DI
SẢN HỒ CHÍ MINH
Hồ chí Minh qua đời đã được
35 năm nhưng di sản ông để lại cho đất nước Việt Nam
vẫn có những dấu ấn chưa phai mờ. Từ chuyện mượn thế
lực của Quốc tế thứ ba để chống lại Pháp và sau này
là Mỹ, với bản chất ít học, ông đã sa lầy vào ý thức
hệ Mác – Lênin khi xây dựng một chính quyền dựa trên học
thuyết phản khoa học và phi dân chủ này. Bộ máy nhà nước
nặng nề do Hồ chí Minh xây dựng nên, qua năm tháng đã lộ
ra những khuyết điểm tệ hại tronng chuyện phát triển đất
nước. Trong thời kỳ chiến tranh, vì tất cả mọi người
dân đều mang tâm niệm hy sinh nên mọi chuyện đều " chín
bỏ làm mười ". Miền Bắc sau 1954 và miền Nam sau 1975 mới
mở mắt cho người dân thấy chế độ Cộng sản là một
chế độ cực kỳ tàn ác, phi dân chủ. Chế độ toàn trị
này cứ nghĩ là với bạo lực chuyên chính và tù đày độc
ác, nó sẽ tiêu diệt mọi mầm mống chống đối. Lúc đầu
người ta nghĩ sự chống đối của những người đấu tranh
đối với nhà cầm quyền Cộng sản là một chuyện làm "
trứng chọi đá ", nhưng dần dà qua năm tháng đã cho thấy
nhà cầm quyền ngày càng bị dồn vào chân tường vì bị
thế giới cô lập và nhân dân oán trách, phẫn nộ và dã
có những cuộc biểu tình và nổi dậy xảy ra. Muốn biết
cái di sản mà Hồ chí Minh để lại cho đất nước Việt
Nam tệ hại ra sao thì không thể nhắc đến những sự ghi
nhận của Học giả Nguyễn hiến Lê trong Hồi ký ( tập 3)
của ông và những lời tâm sự của cựu Trung tướng Trần
Ðộ với Lữ Phương ( trích trong " Nhật ký Rồng rắn " )
.
Thật ra trước Nguyễn hiến Lê
và Trần Ðộ cả nửa thế kỷ đã có Học giả Hoàng văn
Chí trong cuốn sách " Từ thực dân đến Cộng sản " và Sử
gia Trần trọng Kim trong hồi ký " Một cơn giớ bụi " đã
vạch rõ những cái tàn bạo, vô đạo và phi dân chủ của
chế độ Cộng sản do Hồ chí Minh cầm đầu. Học giả họ
Hoàng và Sử gia họ Trần đã nhìn thấy cái bản chất dối
trá, độc ác, côn đồ của chế độ Hồ chí Minh ngay từ
trong những tháng năm kháng Pháp chứ không phải đợi cho chế
độ đó được lập nên sau chiến tranh, khuyết điểm lộ
hẳn ra mới phê phán như Trần Ðộ và Nguyễn hiến Lê
Học giả Nguyễn hiến Lê ở miền
Nam, chỉ biết mùi Cộng sản sau 30 tháng 4 năm 1975. Sau mấy
năm sống dưới chế độ hà khắc Cộng sản, ông đã đưa
ra những nhận định chính xác như sau:
" Thất bại lớn nhất, theo tôi,
là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất
là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền
Bắc đã đuổi được Mỹ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng
có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc
gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có đa số
người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc.
Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một
cuộc hội nghị ở Sài gòn, bàn về vấn đề thống nhất
quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Ðào duy
Anh ( đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân
ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói một
câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất
là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng
sốt và làm thinh.
Ông Anh đã nhận xét đúng và dám
nói
. Quả thực là lúc đó có sự chia
rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn
thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ
mỗi ngày mỗi tăng, năm nay ( 1980) có thể nói 90% người miền
Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.
.. Ðiểm thứ nhì làm cho chúng ta
thất vọng là xã hội còn bất công hơn thời trước nhiều.
Marx và Lénin muốn tạo một xã
hội không có giai cấp, công bằng, bình đẳng. Nhưng Staline
cho sự bình đẳng là " không xứng " ( indique) với một xã
hội theo chủ nghĩa xã hội ( Kravchenko, J’ai choisi la liberté.
Trang 114 ( seft-1948).), và ở Nga, nhà bác học Sakharov ( trong
một bài báo đã dẫn ) thì năm 1972 xã hội đã bất bình
đẳng mà còn bất công. Không còn tình trạng tư bản bóc
lột thợ thuyền, nhưng giai cấp lãnh đạo được hưởng
rất nhiều quyền lợi còn giai cấp công nhân thì sống thiếu
thốn. Cây quạt lương bổng ( eventail des salairs) vẫn mở rộng,
có phần còn hơn ở các nước tư bản; nói cách khác, lương
giữa một viên giám đốc với một thợ không chuyên môn còn
cách biệt rất xa, hơn ở phương Tây. Kravchenko trong cuốn
đã dẫn cũng phàn nàn rằng các đồng chí " bự" ( grosses
légumes) sống như ông hoàng, có phòng ăn riêng, thức ăn riêng,
tiệm mua dược phẩm riêng, thợ hớt tóc riêng, nhà thương
riêng, cầu tiêu riêng..cái gì cũng riêng,và ông ta chua xót
thấy cách bóc lột thời ông bất lương hơn thời Nga hoàng
( trang 525, 105).
Ở nước mình cũng như Nga, không
còn cái tệ tư bản bóc lột thợ thuyền; chế độ lương
của mình còn hơn Nga là không có sự cách biệt rất xa giữa
cấp cao và cấp thấp : công nhân viên mới vô được khoảng
40 đồng một tháng, kỹ sư mới ra trường được khoảng
55 đồng, giám đốc khoảng 150 đồng, bộ trưởng 200 đồng;
nhưng các cán bộ cao cấp cũng được hưởng rất nhiều quyền
lợi, tha hồ mua thưc ăn, đồ dùng đủ thứ với giá chính
thức; nghe nói có trường hợp vợ họ mua về bán chợ đen;
và một người Nga hay Ðức đã phải bảo lương những cán
bộ tuy chỉ có 200 đồng mà sự thực họ được hưởng ít
nhất là 2000 đồng. Thủ tướng Phạm văn Ðồng có lần đề
nghị sửa đổi chế độ lương bổng : tăng lương cho những
cấp trên, nhưng sự phân phối nhu yếu phẩm thì đồng đều;
đề nghị đó bị đảng bác bỏ.
Có người nói một số " ông lớn
" đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao ly để
ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác
sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu
được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không,
chỉ biết những tin đó do " anh em cách mạng " đưa ra cả.
Một ông bạn tôi bảo có vô nhà
thương mới thấy có cả chục ( sic) giai cấp bệnh nhân, tùy
giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh
ra sao, cấp thứ thuốc nào v..v..
Người chết cũng phân biệt giai
cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân
trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời
cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Ðúng là đường
lối Staline.
Sài gòn được giải phóng vài năm
thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi,
thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa
xí phẩm ( áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí
v..v) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó
nhỉ ?
Sự bất công chướng nhất, tàn
nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên
trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ
còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của
đồng bạc năm 1980 chỉ còn 1/10 năm 1975; thành thử lương
một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một
bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp
thế giới không đâu có chế độ lương bổng kỳ cục như
vậy ( Tháng 7 năm 1981, lương đã được tăng gấp hai , nhưng
chính phủ cho tay này thì lấy lại bằng tay khác : giá nhu
yếu phẩm, vé xe đò, tem gởi thư.. cũng tăng lên như vậy,
có thứ tăng gấp 10 nữa ). Người nào cũng phải bán đồ
đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay
xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không
biết tới. Một cán bộ ở Hà nội đã phàn nàn, " Người
ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần
trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng ! " Kravchenko ( trang 185)
nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ
mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi
như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho
những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy
quyền còn ở trong một số trại cải tạo.
