CON
ÐƯỜNG DẪN ÐẾN NGÀY
11 THÁNG 9
Hắn ta trông có
vẻ là người đáng nghi
ngờ nhiều. Tại trường dạy
lái máy bay ở Norman, Okla.., người
học viên lái máy bay bay vạm vỡ
có giọng nói tiếng Anh với
cái giọng nặng mùi tiếng Pháp
này có nhiều hành động quái
lạ. Hắn ta có vẻ thô lỗ và
hay cãi cọ, từ chối trả 4995
dollars tiền nhập học (thay vào đó
hắn trả 2500 tiền mặt). Ðó
là Zacarias Moussaoui, 33 tuổi, thường
dùng cái tên " zuluman tangotango" khi sử
dụng Internet và lẩn tránh khôn ngoan
khi dùng e-mails. Là một học viên có
thành tích bay yếu, hắn bất thình
lình bỏ học vào giữa tháng
5, trước khi nhập học vào một
trường bay khác ở Eagan, Minn.
Tại trường bay Pan Am, hắn thú
nhận chiếc phi cơ lớn nhất mà
hắn từng bay là chiếc Cessna một
động cơ. Nhưng hắn yêu cầu
xin được huấn luyện trên mô
hình chiếc máy bay 747. Hắn chú
trọng nhiều về những cách đổi
chiều máy bay trên không, chứ
không chú trọng đến vấn đề
máy bay cất cánh và hạ cánh.
Những điều ám muội đó
đã làm cho một trong những huấn
luyện viên dạy phi cơ nghi ngờ và
ông ta gọi ngay cho cảnh sát liên bang.
Hắn bị bắt vì visa hết hạn
và tên Moussaoui này đang ngồi tù
ở hạt Sherburne khi những học viên
lái máy bay khác lái những
chiếc phi cơ cướp được
lao vào Trung tâm thương mại thế
giới ở New York và Ngũ giác
đài vào ngày 11 tháng 9 năm
2001.
Ðiều đó
không có nghĩa là nước
Mỹ đang ngủ. Những biên giới
rộng mở của Mỹ làm cho chuyện
truy tầm khủng bố trở thành
một chuyện khá nản lòng. Cơ quan
FBI ước lượng có chừng
1000 người- hầu hết là người
nước ngoài- có nghi ngờ
dính líu đến khủng bố hiện
nay đang sống trên nước Mỹ.
Một viên chức Mỹ cho biết là
, " Dân Mỹ sẽ ngạc nhiên khi thấy
có nhiều tên tình nghi khủng bố
như thế ," Moussaoui gần như phù hợp
với lý lịch của những
tên khủng bố không tặc, nhưng hắn
ta có thể dính hay không dính líu
vào âm mưu không tặc vừa
qua. Sau khi bắt Moussaoui vào ngày 17 tháng
8, cơ quan di trú Mỹ thông báo cho
Pháp ( hắn ta mang thông hành Pháp
) và Pháp đã trả lời
cho Mỹ 10 ngày sau đo, báo cáo rằng
Moussaoui là một tên tình nghi khủng
bố, đã từng đi đến
những trại huấn luyện của Bin Laden
ở A phú hãn. Mười ngày
quả là thời gian dài lý tưởng
để điều tra hầu chận đứng
âm mưu không tặc. Nhưng đối
với bọn khủng bố của thời
đại mới, chúng đã ra
tay ngay trước khi bị khám phá.
Trong lúc những
nhân viên ở cơ quan CIA và FBI
xem xét những bảo báo cáo tình
báo, họ trách móc nhau là đã
bỏ sót những tín hiệu báo
động trên con đường dẫn
đến ngày 11 tháng 9. Những
bản báo cáo bao gồm những mẩu
điện thoại được thâu
lại như, " Có một chuyện lớn
sẽ xảy ra ", " Chúng sẽ phải trả
giá ", và " Chúng ta chuẩn bị ra
tay hành động". Thật là không
may khi những thông tin như thế đã
không tới bàn giấy những
chuyên gia phân tích tình báo cho đến
khi chuyện xảy ra. Trong lãnh vực tình
báo, chuyện trễ tràng 24 tiếng hay
48 tiếng là chuyện không có gì
bất thường cả. Không có
câu nói nào thâu được
có nhắc đến Ngũ giác đài
hay Trung tâm thương mại cả. Nhiều
mẩu điện thoại khác nói xa gần
đến một mục tiêu nằm ở
đâu đó ở vòng đai
Thái bình dương. Dù sao cũng
có một số người cảm thấy
tội lỗi và suy nghĩ về những
chuyện họ đã có thể làm
để ngăn chặn vụ khủng bố
ngày 11 tháng 9 vừa qua.
Sau ngày 11 tháng
9, những cơ quan tình báo tranh nhau
để bắt bọn khủng bố trước
khi chúng ra tay một lần nữa. Mức
độ bố ráp thật là nô
nức: ở Yemen, chính quyền tóm
cổ chừng một tá đồ đệ
của Bin Laden. Ở Ðức, cảnh
sát truy lùng hai người trực
tiếp liên hệ đến âm mưu
khủng bố. Ở Pháp, hơn nửa
tá người bị bắt giữ
để thẩm vấn, trong khi ở Anh,
Bỉ, và hòa Lan, cũng như ở
Peru và Paraguay, cảnh sát bố ráp
những nơi tình nghi có khủng bố
trốn tránh. Ở Mỹ, FBI tiến
hành một cuộc săn người lớn
nhất trong lịch sử và bắt giữ
tổng cộng 90 người. Một số
đông trong bọn họ bị bắt giữ
bởi những vi phạm di trú nhỏ,
nhưng những nhà điều tra cố
gắng tìm kiếm những tên giết
người hàng loạt. Những máy
bay rải thuốc trừ sâu bị cấm
bay gần những thành phố.
Mẻ lưới
bắt bớ quá rộng lớn làm
nhiều người se lòng, trừ
phi người ta nghĩ lại chuyện sau
khi hai tòa đại sứ Mỹ bị
đánh bom vào năm 1998, đã
có một cuộc bố ráp tương
tự bắt giữ hàng trăm người
tình nghi từ Âu châu đến
Trung Ðông cho tới Châu Mỹ La
tinh- thế mà đám đệ tử
Bin Laden cũng còn có đủ khả
năng để tung ra thêm nhiều cuộc
tấn công tàn hại khác. Những
binh lính và cảnh sát sẽ không
đủ người để ngăn
chặn một tai họa lớn hơn do khủng
bố gây ra. FBI cho rằng tên chủ chốt
trong trận đánh ngày 11 tháng 9 là
Mohamed Atta, là người Ai cập đã
lái chuyến phi cơ đầu tiên
, chuyến bay số 11 của hãng American Airline,
đâm vào tòa nhà phía Bắc
của Trung tâm thương mại thế giới.
Cha của Atta sau này cho biết Atta chưa bao
giờ học lái máy bay. Chị của
Atta là một bác sĩ, thường
cung cấp thuốc men cho Atta mỗi lần hắn
lên phi cơ vì hắn bị quặn đau
và mửa khi bay.Atta dường như
đã có những liên lạc với
những tên khủng bố khác trước
những cuộc tấn công ngày 11 tháng
9 , và hắn là người đã
để lại di chúc, trong đó có
câu, " Hãy sẵn sàng để gặp
Thượng Ðế của bạn. Hãy
sẵn sàng cho thời điểm này."
Kẻ đầu nậu
tối cao có thể ở đâu
đó trong rừng núi trùng điệp
ở A phú hãn, trốn tránh bom
và những đoàn biệt kích
nhảy toán của Mỹ- nhưng không
có gì nghi ngờ là hắn ta sẽ
tính toán một chuyện phá hoại
khác. Trong danh sách của những tên
hung ác trong lịch sử, Bin Laden có
một chỗ khá đặc biệt. Ông
ta không có ngai vàng, không có quân
đội, ngay cả không có lãnh thổ
thực sự của riêng mình, mà
nằm đâu đó trong những
rặng núi ở A phú hãn. Nhưng
ông ta có cái sức mạnh thúc
đẩy người khác sẵn sáng
chết chỉ với mục đích là
giết người Mỹ không cần
phân biệt- đàn ông, đàn
bà, con nít. Ông ta là một tổng
hợp bất thường của sự
hận thù triền miên, nhuốm vẻ
thần bí và cuồng tín- quyết
tâm và kiến hiệu. Giờ đây
ông đã chọc giận người
Mỹ và sớm muộn gì cũng
nhìn thấy sự trả thù của
Mỹ. Nhưng cái nọc độc mà
Bin Laden rải truyền trong thế giới
Hồi giáo đã khá sâu đậm
và giám đốc FBI của Mỹ là
ông Robert Mueller cho biết là FBI đang tìm
kiếm thêm nhân viên biết nói
tiếng Ả rập để có thể
tìm hiểu thêm về thế giới
Ả rập theo Hồi giáo. Thất khó
mà hiểu kẻ thù khi bạn không
thể nói được tiếng nói
của kẻ thù.
