ÐÃ
ÐẾN LÚC
MỸ
NÊN RÚT QUÂN KHỎI IRAQ
Biến cố 11 tháng 9 năm 2001 do
bọn khủng bố gây ra đã gây kinh hoàng cho dân chúng Mỹ.
19 tên không tặc đã cướp 4 chiếc phi cơ trong đó có 2 chiếc
lao vào 2 tòa nhà thương mại ở New York, một chiếc vào Ngũ
giác đài và một chiếc phi cơ nổ ở trên không phận tiểu
bang Pensylvania đã gây thương vong cho khoảng trên dưới 3000
người Mỹ. 19 tên không tặc này đã do tên trùm khủng bố
tổ chức Al – Qaeda là Bin Laden và tên giáo chủ Omar của
phe Taliban điều động tiến hành cuộc khủng bố. Cả hai
tên này đều là cấp lãnh đạo A phú hãn ( Afganistan) lúc
bấy giờ. Mỹ phải truy đuổi 2 tên này bằng cách mở ra
cuộc tấn công tại A phú hãn. Ðó là một cuộc tấn công
quân sự hợp tình hợp lý và đã lật đổ được chế độ
cầm quyền của hai tên này tại A phú hãn. Nhưng sau đó Mỹ
lại tiến quân vào Iraq để lật đổ Saddam Hussein với lý
do là Iarq có thủ đắc vũ khí có sức hủy diệt lớn. Thời
gian đã cho thấy Iraq không có vũ khí có sức hủy diệt lớn
và như thế là Mỹ không có chính nghĩa khi xâm lăng Iraq. Sau
trên 2 năm rưỡi đóng quân trên đất Iraq, quân đội Mỹ
đang ở trong trạng thái sa lầy và tiến thoái lưỡng nan.
Ðã có nhiều tiếng nói lương tri kêu gọi Mỹ rút quân ra
khỏi Iraq với những lý do đầy thuyết phục. Những tiếng
nói này không phải là từ bọn phản chiến, thiên tả mà
từ những nhân vật có uy tín trong chính trường và báo chí
Mỹ.
Ðầu tiên là Thượng nghị
sĩ Cộng Hòa ( tiểu bang Nebraska) Chuck Hagel, ông có thể là
ứng viên tổng thống cho mùa bầu cử 2008 sắp tới. Ông Chuck
Hagel cho rằng cuộc chiến ở Iraq đã làm cho vùng Trung Ðông
bất ổn và cuộc chiến này có nhiều điểm giống cuộc tranh
chấp Việt Nam từ một thế hệ trước đây.
Ông Chuck Hagel từng phục vụ
trong quân đội Mỹ ở Việt Nam và đã nhận 2 huy chương Trái
tim tím ( Purple Hearts) cùng nhiều bằng danh dự khác trong thời
gian ông phục vụ ở Việt Nam. Ông nghĩ là Mỹ nên phát triển
một chiến thuật để rời Iraq. Ông chế diễu cái ý tưởng
cho rằng quân đội Mỹ sẽ ở lại Iraq thêm 4 năm nữa kể
từ hôm nay với mức độ quân số trên 100000 người ! Ông
cho rằng Mỹ phải bắt đầu nghĩ cách làm thế nào để rút
quân ra khỏi đó. Nhưng phải hiểu rằng Mỹ không thể để
lại một khoảng trống và chuyện này làm cho vùng Trung Ðông
thêm bất ổn. Và Mỹ càng ở lâu hơn thì sự bất ổn thêm
nữa sẽ xảy ra. Ông Hagel cho rằng ý tưởng " duy trì tình
trạng hiện tại ‘ không phải là một chính sách. Ông cho
rằng nếu được đánh giá dưới bất cứ tiêu chuẩn nào,
khi chúng ta phân tích về những sự việc đã làm trong hơn
2 năm rưỡi ở Iraq, chúng ta đã không thắng.
Tổng thống Bush đang chuẩn
bị những bài diễn văn riêng biệt để tái khẳng định
kế hoạch của ông giúp Iraq huấn luyện lực lượng an ninh
trong khi những nhà lãnh đạo Iraq xây dựng một chính phủ
dân chủ. Ông Bush cho rằng cuộc chiến đấu ở Iraq đã góp
phần bảo vệ người Mỹ ở nhà. Những cuộc thăm dò dư
luận cho thấy quần chúng ngày càng nghi ngờ phương cách giải
quyết chiến tranh của ông Bush. Những thượng nghị sĩ Cộng
Hòa khác ủng hộ quân Mỹ ở lại iraq cho đến khi sứ mệnh
được ông Bush đề ra được hoàn thành, nhưng họ cũng ghi
nhận dư luận quần chúng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến
cuộc chiến và cần được trấn an.
Ông Hagel trước đây cổ võ
chuyện gửi quân Mỹ đến Iraq 2 hay 3 lần quân số nhiều
hơn khi cuộc chiến xảy ra vào tháng 3 năm 2003, giờ đây nhìn
nhận rằng một sự hiện diện quân sự mạnh mẽ hơn của
Mỹ không phải là giải pháp cho ngày hôm nay. Ông cho rằng
Mỹ đã qua gia đoạn đó hiện nay và giờ đây chúng ta đang
rơi vào tình trạng sa lầy không phải không tương tự như
ở Việt Nam trước đây. Chúng ta càng ở lâu, chúng ta càng
phải đối phó với nhiều vấn đề. Ông cho rằng Tòa Bạch
ốc cũng như vài bạn đồng nghiệp của ông vẫn chưa hiểu
đó là có chuyện " vỡ đê" trong chính sách này. Chúng ta càng
ở lâu, tình trạng càng giống ở Việt Nam.