Không ai có trách nhiệm mà tinh thần
bè phái quá nặng, nên không có kỷ luật, dưới không tuân
trên, loạn.
...Vì mất kỷ luật, cho nên thanh
niên trốn nghĩa vụ quân sự : ở miền Nam trốn tới 90%,
có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa
họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài
họ được, gạo đâu mà nuôi ? Họ sống yên ổn ngay ở làng
vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ
thì toàn quốc tới 25% . Trước kia người ta hy sinh để giành
độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước
an hem, người ta không hăng hái nữa.
….. Sự thất bại hiển nhiên nhất
của chế độ này là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã
trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt Nam trước
thế chiến tự hào là " tiền rừng bạc bể " , có những
đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những
mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ở miền Bắc mà bây giờ
thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.
….. Nhiều người vào Sài gòn thăm
bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì,
lon sữa, ve chai.. đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng
tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.
Nhưng một người Ba lan trong Ủy
ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền
Nam sẽ " đuổi kịp miền Bắc ", nghĩa là nghèo như miền
Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy
trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực
phẩm, quần áo..về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện
nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.
.. Khổ nhất là bọn đi kinh tế
mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài gòn, sống
cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi
thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một
miếng sắt rỉ, một quai dép mủ..để bán cho " ve chai" . Trông
thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi
phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng,
tôi ghê tởm quá.
.. Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu
tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân
sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong
Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước
đây họ sống rất sạch – mạng nhện giăng đầy trần,
còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi
nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin
ăn.
Câu " nghèo cho sạch, rách cho thơm
" của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo
tới mức không thể ở sạch được.
.. Ðiều đáng ngại nhất là sa
đọa về tinh thần, tới mất nhân phẩm.
Ở tỉnh nào cũng có một số cán
bộ tham nhũng cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút
ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút…..
..Nếu một cán bộ nào bị dân
tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ
đó tới một cơ quan khác ( có khi còn dễ kiếm ăn hơn cơ
quan cũ ), đem người khác ( cũng tham nhũng nữa )lại thay.
Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa
kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bênh vực nhau ( cũng là
đảng viên cả mà ) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy,
chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo : "
Chống chúng làm gì ? Nên khuyến khích chúng sa đọa thêm chứ
để chúng mau sụp đổ ."
.. Tóm lại bao nhiêu cái xấu
xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần còn tởm hơn nữa.
Trong một xã hội như vậy, con người
dễ mất hết nhân phẩm, hóa ra đê tiện, tham lam, bất lương,
nói láo, không còn tình người gì cả.
.. Sống dưới chế độ Cộng sản,
con người hóa ra có hai mặt như Sakharov đã nói : chỉ giữa
những người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải
đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng,
có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người
thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người
kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm việc điểm chỉ đó
mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại
bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy,
ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ
hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám
đó.
… .. Tất cả chỉ tại cái lệ
chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ
sống, dân phải tự xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ
kim chưa một xã hội nào phi lý như vậy. Vì biết mình
phi lý nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho
phép các giáo viên ngụy dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội
cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm văn Ðồng
đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được
biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi
heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống;
quần áo thì vá đụp; có thể nói họ nghèo như các nông
dân nghèo nhất thời xưa.
.. Ông Hồ chí Minh có lần nói,
" Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người
xã hội chủ nghĩa " ( *). Con người vẫn là quan trọng hơn
cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người
tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần,
tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hóa
mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy
trước cái mòi suy vi đó khi ông thốt ra lời trên chăng ?
"
" Tôi nhớ đâu như Ðảng Cộng
sản Việt Nam thành lập năm 1930. Ðến nay đã nửa thế kỷ,
đã có mấy triệu người ở trong Ðảng và ngoài Ðảng cùng
nhau hy sinh để mong xây dựng một tương lai tốt đẹp cho
quốc gia, dân tộc ? Xương các vị đó gom lại, chất lên,
chắc thành một ngọn núi cao lớn gấp 10 ngọn núi Nùng. Anh
hồn các vị đó nếu linh thiêng, nhìn xuống tình cảnh dân
tộc mình mà tôi mới phác họa vài nét trong chương 16 sẽ
phẫn uất ra sao, có về dự lễ ngày hôm nay nữa không. Anh
hồn của ông Hồ nữa ! Tất cả những người có tâm huyết
tôi được biết, tuổi từ 50 trở lên đều có lời than thở
như vậy. Thật bi thảm ! Ai ngờ đâu? "
( Trích Hồi ký Nguyễn hiến Lê
tập 3.. từ trang 90 đến trang 108, trang 145 nhà xuất bản Văn
Nghệ Hoa Kỳ)
Nguyễn hiến Lê là một học giả
có uy tín của miền Nam và những nhận xét trích dẫn ở trên
là những nhận xét trung thực của ông với tư cách của một
người dân miền Nam mới sống chừng 5 năm trong chế độ
Cộng sản ( 1975-1980). Mặc dù sự nhận định của ông ở
trên chưa toàn diện và chính xác như những nhân vật đấu
tranh cho dân chủ sau này lên tiếng, nhưng nhận định của
ông được coi là tài liệu có giá trị.
Nguyễn hiến Lê là một người
suốt ngày vùi đầu vào sách vở. Kiến thức ông bao la nhưng
ông chưa có dịp để đụng chạm với những cay đắng, tráo
trở của cuộc đời. Có thể nói ông là một thứ trí thức
" tháp ngà". Trong những năm sống ở miền Nam, dù có diễm
phúc hít thở một chút không khí tự do của miền Nam, ông
vẫn bất mãn vì sự tham nhũng của những người lãnh đạo
mất tư cách, xôi thịt của miền Nam và từ đó có những
cảm tình với những anh em kháng chiến nói riêng và chế độ
miền Bắc nói chung. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, sự thối nát
và tàn bạo của chế độ mới đã mở mắt cho ông. Ông đã
tự nhận mình là " đã quá ngây thơ " khi cho rằng chế độ
miền Nam sụp đổ sẽ được thay thế bằng một chế độ
cởi mở, dễ thở hơn. Kinh nghiệm xương máu mà ông rút ra
được là " Muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống
dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô
cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút
được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê gì
thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông
minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ
thôi. " Ðúng là có " thấy quan tài mới đổ lệ. " . Có nhìn
thấy những thực tế phũ phàng, đau lòng trước mặt thì
Học giả Nguyễn hiến Lê mới đưa ra những lời nhận định
thành thật và sắc bén nói trên. Những nhận xét khách quan
và trung thực này là loại tài liệu có giá trị để lại
cho hậu thế sau này.
Có hai điểm chính yếu cần ghi
nhận trong lời phê phán của Nguyễn hiến Lê. Thứ nhất là
chế độ Cộng sản đã làm cho nền kinh tế kiệt quệ, làm
cho đời sống người dân cơ cực đến nỗi không còn có
thể " đói cho sạch, rách cho thơm " như ngày xưa nữa. Và
" bần cùng thì sinh đạo tặc " . Những chuyện lường gạt,
gian trá từ từ nẩy sinh trong một xã hội nghèo đói và dối
trá ấy. Ðiểm thứ hai là sự băng hoại về tinh thần vì
lối sống rình rập, báo cáo nhau trong xã hội miền Nam sau
1975. Con người phải sống hai mặt, giả trá đã thành một
cách sống để có thể tồn tại trong xã hội Cộng sản.
Nước Việt Nam với 4000 năm văn hiến với bao nhiêu thuần
phong mỹ tục dần dần bị thui chột và mai một trong xã hội
Cộng sản mà không biết đến bao giờ mới khôi phục lại
được.