Ðối với
đa số người Mỹ, cuộc đời
họ thay đổi tức khắc và
vĩnh viễn vào ngày 11 tháng 9 năm
2001. Nhưng cuộc chiến chống khủng bố
đã âm ỉ và đôi khi sôi
sục trong hơn 10 năm qua. Nó có thể
coi là một cuộc đấu tranh buồn
chán ở phòng giấy – có những
bản báo cáo nằm tồn đọng
không ai đọc nằm đầy trên
bàn của những vị dân cử,
những nhân viên chính phủ ăn
không ngồi rồi tìm cách xin tăng
ngân sách của họ bằng cách
tung ra những câu chuyện kinh sợ
liên hệ đến những trang sau của
những tờ báo. Trước
khi thế giới tìm ra manh mối khủng
bố ở đâu, đây là
lúc cần nhìn lại một thập niên
của khủng bố để xem nước
Mỹ đã vụng về trong chuyện đối
phó như thế nào.
Kẻ thù rõ
ràng đã học hỏi nhiều từ
kinh nghiệm. Vào tháng 12 năm 1994, Nhóm
Hồi giáo võ trang ( the Armed Islamic Group ( GIA)
) , là một nhóm khủng bố gốc
người Algeria sẽ đóng một
vai trò nổi bật trong quân đội
toàn cầu của Bin Laden, họ cướp
một phi cơ Airbus của hãng hàng không
Pháp ( Air France) với 171 hành khách.
Kế hoạch là đâm chiếc máy
bay này vào cây tháp nổi tiếng
Eiffle. Vấn đề họ gặp phải là
: không ai trong nhóm biết lái máy
bay. Viên phi công hãng hàng không
Pháp hạ cánh ở Marseille, ở
nơi đó cảnh sát Pháp tấn
công chiếc máy bay. Rút tỉa được
kinh nghiệm bày, sau đó không lâu
thì những tên khủng bố đầu
tiên bắt đầu lặng lẽ đến
xin học bay ở những trường
dạy lái máy bay nằm ở Florida.
Nước Mỹ
có vẻ chậm chạp trong chuyện đối
phó với vấn đề. Ngân
sách chống khủng bố tăng lên
từ 2 tỷ đến 12 tỷ chỉ trong
vòng một thập niên. Mỹ bỏ ra
30 tỷ một năm để thâu thập
tin tức tình báo.Dĩ nhiên Bin
Laden cũng không phải là không biết
điều đó. Trong vòng 5 năm
qua những chuyên gia làm việc thâu
đêm trong những phòng kín ở
tổng hành dinh của CIA , được
biết đến với cái tên
phòng Bin Laden. Nhiều chuyên gia phê phán
rằng CIA đã quá chú trọng
vào Bin Laden- với cố gắng gắn
một khuôn mặt vào trong những hành
động khủng bố vô hình, những
chiến sĩ chống khủng bố mệt
mỏi được nâng lên vai trò
của một ông kẹ quốc tế( bogeyman),
trong khi những người thực sự
giết những tên khủng bố thì
ở trong bóng mờ quên lãng.
Giờ đây, sự trách móc
dồn vào Washington ngày càng nhiều
– kèm theo với lời kêu gào
trả thù – những viên chức
tình báo đã thận trọng cho rằng
rất khó để thâm nhập vào
những tổ khủng bố bí mật
có những tên khủng bố trung
thành; cứ mỗi con rắn bị chặt
đầu thì có hai con khác bò
ra khỏi vũng lầy; cái đồng
lầy đó không bao giờ được
tát khô vì đất đã nhuốm
máu những kẻ tử vì đạo
( martyrs); cho nên những phương pháp
tra hỏi có tính thuyết phục nhiều
nhất cũng khó mà làm cho kẻ
tình nghi khai ra khi hắn ta sẵn sàng chết.
Nhưng sự bất
lực của chính phủ không đoán
nổi 19 tên khủng bố tự sát
biến 4 chiếc phi cơ thành những
phi đạn được điều khiển
nhắm vào những biểu tượng
quốc gia nói lên điều gì đó
hơn là sự thất bại của tình
báo. Ðó là sự thất bại
của sự tưởng tượng.
Nước Mỹ quá mạnh mẽ, dân
Mỹ quá an toàn, ý niệm về
Sự Ðề Phòng ở Mặt
Trận Hậu Phương ( Homeland Defense) có vẻ
quá trừu tượng, gần như
là ở đâu đó nước
ngoài, đó là điều mà
những quốc gia nhỏ bé quan tâm
chứ Mỹ không thèm để
ý tới. Những tên khủng
bố được mọi người
coi như những tên tội phạm độc
ác và kinh sợ, nhưng chúng không
phải là những kẻ thù gây
chết chóc cho quốc gia. Nói chung có
một loại cảm giác từ khước
tập thể, một sự miễn cưỡng
nhìn nhận sự đe dọa kinh khiếp
của nhóm quá khích Hồi giáo
có thể có.
Một phần có
thể vì chính phủ Mỹ góp phần
tạo nên điều ấy. Vào thập
niên 1980, Cơ quan CIA hỗ trợ kháng
chiến quân Mujahidin, là những chiến
sĩ Hồi giáo tự do chống lại
sự chiếm đóng của Liên
xô ở A phú hãn. Trang bị vũ
khí và huấn luyện cho nhóm kháng
chiến quân này là một trong những
hành động kín mà CIA đã
làm. Nó làm thay đổi chiều
hướng chống Liên xô xâm
lược. Nhưng công việc này của
CIA bị " phản ứng ngược " .
Trong những tháng ngày sắp tới
khi những máy bay của lực lượng
đặc biệt của Mỹ tìm cách
đáp xuống vùng rừng núi
A phú hãn để tiêu diệt Bin Laden,
họ sẽ gặp nhiều nguy hiểm bị
bắn rơi bởi những hỏa tiễn
Stinger mà trước đây CIA đã
trang bị cho kháng chiến A phú hãn.
Phản ứng ngược này chỉ
là phần cuối của di sản dài
và lộn ngược của những
kết quả bất ngờ . Câu chuyện
thần thoại này bắt đầu hơn
10 năm trước đây khi những
những chiến binh của cuộc chiến
thần thánh chống lại Liên xô
bắt đầu bước chân vào
Mỹ – nhiều người đến
với thẻ thông hành do CIA cung cấp.
Vì đã có
tình chiến hữu gắn bó trong
chiến đấu trước đây,
cộng thêm với lòng nhiệt thành
tôn giáo tràn trề, nên những
người Ả rập lưu vong này sẵn
sàng chết cho đấng Allah khi họ tụ
tập với nhau tại trung tâm tỵ nạn
Al-Kifah ở Brôoklyn, NY, đó là
nơi CIA tuyển lính mới cho kháng
chiến quân Mujahidin. Những gương
mặt chủ yếu vào cuối thập niên
80 hay lui tới trung tâm tỵ nạn này
là kỹ sư có khuôn mặt rầu
rầu tên El Sayyid Nosair, ông thường
dùng thuốc an thần Prozac và người
bạn tên Mahmud Abouhalima, vốn là người
rà mìn trong cuộc chiến tranh A phú
hãn ( dụng cụ duy nhất mà ông
dùng đến là một cây sậy
). Những người di cư mới
này không cảm thấy cám ơn nước
Mỹ, mà chỉ sự thù ghét
khôn nguôi đối với Mỹ,
là nước tượng trưng cho
sự tân tiến Tây phương và
có nguy cơ nhận chìm những nguyên
tắc căn bản Hồi giáo bằng
những quần Jean màu xanh và những
video của Hollywood. Ở cách xa nửa
trái địa cầu, những người
hiểu sự tàn bạo của sự
quá khích của Hồi giáo có
thể nhìn thấy trận bão dữ
dội sắp tới. Vào khoảng cuối
thập niên 80, người lãnh đạo
nước Pakistan lúc đó là
Benazir Bhutto, đã nói với Tổng
thống Bush ( Bush cha), " Ông đang tạo nên
một tên quái nhân Frankenstein." Nhưng
những lời cảnh cáo không
thấm sâu vào những cảnh sát
trên đường phố New York cho tới
khi biến cố 11 tháng 9 xảy ra.
