốn tiểu thuyết này cũng chỉ mới lột tả chừng 5 đến
10 phần trăm những sự thật kinh hoàng của cuộc cải cách
tàn bạo có một không hai này.
Hoàng Tùng trong bài viết trên cứ
nói đến chuyện miễn cưỡng của Hồ chí Minh trong chuyện
phải tiến hành cải cách ruộng đất giết dân như là một
cách để chạy tội cho Hồ chí Minh. Thật ra, nếu Hoàng Tùng
nói đúng, thì rõ ràng Hồ chí Minh không có quyền hành gì
cả trong chuyện lãnh đạo đất nước. Bao nhiêu sinh mạng
nhân dân đã gục ngã trong cuộc kháng chiến chống Pháp để
rồi khi cuộc kháùng chiến thành công, Hồ chí Minh không tạo
dựng nổi một nền độc lập cho đất nước, dù không thích
trò cải cách ruộng đất ( theo như Hoàng Tùng trình bày),
Hồ chí Minh vẫn để cho ngoại bang Trung cộng đem cố vấn
sang tổ chức đấu tố giết dân lành Việt Nam. Chính những
tên cố vấn Tàu cộng này đã ấn định số phần trăm địa
chủ cần phải triệt hạ trong khi của cải và đất đai của
địa chủ Tàu khác xa địa chủ Việt Nam, nghĩa là hiện trạng
xã hội của Tàu khác xa ở ta.
Sau 3 năm tiến hành cải cách tàn
bạo, Hồ chí Minh và chính phủ Việt Nam mới khám phá ra là
Trung cộng không phải bày ra cải cách ruộng đất để tạo
dựng sự công bình cho người dân Việt Nam mà thâm ý là đánh
cho tan nát cơ cấu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ chí
Minh đã kịp thời ngưng lại và lên tiếng xin lỗi nhân dân
và cho hạ tầng công tác những cán bộ cao cấp có liên quan
đến cải cách ruộng đất như Trường Chinh, Hồ viết Thắng
để xoa dịu nỗi căm phẫn của nhân dân. Ai cũng còn nhớ
ở vùng Quỳnh Lưu đã có chuyện nổi loạn trong thời kỳ
cải cách này. Tuy nhiên trong di chúc viết ngày 14 tháng 8 năm
1969, Hồ chí Minh cho biết chuyện cải cách ruộng đất là
do cấp dưới làm, ông không hay biết gì cả, dù sau này ông
biết nhân dân rủa oán trách ông rất nhiều về những sự
tàn bạo trong cải cách ruộng đất. Nhiều học giả ngoại
quốc nghiên cứu cho biết Hồ chí Minh lên án những vụ đánh
người, giết người trong cải cách nhưng họ nghĩ rằng với
chức vụ Chủ tịch Đảng và Chủ tịch Đảng, ông phải
chịu trách nhiệm về cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo
này.
Hoàng văn Hoan, nguyên Đại sứ của
Việt cộng tại Trung quốc và sau này trốn qua Trung quốc đã
có những luận điệu bênh vực cho Trung Cộng trong cuộc cải
cách ruộng đất ở Việt Nam như sau trong cuốn hồi ký " Giọt
nước trong biển cả " của ông như sau:
" Tham dự xong Hội nghị Trung ương
về cải cách ruộng đất, tôi lại trở ra Bắc kinh. Thủ
tướng Chu ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn
đề sai lầm trong cải cách ruộng đất, khi gặp tôi liền
hỏi, " Việc sai lầm trong cải cách ruộng đất có liên quan
gì đến các đồng chí cố vấn Trung quốc không?" Tôi trả
lời : Kinh nghiệm cải cách ruộng đất của Trung quốc là
rất tốt. Ủy ban cải cách ruộng đất ở Việt Nam phạm
sai lầm, như cơi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh
vào phần lớn phú nông và trung nông, đánh vào những người
chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là
ở nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến,
địa chủ có công lao với cách mạng, đặc biệt là đánh
tràn lan cả vào cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy
ban cải cách ruộng đất Việt Nam, chứ không phải là sai
lầm của các cố vấn Trung quốc.
( Trích hồi ký " Giọt nước trong
biển cả " của Hoàng văn Hoan trang 366, 367)
Ở đây cần phải nói thêm một
điều là Trung Cộng mặc dù viện trợ quân sự và kinh tế
dồi dào cho Việt Cộng, nhưng Trung Cộng vẫn không muốn Việt
Cộng chiến thắng ở miền Nam. Lý do là Trung Cộng không muốn
Việt Cộng mạnh, sẽ làm trở ngại cho âm mưu bành trướng
của Trung Cộng. Khi miền Nam Việt Nam hấp hối vào cuối tháng
4 năm 1975, Trung cộng đã cho người tiếp xúc với chính phủ
Dương văn Minh ngỏ ý muốn giúp đỡ Việt Nam Cộng Hòa nhằm
chống lại Việt Cộng. Chính phủ Dương văn Minh từ chối
vì nghĩ rằng Trung cộng là kẻ thù truyền kiếp của dân
tộc Việt Nam. Ông Minh nói lên điều này trong một cuộc phỏng
vấn dành cho anh em sinh viên sau khi ông định cư ở Pháp. Rồi
khi Việt Cộng tổ chức đại hội Đảng lần thứ 4 tại
Hà nội, tất cả những đảng cộng sản bạn bè đều gửi
phái đoàn tham dự, kể cả đại biểu của những đảng Cộng
sản đến từ Tây phương như Pháp. Thế mà phái đoàn đại
biểu của Trung cộng không tham gia đại hội Đảng lần thứ
4 này của Việt cộng. Điều đó cho thấy Trung cộng không
tán thành, nếu không muốn nói là cay cú, trước chiến thắng
cuả Việt cộng ở miền Nam năm 1975.
Thật ra không phải chờ đến cải
cách ruộng đất chính phủ Hồ chí Minh mới lộ ra là không
có thực quyền. Khi hòa hội Genève sau chiến thắng Điện
biên Phủ năm 1954 quyết định chia đôi nước Việt Nam thì
quyết định dùng vĩ tuyến 17 làm đường ranh chia cắt cũng
là do quyết định của phái đoàn Liên xô và Trung Cộng và
phái đoàn chính phủ Việt Minh do Phạm văn Đồng hoàn toàn
không được quyền quyết định điều gì cả. Nói như thế
để thấy mức độ lệ thuộc và cung cách tay sai của Hồ
chí Minh và chính phủ của ông vào Quốc tế Cộng sản đến
độ họ toàn quyền điều động và quyết định mọi chuyện
quan trọng trên bàn hội nghị có liên quan đến đất nước
Việt Nam mà chính phủ Hà nội không được pháp can dự vào
gì cả. Bất hạnh cho đất nước Việt Nam là Hồ chí Minh
không có được bản lĩnh và tài trí như người lãnh đạo
xứ Nam Tư là Thống chế Tito. Mặc dù Nam Tư là một nước
Cộng sản nhưng Tito không để cho cấp lãnh đạo Đảng Cộng
sản ở Mạc tư khoa sai khiến mà hoàn toàn giữ được sự
độc lập cho quốc gia Nam Tư. Đọc chuyện Hoàng Tùng kể
Stalin và Mao kêu Hồ qua và sai khiến như sai một tên đầy
tớ thật là đau lòng. Lịch sử của Đảng Cộng sản Việt
Nam có ghi lại sự kiện ô nhục này không nhỉ hay cứ tô
vẽ Hồ như một ông thánh, một nhà cách mạng siêu việt
luôn chiến đấu cho độc lập của dân tộc Việt Nam !