Cho nên di sản Hồ chí Minh để
lại cho đất nước Việt Nam sau khi ông qua đời có thể nói
là: một sự nghèo nàn cùng quẫn về kinh tế và tạo ra một
lối sống giả trá lưu manh cho hầu hết mọi người trong
xã hội. Người xưa có câu nói thật hay: Làm thầy thuốc
sai thì giết chết con bệnh. Làm chính trị sai thì giết mất
vài thế hệ. Làm văn hóa sai thì di hại đến nhiều đời.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin mà Hồ chí Minh đem về du nhập Việt
Nam đã góp phần trong việc đánh thực dân Pháp và Mỹ, nhưng
đau đớn thay, chính chủ nghĩa này đã gây không biết bao
nhiêu tai họa cho con người Việt Nam. Hồ chí Minh đã vận
dụng chủ nghĩa Mác để chống thực dân nhưng sau đó không
đủ bản lĩnh và trí tuệ chia tay với chủ nghĩa hoang tưởng
này để xây dựng đất nước. Hậu quả cái học thuyết
Mác do Hồ chí Minh để lại trở thành cái di sản làm trì
trệ cho bài toán phát triển đất nước. Con người mới nếu
được đào tạo theo đúng khuôn mẫu con người xã hội chủ
nghĩa của Hồ chí Minh là một con người bất cận nhân tình,
tàn nhẫn, dối trá, lưu manh như bọn giang hồ của xã hội
đen. Ðạo lý tối cao của lối sống xã hội chủ nghĩa là
" lừa thầy phản bạn " , " thượng đội hạ đạp " sẵn
sàng làm bất cứ điều vô liêm sỉ để đem lại sự " vinh
thân phì gia " cho bản thân mình.
Trịnh công Sơn dù sống trong miền
Nam yên bình trước đây để ca hát, buồn vui cũng đã có
một cái nhìn đen tối, tiêu cực về viễn cảnh sau này của
quê hương Việt Nam qua bài hát " Gia tài của mẹ "
" Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng
ngày
Gia tài của mẹ để lại cho
con
Gia tài của mẹ là nước Việt
buồn
…...Gia tài của mẹ một bọn
lai căng, gia tài của mẹ một lũ bội tình "
Ðến bây giờ mới thấy cái viễn
cảnh "một nước Việt buồn", " một bọn lai căng " , " một
lũ bội tình " do Trịnh công Sơn tưởng tượng ra cho quê hương
là quá nhẹ so với những di sản ( cũng có thể coi là một
thứ gia tài) do Hồ chí Minh để lại cho đất nước và con
người Việt Nam, đó là một đất nước tan hoang, nghèo đói,
một lối sống dối trá, lưu manh. Nói theo nhà thơ Nguyễn
Duy thì bây giờ xã hội Việt Nam nói chung có 2 thứ điếm
, " Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng. Ðiếm cấp cao
bán miệng nuôi trôn.". Ai là người còn một chút gì nghĩ
đến quê hương dân tộc lại không đau lòng khi thấy đồng
bào mình đã biến thành điếm vì cơ cấu xã hội chủ nghĩa
rèn đúc nên thế ! Nguyễn Duy nói tàn nhẫn, đau lòng nhưng
sự thật hiện nay cho thấy đó là những lời nói trung thực,
chính xác.
Nguyễn hiến Lê phê phán với tư
cách của một người dân. Tuy ông nhìn ra những sai trái nhưng
cũng chỉ là cái nhìn phiến diện bên ngoài, chưa đi sâu vào
nguyên nhân và thực chất của bộ máy nhà nước Cộng sản
Việt Nam. Có đọc những đoạn bút ký trong " Nhật ký rồng
rắn " của cựu Trung Tướng Trần Ðộ tâm sự với người
bạn Lữ Phương người ta mới thấy hết cái bản chất xấu
xa, tệ hại của chế độ Cộng sản. Nên nhớ có lúc Trần
Ðộ giữ chức " Trưởng ban văn hóa tư tưởng " trong Ðảng.
Cũng chỉ vì có lương tâm, không chịu nổi những cái sai
trái của Ðảng mà ông đứng lên phê phán. Ðảng không coi
những lời phê phán của ông là xây dựng mà coi đó là một
sự nói xấu, xuyên tạc và rốt cuộc là ông bị đuổi ra
khỏi Ðảng. Bao nhiêu tâm huyết, máu xương thời thanh niên
Trần Ðộ đổ ra để rồi chính Trần Ðộ đau lòng nhìn
thấy cái chế độ mà ông góp phần xây dựng nên còn tệ
hại và khốn nạn hơn rất nhiều cái chế độ mà ông không
tiếc máu xương giật sập xuống. Thời tuổi trẻ ông theo
Hồ chí Minh để đạp phá mọi bất công, san bằng mọi trở
ngại để mong có ngày nhìn thấy một xã hội dân chủ, ấm
no hạnh phúc. Ðau đớn thay, di sản Hồ chí Minh tức bộ máy
nhà nước hiện tại, đã trở thành một con quái vật uống
máu người dân không biết tanh, đối xử tàn tệ không chút
tình nghĩa với những " khai quốc công thần " như Trần Ðộ.
Ngày ông qua đời, tất cả những vòng hoa phúng điếu đều
bị cắt xén lời thương tiếc phân ưu vì Ðảng không muốn
người khác vinh danh một " tên phản động" như ông. Ðạo
lý của chế độ Hồ chí Minh không chỉ căm thù , đầy đọa,
tù đày kẻ đối lập khi họ còn sống mà còn phải đối
xử tàn tệ với kẻ đối lập khi họ đã qua đời. Ðám
tang Trần Ðộ bị rình rập, kiểm soát là một chứng minh
điển hình nhất về cái lề thói ăn ở " lừa thầy phản
bạn " của chế độ Cộng sản Việt Nam, một di sản để
lại của Hồ chí Minh.
Những dòng tâm huyết của Trần
Ðộ gửi Lữ Phương được đánh giá là những tâm sự chân
thành thống thiết Trần Ðộ gửi lại cho đời trước khi
bước qua thế giới bên kia. Tâm lý của Trần Ðộ là một
tâm lý của một con người bị phụ bạc. Bao nhiêu năm đổ
mồ hôi xương máu ra để xây đắp nên một chế độ để
cuối đời nhìn thấy cái chế độ mình đã góp công tạo
nên trở thành một thứ vật cản trong chuyện dựng xây dân
chủ và phát triển cho quê hương Việt Nam.
Cần phải đọc và phận tích kỹ
mới thấy cái tâm trạng đau đớn và bức xúc của Trần
Ðộ, một người bị Ðảng Cộng sản đánh giá là phản
bội trong khi chính Trần Ðộ mới là người bị phản bội.
Người đọc cảm thấy yêu quý
Trần Ðộ nhiều hơn khi thấy ông có một tầm nhìn sáng suốt
về những sai lầm bản chất của bộ máy nhà nước độc
tài chuyên chế và tâm huyết dâng trào của ông tướng già
này trước thực tế hoang tàn, đổ nát của non sông
THƯ GỬI ANH LỮ PHƯƠNG
Tết Tân Tỵ ngày 5 tháng giêng (
ngày 28.1.2001)
Nhân dịp Tết, tôi lục lại các
bài viết cũ, đọc lại chơi, tiện thể lục được bức
thư anh viết cho tôi từ đầu năm 1999, sau khi anh đọc xong
2 bài bút ký " Một cái nhìn trở lại " của tôi, và biết
tin tôi đã bị ( hay được ) khai trừ.
Ngay từ trang đầu của thư anh,
tôi thấy anh đã hiểu rõ tâm can tôi. Anh viết rằng " Nếu
có một cái gì đó có ý nghĩa mà Ðảng cho anh, thì đó là
cái lý tưởng cực kỳ tươi đẹp để anh đi vào tù đày
và chết chóc thôi. Anh có bảo vệ Ðảng thì cũng chỉ bảo
vệ cái lý tưởng đã trả bằng máu ấy. Chính với lý tưởng
ấy, thái độ của anh là nhất quán trước sau. Trước đây
Ðảng có một thời đẹp đẽ thì bây giờ anh muốn Ðảng
giữ gìn mãi mãi điều đẹp đẽ ấy." Anh đã nói rất đúng
tâm tư của tôi.