Cuộc thánh chiến
quốc tế đến Mỹ vào một
đêm mưa vào ngày 5 tháng 11
năm 1990, khi Nosair bước vào hội
trường của khách sạn Marriot ở
New York nằm ở đường 49
để bắn viên giáo sĩ Do Thái
Meir Kahane, vốn là người kêu
gọi Do Thái tống khứ bọn " chó
Ả rập" ra khỏi nước. ( Khẩu
hiệu của Kahane là: mỗi người
Do thái là một cây súng lục
22 ly ). Kế hoạch tẩu thoát thật ly
kỳ: Bạn Nosair là Abouhalima được
chỉ định lái chiếc xe taxi thoát
đi, nhưng đang cơn cuồng nhiệt nên
Nosair nhảy lầm lên một chiếc xe khác
và bị bắt.
Vì có nhiều
nhân chứng và khẩu súng còn
bốc khói, vụ án của Nosair đáng
lẽ coi như đã xong. Nhưng cảnh
sát New York vụng về trong chuyện thâu
thập tang chứng nên Nosair coi như vô
tội. Trong đầu óc Nosair và Abouhalima
trong lúc đó hiện ra hình ảnh
: ở quê nhà Ai cập, những
người tình nghi khủng bố bị
đày đọa và tra tấn. Ở
Mỹ người ta có thể mướn
một luật sư giỏi để thắng
hệ thống tòa án. Cảnh sát
New York khó lòng hình dung ra nổi một
âm mưu khác to lớn hơn. Cuộc
khám xét chỗ apartment ở của
Nosair lòi ra những tài liệu giấy
tờ chế bom và hình ảnh của
những mục tiêu – bao gồm tòa
nhà chọc trời Empire State Building và
tòa nhà Trung tâm thương mại thế
giới. Cảnh sát cũng không bận
tâm điều tra sâu xa thêm về
những bằng chứng đó,và
những tài liệu đó cũng
không được dịch ra tiếng
Anh để tìm hiểu – chuyện như thế
đó cho đến khi có một xe van
chở 1500 pounds chất nổ nổ tung phía
dưới tòa nhà Thương mại
thế giới vào ngày 26 tháng
2 năm 1993. Ðây coi như là tòa
nhà thương mại bị đánh bom
lần đầu tiên làm cho 6 người
chết và làm bị thương hơn
1000 người, chuyện này coi như là
một sự cảnh cáo mạnh mẽ,
đặc biệt khi những nhà điều
tra khám phá ra những tên chủ
mưu ngoài ý định giật sập
những tòa nhà còn kèm theo
với bom nổ là chất độc
cyanide ( với cố gắng tạo thành
một vũ khí hóa học tàn bạo.)
Nhưng chất độc cyanide bị cháy
trong khi nổ nên biến thành vô hại,
tòa nhà không sụp đổ và
những tên đánh bom dường
như không được may mắn lắm.
Một tên trong bọn trở lại chỗ
mướn xe van để lấy lại tiền
đóng thế chân mướn xe
( security deposit).
Những tên âm
mưu nhanh chóng bị lộ diện là những
tên đồ đệ của giáo sĩ
Sheik Omar Abdel-Rahman, là " giáo sĩ mù"
đang ở trong một đền thờ
ở thành phố Jersey. Quá khứ
u uẩn của tên giáo sĩ này làm
cho cơ quan liên bang chú ý lưu tâm
nhiều – hắn ta đã từng dính
líu vào âm mưu ám sát Tổng
thống Ai cập Anwar Sadat vào năm 1981. Nhưng
tên giáo sĩ này đã len lỏi
vào đến nước Mỹ với
sự bảo vệ của CIA, vốn xem giáo
sĩ này như một nhân vật giá
trị để kêu gọi thanh niên theo
đạo Hồi sang A phú hãn gia nhập
vào kháng chiến quân Mujahidin.
Một trong những
tên âm mưu đánh bom tòa nhà
thương mại làm cho cảnh sát liên
bang chú ý là Ramzi Yousef. Hoạt động
dưới nhiều tên giả khác
nhau, Yousef là một khuôn mặt mới
đáng sợ, hắn ta không thuộc
quốc tịch nước nào và
thuộc loại người độc ác
có tầm hoạt động toàn cầu.
Dù hắn có nói chuyện với
tình báo Iraq và ở trong một
ngôi nhà an toàn, nhưng sau này mới
biết được hắn có dính
líu đến Bin Laden, lúc đó
Yousef được coi là thứ khủng
bố tự do, không liên hệ với
phe phái nào. Sự may mắn của
Yousef tiêu tan khi căn nhà của một
người bạn hồi nhỏ của Yousef
là Abdul Hakim Murad bị cháy. Murad là người
cộng tác chung với Yousef và đang
chế tạo bom để ám sát Giáo
Hoàng và nổ bom ít nhất là
11 máy bay dân sự Mỹ. Murad bị
bắt vào tháng 1 năm 1995 đã
dẫn những nhà điều tra đến
bắt Yousef ở Pakistan,nơi mà hắn
ta đang lẩn tránh. Murad và Yousef là
một cặp bài trùng ác quỉ: Murad
đi học lái máy bay, cả hai nói
đến chuyện lái một chuyến máy
bay chất đầy chất nổ để
lao vào tổng hành dinh của CIA hay một
trung tâm nguyên tử. Vào lúc
đó, những viên chức FBI
coi là chuyện phô trương và xa
vời. Giờ đây chúng giống
như những bản vẽ hành động.
Chuyện bắt giữ
Yousef được coi như một chiến
thắng trong trận chiến chống khủng
bố trong khi chuyện chống khủng bố
mới bắt đầu được
đẩy mạnh ở Washington. Nhưng chuyện
bắt giữ Yousef cho thấy có những
khó khăn trong chuyện truy lùng khủng
bố, ngay cả khi một tên khủng bố
có giá bị bắt. Lúc bị kêu
án, Yousef tuyên bố, " Vâng, tôi là
một khủng bố và tôi hãnh diện
về điều này." Hắn ta không
chịu hợp tác với nhà chức
trách trong chuyện điều tra. Thay vào
đó hắn dùng những ngày
tháng tù tội ở nhà tù
liên bang để tán gẫu về chuyện
xi-nê với một bạn tù là
tên đánh bom bằng thư ( Unabomber) Ted
Kaczynski và người bạn khác là
Timmothy Mcveigh, người đánh bom ở
tòa liên bang ở Oklahoma cho đến
khi Mcveigh bị xử tử sau đó.
Vào khoảng giữa
thập niên 90, những chuyên viên
chống khủng bố ở FBI và CIA
bắt đầu tập trung chú ý theo
dõi Bin Laden,ông là con một nhà tỷ
phú người Saudi và đã
gia nhập kháng chiến quân Mujahidin ở
A phú hãn rồi trở thành một
cấp chỉ huy anh hùng nơi đó.
Nghe nói Bin Laden cảm thấy cay đắng
vì Hoàng gia Saudi cự tuyệt lời
đề nghị của ông kêu gọi
những chiến sĩ chiến đấu
cho tự do nhằm bảo vệ cho Saudi chống
lại sự đe dọa của Saddam Hussein sau
khi lãnh tụ quyền uy Iraq này xâm
lăng Kuwait vào năm 1990. Thay vào đó,
Saudi chọn lực lượng Mỹ để
bảo vệ cho vương quốc Saudi. Ðối
với Bin Laden, chuyện đó được
coi như những người thối nát
trong hoàng gia Saudi đã mời phe phá
đạo đến làm ô uế vùng
đất thánh Saudi, vốn là nơi
có thánh địa Mecca của người
Hồi giáo. Bin Laden tự lãnh nhiệm
vụ trục xuất người Mỹ, không
những tại Saudi Arabia mà còn ở
khắp nơi trên thế giới.
Càng ngày những
người cực đoan ở Trung
Ðông coi Bin Laden như một Saladin thời
đại. Saladin là người đuổi
Thập tự quân ( Crusaders) cả ngàn
năm trước. Sau khi thiết lập cơ
sở khủng bố Al- Qaeda gồm đủ
các chức năng tinh thần, tài
chánh và phương hướng hành
động, Bin Laden xuất đầu lộ diện.
Vào năm 1996 ông kêu gọi mỗi
người Hồi giáo đều có
nhiệm vụ giết người Mỹ (
lúc đầu chỉ nhắm tới
lính Mỹ, sau tới năm 1998 thì
mở rộng ra thêm là giết tất
cả những người Mỹ ). Từ
nhà của mình ở Sudan, Bin Laden dường
như là nguồn cảm hứng đồng
thời cung cấp tài chánh cho mạng
lưới khủng bố. Ðứng
trên nguyên tắc căn bản là
không có quốc gia nào được
phép dung dưỡng khủng bố nên
bộ ngoại giao Mỹ vào giữa thập
niên 90 áp lực chính quyền Sudan
phải trục xuất Bin Laden. Bây giờ
nhìn lại mới thấy chuyện đòi
trục xuất này là một lỗi lầm.