Hoàng Tùng cũng nói chuyện Hồ chí
Minh bị thất sủng, bị Stalin cho ngồi chơi xơi nước trong
mấy năm liền vì không tin tưởng. Mao trạch Đông cũng đối
xử tệ bạc với Hồ chí Minh như Hoàng Tùng không giải thích
lý do tại sao. Bị ruồng rẫy như thế mà đến giây phút
hấp hối gần lìa trần vẫn viết di chúc muốn đi gặp Các
Mác và Lê nin thì đủ thấy Hồ chí Minh nô lệ ý thức hệ
và thiếu liêm sỉ như thế nào. Phải chăng vì bị Stalin đánh
giá là theo chủ nghĩa " dân tộc chủ nghĩa cải lương "từ
những ngày xa xưa nên Hồ chí Minh muốn chứng tỏ mình là
người vô sản quốc tế thứ thiệt, đến lúc gần lâm chung
vẫn muốn gửi linh hồn về với tổ sư Mác-Lê?
Chuyện Hoàng Tùng kể Hồ chí Minh
tỏ ra đau buồn khi thấy Liên xô và Trung quốc xung khắc,
hiềm khích nhau cho thấy sự đau buồn của Hồ chí Minh là
một mối đau buồn nhảm nhí , vô duyên, và lãng nhách. Trong
di chúc để lại cho chế độ Hà nội, Hồ chí Minh cũng đã
nói lên điều này. Đúng ra, Hồ chí Minh cần phải nhận thấy
và học hỏi hai đàn anh Liên Xô và Trung cộng đều đặt
chủ nghĩa dân tộc mình lên trên chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Vì đặt quyền lợi của tổ quốc và dân tộc lên trên nên
hai đàn anh này mới có chuyện hục hặc, tranh chấp nhau. Bản
thân Hồ chí Minh quá mùa quáng và cuồng tín nên mới đặt
chủ nghĩa quốc tế vô sản lên trên chủ nghĩa dân tộc,
sẵn sàng nghe lời đàn anh để thi hành những nghĩa vụ quốc
tế dù chuyện đó đưa đến chuyện giết dân lành Việt nam
vô tội. Đàn em đệ tử của Hồ chí Minh sau này như Lê khả
Phiêu, Đỗ Mười, Phan văn Khải, và đứa con rơi tài hèn
trí đoản Nông đức Mạnh thì lại đem tổ quốc giang sơn
đi dâng hiến cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng cũng là do
không đặt chủ nghĩa dân tộc lên trên hết. Chúng dâng đất
cho Trung Cộng để mong đổi lấy sự an toàn cho bản thân
và chế độ mà Trung cộng hứa hẹn bao che, nâng đỡ cho chúng.
Đúng là " thầy nào, trò nấy ", thầy thì theo chủ nghĩa quốc
tế vô sản tổ chức cải cách ruộng đất giết dân lành
vô tội, trò thì đem giang sơn gấm vóc do tiền nhân tốn không
biết bao xương máu để lại, đem đi bán tháo bán đổ cho
ngoại bang. Thật là khốn nạn và tồi bại đến thế là
cùng !Đã đến lúc những người đấu tranh và toàn dân phải
đứng dậy để quật đổ cái chế độ hại dân, bán nước
này. Để chậm ngày nào là tai họa cho đất nước và nhân
dân ngày ấy.
Trong bài viết Hoàng Tùng có nói
xa gần bóng gió đến chuyện có những người muốn tiếm
quyền Hồ chí Minh qua câu viết " Có thể có một vài hiện
tượng, có đồng chí nào đó muốn vượt Bác. Bác biết hết
nhưng Bác không quan tâm ". Thật ra sự thật phũ phàng là những
người đồng chí đàn em đã truất phế uy quyền của Hồ
chí Minh như Học giả Pháp Pierre Brocheux trong lần trả lời
đài RFI ( ngày 2 tháng 12 năm 2003) và BBC ( ngày 26 tháng 7 năm
2003), đã nhận xét như sau, " Trong vụ án xét lại chống
Đảng cũng vậy, ông Hồ chí Minh cũng đã nhận ra bản chất
của chế độ nhưng chẳng làm gì được. Hơn nữa, kể từ
năm 1960 chính nhóm Lê Duẩn � Lê đức Thọ, Nguyễn chí Thanh
mới thực sự là những người nắm quyền.Theo nghiên cứu
của tôi thì cả một giai đoạn trước khi qua đời, ông Hồ
bị cách ly khỏi quyền lực, tức là không hề có quyền gì.
Ông ấy bị biến thành một biểu tượng." Rồi đến những
tiết lộ của Nguyễn văn Trấn, Hoàng văn Hoan, Vũ Kỳ đều
cho thấy ông bị phe Lê Duẩn, Lê đức Thọ, Trần quốc Hoàn
coi thường và đày đọa, nhất là vào những năm cuối đời.
Sau này người ta còn tìm thấy bản di chúc viết ngày 14 tháng
8 năm 1969 của Hồ chí Minh cho biết ông đã bị nhóm Lê Duẩn
cô lập và cho đầu độc chết dần chết mòn sau khi ông tìm
cách liên lạc để tính chuyện hòa hợp và tặng Tổng thống
Ngô đình Diệm hai cành đào vào mùa xuân 1963( Xin đọc hai
bài " Bí ẩn chung quanh chuyện Hồ chí Minh bị thất sủng
trong những năm cuối đời " và "Một cách lý giải về chuyện
Hồ chí Minh bị mất quyền lực trong những năm cuối đời
" của Trần viết Đại Hưng trong cuốn sách " Bí ẩn về quyền
lực và tình ái của Hồ chí Minh"đã xuất bản, hay có thể
vào mạng " www.nsvietnam.com
" tới trang Trần viết Đại Hưng để đọc hai bài này). Không
hiểu Hoàng Tùng có biết chuyện này không, hay biết mà không
dám viết sự thật.
Riêng về chuyện cha ông Hồ là
cụ Nguyễn sinh Sắc ( còn có tên là Nguyễn sinh Huy . Cha con
ông Hồ sao mà có nhiều tên quá ! Chị đầu của ông Hồ
tên là Nguyễn thị Thanh ( tự Bạch Liên ), anh thứ của ông
Hồ là Nguyễn sinh Khiêm ( tự Tất Đạt), rồi tên cúng cơm
của ông Hồ là Nguyễn sinh Cung ( tự Tất Thành ))bị mất
chức được Hoàng Tùng kể lại một cách rất lâm ly bi đát
rằng cụ Sắc vì tính tình ngay thẳng, phê phán thẳng tay
những người xấu nên bị bọn quan lại cùng thời ghét và
tìm cách hạ bệ cụ. Ông Hoàng Tùng cho là cụ Sắc xui xẻo
đánh một can phạm có bệnh để từ đó đưa đến sự tử
vong và làm cho cụ bị cách chức. Thật ra có một cách giải
thích khác do một số người biết chuyện đưa ra thì cụ
Sắc, lúc ấy đang làm tri huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình
Định, thuộc loại người nát rượu nên đã đánh can phạm
là một nông dân tên Tạ đức Quang đến chết trong cơn say.