Tướng Peter Schoomaker của Lục
quân cho rằng nếu Lục quân cứ tìm cách giữ mức độ quân
số Mỹ hiện nay – hơn 100000 người- thêm 4 năm nữa như
một phần của những sự chuẩn bị đối phó những tình
huống tệ hại nhất. Ông Hagel phản đối nhận định này
và nói thêm, " Nó sẽ làm cho chúng ta sa lầy, nó sẽ làm cho
vùng Trung Ðông thêm phần bất ổn, nó sẽ làm cho Iran có
thêm ảnh hưởng, nó sẽ làm cho Do Thái bị tổn thất , nó
sẽ làm cho những đồng minh của chúng ta ở Saudi Arabia và
Jordan vào một vị thế thê thảm. Không thể ở thêm 4 năm
được.. Chúng ta phải rút quân ra."
Người thứ hai lên tiếng kêu
gọi Mỹ rút quân ra khỏi Iraq là cựu ký giả của đài CBS
Walter Cronkite. Ngay từ năm 1968 ông đưa ra lời kết luận là
Mỹ không thể chiến thắng ở Việt Nam và nhận định này
đã rõ ràng ảnh hưởng đến dư luận quần chúng. Ngày nay
ông cho biết là ông sẽ nói điều tương tự đối với cuộc
chiến của Mỹ ở Iraq.
Ông có một niềm tin là Mỹ
nên rút ra khỏi Iraq ngay bây giờ. Năm nay ông Cronkite được
89 tuổi, đã từng được biết đến như " người được
tin tưởng nhất ở Mỹ " . Ông phụ trách chương trình đọc
tin buổi chiều của đài CBS trong gần 1 phần 4 thế kỷ. Ông
vẫn còn là nhân viên của đài CBS, dù ông chỉ còn làm việc
rất ít.
Ông Cronkite cho biết là những
giây phút đáng tự hào nhất của ông đến từ đoạn cuối
đoạn phim tài liệu năm 1968 do ông làm trong một cuộc viếng
thăm Việt Nam hồi tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968. Cấp
trên của ông thúc dục ông là hãy tạm bỏ qua nhận xét chủ
quan và hãy đưa ra cái nhìn trung thực của ông về tình hình
hiện tại. Cronkite nói rằng cuộc chiến không thể nào thắng
được và Mỹ phải rút ra khỏi Việt Nam.
Tổng thống thời bấy giờ
là Lyndon Johnson nghe nói có tâm sự với một nhân viên phụ
tá trong tòa Bạch Ốc rằng, " Nếu tôi mất Cronkite, coi như
tôi mất giới trung lưu Hoa kỳ ."
Ông Cronkite chọn thời điểm
tốt nhất để đưa ra lời nhận định tương tự là sau trận
bão Katrina. Ông nói, " Chúng ta có một cơ hội để nói với
thế giới và nhân dân Iraq là sau thảm nạn lụt lội Katrina,
trời đất đã không đối xử tốt đẹp với chúng ta và
chúng ta nhận thấy mình thiếu tiền để giúp những người
nghèo thoát ra khỏi cảnh vô gia cư và tái xây dựng lại một
số những thành phố quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Do đó chúng
ta phải mang quân về."
Người Iraq phải được nói
cho biết là Mỹ yêu thương họ và Mỹ sẽ làm bất cứ những
gì có thể làm được để tái xây dựng quốc gia của Iraq.
Ông cho là Mỹ có thể nghỉ
với danh dự. Thật ra ông nghĩ dù sao đi nữa thì Mỹ cũng
có thể nghỉ với sự danh dự.
Ông Cronkite đã có phát biểu
chống lại cuộc chiến ở Iraq trong quá khứ, ông nói từ
năm 2004 rằng người Mỹ không an toàn thêm chút nào vì cuộc
xâm lăng Iraq. Người xướng ngôn viên kỳ cựu và uy tín này
của Mỹ đã có cái nhìn sáng suốt trong chuyện kêu gọi Mỹ
rút quân khỏi Iraq. Vấn đề là liệu chính phủ Bush có nghe
lời khuyên quí báu từ người phóng viên tuổi tác trung thực
này hay không?
Người thứ ba lên tiếng yêu
cầu Mỹ rút quân ra khỏi Iraq là ông Dân biểu John Murtha (
D- Pa). Ông là một cựu chiến binh có nhiều huy chương từ
cuộc chiến Việt Nam. Ông cho rằng có nhiều quân nhân sa ngã
và được trang bị kém cỏi , sau hơn 2 năm rưỡi chiến tranh,
đã làm cản trở sự tiến bộ của Iraq trên đường đi tới
sự ổn định và tự quản.