Ít ra là ở Sudan người ta
còn theo dõi được những
hành vi của Bin Laden. Thay vào đó,
Bin Laden biến mất vào trong những
rặng núi ở A phú hãn, nơi
ông được vui vẻ chào đón
bởi những kẻ lãnh đạo
cực đoan Taliban và từ đó
có thể thiết lập những trại
huấn luyện khủng bố . Những trại
này là nơi hàng ngàn kẻ tử
vì đạo trong tương lai đến
đây để tẩy não và học
cách đánh bom.
Với sự
kiện chiến tranh lạnh qua đi, Mafia thối
lui và cuộc chiến tranh ma túy dùng
dằng chưa có kẻ thắng người
bại, nên cơ quan CIA và FBI có đủ
thì giờ để đấu với
một kẻ thù mới. Cả hai cơ
quan thiết lập một trung tâm chống khủng
bố ở phía dưới tổng
hành dinh của CIA tại Langley, Va. Nhưng họ
cảm thấy không cần thiết phải
chia sẻ những bí mật với
những cơ quan công quyền và an
ninh khác như sở di trú và nhập
tịch, và họ cũng giữ khoảng
cách với Ngũ giác đài
về vấn đề bí mật trên.
Những người gián điệp
chọn phương cách quan sát và chờ
đợi ; trong khi cảnh sát thì muốn
bắt giữ ngay đối tượng
săn lùng của họ. Trong tòa Bạch
ốc, viên cố vấn an ninh quốc gia
sáng giá là Richard Clarke cố gắng
đóng vai trò điều hợp
trong chuyện chống khủng bố nhưng ông
cũng không nắm vững vấn đề
cho lắm. Không có khuôn mặt nào
cao hơn trong chính phủ " đột phá
" và đốc thúc mọi người
cùng tiến hành làm việc. Ông
Clarke giờ đây ân hận là
đã không rán tạo ra một công
tác như vậy. Vào lúc đó
thì viên cố vốn an ninh quốc gia
của Tổng thống Clinton này bị bù
đầu với sự dính líu
của Mỹ vào Bosnia nên chuyện chống
khủng bố không phải là ưu tiên
hàng đầu.
Riêng giám đốc
FBI Louis Freeh thì lại muốn gửi những
toán đặc nhiệm tới bất
cứ đám khủng bố nào
trên thế giới. Khi có một xe
vận tải bom phá nổ trung tâm Khobar,
một căn cứ quân sự của
Mỹ ở Saudi Arabia, Freeh gửi một
yêu cầu cá nhân đòi phải
mang bọn đánh bom ra trước công
lý. Khi Freeh rời chức vụ vào
mùa hè, một đại bồi thẩm
đoàn ( grand jury ) ở New York chuẩn
bị truy tố buộc tội những tên
âm mưu đặt bom. Nhưng những
tên này đang trốn tránh an toàn
ở Iran nên chúng có thể sẽ
chẳng bao giờ phải ra tòa. Vụ
điều tra Khobar cho thấy những sự
giới hạn trong chuyện coi khủng bố
là tội ác. Nó cũng cho thấy
thêm là có nhiều khó khăn
trong khi làm việc với những cơ
quan tình báo ngoại quốc mà không
chia sẻ những giá trị chung ( hay những
luật lệ ) với người Mỹ.
Freeh gặp trở ngại với tòa
án của Saudi khi Mỹ yêu cầu được
phỏng vấn vài nghi can bị bắt trong
chuyện đánh bom một cơ quan quân
sự Mỹ ở Riyadh. Trước
khi FBI có thể hỏi bất cứ câu
hỏi nào, những nghi can đã bị
Saudi chặt đầu mất tiêu rồi.
Cơ quan tình báo
CIA có nhiều may mắn hơn khi làm
việc với những văn phòng
an ninh ngoại quốc để tiêu diệt
những mạng lưới khủng bố.
Trong hai năm 1997 và 1998, cơ quan này cộng
tác với cơ quan an ninh Ai cập – mà
vấn đề điều tra an ninh được
coi là thẳng tay, tàn nhẫn – để
quét sạch những đồ đệ
của Bin Laden từ những nơi trốn
tránh của chúng nằm ở Albania.
Nhưng trong khi Mỹ và Ai cập đang chúc
mừng nhau thì bọn đồ đệ
Bin Laden đã chuẩn bị lâu dài
cẩn thận cho một trận đánh bom.
Trong vòng vài phút cách nhau, có
những chuyến xe vận tải chứa
bom nổ tung những tòa đại sứ
Mỹ ở Tanzania và Kenya, giết hơn
220 người. Sự thất bại về
tình báo vào tháng 8 năm 1998 cho
thấy chuyện xâm nhập vào mạng
lưới Bin Laden là rất khó khăn.
Trong khi đám đồ
đệ Bin Laden đang tiến hành kế
hoạch nổ bom hai tòa đại sứ
thì tình báo Mỹ có thâu lại
những cuộc điện đàm của
họ qua điện thoại. Theo những tài
liệu của bộ tư pháp, Mỹ đã
thâu được 5 cuộc điện
đàm của người phe Bin Laden ở
Kenya năm 1996 và 1997. Nhưng những tên
âm mưu đánh bom không tiết lộ
chúng là ai. Bin Laden dùng những
người đưa tin tức để
liên lạc với người của
ông mặt đối mặt. Tổ chức
Al-Qaeda cũng sử dụng kỹ thuật
khá cao, đôi khi tích trữ những
thông điệp trong những trang Internet
bình thường. Những chuyên
viên tình báo đã từ lâu
lo lắng là những người
phá mật mã ở cơ quan an ninh quốc
gia mù mắt điếc tai rồi, bởi
có quá nhiều những chương
trình mã hóa nội dung thông tin trên
Internet mà bất cứ người
nào cũng có thể mua ở tiệm
bán máy vi tính .
Nếu ngành gián
điệp điện tử không hoàn
thành công tác thì theo lời
khuyến cáo của những chuyên
viên thì cơ quan CIA cần thêm nhiều
người làm gián điệp. Kinh
nghiệm cho biết rằng muốn phá vỡ
một tổ khủng bố bí mật, CIA cần
mướn những nhân viên nói
tiếng Ả rập để có thể
thuê mướn những người
xâm nhập vào tổ khủng bố. Thật
ra CIA có gài được một người
vào trong nhóm những tên đánh
bom tòa đại sứ. Ðó là
ông Ali Mohamed là một cựu chiến
binh của quân đội Ai cập, đăng
ký vào quân đội Mỹ và
được gửi đi trung tâm
huấn luyện ở Fort Bragg, N.C vào đầu
thập niên 80 để thuyết trình
cho Lực lượng đặc biệt My
nghe về khủng bố Hồi giáo. Trong
thời gian rảnh rỗi, ông đóng
vai gián điệp nhị trùng. Vào
những ngày cuối tuần ông thăm
viếng trung tâm tỵ nạn Al-Kifah ở
Brooklyn, người mà ông gần gũi
không ai khác hơn là El Nassir Nosair, người
khai mở cuộc thánh chiến bằng
cách bắn chết giáo sĩ Kahane. Ali
Mohamed đi tới A phú hãn chiến
đấu chung với các kháng chiến
quân Mujahidin, nhưng sau trận đánh bom
ở trung tâm thương mại thế
giới ở New York, ông quay về
, và nói cho cơ quan liên bang biết
mối liên hệ của Bin Laden với
một số những tên đánh
bom. Ông mô tả những tên khủng
bố Hồi giáo " nằm yên " bằng
lối sống bình thường hàng
năm " như thế nào và rồi bỗng
nhiên đứng dậy thi hành những
công tác. Ðiều mà ông không
nói với cơ quan liên bang là
ông có giúp đỡ trong chuyện
đánh bom những tòa đại
sứ Mỹ ở Phi châu. Chỉ sau
khi ông nhận tội đồng lõa vào
năm 1999, ông mới tiết lộ là
ông đã gặp riêng với Bin
Laden về âm mưu đó. Ông kể
lại chuyện Bin Laden nhìn hình tòa đại
sứ Mỹ ở Nairobi và " chỉ
rõ nơi mà chiếc xe vận tải có
thể đi tới như một loại bom
tự sát."
Câu chuyện của
Ali Mohamed kể trên cho thấy những lời
kêu gọi của những chính trị
gia về chuyện tìm cách có nhiều
thêm những người điềm
chỉ cung cấp tin tức thật ra có
tính cách rao giảng hơn là thực
hành. Kỹ năng dùng người
trong bóng tối của CIA đã hao mòn
theo năm tháng. Cơ quan này đã
có những sự thanh lọc sau 1975 để
rút tỉa những chuyện làm trật
đường rầy như sử dụng
Mafia để đầu độc Castro ở
Cuba. Trong thời Tổng thống Reagan, năng
lực cơ quan này được nâng
cao lên, nhưng rồi một lô xì-căng-đan
vào cuối thập niên 80 và 90 đã
làm cho tinh thần đi xuống. Gián
điệp Mỹ đã từng tự
hào là đã làm những
công tác " nguy hiểm để đời"
nhưng giờ đây CIA trở thành
một thứ văn phòng chính quy của
nhà nước thay vì có những
điệp viên xuất sắc .