Cụ Sắc thuộc loại nghiện rượu nặng và khi say rượu,
đã từng đánh các con trong nhà, ngay cả bà chị cả tên Thanh
của ông Hồ cũng bị ăn đòn rất nặng. Cho nên chuyện ông
tri huyện Nguyễn sinh Sắc ( sau đổi tên thành Nguyễn sinh
Huy) bị giáng chức là do lỗi lầm say rượu đánh chết người
của ông chứ ông không hoàn toàn vô tội như lời kể của
Hoàng Tùng để bênh vực cho sự thất thế của thân sinh ông
Hồ. Ở đây cũng nói thêm sách báo Cộng sản thường lên
án giới quan lại, cho họ là sản phẩm tệ hại của chế
độ phong kiến, là thứ sâu mọt xấu xa dùng để đàn áp
và bóc lột nhân dân. Chưa ai quên chuyện quan Tổng đốc Ngô
đình Khôi ( anh cả của Tổng thống Ngô đình Diệm) và quan
Thượng thư Phạm Quỳnh bị Việt Minh ở Huế đem ra bắn
hồi 1945 vì bị xem là kẻ thù của nhân dân.Nhưng khi nói
về thân sinh ông Hồ là quan tri huyện Nguyễn sinh Sắc thì
họ lại vẽ lên một hình ảnh hết sức đẹp đẽ. Họ cho
ông cụ Sắc là một sĩ phu của thời đại, " bị ép" ra làm
quan, và vì bất mãn với quan trường và với chế độ cai
trị của người Pháp nên đã đệ đơn từ chức để về
sống cuộc đời dân thường, sinh sống bằng nghề thầy lang
bốc thuốc ! Dĩ nhiên giới báo chí Cộng sản đã thêu dệt
cuộc đời ông Hồ đẹp như một thiên anh hùng ca bất hủ
thì họ phải tô vẽ cuộc đời của thân sinh ông Hồ sao
cho hào hùng, đẹp đẽ không kém. Có lẽ ông Hoàng Tùng, vốn
là một cán bộ tuyên huấn văn hóa cao cấp, cũng không đứng
ngoài ngoại lệ đó khi viết về thân sinh ông Hồ. Bộ máy
tuyên truyền chính trị của Đảng Cộng sản dè bỉu,lên
án những quan lại như quan Tổng đốc Ngô đình Khôi và quan
Thượng thư Phạm Quỳnh trong khi lại đề cao và tâng bốc
quan Tri huyện Nguyễn sinh Huy chỉ vì ông Huy là thân sinh của
ông Hồ. Cái kiểu viết lịch sử theo chiều hướng" Thương
ai thương cả đường đi. Ghét ai ghét cả tông chi họ hàng
" của Cộng sản xem ra không công bằng và vô tư tí nào cả.
Cái gì của địch cũng xấu xa, phản động, cái gì của ta
cũng cao thượng, đẹp đẽ. Hy vọng những nhà viết sử tương
lai sẽ có một cái nhìn công bằng, hợp tình, hợp lý đối
với những nhân vật lịch sử và không khen chê tùy tiện
bất công như Hoàng Tùng.
Nhà văn Nguyễn huy Thiệp trước
đây có viết truyện ngắn đặc sắc" Vàng lửa " trong đó
ông có mô tả về con người của vua Gia Long. Nhưng khi đọc
kỹ người ta thấy nhà văn chuyên viết văn ẩn dụ này muốn
mô tả con người Hồ chí Minh. Ở hoàn cảnh trong nước ông
phải dùng lối văn ẩn dụ này để bày tỏ nhận định của
mình về nhân vật " bất khả xâm phạm " Hồ chí Minh.
Hãy đọc thử vài đoạn văn mô
tả vua Gia Long để thấy chân tướng của Hồ chí Minh:
" Nhà vua là một khối cô đơn
khổng lồ. Ông đóng trò rất giỏi trong triều đình. Ông
đi ra đi vào, ra các mệnh lệnh, chấp nhận sự tung hô của
bọn quần thần. Ông là người cha nghiêm khắc của lũ con
ích kỷ, đần độn. Là người chồng đáng kính của các
bà vợ tầm thường..Ông biết ông đã già, với bọn cung
tần mỹ nữ trẻ đẹp ông bất lực. Ông biết rõ cái triều
đình thiển cận ông dựng nên, hiểu rõ quốc gia mình nghèo
đói. Ông luôn lo sợ bởi quyền lực nắm trong tay, nó lớn
ngoài sức chứa một con người.
.. Tôi ( tôi đây là Phăng, một
nhân vật trong truyện) ngạc nhiên tôi hỏi vì sao nhà vua "
vốn xuất thân là một võ tướng " lại chịu được sự
nhục mạ ấy. Ông cười, " Khanh chẳng hiểu gì. Vinh quang
nào chẳng xây trên điếm nhục ? "Tôi ngồi nghe nhà vua, nhận
thấy ông trải đời ghê gớm. Ông hiểu bản chất đời sống
cộng sinh. Số phận ngẫu nhiên giao cho ông đứng trên đỉnh
cao nhất, ông không dám phá vỡ bất cứ quan hệ nào làm hại
đời sống cộng sinh đó, bởi phá vỡ nó, nghĩa là ngai vàng
không còn đứng vững.
.. Vua Gia Long không đại diện
cho ai, ông chỉ chịu trách nhiệm với mình. Đấy là điều
vĩ đại nhưng đê tiện khủng khiếp. Nhà vua có cách nhìn
thực tiễn với từng khắc tồn tại như thế cũng là của
dòng họ, của quốc gia, của dân tộc. Ông biết xót thân
ông. Nguyễn Du thì khác, Nguyễn Du không biết xót thân ông.
Ông thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn
lẻ mà không hiểu nổi đau khổ lớn của dân tộc. Đặc
điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là
một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp.
Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó.
Vua Gia Long hiểu điều ấy và đây là nỗi cay đắng lớn
nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du
thì khác, ông không bao giờ hiểu điều ấy. Nguyễn Du là
đứa con của cô gái đồng trinh kia. Dòng máu chứa đầy điển
tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình.Nguyễn
Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long
đứng cao hẳn ngoài đời sống ấy. Người mẹ của Nguyễn
Du ( tức nền chính trị đương thời) dấu diếm con mình sự
ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải
ba trăm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa.
.. Vua Gia Long thì khác. Ông khủng
khiếp ở khả năng dám bỡn cợt với tạo hóa, dám đem cả
dân tộc mình ra lường gạt, phục vụ cho chính bản thân
mình. Ông làm cho lịch sử sinh động hẳn lên. Đấy là lòng
tốt lớn của nhà chính trị. Lòng tốt lớn của nhà chính
trị không chỉ là làm việc thiện với một số phận đơn
lẻ mà còn là sức đẩy của ông ta với khối cộng đồng.
Từng phần tử trong cộng đồng do luật tự nhiên chi phối
sẽ tự tồn tại, định phướng và phát triển. Không có
một sức đẩy mạnh, cả cộng đồng sẽ mọc rêu, mủn nát.
Cộng đồng Việt là một cộng đồng mặc cảm. Nó bé nhỏ
xiết bao bên cạnh nền văn mình Trung Hoa, một nền văn minh
vừa vĩ đại, vừa bỉ ổi, lại vừa tàn nhẫn...