Ông nói trong khi mắt đẫm
lệ, " Quân đội của chúng ta đã trở thành mục tiêu chính
của quân nổi dậy. Những quân nổi dậy Hồi giáo đã đoàn
kết với nhau chống lại lực lượng Mỹ, và chúng ta đã
trở thành một chất xúc tác cho sự bạo lực. Bây giờ là
lúc phải mang quân Mỹ về."
Lời lên tiếng của ông Murtha
đã bị phía tòa Bạch Ốc chỉ trích đã làm cho vấn đề
chiến tranh Iraq vốn tương đối trầm lặng trong những tháng
gần đây, bây giờ lại được hâm nóng bằng những cuộc
bàn thảo trong quốc hội.
Một đôi khi những phía lãnh
đạo đảng Cộng Hòa đã dùng những lời chua cay để tố
cáo phe Dân Chủ đứng cùng phe với bọn khủng bố. Phe Dân
Chủ trả đũa cho rằng Tổng Thống Bush đánh lừa nước Mỹ
khi phát động cuộc chiến ở Iraq mà ông không có một chiến
lược để chấm dứt. Lời qua tiếng lại giữa hai đảng
ngày càng chua cay, độc địa trong khi những cuộc thăm dò
dư luận Mỹ đang ngày càng nôn nóng muốn người Iraq sẽ
kiểm soát tình hình để quân Mỹ có thể rút quân về nhà.
Phát ngôn viên Hạ viện Dennis
Hastert tuyên bố, " Ông Murtha và những lãnh tụ Dân chủ đã
theo đuổi một chính sách " cắt và chạy " ( cut and run). Họ
muốn Mỹ đầu hàng bọn khủng bố vốn sát hại những công
dân Mỹ vô tội. Hơn nữa họ càng làm cho vết thương nhức
nhối thêm là họ nói chuyện này trong khi tổng thống đang
công du ở nước ngoài."
Một vài tá dân biểu Hạ viện
kêu gọi rút quân ra khỏi Iraq càng sớm càng tốt. Nhưng phần
lớn thuộc nhóm cấp tiến đã bỏ phiếu chống chiến tranh,
và họ đã tạo ra được một sự chú ý khiêm tốn nào đó.
Ông Murtha là một cựu chiến binh đã bỏ phiếu ủng hộ cuộc
chiến tranh Iraq trước đây và có những sự liên hệ mật
thiết với quân đội.
Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu
thúc ép chính phủ Bush phải đưa ra những bước cụ thể
trong chuyện rút quân, đề ra năm 2006 " là một thời gian để
chuyển giao chủ quyền cho Iraq một cách rõ rệt " . Nhưng Thượng
viện bác bỏ một đề nghị của phe Dân Chủ đòi hỏi chính
phủ Bush phải đưa ra ngày rút cụ thể nếu những điều
kiện cho phép.
Tổng thống Bush lúc ấy đang
công du Ðại Hàn, đã nói với các phóng viên rằng ông đồng
ý với Phó tổng thống Cheney cho rằng những chính trị gia
nào phê phán chính phủ trong chuyện thu thập tin tức tình
báo trước chiến tranh là những người có hành động " không
thành thật và đáng khiển trách ." Bush nói thêm, " Tôi dự
đoán là có sự phê phán. Nhưng khi phe Dân Chủ nói tôi cố
tình lừa dối Quốc hội và nhân dân, thì đó là điều vô
trách nhiệm. Họ có những tin tức tình báo như tôi có, và
họ đã bỏ phiếu – nhiều người trong bọn họ đã bỏ
phiếu ủng hộ quyết định mà tôi đưa ra.. Cho nên tôi đồng
ý với những nhận định của phó tổng thống."
Khi bị hỏi là ông nghĩ như
thế nào về lời nhận định trên thì ông Murtha trả lời
một cách cay đắng mỉa mai như sau, " Tôi "ớn" những loại
người đã từng 5 lần đưa lý do này, lý do nọ để khỏi
thi hành quân dịch, giờ đây là người gửi quân ra mặt trận,
rồi sau này không muốn nghe những lời đề nghị những chuyện
cần thiết phải làm. " Ông Murtha nói như thế là muốn chửi
xéo ông Cheney vì ông Cheney đã 5 lần viện lý do này nọ để
không qua Việt Nam chiến đấu, trong khi ông Bush thì nhờ thế
lực của cha là một vị dân cử đưa ông vào học trong trường
Không quân của vệ binh quốc gia ( Air National Guardsman) để
khỏi qua Việt Nam chiến đấu như những thanh niên trong cùng
lứa tuổi quân dịch.
Nhiều dân cử Dân Chủ bàn
luận về ý kiến của Tổng Thống Bush, họ cho rằng Quốc
Hội không được cho coi những tin tức tình báo trước cuộc
chiến mà Tòa Bạch Ốc đã thu thập về tiềm năng Iraq có
vũ khí hủy diệt hàng loạt, và những viên chức của chính
phủ đã nhấn mạnh với ý cho rằng Saddam Hussein có những
thứ vũ khí đó hơn là ông ta không có.