Một số các
nhà làm luật kêu gọi thả lỏng
luật lệ đối với cơ quan
CIA. Họ muốn dẹp bỏ những luật
vốn hạn chế cơ quan tình báo
này thuê mướn những người
làm việc và cung cấp tin tức
có quá khứ tội ác và
vi phạm nhân quyền. Thật ra, có những
viên chức đang hoạt động
bên ngoài có thể mướn
những nhân vật lôi thôi, nguy hiểm
bằng cách xin phép cấp lãnh đạo
của họ nằm tại tổng hành dinh
CIA ở Landley. Một viên chức cao
cấp cho biết là hầu như những
lời yêu cầu thuê mướn
người nguy hiểm đều được
chấp nhận. Nhưng vấn đề là
những viên chức đi thuê
mướn người sợ rằng
nếu chuyện hành động biến thành
một xì-căng-đan thì họ sẽ
là người phải ra điều
trần trước quốc hội. Do đó
mà họ e ngại rất nhiều.
Thật ra nói hoạt
động của CIA yếu kém cũng không
đúng hẳn. Khi CIA nghi ngờ chính
phủ Sudan giúp Bin Laden thu thập vũ khí
hóa học, một người làm việc
cho CIA đã thu thập ngay được
một số mẩu đất bên ngoài
trung tâm chế tạo dược phẩm
Shifa và mẩu này đã cho thấy
có chứa chất EMPTA – một chất
hóa học dùng trong hơi khí giết
người VX. Bằng chứng đó
được dùng để hợp
lý hóa cho chuyện đánh bom cơ
sở này để trả thù cho
chuyện đánh bom tòa đại sứ
Mỹ. Ðồng thời lúc đó
có chừng 70 hỏa tiễn bắn tới
những trại huấn luyện của Bin Laden
nằm ở A phú hãn.
Tổng thống Cliton
bị tố cáo là dùng chuyện đánh
phi đạn này để đổi hướng
chú ý của dư luận đến
xì-căng-đan tình ái Monica Lewinsky
của ông. Người chủ của cơ
quan chế tạo dược phẩm bị
đánh bom tìm cách mướn
luật sư thưa kiện chính phủ Mỹ
vì ông nói rằng cơ sở
của ông chỉ sản xuất dược
phẩm thuần túy, nhưng viên cố
vấn an ninh của Clinton lúc bấy giờ
là Sandy Berger vẫn nói là có bằng
chứng cho thấy cơ sở này
sản xuất khí độc, và nói
thêm là hỏa tiễn bắn tới
những trại của Bin Laden ở A phú
hãn chỉ hụt Bin Laden có vài giờ
đồng hồ. Nếu bắn sớm
vài tiếng đồng hồ thì có
lẽ Bin Laden đã tan xác vì lúc
đó Bin Laden còn ở trong trại.
Chính phủ Clinton
chưa bao giờ ngưng nỗ lực giết
Bin Laden. Dù có luật năm 1976 cấm
ám sát lãnh tụ nước ngoài,
không có điều luật nào cấm
cản giết những tên khủng bố
– hay , trong vấn đề này, giết một
lãnh tụ trong thời kỳ chiến
tranh. Vào năm 1998, Tổng thống Clinton ký
giấy cho phép CIA không có tội vạ
gì nếu tổ chức kín đáo
giết Bin Laden. Cơ quan này mất ít
nhất 2 năm để truy lùng Bin Laden,
làm việc với những kháng
chiến quân A phú hãn để lật
đổ chế độ Taliban. Những
kháng chiến quân này đã có
lần bắn vào đoàn xe của Bin
Laden nhưng bắn trật xe có Bin Laden.
Vào năm cuối
của chính quyền Clinton, những viên
chức cấp cao lo ngại nhiều vì
sự đe dọa khủng bố. Cố vấn
an ninh Berger cho biết ông thức suốt
đêm ngồi chờ điện thoại
kêu đến báo tin một trận đánh
khủng bố nữa xảy ra. Những
viên chức trong chính phủ luôn
lên quốc hội để đưa ra lời
cảnh cáo về khủng bố. Giám
đốc CIA George Tenet nêu lên viễn
cảnh về tầm hoạt động của
Bin Laden nhiều lần nên nhiều nhà
làm luật cứ nghĩ rằng ông
tìm cách hù họ để xin thêm
tiền cho ngành tình báo. Chính phủ
Clinton nhấn mạnh về nguy cơ ngày càng
tăng rằng khủng bố sẽ nắm
lấy những vũ khí có sức
tàn phá lớn – bao gồm vũ
khí hóa học, sinh học và nguyên
tử. Nhưng những lời đe
dọa đó không ứng hiện tức
thì. Người ta tin Bin Laden đang nhắm
vào những mục tiêu " nhẹ nhàng
" ở Trung Ðông và Âu Châu,
chẳng hạn như một tòa đại
sứ khác. Những chuyên viên
tình báo tin là một số đồ
đệ của Bin Laden đang hoạt động
ở Mỹ, nhưng không ai thật sự
nghĩ đến một trận đánh
lớn ngay lập tức.
Chuyện đánh
New York vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 đã
có những dấu hiệu báo hiệu.
Không lâu sau ngày đầu năm
2000, một người tỵ nạn Algeria bí
ẩn tên là Ahmed Ressam bị nhân viên
quan thuế Mỹ bắt khi ông này tìm
cách vào Mỹ từ Cananda. Khám
trên xe ông thì có những dụng
cụ làm bom. Ressam là một phần trong
một kế hoạch lớn hơn nhằm
tấn công vào phi trường Los Angeles
và những mục tiêu khác có
tính biểu tượng cao. Vốn là
một tên ăn cắp vặt và sống
bằng cách gian lận thẻ tín dụng,
Ressam là người của một tổ
chức khủng bố nguy hiểm GIA, là
tổ chức đã không tặc chiếc
phi cơ của hãng hàng không Pháp
năm 1995 để đâm vào tháp
Eiffel nhưng thất bại. Ðây cũng
là tổ chức đã đặt
bom trong đường xe điện ngầm
giờ đông người ở
Paris vào giữa thập niên 90, GIA là
một vệ tinh trong quỹ đạo của hệ
thống Al-Qaeda. Ressam nói với những
nhà điều tra là anh ta vừa
mới trở về từ những
trại huấn luyện của Bin Laden, nơi đó
anh ta học những kỹ thuật như đưa
hơi khí độc vào trong những
hệ thống thông gió ở các
tòa nhà làm việc. Nhiều tên
đồng lõa với Ressam trong những
âm mưu phá hoại đầu thiên
niên kỷ không bị bắt giam và
vẫn còn tại đào. Cơ quan an
ninh tình báo của Canada có nhiều
hồ sơ về GIA, nhưng cũng giống
như những cơ quan tình báo khác,
cơ quan tình báo Canada không chia sẻ
những tin tức mà họ có
với những cơ quan tình báo
khác, dù ở trong nội địa
hay ra nước ngoài. Nhiều nhà
điều tra Mỹ tin Bin Laden dùng Canada như
một căn cứ địa an toàn
để tấn công Mỹ. Nhiều viên
chức biên giới Mỹ tin rằng
có vài tên không tặc tự
sát đã vượt qua biên giới
bằng một chiếc phà từ Nova Scotia
trong những ngày trước cuộc
tấn công vào hai tòa nhà Trung tâm
thương mại ở New York.