Tôi không có điều kiện để nghiên
cứu sâu vào các vấn đề lý thuyết, tuy rằng tôi cũng đọc
được và được nghe giảng khá nhiều nhưng tôi chỉ " vận
dụng những ý tưởng có trong sách vào cuộc đời " , và nhìn
vào thực tiễn của cuộc đời mà suy ngẫm. Tôi đọc lại
bút ký của tôi, tôi lại càng thấy rõ té ra hơn chục năm
nay, có thể cả mấy chục năm nay, tôi cứ trăn trở chỉ
có một điều và vẫn cứ tiếp tục trăn trở về cái điều
đó, càng ngày càng sâu sắc, càng ngày càng day dứt đau đớn.
Cái điều đó tôi đã khái quát vào bốn câu mà anh có nhắc
đến :
Những mơ xóa ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xóa đi thay bằng Cực Thiện
Tháng ngày biến hóa, Ác
luân hồi.
Với tâm trạng ấy tôi rất tâm
đắc với mấy câu trong bài thơ " Cay đắng thay " của Bùi
minh Quốc .
Cái guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của
người cuốc đất
….. .....
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng
cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính bộ máy này.
Tôi cứ nghiền ngẫm mãi cái cay
đắng và mỉa mai đó và ngày ngày, tháng tháng đau khổ về
cái cay đắng ấy.
Không biết đã bao nhiêu lần, tôi
muốn giải đáp mấy câu hỏi …cay đắng ấy :
Cuộc cách mạng ở Việt Nam,
rút cục đã xóa được cái gì, đập tan được cái gì ?
và đã lập nên được cái gì, xây dựng được cái gì ?
Rõ ràng ta đã xóa được cuộc
đời nô lệ mất nước, nhục nhã. Ðời sống nhân dân giảm
được đói nghèo, dốt nát. Mới giảm được thôi, chứ chưa
thoát được hẳn đói nghèo và " dốt nát " , nghĩa là ta còn
quá lạc hậu.
Ta mới đập tan được bộ máy
đàn áp, nô dịch, bóc lột, xóa được nỗi nhục mất nước
và ta đã xây dựng được một bộ máy như thế nào? Những
tiêu ngữ Ðộc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc, Dân Chủ Cộng
Hòa,và mục tiêu một nước độc lập, thống nhất, hòa bình,
dân chủ giàu mạnh đã thực hiện đến đâu ?
Trong các mục tiêu lý tưởng của
ta thì lý tưởng lớn nhất, tha thiết nhất, bao trùm nhất
là tự do dân chủ.
Nhưng hiện nay, ta đã có một bộ
máy nhà nước có mấy đặc điểm:
_ To lớn, cồng kềnh, chồng chéo
và do đó ít hiệu quả, nhiều mặt bất lực.
_ Làm được một số việc xóa
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhưng quá kém trong việc
đưa đất nước phát triển nhanh. Ðất nước ngày càng phát
triển chậm chạp và tụt hậu xa so với các nước láng giềng
trong khu vực.
_ Nổi bật lên là một bộ máy
độc đoán, độc tài toàn trị, đàn áp thẳng tay các ý kiến
khác. Có một đội ngũ " lưỡi gỗ " rất đông đảo, chuyên
" ngụy biện " , " nói lấy được ", ‘ nói bừa bãi ", " trắng
trợn " bất chấp lẽ phải, đạo lý và cả luật pháp, và
có lúc dùng nhiều thủ đoạn như " lưu manh ".
Trong khi ấy, bộ máy đã tạo nên
một xã hội không có tự do dân chủ, đầy tệ nạn tham nhũng,
đầy tệ nạn xã hội, làm tất cả mọi người trong xã hội
không lúc nào được yên tâm và thường xuyên lo lắng, sợ
hãi. Ðó, ta đã xây dựng nên một bộ máy như vậy và một
xã hội như vậy đó.
Bao nhiêu những điều tốt đẹp
xuất hiện sau cách mạng tháng Tám, ta tưởng nó sẽ mở rộng
và nâng cao thì nay tình hình lại phát triển ngược lại.
Từ một Ðảng chịu gian khổ hy
sinh để giải phóng nhân dân, nay trở thành một Ðảng cầm
quyền xa rời nhân dân, cai trị nhân dân, bắt nhân dân phải
sống hết thảy theo ý của Ðảng : nhân dân bị tước
hết mọi quyền tự do dân chủ. Tất cả quyền và lợi
trong xã hội, thâu tóm trong tay Ðảng và cụ thể là trong
tay một nhóm đảng viên có địa vị ở các cấp. Ðảng tự
do yêu cầu dân đóng góp và tự do sử dụng mọi sự đóng
góp của dân, không có tổ chức và lực lượng nào giám sát
và kiềm chế.
Ðảng nói những lời hay, làm ra
Hiến Pháp và luật pháp có nhiều điều hợp lý, nhưng bộ
máy của Ðảng đều làm ngược lại Hiến pháp và luật pháp,
bất chấp đạo lý.
Ðảng còn làm ngược lại Ðiều
lệ của chính mình như tự nhiên đẻ chế độ cố vấn;
Bộ Chính trị và Trung ương quyết định những điều cấm
đoán đảng viên ngoài quy định của Ðiều lệ như là tước
cả quyền công dân của đảng viên.
Ðảng luôn tạo ra một không khí
khủng bố đối với bất cứ ai có chính kiến độc lập,
làm cho xã hội khô cằn. Ðảng bưng bít và cấm tất cả
những ý kiến dồi dào phong phú để đưa đất nước tiến
lên.
Thế là Ðảng đã tạo ra ở Việt
Nam một xã hội đầy tham nhũng, phản dân chủ ( vì độc
tài độc đoán và toàn trị ), đầy dối trá lừa bịp ( vì
nói một đàng làm một nẻo ), đầy thủ đoạn ( nịnh nhau,
hất nhau và hại nhau ). Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu,
ở bất cứ người nào, ta cũng nghe thấy được những lời
phàn nàn về sự không dân chủ, tàn bạo, lừa bịp, dối
trá; về những hiện tượng lưu manh, hãnh tiến. Trong bút
ký của tôi, tôi đã nói nhiều lần.
Trước 1945, xã hội ta có một bộ
máy của thực dân phong kiến có đủ các đặc điểm của
sự tàn bạo, dã man, của sự vơ vét, bóc lột và xa hoa hưởng
thụ, của sự lừa bịp, dối trá, thủ đoạn đểu giả.
Tôi " trọn tuổi xuân hiến dâng
cuồng nhiệt " để tham gia đập tan bộ máy đó và tích cực
tham gia xây dựng bộ máy mới, mà ngày nay ta gọi là " của
dân, do dân, vì dân", có những nét đẹp như trong những ngày
đầu sau cách mạng tháng Tám 1945 và một xã hội trong đó
mọi người thương yêu nhau, tôn trọng nhau. Tôi đã mơ ước
những nét đẹp ấy sẽ được mở rộng và nâng cao tạo
nên một xã hội lý tưởng.
Nhưng rồi...
Cái không giống với mơ ước
thì nhiều và những cái giống với cái đã được đánh đổ
thì lại càng ngày càng nhiều.
Và những gì trước đây ta khinh
bỉ, chửi rủa và chống phá thì ngày nay những cái đó lại
xuất hiện nhiều và ngày càng nâng cao.
Như vậy ta lại xây nên chính cái
mà ta đã đập tan. Ta đã làm cho xã hội hiện nay lại có
đủ các đặc điểm của bộ máy ta đã đập tan, của cái
xã hội ta đã phá bỏ.