Thượng nghị sĩ Edward Kennedy
nhận định, " Bush và Cheney đã bắt đầu một cuộc vận
động mới về sự sai lạc và lôi kéo bằng mánh khóe. Vì
những cuộc thăm dò dư luận cho thấy người Mỹ đã mất
tin tưởng vào tổng thống và tin rằng ông sử dụng tin tức
tình báo một cách sai lạc trước cuộc chiến, tổng thống
và phó tổng thống bỏ ngay luôn cả chuyện làm bộ lãnh đạo
đất nước và đã trở lại với luận điệu khi vận động
tranh cử. Hai ông đã không tìm thấy những vũ khí có sự
hủy diệt lớn . Họ cũng không tìm thấy sự thật luôn. "
Lãnh tụ đa số ở Hạ viện
là Dân biểu Cộng Hòa Tom Delay đã gọi những lời phê phán
của ông Murtha là " một trò quảng cáo lòe loẹt có tính toán
và hèn nhát. " Ông Murtha trả đũa đích đáng, " Khi tôi ở
Việt Nam chiến đấu thì ông Murtha đang đi giết...bọ rệp
" . Quả thật là ông Murtha hành nghề trừ mối rệp trong thời
gian ông Murtha chiến đấu ở Việt Nam. Ông Dân biểu Tom Delay
sau này vì truy tố vì có chuyện bất minh về tiền bạc, ông
phải từ chức và chờ ngày ra tòa.
Ông Murtha có đưa ra một bản
thông cáo có nội dung như sau:
" ( Washington D.C) Cuộc chiến
ở Iraq không diễn tiến tốt đẹp như đã quảng cáo. Nó
là một chính sách sai lầm được bao trùm trong sự ảo tưởng.
Quần chúng Mỹ ở phía trước chúng ta. Mỹ và quân đội
đồng minh đã làm tất cả những gì có thể làm nhưng bây
giờ là lúc phải thay đổi chiều hướng. Quân đội chúng
ta đang bị tổn thất. Tương lai của quốc gia chúng ta đang
lâm nguy. Chúng ta không thể tiếp tục chính sách hiện tại
được. Bằng chứng cho thấy là hoạt động quân sự tiếp
tục ở Iraq sẽ không mang lại quyền lợi cho nước Mỹ, nhân
dân Iraq hay cho vùng Vịnh.
Tướng Casey nói trong một
cuộc điều trần năm 2005, " Sự nhận thức về cuộc chiếm
đóng Iraq là một lực chính yếu đứng đằng sau cuộc nổi
dậy.". Tướng Abizaid nói trong cùng ngày, " Thu nhỏ kích thước
và tầm nhìn của những lực lượng đồng minh ở Iraq là
một phần trong chiến thuật đánh lại quân nổi dậy."
Trong vòng 2 năm rưỡi qua,
tôi đã quan tâm nhiều đến chính sách của Mỹ và kế hoạch
ở Iraq. Tôi đã bày tỏ sự quan tâm lo lắng của tôi với
chính phủ đương thời và với Ngũ giác đài và cũng đã
công khai nói lên sự ưu tư của tôi. Lý do để tiến hành
cuộc chiến tranh coi như vô giá trị. Một vài ngày trước
khi nổ ra cuộc chiến, tôi có mặt ở Kuwait, quân đội vẽ
ra một đường màu đỏ chung quanh thủ đô Bangdad và nói rằng
khi nào quân đội Mỹ vượt qua đường ranh đỏ ấy, họ
sẽ bị người Iraq tấn công với vũ khí có sức tàn phá
lớn – nhưng quân đội Mỹ nói là họ đã chuẩn bị. Họ
đã có những lực lượng được huấn luyện tốt được
trang bị bởi những dụng cụ bảo vệ thích hợp.
Chúng ta xài tiền cho Tình
báo nhiều hơn tất cả các quốc gia trên thế giới cộng
lại, và tiền xài cho Tình báo còn nhiều hơn Tổng sản lượng
quốc gia của nhiều quốc gia ( GDP). Nhưng tin tức tình báo
về Iraq sai lạc. Ðây không phải là sự thất bại của thế
giới tình báo. Ðây là sự thất bại của tình báo Mỹ và
cái cách mà tình báo bị lạm dụng dùng sai.
Tôi đã từng thăm viếng
những thương bệnh binh ở bệnh viện Bethesda và Walter Reed
hầu như mỗi tuần kể từ ngày đầu cuộc chiến. Và những
gì làm họ suy sụp là họ đi vào trận chiến với quân số
và dụng cụ không đủ để làm sự chuyển tiếp sang hòa
bình; sự tàn phá kinh khủng của bom mìn; họ bị gửi đi
Iraq trong khi nhà của họ bị bão lụt tàn phá; họ phải ra
mặt trận lần thứ hai hay thứ ba, để lại gia đình phía
sau mà không có một mạng lưới nào hỗ trợ giúp đỡ.
Sự đe dọa bởi khủng bố
là điều có thực, nhưng chúng ta còn có những đe dọa khác
không thể bỏ qua. Chúng ta phải chuẩn bị để đối diện
với tất cả những sự đe dọa. Tương lai quân đội của
chúng ta bị nguy hiểm. Quân đội và gia đình của họ bị
căng mỏng ra. Nhiều người nói Lục quân ( army) bị vỡ toang.