Giờ đây
nhìn lại, vụ án Ressam đã xì
ra nhiều bằng chứng đến một
nhãn hiệu khác của Bin Laden: Khả năng
hoạt động của Al-Qaeda nhằm che dấu
đường đi nước bước
của mình. Khi mướn nhà ở
Vancouver, Ressam và đồng bọn thường
xuyên thay đổi tên trong những
khế ước, làm hỏa mù lẫn
lộn chuyện giấy tờ để khó
ai có thể theo dõi. Một cẩm nang khủng
bố tìm thấy được ở
nhà một tên thân cận của Bin Laden
ở Anh quốc năm ngoái đã
khuyến cáo những tên khủng bố
phải đánh lạc hướng nghi
ngờ bằng cách cạo râu ( đa
số dân Ả rập có hàm râu
rất rậm !) , tránh đến những
đền thờ Hồi giáo và
tránh chào nhau theo kiểu truyền thống
Hồi giáo. Những viên chức
tình báo giờ đây nghi là
Bin Laden đã sử dụng tất cả
những mánh khóe để che mắt
những người điều tra làm
cho họ không theo dõi nổi đường
đi nước bước của những
tên khủng bố tự sát. Những
nguồn tin tình báo giả và những
thông tin dỏm làm cho CIA cứ lo ngại
rằng sẽ có một cuộc tấn công
ở Trung Ðông, Á Châu, Âu
Châu vào mùa hè qua. Những
tòa đại sứ đóng cửa,
tàu chiến được gửi
ra biển, quân lính được đặt
trong tình trạng báo động khẩn
cấp ở vùng vịnh. Ủûy ban
an ninh gặp gỡ một tuần hai lần
trong tòa Bạch Ốc xem xét lại vấn
đề đã gửi quá nhiều
cảnh cáo đến nổi những
lời này ngày càng mờ
nhạt. Có một âm mưu xem chừng
có vẻ đặc biệt có nhiều
bằng chứng và có tính cách
đe dọa. Vào cuối tháng 7, cơ
quan công lực bắt được
một phụ tá của Bin Laden tên Djamel Begal
ở Dubai. Ông ta úp mở nói
đến một kế hoạch đánh
bom tòa đại sứ Mỹ ở
Paris. Liệu lời đe dọa này là
thật sự hay đây chỉ là trò
đùa?
Mỹ trông cậy
nhiều vào những cơ quan tình
báo ngoại quốc trong chuyện tiêu diệt
mạng lưới khủng bố ở
quốc gia đó. Nhưng thường
thì công tác tình báo chọn cách
quan sát những nghi can khủng bố hơn
là truy tố chúng.
Chuyện thuyết phục
một chính phủ nước ngoại cung
cấp tin tức về một nghi can khủng
bố, chứ chưa nói đến chuyện
bắt giữ, đòi hỏi phải
có những sự vận động
ngoại giao lớn lao. Vấn đề này
cũng không phải là dễ dàng
gì nếu những ngành khác nhau
của chính phủ Mỹ tranh cãi gây
gổ nhau. Tháng 10 năm trước, chiến
hạm USS Cole của Mỹ, trong khi lấy thêm
nhiên liệu ở Aden ở nước
Yemen, gần bị chìm khi bị những
tên khủng bố tấn công tự
sát bằng một chiếc thuyền nhỏ.
( Trước đó đã có
một chiếc tàu nhỏ chất đầy
chất nổ tính đánh vào một
tàu chiến Mỹ khác đang đậu
ở Yemen,nhưng chiếc tàu chất
nổ này bị chìm khi nó rời
bến và coi như kế hoạch lần
đó thất bại. Bin Laden rõ ràng
kiên quyết ra lệnh cho người của
ông rán làm lại một lần nữa.)
Những điều tra viên của FBI nhanh
chóng tới hiện trường và
họ được chính quyền Yemen
tiếp đón tử tế. Những
nhân viên điều tra quan tâm đến
vấn đề an ninh của riêng họ
nên họ yêu cầu được
phép mang vũ khí tấn công bên
mình. Ðại sứ Mỹ Barbara Bodine
coi những nhân viên FBI này là
những người vụng về và
không biết cách xử sự ngoại
giao nên từ chối chuyện trang bị
súng. Sau một thời gian giằng co đối
đầu giữa những nhân viên
điều tra và những nhân viên
an ninh của tòa đại sứ, cả
toán FBI rời Yemen trong vòng ba tháng.
Cho đến gần đây họ mới
trở lại.
Dường như
những tên khủng bố đánh
bom tàu Cole có liên hệ đến
trận tấn công tàn bạo ngày 11
tháng 9 ở Mỹ. Từ tháng
giêng năm 2000, CIA đã để mắt
đến một người tên Tawfiq
bin Atash, được biết trong giới
khủng bố với biệt danh " Khallad." Là
một người sinh trưởng ở
Yemen và đến A phú hãn chiến
đấu. Khallad là người trông
coi đám cận vệ hộ tống Bin Laden
và thuộc hàng cao cấp trong tổ chức
Al- Qaeda. Theo những nguồn tin tình báo
thì Khallad đã giúp điều hợp
trận tấn công tàu Cole. Vào tháng
12 năm 1999, Khallad bị cơ quan an ninh Mã
lai á chụp hình ( cơ quan này đang
làm việc chung với CIA trong chuyện truy
lùng khủng bố ) tại một khách
sạn ở Kuala Lumpur. Ở nơi đó
Khallad gặp gỡ với vài nhân
viên hoạt động của Bin Laden. Một
trong những người trong nhóm ấy
là Fahad al- Quso, sau này mới biết
chính là người được
trao nhiệm vụ quay video cuộc tấn công
tự sát tàu Cole ( nhưng không phải
nhân viên nào của Al Qaeda nào cũng
hành động thần sầu quỉ khốc
như diệp viên thượng thặng James
Bond đâu: anh chàng al-Quso này làm
hỏng việc vì anh ngủ quên). Một
người khác là Khalid al-Midhar, đi
chung với một cộng sự viên
tên Naaf-al-Hazmi, một chuyến đi được
sắp đặt bởi một tổ chức
được tình báo Mỹû
đánh giá là " trung tâm hành
quân " được coi như căn cứ
địa của Al Qaeda.
Hai cái tên al-Midhar
và al-Hazmi – vang lên bên tai những
chuyên viên tình báo vào ngày
11 tháng 9 . Cả hai tên trên được
coi là thuộc nhóm những tên không
tặc chuyến bay số 77 của hãng hàng
không American Airline, là chuyến máy bay
đâm đầu vào Ngũ giác
đài. Ðúng ra khi một chuyên
viên tình báo nhìn những cái
tên trong danh sách tình nghi, ông điếng
người sững sờ . Vào
ngày 21 tháng 8, nghĩa là ba tuần
trước khi biến cố 11 tháng 9
xảy ra, cơ quan CIA yêu cầu cơ quan di
trú INS hãy để ý theo dõi
tên al-Midhar. Sở di trú cho biết là
tên này đang ở trong nước
Mỹ; hắn ta chỉ thông báo địa
chỉ ở là " khách sạn Marriott
" ở New York. CIA gửi nhân viên
FBI đi tìm al-Midhar và đồng bọn.
Họ vẫn tìm kiếm ngay trong ngày 11
tháng 9.
Còn một tên
khác từ trong danh sách những
tên không tặc xuất hiện trong hồ
sơ của các trung tâm tình báo
Tây phương: đó là Mohamed Atta.
Hắn là một gương mặt khó
hiểu, bởi vì vai trò lãnh đạo
của hắn ở trong nhóm không tặc
tự sát, và lý lịch hắn
cho thấy những dấu ấn khó
hiểu về phẩm chất cao của những
thành viên đi theo Bin Laden. Thường
thường loại người trẻ
đánh bom tự sát Hồi giáo
là những thanh niên hay những
trẻ trai không có công ăn việc
làm, không có phương hướng
và hy vọng. Loại này bị phỉnh
là nếu anh ta buộc một vài ký
chất nổ chung quanh người và
bấm nút thì anh ta sẽ đi vào
cửa Thiên Ðàng, nơi anh sẽ
được giao hoan với những
cô gái đẹp đồng trinh. Atta
không thuộc loại thảm hại đó.
Anh ta không xuất thân từ một
gia đình nghèo nàn hay tuyệt vọng.
Cha anh là một luật sư quan trọng nhất
ở Cairo. Gia đình Atta có một
căn nhà nghỉ mát ở Ðịa
Trung Hải. Căn nhà ở Cairo có
hướng nhìn xuống phố, trang hoàng
bởi những đồ bàn ghế
lộng lẫy cùng những bức
tranh chim hạc và những người
đàn bà quấn khăn.
Gia đình Atta giống
như một gia đình Tây phương
hiện đại thành công vượt
bực. Hai người chị của Atta
đều có bằng tiến sĩ đại
học. Atta đậu bằng cử nhân
ở Cairo năm 1990 và đến Ðức
để học cao thêm về đô
thị.
Người bảo
trợ luận án của Atta tại trường
đại học kỹ thuật ở Hamburg
gọi Atta là " một người dễ
thương ". Chỉ khi nhìn lại có điều
gở là trong luận án của hắn,
hắn có ghi câu, " Ðời tôi
và cái chết của tôi dâng hiến
cho Ðấng Allah, là đấng chủ
tể của muôn loài." Atta cũng đi
chơi ở bar và để râu và
bắt đầu ăn bận theo kiểu Hồi
giáo nhiều hơn. Hắn thường
nói đến " sự nhục nhã của
Ai cập" do Tây phương gây ra. Dù
lịch sự nhưng hắn đôi khi
cũng cao ngạo. Hắn khinh bỉ phụ nữ
và từ chối bắt tay họ.