* * *
Bộ máy cai trị bây giờ ngày đêm
chỉ lo xây dựng bộ máy tuyên truyền, lo cổ động rầm rộ,
dùng những " lưỡi gỗ " xây dựng và truyền lan các thứ
" lý luận" " nói lấy được", dùng mọi thủ đoạn lừa bịp,
dối trá, ngụy biện để nhằm một một đích duy nhất là
duy trì và giữ vững bộ máy cai trị mà họ gọi là " sự
lãnh đạo của Ðảng " . Suốt năm suốt tháng họ tổ chức
đủ thứ đại hội, kỷ niệm,lễ hội.. để làm cho mọi
người đều thấy đang sống trên những thắng lợi, và mọi
thắng lợi từ trước đến nay đều do bộ máy này tạo nên,
dân phải biết ơn bộ máy này. Tất cả những ý nghĩ, tư
tưởng chệch chút ít so với tư tưởng chính thống đều
bị kết tội " chống đối " nặng nề.
Do đó, trong thực tế bộ máy
phản dân chủ một cách trắng trợn, tinh vi và tàn bạo.
Ngày 5 tháng 2 năm 2001
Như thế là tôi cũng như anh, ta
đứng trước một sự biến động, một sự biến chuyển
và biến dạng, là một Ðảng từ một tổ chức gồm những
con người chịu hy sinh gian khổ, phấn đấu để đập tan
một bộ máy thống trị gian ác, giải phóng nhân dân, rồi
sau khi đập tan được bộ máy ấy thì lại trở thành một
bộ máy cai trị, thống trị nhân dân. Nói thật gọn, là từ
người giải phóng biến thành kẻ thống trị. Khi là người
giải phóng thì mọi nguyện vọng, mục tiêu, tâm lý và tình
cảm là của người giải phóng, và khi là kẻ thống trị
thì sẽ có đầy đủ nguyện vọng, mục tiêu, tình cảm và
tâm lý của kẻ thống trị. Ðó là " cố giữ vững địa
vị thống trị của mình " , tình hình ấy hình như không phải
của riêng Việt Nam. Ðó là một biến chuyển tất yếu. Xem
ra không ai cố ý, không ai có ý kiến trong việc này, không
ai ( kể cả những người chủ chốt ) tự giác được trong
quá trình chuyển biến này, tất cả đều bị cuốn vào sự
vận hành của một cỗ máy khổng lồ.
Vậy đâu là nguồn gốc của sự
biến chuyển này. Có thể nói sự biến chuyển này có nhiều
nguồn gốc :
Có nguồn gốc thứ nhất là từ
ở những học thuyết
Rõ nhất là học thuyết về đấu
tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Học thuyết này được
người vận dụng nó đưa tới những chủ nghĩa kinh khủng
như " chủ nghĩa thành phần ", " chủ nghĩa công nông ", " chủ
nghĩa lý lịch " .. Các thứ chủ nghĩa ấy làm cho học thuyết
giai cấp bị méo mó thành bất nhân bất nghĩa. Ta có thể
tin một cách chắc chắn rằng nếu Mác và Lênin ( là những
trí thức lớn) còn sống đến bây giờ thì các ông tổ đó
cũng không thể chấp nhận các thứ chủ nghĩa " vô học "
đó.
Học thuyết ấy bị méo mó ngày
càng lớn, càng cực đoan, nó thành ra kiểu Mao-ít, cao hơn
nữa là kiểu Pôn Pốt, và trở thành những tội phạm ghê
tởm của loài người.
May mà Việt Nam ta chưa đi tới chỗ
đó.
Còn nhiều vấn đề học thuyết
khác, nhiều cách lý giải những khái niệm không theo kịp
sự biến đổi tiến bộ của nhân loại, vì không theo kịp
mà thành ra sai lầm, thiếu sót. Những khái niệm cơ bản như
" lao động", " bóc lột", " sở hữu "..cứ bị quan niệm như
cũ, như thế tất phải đưa tới những cách xử lý cứng
nhắc, không đúng và nhiều tai hại. Phải thấy rõ rằng những
đầu óc giáo điều đáng ghê tởm biết là chừng nào !
Về nguyên lý tổ chức của Ðảng
Khi cần tổ chức Ðảng thành một
Ðảng chiến đấu thì cần có những nguyên lý tổ chức thích
hợp với hoàn cảnh chiến tranh và cách mạng. Những nguyên
lý ấy không thể thích hợp với thời hòa bình xây dựng.
Nhưng khốn thay, vẫn không có sự phân tích lại để điều
chỉnh cho hợp lý. Vì vậy Ðảng Cộng sản Việt Nam vẫn
cứ như mắc trong mớ bòng bong những mâu thuẫn khi đề ra
yêu cầu cho đảng viên của Ðảng : lúc thì đảng viên phải
làm giàu để làm gương cho mọi người, và cũng để bảo
đảm cho cuộc sống gia đình, lúc thì lại cấm đảng viên
làm kinh tế tư nhân. Cho nên có những đảng viên làm kinh
tế đã phải thốt lên, " Tôi phải ra khỏi Ðảng thôi " .
Cái kiểu gò bó, bảo thủ, giáo điều tạo nên một lớp
người khá đông đảo chỉ biết " ngu trung " ( nghĩa
là trung thành một cách ngu xuẩn), mất hết óc xét đoán để
tìm hiểu thực tiễn đời sống mới đang tiến triển mạnh
mẽ, làm cho cả Ðảng bị rơi vào trạng thái tê liệt, tư
duy ngày càng xa cuộc sống và do đó càng xa dân.
Xa dân mà lại cai trị dân thì ngày
càng đối lập với dân.
Nguồn gốc thứ hai của tình
hình biến đổi xã hội, đó là vai trò của những người
có trách nhiệm chủ chốt..
Những người này càng về sau càng
là những người ít học,lại ít được tôi luyện, thành
ra những người thô sơ đơn giản. Những người đó có trách
nhiệm lớn, nhưng lại vẫn mang đủ trong mình bản tính tiêu
cực của người bình thường: hám lợi, hám danh, thích quyền,
ích kỷ ..v.v. Vì thế, những người đó trở thành thủ phạm
của mọi tội lỗi : dốt nát, quan liêu, tham nhũng, mất đoàn
kết, bè phái . Ðó là những tội không sao xóa bỏ được,
chỉ có ngày càng nặng thêm, và kết cục là toàn bộ cơ
chế quyền lực không có một sức mạnh nào làm phanh hãm
và giám sát nó. Sức mạnh giám sát ấy chỉ có thể là sức
mạnh của một chế độ dân chủ. Dân chủ phải là vấn
đề của một chế độ, chứ không phải chỉ là mấy
cái công tác lặt vặt như " dân chủ cơ sở " , " lấy ý kiến
việc nọ việc kia ", " ghi điều nọ điều kia vào Hiến pháp,
nghị quyết và luật pháp " v..v
Ta không thể mơ tưởng có những
ông Thánh để thực hiện những học thuyết và nguyên lý.
Rút cục thì vẫn là những con người trần tục phải thực
hiện các học thuyết ấy, mà con người trần tục thì có
đầy đủ những " cái trần tục ", làm hỏng học thuyết.
Phải có một chế độ, một cơ chế, một chiến lược dân
chủ, có tác dụng hạn chế các tệ nạn quan liêu độc đoán
và tùy tiện.
Sự vận dụng các nguyên lý của
học thuyết và của tổ chức, tùy thuộc vào cá tính của
những con người chủ chốt. Người lãnh đạo như Hồ chí
Minh vận dụng các nguyên lý của học thuyết và nguyên tắc
tổ chức có lẽ sẽ mang lại những hệ quả xấu hơn. Ngược
lại những người không đủ trình độ và nhiều ham muốn
cá nhân sẽ đưa đến những hậu quả ngày càng tệ hại.
Nguồn gốc là ở " trình độ "
cộng với lòng " ham muốn quyền và lợi " của cá nhân, hai
cách đó có lẽ là nguyên nhân quan trong nhất.
Những tình trạng yếu kém và khuyết
điểm trong quản lý, cai trị và tình trạng xã hội không
tốt đẹp. Không thể tìm nguyên nhân gần được, mà phải
tìm từ nguồn gốc xa, ở chỗ Ðảng đã xây dựng nên
một thể chế phản dân chủ và trọng quyền lực. Những
câu chữ tốt đẹp như " nhà nước của dân, vì dân, do dân"
và " cán bộ nhà nước phải là đầy tớ trung thành của
nhân dân " chỉ còn là những câu nói mỉa mai, những cái màn
mỏng manh che giấu các thói hám quyền tham lợi, chia chác và
giành giật nhau ghế ngồi và danh vị.