Một số quân nhân phải lên đường ra mặt trận lần thứ
ba. Sự tuyển mộ trên đường đi xuống dù tiêu chuẩn được
hạ thấp. Ngân sách quốc phòng bị cắt. Chi phí nhân viên
leo thang tột độ, nhất là vấn đề y tế. Những lựa chọn
sẽ phải làm. Chúng ta không thể để những lời hứa mà
chúng ta dành cho những gia đình quân nhân về vấn đề quyền
lợi nhiệm vụ, y tế, bị mặc cả đến độ bỏ đi. Những
chương trình kiến thiết vốn bảo đảm cho sự ưu thế quân
sự của chúng ta không thể bị điều đình dẫn tới chuyện
hủy bỏ.. Chúng ta phải chuẩn bị. Cuộc chiến ở Iraq đã
gây ra sự thiếu hụt trầm trọng tại những căn cứ của
chúng ta ở Mỹ.
Phần lớn những dụng cụ
dưới đất của chúng ta bị mòn và cần phải hoặc là phải
trùng tu hoặc thay thế. George Washington nói, " Chuẩn bị cho
chiến tranh là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất
để gìn giữ hòa bình " ( To be prepared for war is one of the most
effective means of preserving peace). Chúng ta phải tái xây dựng
lại Lục quân của chúng ta. Sự thâm thủng ngân sách đi tới
độ không kiểm soát nổi. Viên giám đốc của văn phòng Ngân
Sách Quốc Hội mới đây thú nhận rằng ông " kinh hãi " về
chuyện ngân sách thâm thủng trong những thập niên sắp tới.
Ðây là cuộc chiến tranh kéo dài mà chúng ta phải chiến đấu
với 3 năm cắt giảm thuế, hoàn toàn không có sự huy động
của nền kỹ nghệ Mỹ và không có chuyện cưỡng bách quân
dịch. Gánh nặng của cuộc chiến tranh này không được chia
sẻ một cách công bằng; quân đội và gia đình của họ đã
chung vai gánh cái gánh nặng này.
Quân đội chúng ta đã chiến
đấu ở Iraq trong hơn 2 năm rưỡi qua. Quân đội của chúng
ta đã hoàn thành nhiệm vụ. Quân đội của chúng ta đã bắt
được Saddam Hussein, và bắt hay giết những người phụ tá
thân cận nhất của ông ta. Nhưng cuộc chiến vẫn tiếp tục
tăng cường độ. Sự chết chóc và thương tật tiếp tục
gia tăng, với hơn 2079 lính bị tử thương đã được xác
nhận. Hơn 15500 bị thương nặng và ước lượng có chừng
trên 50000 bị đau đớn, bầm dập từ những mệt mỏi của
trận đánh. Có những tường trình cho biết có ít nhất 30000
thường dânIraq bị tử thương.
Tôi vừa mới đi thăm tỉnh
Anbar của Iraq để thẩm định tình hình tại chỗ. Vào tháng
5 năm 2005 vừa rồi, trong một phần của dự luật Phụ Cấp
khẩn cấp cho sự chi tiêu, Hạ Viện cho thêm vào tu chính án
Moran, vốn được chấp nhận trong Hội nghị, và trong đó
đòi hỏi bộ trưởng quốc phòng phải nộp bản tường trình
một năm bốn lần để đo lường chính xác sự ổn định
và an ninh ở Iraq. Cho tới nay chúng tôi đã nhận được 2
bản tường trình. Tôi lấy làm bực mình bởi những công
bố trong những lãnh vực chỉ thị chủ yếu. Mức sản xuất
dầu và năng lượng còn thấp hơn trước chiến tranh. Những
nỗ lực tái xây dựng bị què quặt, lụn bại bởi tình hình
an ninh. Chỉ có 9 tỷ trong số 18 tỷ trong quỹ dành cho xây
dựng được chi dùng. Mức độ thất nghiệp vẫn duy trì ở
mức 60 phần trăm. Nước sạch khan hiếm. Chỉ có 500 triệu
trong số 2.2 tỷ dành cho những dự án nước được tiêu dùng.
Và quan trọng nhất là, những hoạt động nổi dậy đã tăng
từ 150 vụ mỗi tuần lên tới trên 700 vụ năm ngoái. Thay
vì những vụ tấn công giảm dần theo thời gian và với sự
tăng cường quân số, chúng lại gia tăng một cách thảm khốc.
Từ khi những vụ tra tấn và làm nhục tù nhân ở trại tù
Abu Ghraib được tiết lộ ra, số thương vong của người Mỹ
tăng gấp đôi. Một bản tường trình của bộ ngoại giao
năm 2004 cho thấy có chuyện khủng bố toàn cầu tăng trưởng
rõ rệt.
Tôi đã nói một năm trước
đây, và giờ đây quân đội và chính phủ đều đồng ý,
đó là Iraq không thể chiến thắng bằng " quân sự ". Tôi
đã nói hai năm trước đây là chìa khóa cho sự tiến bộ
ở Iraq là phải " Iraq hóa", " Quốc tế hóa " và " Năng lượng
hóa". Cho tới ngày nay tôi vẫn tin như vậy. Nhưng tôi kết
luận rằng sự có mặt của quân đội Mỹ đang làm trở ngại
cho sự tiến bộ này.