..Tất cả những cố gắng của
con người hướng về điều thiện đều là những cố gắng
đau đớn, nhọc lòng. Điều thiện hiếm như vàng và sau đó
phải được vàng bảo đảm nữa mới có giá trị thực.
Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo
khó và đau khổ trong những lý thuyết chắp vá hay ngụy biện,
những
mối bất hòa kỳ thị dân tộc và đẳng cấp, những kinh
nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến
bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện
tiến bộ."
Đoạn cuối truyện ngắn, Nguyễn
huy Thiệp đã viết một câu mà không ai còn nghi ngờ gì nữa
là Thiệp đã mượn vua Gia Long để nói về Hồ chí Minh:
" Triều Nguyễn của vua Gia Long
lập ra một triều đại tệ hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc
đấy là triều đại để lại nhiều lăng."
Nguyễn huy Thiệp phê phán triều
Nguyễn Gia Long tệ hại đã để lại nhiều lăng nhưng ẩn
ý muốn dè bĩu cái lăng to lớn nằm chình ình ở quãng trường
Ba Đình là lăng của Nguyễn khác, không phải là Nguyễn Gia
Long mà là Nguyễn.. tất Thành ( tức Hồ chí Minh)!. Ở hoàn
cảnh trong nước, ông phải dùng lối văn ẩn dụ để chuyển
tải tư tưởng của mình một cách khôn khéo bằng cách kể
chuyện đời xưa mà nói lên chuyện đời nay và tránh khỏi
bị phiền toái bởi bộ máy kiểm duyệt khắt khe của nhà
nước Cộng sản Việt Nam. Chuyện " Vàng lửa " không phải
là truyện ngắn duy nhất mà Nguyễn huy Thiệp sử dụng lối
văn ẩn dụ, mà hầu hết truyện ngắn của nhà văn nổi tiếng
này đều được xây dựng trên nội dung ẩn dụ để chuyên
chở ý tưởng của mình.
Nguyễn huy Thiệp dùng vua Gia Long
để nói về Hồ chí Minh, có nghĩa là Thiệp muốn so sánh
vua Gia Long với Hồ chí Minh vì hai người này có những điểm
tương đồng. Nhưng quả thật là Gia Long khác Hồ chí Minh
xa. Gia Long mượn tay người ngoại quốc ( Pháp ) về để đánh
Tây Sơn, có thể nói tội của Gia Long cũng gần như tội của
Lê chiêu Thống là " rước voi về giày mả tổ " , vì chính
về sự giao thiệp nhờ cậy của Gia Long với cố đạo Pháp
như Bá đa Lộc, dần dần đưa đến chuyện Pháp xâm lăng
Việt Nam với cái cớ là các vua triều Nguyễn cấm đạo Thiên
chúa và tàn sát các giám mục người Pháp đi truyền đạo.
Nhưng có một điểm cần được ghi nhận ở đây là dù giao
hảo với Tây phương, Gia Long lúc nào cũng đề cao cảnh giác
với Tây phương. Học giả Tạ trọng Hiệp, trong một dịp
nói chuyện với nhà phê bình văn học Thụy Khuê, cho biết
trong thời gian Gia Long cầm quyền ( 1802-1820), ông không gửi
một phái đoàn nào đại diện triều Nguyễn đi công du Đông
Nam Á cả và đóng cửa lại xây dựng đất nước. Nhưng từ
Minh Mạng trở đi thì Minh Mạng không thể tiếp tục chính
sách đóng cửa của cha mình nữa và đã mở cửa buôn bán
với Tây phương theo hai nhu cầu : 1) Thông tin về mặt chính
trị và quân sự về sự đe dọa của Tây phương. 2) Tìm hiểu
xem họ tổ chức thương nghiệp như thế nào, đồng thời
mua bán với họ một số hàng hóa.. Theo đó, ta có thể hình
dung được là cuộc mở cửa của Việt Nam, nhìn ra nước
ngoài, đã khởi sự từ đầu đời Minh Mạng cho đến hết
đời Tự Đức. Chúng ta bây giờ phê phán các vua quan nhà
Nguyễn hoàn toàn " bế quan tỏa cảng " là không đúng. Họ
có mở cửa đấy, nhưng cửa mở he hé tí thôi vì ngại ngùng
trước dã tâm xâm lược của Tây phương. Và cuối cùng thì
cũng bị Pháp xâm lăng. Nói tóm lại vua Gia Long là người
tiếp xúc đầu tiên với Tây phương nhưng vẫn dè dặt trong
mối quan hệ vì linh tính ông thấy bọn bạch quỷ Tây phương
là một bọn không tốt lành gì, chỉ luôn dòm ngó để xâm
lăng. Còn Hồ chí Minh, theo bài viết của Hoàng Tùng nói trên,
khi đã tham gia vào Quốc tế thứ 3 ( do Lênin lập ra vào năm
1919) , mượn thế lực của Quốc tế Cộng sản để đánh
Pháp và sau là đánh Mỹ, nhưng ông có một khuyết điểm tệ
hại làsay chủ nghĩa như say thuốc lào, gặp Luận cương Lênin
gãi đúng chỗ ngứa của ông là ông trở thành một tín đồ
cuồng nhiệt của chủ nghĩa Cộng sản, sẵn sàng dâng hiến
tất cả để tôn thờ chủ nghĩa vô sản ngoại lai và cuối
cùng đưa đến hậu quả là để cho bọn Tàu cộng vào giết
đồng bào ruột thịt của mình qua cuộc cải cách ruộng đất
tàn bạo. Về điểm này, Gia Long sáng suốt hơn Hồ chí Minh
nhiều, ông không mê say mù quáng khi giao hảo bên ngoài và
tuy có nhờ cậy ngoại bang nhưng ông luôn đề cao cảnh giác
trước lòng dạ xấu xa của những người không cùng dòng
máu Việt. Nước Việt Nam mất vào tay người Pháp chắc chắn
không phải hoàn toàn do lỗi của ông, vị vua khai sáng nhà
Nguyễn, mà phần lớn do khuyết điểm của những vị vua kế
nghiệp tài hèn, đức mỏng. Vả lại, vũ khí của Việt Nam
hồi ấy quá thô sơ so với vũ khí tối tân của Pháp nên
quân Việt Nam khó lòng đương đầu nổi với quân Pháp dù
tinh thần chiến đấu của quân Việt Nam rất cao vì lòng yêu
nước nồng nàn.
Học giả Hoàng xuân Hãn, người
đã từng có dịp nói chuyện với Hồ chí Minh trong thời kháng
chiến chống Pháp, sau này có nhận xét như sau vể Hồ chí
Minh trong buổi phỏng vấn với Thụy Khê của đài RFI :
" Xét về Hồ chí Minh thì phải
có lâu năm sau này thì xét mới không thiên lệch. Hiện bây
giờ thì người ta oán nhiều lắm. Oán ấy là oán Đảng Cộng
sản, những người có óc Marxiste hồi ấy. Chuyện đầu hết
là tranh giành, chém giết những người bên những đảng quốc
gia. Đấy là một cái họ trách. Cái thứ hai là lúc cải cách
ruộng đất, gọi là trong nước có người giàu, người nghèo,
chênh lệch. Cái thứ ba: phương pháp của Marxiste, lúc ấy
họ chỉ có một chiều, nghĩa là sự thật chỉ có một mà
thôi. Không có sự thật thứ hai. Không được nói trái nhau.Nghĩa
là họ không lý luận như người thường, cho nên sự oán
với sự ghét nhiều lắm.