Thật ra, cuộc cách mạng với những
lý tưởng cao đẹp của nó đã bị phản bội. Trốtky là
người đã nhận ra điều này ở Liên xô từ năm 1936. Tôi
cũng dần dần thấy ra điều này từ vài chục năm nay.
Tôi không thể trung thành với sự
biến dạng này.
Tôi vẫn cầu mong Ðảng này tự
phê bình mà nhận ra sự thật. Như thế tốt cho Ðảng, và
quan trọng hơn là tốt cho đất nước. Nhưng tôi lại cũng
thấy rằng cái Ðảng này, với thể chế và trình độ của
nó hiện nay, không thể, không dám, và không muốn tự phê
bình. Cuộc vận động chỉnh đốn Ðảng có tự phê bình
chỉ là một sự " gãi ghẻ " thôi.
Tôi không thể không trung thành với
lý tưởng tốt đẹp của thời tuổi trẻ, thời Ðảng là
người giải phóng. Phải chăng quy luật lịch sử các triều
đại là cứ lúc bắt đầu thì nhiều tốt đẹp, tiến bộ
thông minh, sáng suốt? Thế rồi có những thắng lợi được
ca ngợi nhưng dần dần cứ sa sút, kém cỏi, dốt nát, sa đọa,
xuống cấp dần, đi đến phản bội.
Cái triều đại Ðảng Cộng sản
này cũng đang thế chăng ? Ðảng Cộng sản cứ để mình bị
sa vào cái quy luật suy thoái ấy hay muốn cứu mình thoát khỏi
sự suy thoái?
Ngày nay Ðảng này muốn bước ra
khỏi con đường phản bội cách mạng thì phải :
-
Xác định cho đúng vị trí khiêm tốn
của mình là một bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh
đạo đất nước bằng cách tôn trọng tất cả mọi người,
nhất là những người trí thức, những người tài năng có
chính kiến độc lập.
-
Phải thực hiện đúng Hiến pháp,
thực thi đầy đủ các quyền dân chủ, đặc biệt là dân
chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân được
tự do làm ăn.
-
Phải để cho mọi tổ chức, từ Cính
phủ, Quốc hội, Tòa án, cho đến các tổ chức xã hội như
Mặt Trận Tổ Quốc và các tổ chức của nó có quyền độc
lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình.
Phải để cho công dân, nhất là thanh niên, được suy nghĩ
độc lập, có tư cách độc lập. Muốn thế phải xóa bỏ
quyền lực của cơ quan tư tưởng và văn hóa của Ðảng,
thu hẹp quy mô, ảnh hưởng và định chức năng rõ rệt của
các lực lượng Công an.
Nhà nước phải được chỉnh
huấn về tư tưởng và tác phong " đầy tớ của nhân dân"
Ðảng phải tách khỏi nhà nước,
không làm những việc thay cho nhà nước, thay Chính phủ, Quốc
hội phải được thành lập bởi những người thực sự có
đức, có tài và do dân thực sự lựa chọn vô tư, không có
bất cứ sự " sắp xếp " và " hiệp thương " nào.
-
Cụ thể là phải sửa ngay Luật báo
chí, xuất bản, công nhận quyền có báo và xuất bản tư
nhân. Các báo chí có quyền độc lập của mình, không chịu
sự " chỉ đạo " và kiểm soát của bất cứ cơ quan nào.
Ngày 21 tháng 2 năm 2001
Ðúng như anh nói, tôi có một quãng
đời tươi đẹp, sống với những lý tưởng cao thượng,
tốt đẹp và ở trong một Ðảng cũng rất cao đẹp.
Và tôi mong muốn cho những cao đẹp
đó cứ tiếp tục mãi mãi và ngày càng cao lên.
Nhưng thực tiễn cuộc sống lại
diễn ra ngược lại.
Ðảng Cộng sản từ một Ðảng
người-giải-phóng đã trở thành một Ðảng cai trị, thực
hiện một nền thống trị không dân chủ và phản dân chủ.
Ðảng thực hiện độc tài và toàn trị. Ðảng thực hiện
đúng cái mà Ðảng đã từng phê phán, đó là chế độ Ðảng
trị. Có người không thích chữ Ðảng trị, nhưng chữ đó
chỉ là phản ảnh và diễn tả đúng cái thực trạng mà Ðảng
đã tạo ra, không hơn không kém.
Ðảng đang thực hiện một nền
thống trị khe khắt, kiểm tra từng người trong toàn xã hội,
kiểm soát và can thiệp mọi chi tiết trong cuộc sống của
xã hội, và điều dã man và tàn bạo nhất là độc tài về
ý thức hệ. Bất cứ một khác biệt nào đều bị quy vào
là chống đối, là phản động, là tội phạm. Hệ quả của
chế độ này là trong xã hội không ai dám nói khác, không
ai dám có ý nghĩ khác, hoặc ít nhất thì dù có nghĩ một
đàng cũng phải nói một nẻo. Như vậy, xã hội bao trùm một
sự giả dối, lừa bịp, bao trùm một sự sợ hãi, bao trùm
một sự tê liệt,về tư duy và cả về tình cảm. Ðã có
một xã hội và một chế độ, mà tôi biết có người đã
khái quát( chưa thật đúng nhưng cũng không sai).
Lưu manh hóa xã hội
Bần cùng hóa nhân dân
Nô lệ hóa con người
Bình quân hóa cá tính
Như vậy, văn hóa chỉ còn ngày
càng tàn tạ và hư hỏng . Buồn thay ! Ðiều đó không chỉ
có tai hại trước mắt, mà còn có tác hại làm suy thoái đời
sống tinh thần của cả một dân tộc, một giống nòi.
Thực ra, chắc chắn giống nòi sẽ
không để cho có sự sa sút và suy thoái ấy. Nhưng cái chế
độ thống trị của Ðảng Cộng sản đẻ ra hậu quả như
thế. Ðảng không nhận ra điều này mà tự đổi mới,
tự cách mạng, tôn trọng chế độ dân chủ và sinh hoạt
dân chủ thì Ðảng sẽ bị giống nòi và dân tộc khai trừ.
Ðảng không thể cứ ngoan cố và đi sâu vào vũng lầy
tội ác được. Ðảng đã từng coi quyền lợi dân tộc và
đất nước cao hơn sinh mệnh của mình, chính vì vậy mà Ðảng
làm cho dân tộc thắng lợi. Thế mà ngày nay, Ðảng lại coi
sinh mệnh và vai trò của mình quan trọng hơn sự phát triển
của đất nước, hơn cả cuộc sống của nhân dân, hơn cả
sự nghèo khổ và tụt hậu của đất nước. Chắc chắn
là Ðảng sẽ đi vào ngõ cụt của sự tàn lụi.
Tôi nhìn thấy rõ điều này, tôi
lo và buồn cho Ðảng nhiều. Ðảng đã phản lại cả nguyên
lý của Mác và của Lênin. Lênin chuẩn bị cho nhà nước đi
đến chỗ tiêu vong, để nhân dân tự tổ chức quản lý.
Còn Ðảng Cộng sản Việt Nam thì ngày càng tăng cường mở
rộng quyền lực của nhà nước và bó khuôn tất cả nhân
dân vào khuôn phép và ý nghĩ của mình, làm cái việc triệt
tiêu mọi sức sống tinh thần của xã hội.
Anh có chia sẻ với tôi nỗi buồn
và lo ấy không ???
Ngày 13 tháng 3 năm 2001
Có người nói : Ðảng là một dòng
nước chảy, cái dòng nước Cách mạng tháng 8 và kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ đã chảy ra biển Ðông mất rồi. Giữa
hai bờ của Ðảng hiện nay là dòng nước khác, những người
lớn tuổi chúng ta chỉ có thể trung thành với cái dòng nước
" ngày xưa " ấy. Tôi thấy hình ảnh ấy khá đúng.