Cha hắn lo lắng
muốn cưới vợ ( dù bất
cứ quốc tịch nào) cho hắn vì
hắn không có một cô bạn gái
như bạn bè cùng lứa. Nhưng
hắn đoan chắc là hắn sẽ
lấy một cô gái Ai cập. Nhưng hắn
không bao giờ đụng chạm đến
đàn bà thì làm sao mà chung
sống đây? Vào tháng 10 năm
1999 gia đình tìm ra cho hắn một cô
dâu dễ thương và thanh nhã, vốn
là con một cựu đại sứ.
Nhưng Atta nói là hắn phải trở
lại Ðức để học tiến
sĩ. Thật ra , hắn đi Florida để
học lái máy bay ở trường
dạy lái máy bay ở Florida.
Trong thời gian học
tại Hamburg, Atta thường biến mất
trong một thời gian dài – có thể
là hắn đi họp với đồng
bọn. Tình báo Mỹ tin là Atta có
gặp một viên chức tình báo
trung cấp Iraq trong năm này. Bản báo
cáo làm người ta nghi ngờ
là Sadaam Hussein có thể có vai trò
nào đó trong sự tàn sát
ngày 11 tháng 9, nhưng những chuyên
viên tình báo vẫn còn thận
trọng xét lại mối liên hệ đó.
Atta liên lạc rất sát với những
người lãnh đạo cao cấp
của hắn ta. Vào ngày 4 tháng 9,
một tuần trước khi hành động,
hắn gửi một gói đồ từ
một tiệm Kinko ở Hollywood, Florida đến
một người tên Mustafa Ahmed ở
Cộng Hòa Ả rập thống nhất (
The United Arab Emirates). Một viên chức Mỹ
cho biết, " Chúng tôi không biết
có gì trong gói đồ đó.
Nhưng Mustafa có thể là mấu chốt
đến vấn đề tài chánh
của Bin Laden. Chúng tôi sẽ xem xét
kỹ thêm về nhân vật Mustafa này."
( Một vài tên không tặc cũng
có liên hệ tiền bạc với
tên Ahmed Mustafa này). Có nhiều chứng
cớ cho thấy Atta chuẩn bị rất
kỹ cho trận tấn công. Hắn ta còn
có cả kế hoạch phòng hờ
là đã mua vé máy bay khứ
hồi cho tuyến đường Baltimore
và San Francisco vào giữa tháng 10.
Cha của Atta phủ
nhận chuyện vai trò của con trai ông
là kẻ khủng bố tựsát,
ông nói, " con tôi không thể dính
líu vào cuộc tấn công này được,".
Ông nói con ông là một nạn nhân
của tình báo Do thái để lôi
kéo Mỹ chống lại Hồi giáo.
Ông cho là cơ quan tình báo Do thái
Mossad đã bắt cóc con ông vì
con ông là người dễ bị
bắt cóc vì yếu đuối, không
có sức lực , không có tiền
mướn nhân viên an ninh bảo vệ.
Họ dùng tên và lý lịch của
nó … ..Rồi họ giết nó. Chuyện
này được làm bởi cơ
quan Mossad và dùng đến phi công
Mỹ. Dĩ nhiên những lời
tố cáo của cha Atta có vẻ hoang đường
và đáng buồn – thế mà luận
điệu này phù hợp với
sự phỉ báng mà một số báo
chí Ai cập có khuynh hướng chống
Mỹ đăng tải, tố cáo âm
mưu ngoạn mục trên là do những
nhân viên tình báo Mossad xấu xa ra
tay.
Atta có vẻ không
rời xa một tên không tặc khác
là Marwan al-Shehhi, cho tới khi chúng chia
tay tại phi trường Logan vào sáng
ngày 11 tháng 9 . FBI tin rằng al-Shehhi đã
lái chuyến phi cơ thứ hai, chuyến
bay của hãng United Airline mang số 173, lao vào
tòa nhà phía nam của Trung tâm thương
mại thế giới. Al-Shehhi và Atta sống
chung phòng với nhau ở Florida và
bị trường lái máy bay Jones đuổi
ra vì có những hành vi thô lỗ.
Chúng cùng ghi danh vào một trung tâm
tập thể dục tên Delray Beach và cùng
nhau đi tới Las Vegas, nơi mà FBI tin
rằng có thêm vài tên không
tặc có bạn gái.
Khi những nhà
điều tra tìm cách ghép lại
những cuộc đời của những
tên không tặc với nhau, có những
chi tiết lúc đầu coi như vô
hại giờ đây tỏ ra có những
điểm cần được soi sáng.
Ziad Samir Jarrahi là một người Labanon
đã theo học võ thuật ở
một trường ở Florida. Theo lời
kể lại của người chủ trường
Bert Rodriguez thì anh ta muốn học những
kỹ thuật đánh nhau trên đường
phố _ làm thế nào để chế
ngự một người với tay
không mà thôi. Liệu Jarrahi có dùng
những kỹ thuật này trong khi xô
sát với hành khách trong phòng
lái chuyến bay 93, chuyến bay này sau đó
đã rớt xuống và bốc
cháy ở một cánh đồng
bên ngoài Pittsburgh? Những nhân viên
công lực cho biết máy thâu băng
trong phòng lái ghi lại những âm
thanh Ả rập và tiếng Anh la ó khi
máy bay rớt. Một số hành khách
can đảm đã tấn công phòng
lái trong một cố gắng cuối cùng
nhằm giành lại sự kiểm soát
máy bay. Liệu họ có đối diện
với Jarrahi và những thế võ
mới học của hắn ta hay không
?
Những bằng
chứng ghi nhận được cho thấy
đã có một sự đối
đầu sinh tử. Khi những tên
không tặc bắt đầu ra tay vào
9 giờ 35 phút sáng, những người
kiểm soát không lưu liên lạc giữa
phòng lái máy bay và trung tâm kiểm
soát ở Cleveland có thể nghe tiếng
la hét , rồi đến 40 giây im lặng,và
sau đó tiếng kêu gào lại tiếp
tục. Rồi có một giọng nói thốt
ra câu, " Có bom trên máy bay." Những
người kiểm soát không lưu
cố gắng liên lạc với hoa tiêu
trưởng nhưng không nhận được
sự trả lời. Rồi màn ảnh
radar cho thấy chiếc máy bay quay đột
ngột về phía Washington, D.C. Rồi có
một giọng nói tiếng Anh nặng nề
nói, " Ðây là phi công trưởng
của các bạn. Có bom trên phi cơ.
Chúng tôi đang trở về phi trường."
Trong cabin hành khách
của phi cơ, có máu chảy ra kèm
với sự sợ hãi dâng
tràn. Ở phía sau phi cơ có 5
người hành khách lực lưỡng
đang tính toán chuyện tấn công
những tên không tặc. Một trong những
người đó là Todd Beamer nói
với một nhân viên tổng đài
điện thoại dưới đất
qua điện thoại trên không như sau,
" Tôi biết là tôi khó lòng
vượt qua được chuyện này.
Nào các bạn. Chúng ta cùng tiến
lên." Máy ghi âm phòng lái còn
thâu lại tiếng nói rõ ràng
của một tên không tặc la lớn,
" Ra khỏi buồng lái ngay! Ra khỏi ngay!"
Rồi có tiếng lầm bầm, kêu
gào và xô đẩy. Sau đó
là im lặng.
Những câu chuyện
về sự đụng độ anh hùng
như thế sẽ còn được
kể lại vào những năm sau. Nhưng
giờ đây những nhà điều
tra đang sống với sự bất
an và tự hỏi, " Liệu bọn chúng
còn ai nữa không? Và chúng
sẽ còn ra tay phá hoại nữa không?"
Những nhà điều tra đang cố
gắng theo dấu những vụ chuyển
tiền của những tên không tặc.
Tổ chức Al-Qaeda vốn là một tộ
chức rành rõi về chuyện rửa
tiền. Phần lớn tiền cuả Bin
Laden đến từ những nhà
giàu Saudi, bề ngoài đóng vai là
những người cho tiền những
tổ chức từ thiện Hồi giáo.
Một số trung tâm từ thiện này
giống như quỹ " quả phụ và trẻ
thơ mồ côi " mà đạo quân
Cộng hòa Ái nhĩ lan ( the Irish Republican
Army) dùng tài trợ cho chuyện chế
tạo bom.