.. Ông Hồ chí Minh, cũng như tất
cả những người ái quốc trong vùng Nghệ Tĩnh lúc ấy biết
rằng không có súng không làm gì được cả. Cho nên cái đời
chính trị của ông Hồ chí Minh, từ lúc sang Pháp, rồi đi
với cụ Phan chu Trinh, Phan văn Trường, rồi ra hội nghị Versaille
gì đấy..Ông Hồ chí Minh hồi ấy đương có cái ảo tưởng
là với cái chính trị mới, với cái tinh thần mới của quốc
tế, có thể thoát ra một cách khác. Ông ấy không có cái
chí như Gandhi bảo rằng là cứ hòa bình, kiên nhẫn, rồi
cũng có lúc được độc lập. Nhưng thực ra, với Gandhi, với
những ông ấy..cũng may vì có chiến tranh thế giới cho nên
các ông ấy mới được độc lập, không phải là tự các
ông ấy mà gỡ ra được. Nói thực như thế.
Về ông Hồ chí Minh, lúc ở bên
này ông ấy thấy rằng tất cả các nước trên thế giới
không có thể dựa vào nước nào được hết cả mà có khí
giới. Cái óc của ông ấy là óc khí giới. Từ năm 23, ông
đã nghĩ đến. Lúc ấy chỉ có Đảng Cộng sản, vì chính
sách của họ, có thể giúp được khí giới. Cho nên ông ấy
đi với tụi Nga hồi ấy.
...Dần dần ông ấy lập ra mấy
đảng, trước là để quen với cách tổ chức. Rồi thì ông
ấy lập ra Đảng Cộng sản, cốt làm thế nào để bên Moscou,
bên Stalin nó tin, nó mới cho tiền, nó mới cho súng ống. Cho
nên ông ấy lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Cái óc nationalist(
quốc gia) của ông ấy là mình thấy ở trong đấy rồi. Nhiều
khi vô tình mà ông ấy lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Lập
vào khoảng tháng 3 năm 1930 thì đến tháng 7, tháng 8 năm 1930,
cái hạng thanh niên mà ông ấy gọi từ trong nước ra, rồi
thì chuyển sang bên Moscou, học về marxiste. Ở bên này, hạng
ấy được Stalin cho về Quảng Châu, lập một đảng khác
là Đảng Cộng sản Đông Dương, chứ nó không cho từ Việt
Nam nữa. Bởi vì Việt Nam là nationaliste, thì nó xóa và nó
đẩy ông Hồ chí Minh ra ngoài.
... Được cái người Pháp khinh
địch, khinh mình, cho nên không dè họ thua. Nhưng đến lúc
Điện Biên Phủ, thì nói thực, lúc ấy không có súng ống
tối tân không đời nào mà đánh được Pháp. Pháp lúc được
Mỹ giúp ghê lắm rồi, về súng ống ghê rồi. Chỉ có bom
nguyên tử họ không giúp, hay là 100 máy bay họ không giúp
một lần, họ chỉ giúp lẻ tẻ thôi. Hồ chí Minh, lúc ấy
tụi Tàu đặt vấn đề ra, nếu không theo nó, không nghe nó
về mặt chính trị, nó không cho súng ống thì cũng chết.
Cho nên nó đưa những tụi cải cách ruộng đất ở bên Tàu
vừa xong, nó đưa sang, nó cầm một vài ông � gọi là Bộ
trưởng lúc ấy � những người lúc ấy không phụ thuộc Hồ
chí Minh. Sự cải cách gọi là địa phương nhưng mà lên đến
huyện, lên đến tỉnh đã có người Tàu điều khiển cả
rồi. Thành ông kia là phải nuốt chuyện ấy để mà nó giúp
cho súng ống. Họ cũng biết là được Điện Biên Phủ thì
mới có chuyện gì, chứ thua Điện Biên Phủ thì lúc ấy thua
hoàn toàn. "
Những nhận xét của học giả Hoàng
xuân Hãn là những nhận xét chân tình, chí lý, đã nói lên
cái thế cấn cái của Hồ chí Minh phải chấp nhận yêu sách
của Tàu cộng nhằm tiến hành cải cách ruộng đất thì Tàu
cộng mới giúp cho khí giới để đánh Pháp. Nhưng phải nói
cuộc cải cách ruộng đất chính thức được phát động
sau chiến thắng Điên Biên Phủ 1954, ( trước đó thì chỉ
mới có chuyện giảm thuế, giảm tô lặt vặt thôi), nên khi
ấy thì chuyện đánh Pháp xong rồi mà Hồ chí Minh, theo lời
Học giả Hoàng xuân Hãn, vẫn phải chịu sức ép của Trung
cộng định đoạt thì quả là một sự nhượng bộ quá đáng
và khó hiểu, nếu không muốn nói là u mê, đần độn. Chỉ
có thể giải thích là vì lòng yêu nhân dân không sâu sắc,
coi mạng sống của dân không ra gì nên Hồ chí Minh mới chịu
nhân nhượng trước áp lực của Trung cộng để rồi gây
ra bao tội ác giết dân lành vô tội trong cuộc cải cách ruộng
đất long trời lở đất.
Cần nói thêm ở đây là sau khi
Học giả Hoàng xuân Hãn qua đời. Hà Nội có làm một tuyển
tập Hoàng xuân Hãn gồm 3 cuốn dày tổng cộng 3000 trang ghi
lại tất cả những công trình văn hóa của cụ Hãn. Hai cán
bộ văn hóa tên Hữu Ngọc và Nguyễn đức Hiền lãnh phần
trách nhiệm sưu tập và biên soạn. Bài phỏng vấn của Thụy
Khê nói trên với Hoàng xuân Hãn ở trên cũng được đưa
vào sách. Có điều phải nói ở đây là có những đoạn trong
bài phỏng vấn trích dẫn ở trên bị cắt đi nhiều phần
vì " phạm húy " và không hợp với chính sách văn nghệ, văn
hóa của nhà nước. Những lời phê phán của Hoàng xuân Hãn
về Hồ chí Minh nói chung là nhẹ nhàng nhưng cũng bị coi là
không chấp nhận được đối với đường lối chính trị
của chế độ Cộng sản hiện nay nên đã bị đục bỏ thẳng
tay khi đưa bài phỏng vấn này vào tuyển tập Hoàng xuân Hãn.