Tôi vẫn không ân hận gì về tuổi
trẻ và lý tưởng của tuổi trẻ, tôi vẫn tự hào với lý
tưởng đó và tôi thấy tôi vẫn trung thành với lý tưởng
đó, cũng như tôi tự hào và trung thành với cái Ðảng của
thời xưa mà có người gọi là Ðảng của Hồ chí Minh. Tôi
không phân vân chút nào với cái lòng trung thành và tự hào
ấy. Tôi cho rằng bất kể sau này ai viết lịch sử Việt
Nam thế nào cũng không thể không có những trang đẹp nói
về quãng 30 năm và 70 năm ấy.
Còn ngày nay thì cứ phải trăn trở
day dứt với hiện tình, không thể nào yên được.
Cũng có người trách tôi là sao
không đưa ra được một đường hướng gì, có những biện
pháp gì để khắc phục tình hình ngày nay mà đưa đất nước
phát triển mạnh mẽ lên. Còn nói về những chuyện mất dân
chủ và những tệ nạn khác thì mọi người biết cả rồi,
mọi người đều " biết rồi, khổ lắm, nói mãi ".
Ai đó mà cứ mong có người nào
đó đưa ra được một đường hướng và những biện pháp
nào có hiệu quả ngay để tác động vào tình hình đất nước
thì đó cũng là một điều ảo tưởng.
Tôi cũng đã được nghe và đọc
nhiều những ý kiến đề nghị với đại hội 9. Tôi thấy
rất nhiều ý kiến hay, nhưng ngay như riêng tôi muốn chấp
nhận một ý kiến nào cũng khó lắm. Mỗi ý kiến đều có
những điều phải trao đổi lại.
Tôi vẫn mơ ước có một sinh hoạt
dân chủ thật sự, gạt bỏ mọi cấm kỵ, mọi khuôn phép,
bỏ qua những gì gọi là " vấn đề nguyên tắc" mà tổ chức
nhiều cuộc hội thảo nghe hết những ý kiến ngược nhau
rồi tổ chức tranh luận. Cuộc phát biểu và tranh luận phải
được tổ chức trên các báo, phải cho xuất hiện những
tờ báo độc lập có những cây bút độc lập đề xuất
và tranh luận. Có những cuộc tranh luận công khai và độc
lập trên truyền hình.
Làm như vậy để cả nước nghe,
cả nước bộc lộ ý kiến của mình.
Tôi thấy rõ như bản thân tôi,
tôi có nhiều nhận xét về tình hình, nhưng tôi thấy có những
người có những nhận xét hay hơn tôi và tôi cũng thấy rõ
có nhiều nhận xét khác nhau thì thế nào cũng tìm ra được
một đường lối, một chiến lược cho đất nước đi lên,
và chắc chắn nó sẽ hay hơn nhiều cái văn kiện Ðại hội
9 mà báo chí đang làm rùm beng.
Tôi tin là như thế, anh Lữ Phương
ạ ! "
TRẦN ÐỘ
( Trích trong " Nhật ký rồng rắn
" )
Qua những lời tâm sự với người
bạn Lữ Phương có tính chất phân tích ở trên, Trần Ðộ
đã lột tả được gương mặt xấu xa nhầy nhụa của Ðảng
Cộng sản đang cầm quyền hiện nay ở Việt Nam. Ông mơ ước
đến một nền dân chủ thật sự đến với nhân dân Việt
Nam, ai cũng có quyền đóng góp ý kiến để xây dựng đất
nước. Sự bày tỏ của Trần Ðộ thật chân tình pha lẫn
xót xa. Ðúng ra ông có thể an hưởng tuổi già nếu ông nhắm
mắt bịt tai trước những sai lầm của Ðảng làm cho nhân
dân bị đọa đầy đau khổ. Nhưng là vì một người có lương
tâm và trách nhiệm, ông không thể làm ngơ và đã mạnh dạn
lên tiếng phê phán những sai trái lỗi lầm của Ðảng trong
bài toán xây dựng đất nước. Cái giá mà ông phải trả
là bị đuổi ra khỏi Ðảng, bị cô lập cho đến khi qua đời.
Tuy nhiên trong những phê phán của
Trần Ðộ đối với những sai lầm của Ðảng, không biết
vì vô tình hay cố ý, ông đã bỏ qua hai sai lầm chí tử của
Ðảng Cộng sản Việt Nam. Thứ nhất là chuyện trả thù những
sĩ quan và công chức miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cứ
nhìn Ðảng Cộng sản tù đày, giết chóc những người miền
Nam cùng chung máu đỏ da vàng thì cũng đủ biết Ðảng đã
lệ thuộc vào ý thức hệ Mác ngoại lai như thế nào. Hàng
ngàn người đã ngã gục trong những trại cải tạo độc
ác khắc nghiệt ở chốn rừng sâu mặc dù chiến tranh đã
chấm dứt, tiếng súng tiếng bom đã ngưng. Ðược nuôi dưỡng
trong một ý thức hệ ngoại lai cổ võ hận thù, Ðảng Cộng
sản Việt Nam đã gây thêm tang thương cho dân tộc bằng cách
trả thù giết chóc một cách có hệ thống những người miền
Nam ngã ngựa. Dĩ nhiên trước đây còn nắm chức vụ cao trong
trung ương Ðảng, Trần Ðộ làm sao không biết rõ chính sách
tàn bạo trả thù này của Ðảng Cộng sản Việt Nam, nhưng
qua những bài viết của ông, ông chưa bao giờ đề cập đến
vấn đề này. Phải chăng ông không dám nói đến tội ác
tày trời này của Ðảng vì ông là một thành viên của Ðảng
ấy và như vậy coi như ông cũng phải liên đới chịu trách
nhiệm về chuyện giết những người miền Nam trong bộ máy
chính quyền miền Nam cũ sau 1975? Chuyện thứ hai là chuyện
hiến đất dâng biển của Ðảng Cộng sản cho kẻ thù truyền
kiếp Trung Cộng đã xảy ra trong lúc Trần Ðộ còn sống cũng
không thấy ông đưa ra một lời phê phán nghiêm khắc nào
về tội ác bán nước của Ðảng Cộng sản. Trần Ðộ chỉ
nhìn thấy công giành độc lập của Ðảng Cộng sản mà không
nhìn thấy tội bán nước của nó. Ngay từ thời Hồ chí Minh,
Thủ tướng Phạm văn Ðồng đã gửi thư công nhận một số
đất lãnh hải của Việt Nam là của Trung Cộng ! Những hậu
duệ của Hồ chí Minh thời nay là Lê khả Phiêu, Ðỗ Mười,
Lê đức Anh, Trần đức Lương , Phan văn Khải và đứa con
rơi Nông đức Mạnh đã công khai bán nước cho Trung cộng
( có văn tự hẳn hoi) để mong Trung Cộng bảo vệ ngôi vị
quyền lực của chúng. Ải nam quan của người Việt Nam đã
trở thành Mục nam quan của Trung Cộng ( cái tên Mục nam quan
là do Mao trạch Ðông đặt cho Ải nam quan hồi Mao còn sống
). Phải chăng tội ác bán nước này quá tồi tệ, xấu xa
bị nhân dân nguyền rủa nên ông tránh né không lên án nhằm
bảo vệ chút xíu thanh danh còn lại của Ðảng mà ông là
đảng viên kỳ cựu? Riêng về Hồ chí Minh thì Trần Ðộ
đã sai lầm khi cho chế độ Cộng sản trong những ngày Hồ
chí Minh còn sống là một chế độ đẹp đẽ, dân chủ thật
sự. Ông vẫn thường nhắc đến những ngày huy hoàng đó
để tiếc nhớ một thời vàng son của quá khứ. Thật ra trong
lúc Hồ chí Minh còn sống đã có cuộc cải cách ruộng đất
kinh hoàng, đã có chuyện bắt bớ văn nghệ sĩ trong phong trào
Nhân Văn – Giai Phẩm, đã có nghị định cho phép bắt người
không có trát tòa án. Có thể vì quá yêu quý Hồ chí Minh
mà Trần Ðộ không nhìn thấy những điều đó chăng? Hay có
thể ông dùng hình ảnh Hồ chí Minh như một ngôi sao sáng
để làm điểm tựa mà phê phán cái Ðảng Cộng sản hiện
tại, cho rằng Ðảng không làm đúng những điều răn dạy
của Hồ chí Minh nên đã làm cho cả nước đi xuống, đạo
đức ngày càng tệ hại, nhân phẩm con người ngày càng bị
coi thường, chà đạp.