Con đường
tiền bạc dẫn những nhà điều
tra đến một nghi can mà lý lịch
và động cơ hành động có
thể đem đến những sự
rùng rợn. Ðó là tên Nabil
al- Marabh , một cựu tài xế taxi người
Kuwait, người bị nghi là đã
chuyển hàng ngàn dollars đến vùng
Trung Ðông. Những nhà điều
tra cho biết là al-Marabh đã có
liên lạc điện thoại với ít
nhất là hai tên không tặc ngày
11 tháng 9. Al – Marabh cũng như những
tên khủng bố khác, đã dùng
Canada như một chỗ trốn tránh và
khó truy tầm. Cơ quan công lực
Canada thông báo cho sở di trú Mỹ
về al-Marabh vào tháng 7 và cung cấp
những bằng chứng rửa tiền.
Tuần trước FBI khám xét một
chung cư tại Detroit, nơi al- Marabh từng
ở. Họ tìm ra có ba người
đàn ông đã từng làm
việc cung cấp thực phẩm ở
phi trường Detroit. Ngoài ra còn có
bản đồ đường bay phi trường.
FBI bắt giữ ba người này
nhưng al-Marabh không có mặt ở nhà
lúc đó vì hắn ta đang nộp
đơn xin bằng lái xe vận tải 18
bánh chở chất hóa học độc
hại. Hai người ở chung nhà
với hắn cũng nộp đơn xin
bằng lái xe loại này. Chúng đang
tình chuyện gì đây và khi nào
cùng nơi nào chúng sẽ ra tay hành
động ?
Vào cuối tháng
5 năm 2002 có một tin đưa ra làm
tòa Bạch Oác và cơ quan FBI chới
với là ông Aukai Collins nói ông
là người điềm chỉ cho FBI
trong vòng 4 năm tại Phoenix, ông đã
quan sát theo theo dõi cộng đồng Ả
rập và Hồi giáo ở đây
và đã thông báo cho FBI biết
về tên không tặc Hani Hanjour khi Hanjour đang
theo học một trường dạy lái
máy bay ở đó nhưng FBI không
làm gì cả.
FBI cho biết là
họ bác bỏ chuyện Colllins đã
báo với họ về tên không
tặc Hanjour dù họ thú nhận chuyện
Collins đã làm điềm chỉ viên
cho họ.
Một nhân viên
đặc biệt của FBI là Ken Williams có
viết một bản báo cáo vào ngày
10 tháng 7 , thúc giục tổng hành dinh
FBI điều tra về những học viên
Ả rập vào trong những trường
dạy máy bay toàn quốc – và cố
gắng làm dịu đi sự phẫn
nộ của quần chúng về chuyện
cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 có
thể được ngăn ngừa.
Nếu những
lời tố cáo của Collins là
đúng, ông là một nguồn khác
đã khuyến cáo FBI nên chú
ý theo sát vấn đề học viên
Ả rập học lái máy bay ở
Phoenix, và có thể là người
đầu tiên nhận ra khả năng ra
tay của tên khủng bố Hanjour, sau này
được nhận diện là một
trong những tên không tặc ngày
11 tháng 9.
Collins nói FBI biết
Hanjour sống ở Phoenix,biết địa
chỉ chỗ ở đích xác của
hắn, số điện thoại và ngay cả
biết hắn lái xe loại gì. Họ
biết tất cả những gì về
hắn.
FBI nhấn mạnh là
họ không nhận được tin tức
gì của Collins cung cấp về Hanjour, nhưng
những viên chức FBI thú nhận
là họ trả tiền cho Collins trong vòng
4 năm để theo dõi cộng đồng
Ả rập và Hồi giáo ở Phoenix
vì Collins có một lý lịch khá
bất thường.
Anh ta là một chiến
sĩ tự phong của thánh chiến Hồi
giáo sinh ở Mỹ. Sau khi bị rắc
rối với cảnh sát từ lúc
còn ở tuổi thiếu niên, anh tìm
đến đạo Hồi và cuối
cùng ra nước ngoài để
chiến đấu. Ở Chechnya anh bị
mìn nổ lấy mất một chân.
Vào năm 1996 ở
Phoenix, FBI yêu cầu Collins chú ý theo
dõi một số thanh niên Ả rập,
nhiều người trong bọn họ đang
học lái máy bay, trong đó bao gồm
cả tên Hanjour.
Collins cho biết bọn
thanh niên Ả rập đó uống rượu,
tán gái và sống với nhau
trong chung cư ( apartment), trong đó bao gồm
Hani và những người khác.
Collins nói ông
cung cấp cho FBI những chứng cớ
căn bản và để FBI tùy nghi
định đoạt từ những
chứng cớ ấy.
Ông nói, " Khi tôi
nói có một tên Ả rập ốm
và lùn ở trong đám đông,
lái xe kiểu gì, tôi nghĩ là
FBI sẽ theo dõi hắn ta và xem hắn
ta liên lạc với ai."
Cơ quan FBI hoặc đã
thất bại khi theo dõi những sự
liên lạc của Hanjour hay bản thân Hanjour
đã khôn khéo giấu kín những
ý định của hắn – vì FBI không
bao giờ coi hắn là một đe dọa.
FBI bực bội nhiều
khi Collins đã viết một cuốn sách
sắp sửa xuất bản nhan đề
" Cuộc thánh chiến của tôi " ( my Jihad)
nói đến thành tích của ông
ta.
Không phải chỉ
có một mình FBI thất bại khi không
nhìn thấy được Hanjour và
đồng bọn là nguy hiểm.
Collins cũng thú
nhận, " Tôi cũng không khám phá
ra hành tung của chúng, làm cách
nào mà chúng từ sân sau nhà
lên tới phi cơ và đâm
vào tòa nhà ở New York."
Quốc hội Mỹ
cũng không tìm ra luôn, bởi vậy
mới tiếp tục đòi hỏi
những câu trả lời từ
FBI.
Giám đốc
FBI là ông Robert Muller mới đây
lên tiếng cảnh báo là sẽ
có những tên đánh bom tự
sát giống như những người
tấn công tự sát vào những
đám đông ở Do Thái sẽ
ra tay ở nước Mỹ. Ông cho
đó là điều sẽ xảy
ra trong tương lai và không thể tránh
được.
Ôâng Muller cho biết
muốn bây giờ gài người
điềm chỉ vào bên trong nhóm
khủng bố để ngăn ngừa
những cuộc tấn công tự sát
như thế khá khó khăn vì người
điềm chỉ ấy phải tỏ ra có
một mức độ cuồng tín ( fanaticism)
nào đó.
Phó Tổng thống
Chenney cũng cho biết là Mỹ không
name được tin tức dí cả,
Mỹ cảm thấy khó khăn để
phản ứng trước những
dấu hiệu ám chỉ mới nhất
cho biết là tổ chức khủng bố
Al – Qaeda sẽ tổ chức một cuộc
tấn công khác.
Mueller cho biết cơ
quan công lực đã khá thành
công trong chuyện chống lại những
hành động khủng bố ở Bắc
Aùi nhĩ lan bằng cách phát triển
cách cung cấp dữ kiện, thông
tin về những kế hoạch khủng bố
và bằng cách dùng phương pháp
quan sát bằng điện tử.
Nhưng ông nói
khó khăn khi tìm người điềm
chỉ ( informants) gài vào những nhóm
khủng bố nhắm mục tiêu vào
Mỹ làm cho chuyện thu thập tin tức
càng gay go thêm.
Phó tồng thống
Cheney nói ông nhìn thấy " chuyện có
thể xảy ra là chuyện thật " về
những tên đánh bom tự sát
có thể ra tay trên đất Mỹ
nếu những tên đã tấn
công Do thái thành công trong chuyện
làm thay đổi tình hình ở
vùng Trung Ðông. Ông cho rằng khủng
bố là một chuyện quỉ quái, độc
hại và là một thách thức
lớn nhất mà người Mỹ
phải đối phó như một quốc
gia.
Ông Mueller nói
FBI giờ đây tin rằng " một người
làm bom của Al-Qaeda" đã tạo thành
đôi giầy bom mà Richard Reid đã
mang và tính ra tay nhưng đã bị
những hành khách ngăn chận lại
trên chuyến bay từ Paris vào Mỹ
vào tháng 12 vừa qua.
FBI đang mướn
thêm những chuyên viên khoa học
để giúp điều tra những
chuyện khủng bố và đang dùng
" khả năng tập trung phân tích " để
hỗ trợ cho chuyện thu thập bằng
chứng.
Ông Mueller cũng
nói chuyện bắt được Abu Zubaydah,
một người cao cấp của Al –Qaeda,
trong một cuộc bố ráp vào tháng
Ba ở Pakistan là kết quả của
một cuộc hành quân phối hợp
của FBI và CIA. Ông nhắc đến
những cuộc bố ráp chung như là
một ví dụ cho thấy rằng bức
tường ngăn cách cố hữu
giữa FBI và CIA đang sập xuống
khi hai cơ quan này cùng chung nhau chống
khủng bố.
|