Đáng ghê tởm hơn nữa khi hai cán bộ văn hóa biên tập bộ
Hoàng xuân Hãn còn phịa ra những lời mà cụ Hoàng xuân Hãn
không hề nói với Thụy Khê. ( Chẳng hạn như có một câu
được đưa vào trong bài phỏng vấn là do cán bộ biên soạn
phịa ra để đăng vào chứ cụ Hãn không hề nói : Hồ
chí Minh, lúc ấy đã phải dùng nhiều cách, và nhiều con đường:
chính trị, ngoại giao sáng suốt và mềm dẻo để có súng
ống mà đánh Pháp ( Trích từ sách " Nói chuyện với Hoàng
xuân Hãn và Tạ trọng Hiệp của Thụy Khuê trang 154). Trong
cuốn sách " Nói chuyện với Hoàng xuân Hãn và Tạ trọng Hiệp
" này( Nhà xuất bản Văn Nghệ, Hoa Kỳ), Thụy Khê đã tố
cáo sự gian lận ma giáo của hai cán bộ Hữu Ngọc và Nguyễn
đức Hiền trong chuyện tự động cắt những đoạn trong bài
phỏng vấn và phịa thêm những đoạn mà cụ Hãn không hề
nói trong bài phỏng vấn. Nói thế để thấy cái cung cách
làm việc lưu manh và dối trá của các cán bộ văn hóa Hà
nội. Làm công trình biên khảo cũng phải theo đúng chính sách
văn hóa, văn nghệ do Đảng đề ra và từ đó tự tiện cắt
xén những điều mình không thích và thêm vào những điều
có lợi cho nhà nước Cộng sản hiện nay. Trước đây Hà
nội cho dịch cuốn sách " The bright shining lie" ( Sự lừa dối
hào nhoáng ) của Neil Sheehan vì nội dung cuốn sách có lợi
cho đường lối tuyên truyền của họ, nhưng có một đoạn
văn nói về sự tàn bạo của Cộng sản trong tết Mậu Thân
ở Huế thì các thợ dịch Hà Nội cũng đã đục bỏ một
cách cố tình vì không có lợi cho chính sách tuyên truyền.
( Xin đọc bài " Hãy coi chừng thợ dịch Hà nội thiếu lương
tâm " của Trần viết Đại Hưng trong mạng www.nsvietnam.com).
Hai cuốn hồi ký của Học giả Nguyễn hiến Lê và cựu tướng
Đỗ Mậu khi xuất bản ở Việt Nam cũng bị cắt xén những
đoạn phê phán nhà nước. Xin đối chiếu với bản in ở
hải ngoại với bản in ở quốc nội thì sẽ thấy rõ sự
cắt xén thô bỉ như thế nào. Nói lên điều này để thấy
cái cung cách làm việc " thiếu văn hóa " trong chuyện nghiên
cứu văn hóa của các cán bộ Cộng sản Hà nội. Biết đến
bao giờ họ mới có được lương tâm trong sáng của người
cầm bút, chỉ biết tôn trọng sự thực và yêu quý lẽ phải
mà người cầm bút chân chính nào cũng trân trọng và yêu
quý.
Nói thế để nhắn nhủ người
anh em thân cộng là nhà khoa học Trương Vũ đang tìm mọi cách
bênh vực cho sự " trung thực " của hai cán bộ văn hóa Hoàng
ngọc Hiến và Nguyễn huệ Chi trong vụ kiện WJC với ông Nguyễn
hữu Luyện. Phải thấy rằng Hoàng ngọc Hiến , Nguyễn huệ
Chi cũng có cách làm việc, nghiên cứu, biên tập cũng giống
như Hữu Ngọc và Nguyễn đức Hiền mà thôi, nghĩa là nghiên
cứu dưới ánh sáng của Đảng, dưới ánh đèn dẫn đường
của ý thức hệ Mác � Lê, cắt xén hay thêm thắt sao cho công
trình văn hóa đúng lập trường, phải đạo. Nghiên cứu chệch
hướng là coi như mang họa vào thân. Có chuyện kể rằng Hoàng
ngọc Hiến vào tháng 6 năm 2004 vừa rồi có qua Đức và có
làm một cuộc phỏng vấn nhan đề " Cái nước mình nó thế
" với trang mạng Talawas( www.talawas.org).
Nhưng trả lời vung vít xong rồi thì nhà nghiên cứu văn học
Hoàng ngọc Hiến đâm ra phát rét, sợ về nước sẽ bị lâm
vào tình cảnh " có vấn đề " với nhà nước nên yêu cầu
báo điện tử Talawas đừng đăng bài phỏng vấn này. Làm
công chuyện nghiên cứu văn hóa mà cứ nhát gan, sợ sệt như
thỏ đế giống Hoàng ngọc Hiến thì không biết là ông nghiên
cứu được gì? Làm sao tiếp cận được chân lý của vấn
đề khi mang trong đầu một nỗi sợ hãi không dám cho công
bố bài phỏng vấn mình như thế ? Chỉ có người anh em thân
cộng Trương Vũ ngây thơ đang rán sức phồng mang trợn má
để bênh vực cho chuyện nghiên cứu văn hóa của Nguyễn huệ
Chi và Hoàng ngọc Hiến tại WJC. Ở quận Cam ( Orange county,
California) trước đây vài năm có cả hàng chục ngàn đồng
bào tỵ nạn xuống đường để phản đối tên thân cộng
Trần Trường treo hình Hồ chí Minh và lá cờ máu thì chuyện
ấy Hoàng ngọc Hiến và Nguyễn huệ Chi có dám đề cập đến
trong khi nghiên cứu về người tỵ nạn không nhỉ? Chắc chắn
là không và lý do tại sao thì ai cũng có thể hiểu, ngoại
trừ nhà khoa học thân cộng Trương Vũ !
Khi nói đến nỗi đau thứ bảy
trong mười nỗi đau của Hồ chí Minh trong bài viết, Hoàng
Tùng cho biết đã có sự bất hòa trong hành ngũ lãnh đạo.
Hoàng Tùng kể Hồ chí Minh sai Hoàng Tùng viết bài " Nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân " để
nhắn nhủ những đồng chí bất hòa hãy rán mà làm lành thân
thiện với nhau. Rồi đến chuyện Hồ chí Minh cho làm cơm
cuối tuần để mời những người xung khắc lại dùng cơm
để mong hóa giải sự xung khắc và trong di chúc để lại
Hồ chí Minh kêu gọi sự đoàn kết toàn Đảng, từ Trung ương
đến địa phương cũng là vì đã nhìn thấy chuyện " cơm
không lành, canh không ngọt " giữa những đồng chí với nhau
trong Đảng.
Thật ra chuyện mâu thuẫn và đấu
đá giữa những phe phái trong Đảng trầm trọng hơn Hoàng
Tùng trình bày trong bài viết trên nhiều. Hoàng văn Hoan, nguyên
phó chủ tịch quốc hội, có xuất bản cuốn hồi ký " Giọt
nước trong biển cả " sau khi trốn qua Bắc Kinh, đã cho biết
chính phe Lê Duẩn đã giết Đại tướng Nguyễn chí Thanh khi
tướng Thanh từ chiến trường miền Nam ra Hà nội họp. Sách
báo Cộng sản đưa tin là tướng Thanh bị bệnh nhồi máu
cơ tim đột ngột nên qua đời. Cái chết đột ngột của
hai đại tướng Hoàng văn Thái và Lê trọng Tấn trước đây
chắc chắn không phải vì bệnh tật mà do phe phái trong Đảng
đấu đá, thanh toán nhau dù cho tới ngày nay cũng chưa biết
đích xác thủ phạm là ai. Bản thân Hoàng văn Hoan cũng bị
phe Lê Duẩn � Lê đức Thọ trù dập đến nỗi phải trốn
qua Bắc kinh khi trên đường đi Đông Đức trị bệnh. Cựu
đại tá Bùi Tín sau khi đi lưu vong đã viết hồi ký kể chuyện
phe Lê Duẩn và Lê đức Thọ trù dập và bôi bẩn Đại tướng
Võ nguyên Giáp tàn tệ như thế nào, trong đó có chuyện ban
cho người anh hùng Điện Biên Phủ chức " cai đẻ" để làm
nhục người hùng này.Biết mình thế cô sức yếu, Võ nguyên
Giáp ngoan ngoãn để cho phe Duẩn Thọ làm nhục với mục đích
mua lấy sự sống. Xem ra cái hèn để người khác làm nhục
nhân cách mình của Đại tướng miền Bắc Võ nguyên Giáp
cũng ngang ngửa với cái hèn đầu hàng của Đại tướng miền
Nam Dương văn Minh. Xem thế mới thấy không phải đeo lon đại
tướng là con người trở nên hùng dũng, trái lại nhiều khi
còn hèn thua một người dân thường. Nói chung cung cách xử
sự của hai viên đại tướng họ Võ và họ Dương trước
tình thế nguy hiểm là hèn hạ, nhục nhã vì vì lối sống
" tham sống sợ chết", sẵn sàng làm tất cả những điều
nhục nhã, hèn hạ để mua lấy sự sống. Ôi ! sống nhục
sao bằng thác vinh ! Người xưa đã dạy như thế nhưng mấy
ai làm được.