Có người cho rằng nếu Hồ chí
Minh còn sống thì đã không có những trại cải tạo ở miền
Nam được lập lên để đày ải, giêt chóc những người
ngã ngựa miền Nam như bọn Lê Duẩn, Lê đức Thọ đã làm.
Giả thuyết này cũng không đứng vững vì trong thời Hồ chí
Minh còn sống có bao nhiêu người của chế độ Pháp thuộc
cũ và những người có chút tài sản bị đọa đày, thủ
tiêu trong những trại cải tạo ở miền Bắc. Hồ chí Minh
tự tô vẽ mình là một con người đạo đức, giàu lòng nhân
ái. Người ta chưa ai quên câu nói nhân nghĩa của Hồ chí
Minh " Một ngày mà dân không có cơm ăn áo mặc là Bác ăn
không ngon, ngủ không yên." Nhưng đánh giá những hành động
ông làm lúc sinh thời thì không có gì đáng ghi nhớ. Phải
nói ông là một thứ đạo đức giả không hơn không kém.
Cái " đạo đức cách mạng " mà ông rèn luyện cho đảng viên
và người dân là một thứ hành xử vô luân như chuyện con
tố cha, vợ tố chồng trong cuộc cải cách ruộng đất. Ðó
là thứ "đạo đức " mà ông không dám nhìn nhận hai đứa
con rơi Nông đức Mạnh và Nguyễn tất Trung. Ðó là thứ "
đạo đức " làm cho ông dửng dưng trước cái chết thảm
khốc của người vợ Nông thị Xuân của ông. Chỉ riêng chuyện
vô đạo đức về tình cảm này cũng cho thấy ông cũng khó
xưng tụng là " anh hùng " như Lữ Phương đang cố gào thét.
Nghĩa của chữ " anh hùng" bao giờ cũng bao gồm nghĩa vừa
tài cao vừa đức độ. Còn có tài mà vô đạo , tàn ác thì
chỉ được gọi là " gian hùng " như Tào Tháo ngày xưa và
Mao trạch Ðông, Hồ chí Minh ngày nay. Nếu Hồ chí Minh giết
hàng trăm ngàn dân vô tội trong cải cách ruộng đất thì
Mao cũng giết vài triệu người trong cải cách văn hóa. Riêng
thứ " đạo đức cách mạng " mà Hồ chí Minh vẫn thường
rao giảng lúc sinh thời là thứ đạo đức giả, vô luân,
lừa thầy phản bạn, lưu manh dối trá. Dân Việt Nam ngày
nay tiêm nhiễm thứ đạo đức này cũng khá nhiều nên tạo
ra một nếp sống dối trá, bất lương đến nỗi nhà đối
kháng Hà sĩ Phu phải báo động là Việt Nam đang có một cuộc
" Tổng khủng hoảng về nhân cách " trầm trọng.
Phải nhận thấy thêm một điều
là Hồ chí Minh chống Pháp , Mỹ không giống như Trần hưng
Ðạo chống Nguyên Mông, Lê Lợi chống Minh và Quang Trung chống
Thanh vì con đường chống ngoại xâm của Hồ chí Minh đã
nhuốm màu ý thức hệ. Rõ rệt nhất cho sự ảnh hưởng ý
thức hệ này là câu nói đồng hóa lòng yêu nước với yêu
chủ nghĩa của Hồ chí Minh , " Yêu nước là yêu chủ nghĩa
xã hội ". Ông chống Pháp nhằm mang lại độc lập cho dân
tộc hay chống Pháp theo nhu cầu chống thực dân của Quốc
tế thứ ba mà ông là một tín đồ cuồng tín, là một chuyện
còn gây nhiều tranh cãi. Liệu tinh thần vô sản quốc tế
có lấn át tinh thần quốc gia trong ông không thì phải thêm
nhiều tài liệu và dữ kiện được công bố thì mới trả
lời được dứt khoát được điều này.
Mặc dầu Trần Ðộ đã thẳng thắn
nói rõ hết tất cả những sai lầm tệ hại của Ðảng, song
ông vẫn có ước mơ Ðảng sẽ sữa chữa những sai lầm chết
người ấy để tiếp tục lãnh đạo đất nước ! Ðây phải
nói mơ ước của Trần Ðộ mãi mãi chỉ là một thứ hoang
tưởng không bao giờ thành sự thật. Vì chế độ Cộng sản
không dung thứ được dân chủ, có dân chủ thì chế độ
Cộng sản không thể nào tồn tại. Có cái này dứt khoát
không có cái kia. Chỉ vì quá gắn bó và yêu thương Ðảng
trong mấy mươi năm đã không cho phép Trần Ðộ có những
tư tưởng dứt khoát đoạn tuyệt với Ðảng mà vẫn còn
mơ Ðảng sẽ cho sinh hoạt dân chủ để nước giàu dân mạnh.
Ðây là điểm hạn chế và bế tắc mà Trần Ðộ chưa vượt
qua nổi trong khi phê phán Ðảng. Cựu Tổng thống Nga Yeltsin
có nói một câu để đời rằng, " Chế độ Cộng sản chỉ
có thể thay thế chứ không thay đổi." Mọi cố gắng chữa
cháy, bồi đắp cho một thể chế đã đến hồi bị lịch
sử đào thải là sự cố gắng vô vọng, ngu xuẩn.
Hồ chí Minh đã để lại cho nhân
dân và đất nước Việt Nam một di sản tồi tệ về cả
tinh thần lẫn vật chất. Ðám hậu duệ cầm quyền thì hành
động chẳng khác vua Lê chiêu Thống ngày xưa. Vua Lê chiêu
Thống ngày xưa vì quyền lợi ngai vàng dòng họ mà " cõng
rắn cắn gà nhà " thì bọn cầm quyền Cộng sàn hiện nay
cũng vì quyền lợi phe nhóm cầm quyền mà " rước voi về
dày mả tổ", chúng dâng đất, hiến biển cho Trung Cộng để
đổi mong quan thầy bảo vệ quyền lợi thống trị cho chúng.
Nếu ai có nói đến thành tích cứu nước chống ngoại xâm
của Ðảng Cộng sản thì cũng xin đừng quên ghi thêm thành
tích bán nước có văn tự của Ðảng này luôn và chuyện
này có từ lúc Hồ chí Minh còn sống và được đám hậu
duệ khốn nạn tiếp tục ngày hôm nay. Cho nên, bổn phận
của người thức giả là phải tìm mọi phương tiện, mọi
con đường để quật đổ cái bộ mấy nhà nước di sản
này xuống và sau đó mới dựng lên được một bộ máy nhà
nước dân chủ thật sự . Có làm được như thế thì mới
mong nước giàu dân mạnh chứ bây giờ cứ ngồi đó mà tìm
trăm phương ngàn kế để sữa chữa cho một chế độ thối
nát đang đến giai đoạn rã rời sụp đổ và cáo chung thì
đó là một chuyện làm thiếu trí tuệ, thiếu nhìn xa và thiếu
một tấm lòng đối với đất nước, quê hương.
Lawndale, Một ngày nắng
lạnh đầu thu đầu tháng 11-2004
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
* Ðúng ra câu nói này
là " Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người
xã hội chủ nghĩa "
|