Quân lính của chúng ta đã
trở thành mục tiêu hàng đầu của quân nổi dậy. Họ đang
đoàn kết lại với nhau để chống lại lực lượng Mỹ và
chúng ta trở thành chất xúc tác cho sự bạo động. Quân đội
Mỹ là kẻ thù thông thường của phe Sunnis, phe thân Saddam
và những kẻ thánh chiến Hồi giáo Jihad. Tôi tin rằng với
sự tái phối trí của quân đội Mỹ, lực lượng an ninh Iraq
sẽ được khuyến khích để thiết lập sự kiểm soát. Một
cuộc thăm dò mới đây cho thấy trên 80% người Iraq mạnh
mẽ chống đối sự hiện điện của lực lượng đồng minh,
và chừng 45% dân số Iraq tin chuyện tấn công quân Mỹ là
đúng. Tôi tin chúng ta cần trao trả Iraq lại cho người dân
Iraq.
Tôi tin rằng trước những
cuộc bầu cử Iraq dự tính sẽ tổ chức vào giữa tháng 12,
nhân dân Iraq và chính phủ mới thành lập sẽ được thông
báo là Mỹ sẽ tái phối trí ngay lập tức. Tất cả người
Iraq phải biết rằng Iraq đã được tự do. Tự do khỏi sự
chiếm đóng của Mỹ. Tôi tin rằng điều này sẽ gửi đến
một tín hiệu đến phe Sunnis nên tham gia vào tiến trình chính
trị cho sự tốt lành của một nước Iraq " tự do".
Kế hoạch của tôi kêu gọi:
Lập tức tái phối trí quân
đội Mỹ phù hợp với sự an toàn trong quân đội Mỹ
Thành lập một lực lượng
phản ứng nhanh chóng trong vùng
Thành lập một sự hiện
diện từ-đằng-xa của quân Mỹ
Tìm kiếm sự an ninh và yên
ổn bằng hình thức ngoại giao
Cuộc chiến này cần được
cá nhân hóa. Như tôi nói trước đây tôi đã từng thăm viếng
những thương bệnh binh trầm trọng của cuộc chiến này.
Họ đang bị đau đớn.
Bởi vì Quốc Hội chúng
ta mang trách nhiệm gửi thanh niên và thiếu nữ ra mặt trận,
cho nên chúng ta có trách nhiệm và bổn phận phải lên tiếng
cho họ. Ðó là lý do tại sao tôi lên tiếng.
Quân đội chúng ta đã làm
mọi thứ mà họ được yêu cầu làm, Mỹ không thanøh đạt
thêm được gì ở Iraq về mặt quân sự. ÐÂY LÀ LÚC MANG
HỌ VỀ NHÀ."
Ông Murtha có nói thêm trong
cuộc phỏng vấn của chương trình 60 minutes của Ðài CBS như
sau, " Tôi nghĩ rằng một phần lớn quân đội sẽ được
rút ra khỏi Iraq vào cuối năm nay. Và tôi còn hy vọng sẽ
sớm hơn thế nữa."
Ðược hỏi là làm sao mà làm
được như thế, ông Murtha nói lý do là ngày càng có thêm
áp lực từ những cử tri trong mùa bầu cử năm nay sẽ bắt
buộc Quốc Hội thông qua kế hoạch rút quân hay một kế hoạch
tương tự để rút quân về. Ông tiên đoán là sẽ có sự
thay đổi. Murtha nói lý do thâm sâu mà Tổng thống Bush phải
rút quân là phe Cộng hòa sẽ nói với ông Bush là, " Ông không
muốn một quốc hội Dân Chủ. Ông muốn phe Cộng Hòa chiếm
đa số . Và cái cách duy nhất ông có thể làm là giảm bớt
số quân đóng ở Iraq một cách cụ thể." Tuy nhiên Tổng thống
Bush vẫn nói cứng, " Tất cả những quyết định của tôi
căn cứ trên những điều kiện trên mặt trận, chứ không
phải thời hạn máy móc được đưa ra bởi những chính trị
gia ở Washington."
Nhưng nếu những điều kiện
trên mặt trận là nhiều người dân Iraq muốn sự xâm chiếm
của Mỹ chấm dứt, phe nổi dậy giết hay gây thương tật
cho những quân Mỹ , những điều này sẽ thuyết phục quốc
hội là bây giờ là lúc rút quân Mỹ ra khỏi Iraq. Những binh
sĩ Mỹ đóng tại Iraq tâm sự với ông Murtha là ban ngày dân
Iraq vẫy tay chào mừng Mỹ, nhưng tối đến họ ném lựu đạn.
93% những quân nổi dậy là người Iraq. Một số nhỏ là những
tay súng ngoại quốc. Người Iraq biết rõ bọn này. Khi chúng
ta rút quân ra, dân Iraq sẽ loại trừ bọn này.
Tòa Bạch Ốc không tin người
dân Iraq sẽ loại trừ những tay súng đến từ bên ngoài,
nhưng ông Murtha nói quân đội Mỹ đang mắc kẹt giữa cuộc
nội chiến ở Iraq, chứ không phải là cuộc chiến chống
khủng bố như Tòa Bạch Ốc vẫn thường nói đến.
Tổng thống Bush vẫn khẳng
định , " ø Bọn khủng bố coi Iraq là mặt trận chính trong
cuộc chiến chống lại nhân loại. Nếu bọn chúng không bị
chận đứng, bọn khủng bố sẽ tiếp tục chương trình hành
động bằng cách phát triển những vũ khí có sức hủy diệt
lớn để tiêu diệt Do Thái, hăm dọa Âu châu, và đánh gục
ý chí và bắt bí chính phủ của chúng ta bằng sự cô lập.
