BÍ
ẨN VỀ QUYỀN LỰC VÀ TÌNH
ÁI
CỦA
HỒ CHÍ MINH
Trong mấy chục năm
nay, guồng máy tuyên truyền của Hà
Nội đã làm cho nhân dân Việt
Nam và thế giới nghĩ về ông
Hồ chí Minh như một ông thánh
sống, suốt đời hy sinh cho nước
cho non nên không lập gia đình và
quyền uy, quyền lực của ông coi
như tuyệt đối trong chức vụ
Chủ tịch Ðảng và Chủ tịch
nước.
Nhưng cuộc đời
người ta vẫn thường nói,
"Thấy vậy mà không phải vậy"
. Ðúng vậy, dần dà qua năm
tháng, qua những khám phá của
những nhà báo, nhà nghiên cứu,
người ta mới thấy về đời
sống tình cảm cá nhân, ông
Hồ không những có một vợ
mà có đến mấy vợ, con
rơi con rớt tùm lum ! Về quyền
lực chính trị thì những tài
liệu mới tìm được của
những học giả Mỹ như Tiến
sĩ Sophie Quinn – Judge và nhà sử học
Pháp Pierre Brocheux cho thấy ngay từ lúc
thành lập Ðảng, ông Hồ đã
bị phê phán nặng nề và do đó
ông đã không nắm vai trò chủ
động trong việc điều hành và
lèo lái Ðảng theo ý muốn.
Ông bị Quốc Tế Cộng Sản chế
tài quyền lực lãnh đạo.
Khi đến cuối đời thì
sự nghiệp chính trị của ông
còn thê thảm hơn nữa. Ông
hoàn toàn bị nhóm Lê Duẩn
– Lê đức Thọ tước hết
quyền lực , biến ông thành một
biểu tượng cho Duẩn – Thọ sử
dụng vào mục đích tham vọng chính
trị riêng của phe nhóm họ. Dĩ
nhiên là có nguyên nhân sâu
kín mà các học giả ngoại quốc
dù bỏ ra cả chục năm để
nghiên cứu về Hồ cũng chưa
tìm ra câu trả lời rốt ráo
cho vấn đề ông Hồ bị thất
sũng này. Cuốn sách này dựa
trên chúc thư thật của ông Hồ
đã phần nào giải thích nguyên
nhân ông bị tước mất quyền
lực là vì ông đã liên
lạc với chính quyền Ngô đình
Diệm ở miền Nam, cụ thể nhất
là ông đã gửi cành đào
tặng cho ông Diệm qua ủy hội quốc
tế vào dịp xuân 1963. Quốc Tế
Cộng Sản đã cho phép Lê Duẩn
và Lê đức Thọ tước
quyền Hồ chí Minh vì tội thỏa
hiệp vói chính quyền miền Nam. Ðó
là cách giải thích hợp tình,
hợp lý nguyên nhân ông Hồ
bị mất quyền lực vào lúc
cuối đời.
Về đời
sống cá nhân gia đình cha mẹ
anh em, có nhiều người phê phán
ông là loại người ăn ở
bạc bẽo với ông anh tên Ðạt
và bà chị tên Thanh. Khi ông Ðạt
mất, ông Hồ viện cớ đang
lãnh đạo kháng chiến vì thế
không về dự đám tang. Tuy nhiên
sau này có người tìm ra bức
thư ông viết trong thời gian lưu
lạc ở Pháp cho nhà cầm quyền
Pháp yêu cầu xin được gửi
chút tiền về cho cha ông là Nguyễn
sinh Huy đang ở Việt Nam. Xem thế thì
ông không phải là người
không nghĩ đến phúc lợi
của cha ông. Lá thư này được
các nhà nghiên cứu tìm thấy
trong văn khố Pháp.
Về đời
sống tình cảm cá nhân, sau khi phải
rời xa người vợ Trung Quốc
Tăng tuyết Minh năm 1927 vì tình hình
biến chuyển, theo học giả Hoàng Tranh,
ông Hồ cũng rán tìm cách
viết thư về vấn an vợ và
nhạc mẫu. Lá thư bằng chữ
Hán ông viết cho vợ sau này
được một nhà nghiên cứu
người Pháp tìm thấy. Xem thế
ông cũng không phải là người
tệ bạc với người phối
ngẫu. Không thể đánh giá ông
là thứ người lưu manh, lợi
dụng con gái đàn bà xong rồi
thì " quất ngựa truy phong". Nhà văn
Vũ thư Hiên còn cho biết ông
có dịp nói chuyện với một
người bạn vốn là con một
ông lớn trong chính phủ, đã
chứng kiến cảnh Hồ chí Minh
và Tăng tuyết Minh gặp nhau ở
Hà Nội trong thập niên 1960. Riêng chuyện
người vợ gốc thiểu số
Nông thị Xuân của ông bị thủ
tiêu như sự ghi nhận của Nguyễn
minh Cần và Vũ thư Hiên thì
ông Hồ có phải là người
ra lệnh giết cô Xuân hay không vẫn
chưa có câu trả lời dứt
khoát. Có thể lệnh giết đến
từ phe Duẩn – Thọ, vốn không muốn
cho ông Hồ cưới vợ và
ra lệnh thủ tiêu cô Xuân để
ông Hồ tiếp tục đóng vai trò
hy sinh cả cuộc đời cho nước
non vì thế họ không cho ông lấy
vợ dù ông thú nhận trong chúc
thư ông cũng thuộc loại phàm phu
tục tử, chứ không phải là
thần thánh gì như chế độ
đã tâng bốc ông.