Phe Trường Chinh và Lê đức Thọ
cũng tranh giành quyền lực quyết liệt sau khi Lê Duẩn qua
đời. Tới ngày hôm nay thì phe của Đại tướng chột mắt
Lê đức Anh ( đàn em trung tín của Lê Duẩn � Lê đức Thọ
) đang đấu đá quyết liệt với phe của Đại tướng cai
đẻ Võ nguyên Giáp. Đây là một vụ án siêu nghiêm trọng
có thể đưa đến sự hủy thể của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Hồ chí Minh kêu gọi sự đoàn kết
yêu thương giữa những đồng chí trong đảng với nhau nhưng
chủ thuyết Mác � Lê mà Hồ chí Minh theo đuổi lại là chủ
thuyết dựa trên sự đấu tranh giai cấp, dựa trên sự thù
hận nên chuyện đấu đá tranh giành nhau đã không thể tránh
được. Hãy nhìn vị vạn thế sư biểu Khổng tử với 3000
đệ tử thấm thuần trong học thuyết nhân bản Khổng giáo,
kêu gọi con người xử sự với nhau trên những nguyên tắc
đạo đức " nhân, nghĩa, lễ, trí, tín " nên 3000 học trò
của Khổng tử đều đối đãi, cư xử với nhau trong sự
yêu thương như anh em ruột, chứ không hãm hại giết nhau như
những đệ tử đàn em của Hồ chí Minh. Chủ thuyết như thế
nào thì tín đồ phải như thế ấy thôi. Chuyện Hồ chí Minh
cổ súy và xây dựng chế độ mình trên chủ thuyết Mác-
Lê độc ác, phi lý vô cùng tận để rồi ước mong đàn em
đệ tử của mình phải yêu thương, quý mến nhau quả là
điều không tưởng. Hoàng Tùng cho biết Hồ chí Minh rất buồn
vì chuyện bất hòa giữa những đàn em nhưng mà " nhân nào
thì sinh quả nấy", làm sao có chuyện đầm ấm yêu thương
trong khi sống trong một chủ thuyết cổ súy hận thù như chủ
nghĩa Mác- Lê.
Nỗi đau thứ tám của Hồ chí Minh
được Hoàng Tùng trình bày là Hồ chí Minh thật sự không
muốn chiến tranh với Pháp cũng như với Mỹ. Nhiều học giả
ngoại quốc khi nghiên cứu về Hồ chí Minh cũng đều đưa
ra kết luận trên. Đây là một điều khó hiểu vì Hồ chí
Minh thường được biết đến một con người độc đoán,
sắt đá nhưng lại là người chọn đường lối hòa hoãn,
thương lượng để chấm dứt chiến tranh chứ không muốn
đối đầu, đánh đấm để đạt mục tiêu. Quyết định
đánh chiếm miền Nam là của phe chủ chiến Lê Duẩn và Lê
đức Thọ và hai ông nay đã khống chế được phe Hồ chí
Minh và Võ nguyên Giáp để tiến hành chuyện chiến tranh ở
miền Nam. Trong trận đánh cực kỳ lớn vào tết Mậu Thân
1968, Hồ bị tống cổ qua Bắc kinh, Giáp bị đẩy đi Hungary
" gọi là chữa bệnh " cho khuất mắt để phe Duẩn � Thọ
rảnh tay mà làm việc đã cho thấy phe Duẩn � Thọ đã tước
hết quyền hành của Hồ và Giáp. Phe Lê Duẩn � Lê đức Thọ
ganh tức cái hào quang mà Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp có
được trước nhân dân và thế giới từ chiến thắng Điện
Biên Phủ nên quyết đánh miền Nam để tạo một chiến công
lừng lẫy, vang dội hầu lấn át danh tiếng của Hồ và Giáp.
Động lực của phe chủ chiến Duẩn-Thọ có nguyên nhân sâu
xa là như thế.
Bài viết của Hoàng Tùng muốn kể
ra 10 nỗi đau của Hồ nhưng người ta chỉ đọc được 8
nỗi đau. Lý do là bài viết được trích từ cuốn sách "
Những kỷ niệm về Bác Hồ " của Hoàng Tùng bị tịch thu
sau khi cuốn sách ra đời, nên khi bài viết đi ra hải ngoại
thì chỉ tìm thấy 8 nỗi đau thay vì 10 nỗi đau vì tài liệu
bị thất lạc, tứ tán. Có thể góp ý thêm một nỗi đau
của Hồ là không được bọn đàn em như Duẩn, Thọ, Hoàng
quốc Việt cho cưới vợ để họ có thể biến Hồ thành
một biểu tượng có lợi cho công cuộc giải phóng miền Nam.
Điều này khá mỉa mai vì Lê đức Thọ có 2 vợ, Lê Duẩn
có 3 vợ mà lại không cho phép Hồ lấy vợ ! ( Xin vào mạng
lưới
www.quehuongmedia.com
đến phần Tài liệu để đọc thêm về cái chết thảm khốc
của cô Nông thị Xuân, người đã sinh cho Hồ một đứa con
trai tên Nguyễn tất Trung. Sau khi cô Xuân bị giết chết, cậu
Trung được giao cho gia đình tướng Chu văn Tấn nuôi và sau
này lại đưa cho người hầu cận thân tín của Hồ là Vũ
Kỳ nuôi. Cậu Trung được đổi tên là Vũ Trung và cho đến
giờ phút này không biết cậu còn sống hay đã bị thủ tiêu
như mẹ cậu để bảo vệ uy tín cho người cha khốn nạn
Hồ chí Minh.)
Thêm một nỗi đau nữa của Hồ
là bị phe Duẩn Thọ cô lập và giết dần mòn vì chuyện
Hồ tìm cách liên lạc với ông Diệm hồi năm 1963. Một con
người tinh ma, quỷ quái như Hồ mà rồi cũng không qua được
định luật nhân quả của trời đất. Ông phải trả quả
cho những hành động tàn ác mà ông gây ra trong suốt cuộc
đời hoạt động chính trị.