Tôi xin cam đoan một điều này. Là chuyện trên không thể
xảy ra trong lúc tôi theo dõi."
Ông Murtha đã bình luận lời
nói trên của Tổng thống Bush như sau, " Ông ta luôn đánh trận
chiến này với những lời lẽ hùng biện hào nhoáng.Iraq không
phải là trung tâm khủng bố . Cho nên khi ông ấy nói chúng
ta đánh khủng bố ở đó, chúng ta kích động khủng bố nơi
đó. Chúng ta khuyến khích bạo lực. Chúng ta làm cho vùng này
bất ổn vì chúng ta là những mục tiêu. Ông ấy nói trước
đây là Iraq chứa vũ khí có sức hủy diệt lớn. Ông ấy
nói có Iraq có sự liên kết với tổ chức khủng bố Al Qaeda.
Có nhiều điều ông nói sau này cho thấy không có thực. Cho
nên tại sao tôi lại phải tin ông khi ông đưa ra lời nhận
định trên. "
Sáng chủ nhật ( Ngày 5 tháng
3 năm 2006) trong chương trình " Face the nation" ( Ðối diện với
quốc gia) của đài CBS, ông Murtha đã nói thêm như sau, " Những
người duy nhất muốn chúng ta ở lại Iraq là Iran và bọn
khủng bố Al –Qaeda. Tôi có nói chuyện với một viên chức
cap cấp quân sự ngày hôm kia và ông cho biết rằng Trung Cộng
cũng muốn chúng ta ở đó luôn. Tại sao thế? Vì chúng ta sẽ
hao mòn sức lực, sức lực quân lính và sức lực tài chính.
Cuộc chiến đánh khủng bố hiện nay có phạm vi toàn cầu.
Ở Iraq, đó là một cuộc nội chiến. Một trong những vấn
đề làm tôi bực mình là ông đại sứ của chúng ta cứ đưa
ra lời khuyên răn này nọ. Mỗi lần chúng ta khuyến cáo người
Iraq nên bầu cho nhân vật này thì họ lại bầu cho nhân vật
khác. Họ không chú ý đến lời khuyên của chúng ta. Vai trò
của Mỹ trong việc đánh khủng bố toàn cầu đã bị phá
vỡ. Sự xung đột giữa hai hệ phái Sunni và Shiite là một
sự tranh chấp nội chiến và cần được dàn xếp nội bộ.
Iraq sẽ làm tốt công việc chống khủng bố khi quân đội
Mỹ rời đi. Tôi tin rằng họ biết bọn khủng bố ở đâu.
Họ không nói cho chúng ta biết vì họ chống chúng ta. Chúng
ta đã đánh mất lòng tin và cảm tình của dân Iraq."
Tướng tham mưu trưởng Pater
Pace trong chương trình " Meet the press" ( Gặp gỡ báo chí ) của
đài NBC cuộc chiến ở Iraq đang tiến hành tốt. Nhưng ông
Murtha nghi ngờ về điều này, Ông nói,"
" Tại sao tôi phải tin ông
ta. Chính phủ này, bao gồm luôn cả tổng thống, đã đánh
giá sai cuộc chiến này trong vòng 2 năm qua.. Cho nên liệu tôi
có thể tin được lời của ông tướng tham mưu trưởng khi
ông cho rằng mọi chuyện đều tốt đẹp ?"
Trong những ngày tháng này,
uy tín ông Bush xuống thấp thảm hại. Những cuộc thăm dò
dư luận cho thấy chỉ còn chừng 40% dân ủng hộ ông. Sau
trận bão Karina với sự tiếp cứu của nhà nước tiểu bang
và liên bang quá muộn màng làm tình hình bão lụt thêm rối
ren, gây nhiều thương vong cho dân bị lụt, rồi mới đây
còn có chuyện Mỹ giao vấn đề điều hành những cảng cho
quốc gia Dubai ( một quốc gia có 2 tên khủng bố tham gia vào
ngày 11/9) làm phẫn nộ một số vị dân cử trong quốc hội.
Rồi đến chuyện tiết lộ tên vợ của Cựu đại sứ Wilson
là một điệp viên CIA để trả thù ông Wilson lên tiếng phê
phán Mỹ trong chuyện đánh Iraq đã làm uy tín của chính phủ
Bush xuống dốc thê thảm. Ông Bush phải mạnh dạn cải tổ
lại guồng máy hành chánh và tiến hành những đường hướng
hành động hợp lòng dân thì mới mong lấy lại được uy
tín của vị nguyên thủ quốc gia, vốn rất cần thiết trong
chuyện điều hành cường quốc số 1 thế giới này.Nếu ông
Bush muốn nhận được sự ủng hộ của quốc gia dành cho
ông, ông phải bắt đầu nói sự thật. Ðiều đầu tiên ông
phải thú nhận là những mục tiêu ông đặt ra cho Iraq sẽ
không bao giờ được thực hiện thành tựu. Tổng thống Bush
cần nói rõ là quân đội và cảnh sát Iraq phải mất nhiều
tháng mới bảo đảm được an ninh quốc gia và máu của người
Mỹ sẽ còn phải đổ, nước mắt còn phải rơi trước khi
quân Mỹ rút lui trong danh dự. Tình hình ở Iraq ngày càng tệ
hại. Chỉ có can đảm chấp nhận những điều nói trên thì
Tổng thống Bush mới mong có cơ hội để sửa lại mọi chuyện
cho đúng.