Ðối với
phía Hà Nội thì trước đây
khăng khăng là ông Hồ không
bao giờ lấy vợ nhưng dần
dần trước những công bố
bút tích và bằng chứng của
những nhà nghiên cứu về
chuyện ông Hồ có vợ, Hà
Nội đã tương đối mềm
mỏng trong thái độ chấp nhận
chuyện ông Hồ có vợ. Người
ta chưa quên chủ biên báo Tuổi
trẻ là Kim Hạnh bị mất chức
vì dám loan tin ông Hồ có vợ.
Mới đây, năm 2002, trong cuốn
sách " Từ Nguyễn ái Quốc đến
Hồ chí Minh " của Lữ Phương,
đã cho đăng nguyên văn bài
của Học giả Trung Quốc Hoàng Tranh
tiết lộ chuyện người vợ
Trung Quốc Tăng tuyết Minh của ông
Hồ ở phần phụ lục cuốn
sách đã cho thấy Hà Nội đã
dần dần chấp nhận chuyện ông
Hồ có vợ. Nói chung cuốn sách
của Lữ phương vẫn là " be
bờ và chữa cháy " cho những
khuyết điểm của ông Hồ ở
thuở thiếu thời. Chẳng hạn
như có bức thư ông Hồ viết
cho chính phủ Pháp xin vào học ở
trường Thuộc Ðịa thì Lữ
Phương gượng gạo giải thích
là do những người chung quanh ông
Hồ hồi ấy như Nguyễn thế Truyền
gợi ý cho ông Hồ viết lá
thư trên. Lữ Phương gắng gượng
giải thích như thế là muốn chạy
tội cho ông Hồ. Lá thư trên làm
cho Hà Nội kẹt vì họ vẫn tuyên
truyền là ông Hồ ra đi ngoại
quốc tìm đường cứu
nước. Nên khi chuyện phũ phàng
là khi tới đất Pháp ông
đã làm đơn xin vào học
trường Thuộc Ðịa làm Hà
Nội khó ăn khó nói và cuối
cùng để cho Lữ Phương bào
chữa cho Bác rằng lá thư " tội
lỗi " ấy là người ta xúi
Bác viết !
Nói chung Hà Nội
chưa có nổi can đảm nhìn nhũng
sai trái mà ông Hồ phạm phải
vì họ đã biến ông thành
ông thánh từ lâu. Khi phê phán
một nhân vật lịch sử, cần
phải có sự công tâm, nói
lên những cái xấu và tốt
của người ấy, tránh lối
phê phán một chiều. Con người
đôi khi không là thiên thần,
cũng không là ác quỷ mà là
sự trộn lẫn giữa hai vai trò
ấy.
Ðoạn cuối
bản chúc thư thật, người ta
sửng sốt khi thấy ước nguyện
của ông Hồ, vốn là ông tổ
CộÄng sản vô thần ở Việt
Nam, là mong ông trời phù hộ
cho đất nước Việt Nam và
những nước Cộng sản khác
sớm thoát ách Cộng sản. Thuở
thanh niên lúc đọc luận cương
Lê Nin, ông đã kể lại cảm
giác hân hoan sung sướng tột cùng
và nói to lên trong tiếng khóc,
" Ngồi trong phòng một mình mà tôi
như đứng trước đồng
bào. Tôi muốn hét to lên " Hỡi
đồng bào bị đọa đầy
đau khổ. Ðây là con đường
phá vỡ xiềng xích nô lệ
cho chúng ta. " Sau khi theo chủ nghĩa Cộng
sản cả một đời người,
cái oái oăm là lúc về già
ông trở thành nạn nhân thê
thảm của chủ nghĩa ấy, bị cô
lập và giết dần mòn, và ông
cũng đã nhìn thấy sự tệ
hại của chủ nghĩa ấy khi ứng
dụng vào thực tế ở Việt
Nam. Không ai chối cãi được
là phe các nước Xã Hội
Chủ Nghĩa đã giúp ông đánh
Pháp thành công nhưng rồi khi thành
công thì nước Việt Nam lại
rơi vào trong vòng khống chế của
một chủ nghĩa độc ác mới
, còn hung hiểm còn hơn thực dân
Pháp, đó là chủ nghĩa Mác
Lê Nin.