Mới đây Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra quyết định coi " tin, tài liệu liên quan đến vấn
đề lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, thân thế sự nghiệp
các vị lãnh đạo chưa công bố hoặc không công bố đều
thuộc danh mục bí mật nhà nước.". Cuốn sách của Hoàng
Tùng nói trên bị tịch thu vì tiết lộ những bí mật cần
phải dấu của Hồ chí Minh.
Năm ngoái, chế độ Hà nội xin
phép sử gia Duiker để phiên dịch cuốn tiểu sử Hồ chí
Minh in ở Mỹ, nhưng xin ông Duiker bỏ bớt phần nói về chuyện
ông Hồ có vợ ở Trung Quốc trước khi về Việt Nam hoạt
động. Sử gia Duiker đã từ chối đề nghị cắt xén này
nên Hà nội im lặng, không nói đến chuyện phiên dịch cuốn
tiểu sử Hồ chí Minh này nữa. ( Xin đọc bài " Góp ý với
sử gia Duiker " của Trần viết Đại Hưng trong trang mạng www.nsvietnam.com).
Chuyện Hồ có vợ ở Trung quốc hay ăn ở với bà Nguyễn
thị Minh Khai ( vợ chính thức của Lê hồng Phong, một đồng
chí của Hồ) còn nằm trong các tài liệu ở thư khố Nga và
Trung cộng đã được giải mật và cung cấp tài liệu cho
những nhà nghiên cứu sử khai thác. Chuyện một người đàn
ông như ông Hồ thì chuyện có vợ là một chuyện hết sức
bình thường, đâu có gì xấu xa mà phải che giấu, tránh né.
Nhưng mấy mươi năm nay sách báo Cộng sản đã biến ông Hồ
thành một ông thánh không gần đàn bà nên giờ đây họ không
đủ can đảm để chấp nhận những sự thật phũ phàng về
đời tư, tình cảm của ông Hồ. Không biết họ còn bưng
bít và nói dối về ông Hồ cho tới bao giờ ? Ngày xưa nói
đến tên vua là phạm húy, ngày nay nói đến ông Hồ thì chỉ
có quyền nói đến những chuyện tốt đẹp về ông còn nói
đến chuyện tình ái lăng
nhăng, con rơi con rớt của ông cũng
là một chuyện " phạm húy " cấm kỵ. Nhà thơ Trần Dần trong
nhóm Nhân Văn � Giai Phẩm có làm câu thơ " Ôi ! Xưa nay Người
vẫn thiếu tin Người. Người vẫn thường kinh hoảng trước
Tương-lai." ( Bài " Nhất định thắng ").. Trần Dần bị mang
ra đấu tố với tội nói xấu lãnh tụ Hồ chí Minh vì chữ
" Người " trong câu thơ trên được coi như là ám chỉ Hồ
chí Minh, vì trong chế độ Cộng sản Việt Nam hồi ấy, chữ
Người vốn thường để chỉ Hồ chí Minh. Cho nên câu thơ
" Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương lai " bị coi
là nói xấu và bôi bác lãnh tụ. Trần Dần coi như bị kết
tội "phạm húy " ( nghĩa là phỉ báng lãnh tụ tối cao Hồ
chí Minh). Câu chuyện nghe như chuyện đùa mà là sự thật
phũ phàng đã xảy ra cho nhà thơ Trần Dần. Hà sĩ Phu đã
từng đánh giá chế độ Cộng sản ở Việt Nam là một thứ
chế độ phong kiến trá hình quả thật là quá đúng.
Thật ra dù là một đảng viên cao
cấp nắm ngành tuyên huấn,báo chí như Hoàng Tùng cũng chỉ
biết được những bí mật sơ sài về Hồ chí Minh mà thôi.
Phải nói người nắm giữ những bí mật chính trị của Hồ
chí Minh là Võ nguyên Giáp vàø người hiểu rõ những chuyện
thầm kín của Hồ chí Minh là người thư ký hầu cận Vũ
Kỳ. Ông Giáp và ông Kỳ đều còn sống, nhưng với chính
sách bưng bít thông tin, cấm nói đến những điều tiêu cực
của lãnh tụ của nhà nước Cộng sản thì hai ông Giáp và
Kỳ cũng không thể nói được gì thêm về Hồ chí Minh. Trước
đây ông Vũ Kỳ có lên tiếng thêm về chuyện di chúc Hồ
chí Minh với Bùi Tín liền bị mấy ông lớn trong bộ chính
trị kêu lên đe nẹt và hù dọa ngay. Cầu mong chế độ Cộng
sản sẽ sụp đổ trước khi ông Giáp và ông Kỳ qua đời
thì hai ông này sẽ có cơ hội tiết lộ nhiều bí mật sâu
kín về chính trị và tình cảm của Hồ chí Minh.
Chuyện đánh giá công tội của
Hồ chí Minh đối với đất nước là chuyện dài lâu nhưng
bản thân Hồ chí Minh, trong di chúc viết ngày 14 tháng 8 năm
1969, tỏ ý mong mỏi lịch sử sau này xét kỹ cho ông mà đừng
lên án ông quá nặng nề. Ông đã kết thúc bản di chúc bằng
hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để tỏ lòng hối hận trước
cao xanh về những tội lỗi của ông:
Rằng con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng
cam.
Phải thấy rằng đây không phải
là đòn bịp cuối cùng trong đời của Hồ chí Minh mà là
những lời nói thống thiết chân thành pha lẫn sự đau đớn
của một con người trước giờ hấp hối lâm chung. Ước
mong sao toàn dân Việt Nam rồi sẽ có cơ hội nhìn thấy và
thông cảm với sự bộc bạch chân thành, những lời nói phải
của một con người trước khi chết, giống như con chim trước
khi chết thì tiếng kêu thương. Bài viết Hoàng Tùng đã hé
mở phần nào những nỗi đau của Hồ chí Minh mà chế độ
vì muốn thần thánh hóa ông nên cố tình bưng bít, dấu diếm.
Hà Nội trong mấy mươi năm qua đã biến Hồ chí Minh thành
thành, thành một siêu nhân nên khi cán bộ Hoàng Tùng viết
sách nói lên những thất bại, thất sủng, nỗi đau của Hồ
thì sách bị thu hồi ngay lập tức. Nhưng trời đất vốn
có luật công bằng nên dù dấu diếm kỹ càng đến đâu thì
dần dần những tâm tư sâu kín của Hồ chí Minh cũng được
bộc lộ bởi những người cộng sự viên chung quanh như Hoàng
Tùng và sau này còn nhiều người quen biết khác nữa để
người ta có thể nhìn thấy cái tâm tư u uẩn, đau xót của
ông Hồ. Dù sao ông cũng chỉ là một con người có những
vui, buồn, giận ghét, vinh quang và điếm nhục riêng của mình.
Ở thế giới bên kia chắc Hồ chí
Minh cũng được thỏa lòng vì giờ này đã được người
đời hiểu thấu tâm can thống thiết của ông. Đó cũng là
nguyện vọng tha thiết của ông được bộc lộ trong di chúc
ngày 14 tháng 8 năm 1969 và cũng đã được công bố ở Pháp
cách đây trên 20 năm. Có đọc di chúc này mới thấy ông cũng
chỉ là một con người, một con người phải nói là bất
hạnh như đồng bào Việt Nam của ông trong mấy mươi năm
qua trên quê hương Việt Nam.
Lawndale, một sáng mùa thu mát lạnh
có nhiều sương mù bay lãng đãng đầu tháng 9 năm 2004
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
|