Nói chung lời kêu gọi của
ba ông Hagel, Cronkite, Murtha là mong muốn quân đội Mỹ rút
càng sớm càng tốt ra khỏi Iraq vì không muốn nhìn thấy Mỹ
bị sa lầy và số thương vong kéo dài hàng ngày của quân
Mỹ ở đó. Cả ba ông đều là những công dân Mỹ sáng suốt,
yêu nước. Không thể so sánh ba ông này với cô đào phản
chiến Jane Fonda trong thời Mỹ tham chiến ở Việt Nam được.
Tục ngữ có câu, " Nó lú có chú nó khôn." . Ông Tổng thống
Mỹ Bush có" lú lẫn" đem quân vào đánh Iraq thì có " chú "
của ông là Quốc Hội khôn ngoan điều chỉnh , kịp thời
bàn chuyện rút quân Mỹ về nước để tránh thương vong cho
quân Mỹ và làm cho danh dự của nước Mỹ khỏi bị hoen ố.
Khi quốc hội đã có quyết định cuối cùng thì Tổng thống
Bush phải nghe theo mà thi hành dù muốn hay không. Ngày xưa Tổng
thống Nixon quyết định rút khỏi Việt Nam sau khi lãnh tụ
đa số tại thượng viện Mỹ là Thượng nghị sĩ Mansfield
vào gặp ông Nixon và yêu cầu ông rút quân Mỹ ra khỏi Việt
Nam bởi nước Mỹ không còn chịu đựng nổi vì những cuộc
biểu tình phản chiến và tình hình quốc gia rối ren đến
độ có thể gây ra hoảng loạn, đổ vỡ (trích từ hồi ký
của ông Nixon).Tổng thống Nixon nghe lời, gấp rút ký Hiệp
định Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 với Cộng sản Bắc
Việt và sau đó rút quân Mỹ về, bỏ mặc bạn đồng minh
Việt Nam Cộng Hòa chết tức tưởi trước sự tấn công của
Cộng sản miền Bắc. Nay thì cũng sẽ tới lúc ông Tổng thống
Bush phải nghe lời khuyến cáo của quốc hội mà rút quân
về. Hy vọng là Mỹ sẽ xây dựng kịp một chính quyền Iraq
tự trị đủ sức đối phó với quân khủng bố nổi dậy.
Chính quyền Iraq tự trị hy vọng sẽ đứng vững sau khi Mỹ
rút quân về và đó là mong ước sâu xa của chính phủ Bush
cũng như quốc hội Mỹ.
Ðối với người lãnh đạo
của bất cứ quốc gia nào, chiến tranh chỉ nên tiến hành
khi đó là chuyện phải làm chứ không nên phát động chiến
tranh vì đó là chuyện muốn làm. Mỹ có đầy đủ chính nghĩa
khi đưa quân vào đánh bọn khủng bố ở A phú hãn vì bọn
này tấn công và sát hại trên dưới 3000 thường dân Mỹ,
nhưng Mỹ mất nhiều cảm tình của thế giới khi cất quân
xâm lăng Iraq. Một điều tai hại còn để lại tì vết là
Mỹ đã bất chấp những nghị quyết của Liên hiệp quốc
khi quyết định tấn công Iraq. Mỹ không tôn trọng Liên hiệp
quốc thì sau này làm sao Mỹ đòi hỏi những nước khác phải
tôn trọng Liên hiệp quốc ?
Dạo gần đây có xuất hiện
một người đàn bà tên Cindy Sheehan. Bà ta dựng lều trước
trang trại của Tổng thống Bush ở Texas, yêu cầu được nói
chuyện với tổng thống về cuộc chiến tranh ở Iraq. Bà có
một con trai chết ở chiến trường Iraq. Sự lên tiếng phản
đối cuộc chiến ở Iraq của bà ngày càng chiếm được sự
đồng cảm của nhiều người Mỹ. Trước đây chính phủ
Bush đã khéo léo đối phó với báo chí về hành động của
chính phủ trong cuộc chiến Iraq, về sự tôn kính tâm trạng
đoàn kết của người Mỹ sau ngày 9/11. Giờ đây sự hạn
chế kềm giữ đã vỡ toang.
Ở một nước dân chủ như
Mỹ, ý dân đích thực là ý trời. Ý của dân Mỹ, thông qua
quốc hội, mong muốn một cuộc rút quân Mỹ ở Iraq về nước
càng sớm càng tốt ngày càng thôi thúc mãnh liệt hơn và Tổng
thống Bush trước sau gì cũng phải thi hành nguyện ước chính
đáng đó.
Lawndale, Một ngày u ám lạnh lẽo
đầu tháng 3 năm 2006
TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG
Email: [email protected]
( Muốn đọc tất cả những bài
viết của Trần viết Ðại Hưng xin vào trang www.nsvietnam.com,
bấm vào trang Trần viết Ðại Hưng nằm bên trái ) |