Chuyện ông Hồ
về già hối lỗi cũng không
có gì là lạ vì con người
là một loài có suy nghĩ, biết
nhận xét đúng sai. Sự bồng
bột thời thanh niên tuổi trẻ đã
được thay thếâ bằng sự
suy nghĩ chín chắn, già giặn lúc
vào tuổi xế chiều. Người
ta thường có cảm giác hối
lỗi, ân hận về những chuyện
làm không đúng trong quá khứ.
Hãy nhìn con người độc ác
Lê đức Thọ trong những ngày
cuối đời, đã cho mời
bà Phạm thị Tề ( là vợ
của ông Vũ đình Huỳnh, và
là mẹ của nhà văn Vũ thư
Hiên) đến để xin lỗi vì
Thọ đã là người giam cầm,
đày ải ông Huỳnh trong vụ án
xét lại. Một Thủ tướng Phạm
văn Ðồng cả cuộc đời
theo Cộng sản vô thần, thế mà
đến những ngày cuối đời,
khi hai mắt bị bệnh gần như mù,
cũng đã đến chùa xin quy
y Phật. Khi sám hối về những
mê muội sai lầm cũng là cách
con người tìm lại sự thanh thản
cho tâm hồn trước khi bước
qua thế giới bên kia. Nói chung, Hồ
chí Minh, Lê đức Thọ và
Phạm văn Ðồng đều có
những hối lỗi chân thành khi
hấp hối tàn đời.
Cuốn sách này
mổ xẻ những huyền thoại để
vạch ra chân tướng thật sự
của ông Hồ không nhằm mục đích
tôn vinh hay bôi bẩn ông mà chỉ
có ước mong vẽ lại cho đúng
chân dung của ông để thế hệ
sau có thể rút tỉa kinh nghiệm hầu
có những hành động ích
quốc, lợi dân.
Ước nguyện
của ông Hồ mong được nhìn
thấy Việt Nam và những nước
Cộng sản thoát khỏi gông cùm
Cộng sản cũng là ước nguyện
chung của những người đấu
tranh và nhân dân Việt Nam. Nhưng chuyện
đưa đất nước thoát
khỏi một hầm chông hiểm độc
không phải là một chuyện làm
đơn giản một sớm một chiều
mà là một nỗ lực đấu
tranh bền bĩ , một sự hy sinh gian khổ
không ngừng nghỉ trọn tháng trọn
năm.
Bên cạnh những
bài viết về ông Hồ, cuốn
sách này cũng có bài nói
đến tên phản bội khốn nạn
Nguyễn cao Kỳ, tệ nạn phe phái bênh
và bảo vệ cho nhau trong nền công lý
Mỹ, đời sống thực vật
và động vật của người
tù và người cùng khổ
ở Việt Nam..
Quê hương vẫn
còn trong gông cùm Cộng sản. Ðồng
bào Việt Nam vẫn đang sống kiếp
ngựa trâu. Bổn phận ai còn nghĩ
đến quê hương đất nước
đồng bào là phải dấn thân
tranh đấu, chuyển lửa tiếp máu
cho những người đấu tranh
ở quê nhà. Cái sai lầm của
Hồ chí Minh đã đem lại đau
thương, uất hận cho nhân dân Việt
Nam trong gần thế kỷ qua. Người
Việt Nam phải sửa cái sai lầm
chết người đó bằng khối
óc, con tim và chính thân mạng của
mình thì mới mong ngày tổ quốc
bước ra khỏi cơn đau.
Lawndale, một chiều
mưa tạnh hoang vu đầu tháng 3-2004
TRẦN VIẾT ÐẠI
HƯNG
* * *
PHỤ LỤC
BBC PHỎNG VẤN TIẾN
SĨ SOPHIE QUINN – JUDGE
VÀ NHÀ SỬ HỌC
PIERRE BROCHEUX VỀ HỒ CHÍ MINH
* BBC Ngày 26 tháng 7 năm
2003 ( Phỏng vấn Tiến sĩ Sophie Quinn-judge)
Trong năm 2003, có một quyển
sách mới về Chủ tịch Hồ
chí Minh. Quyển sách có nhan đề
Ho chi Minh, the missing years ( Tạm dịch: Hồ chí
Minh – Những năm chưa biết đến).
Tác giả là Tiến
sĩ sử học Sophie Quinn-Judge, Ðại
học LSE, London
Quyển sách chủ yếu
dựa trên tư liệu về Quốc tế
Cộng sản được giải mật
năm 1992 của Trung tâm lưu giữ quốc
gia Nga – mà trước đây vốn
là Viện nghiên cứu Marx- Lenin, đồng
thời lấy tư liệu từ kho lưu
trữ quốc gia Pháp.
Tập trung vào những
năm hoạt động của ông Hồ
chí Minh thời kỳ trước
1945, quyển sách cố gắng dựng
lại chân dung cũng như vị trí thật
sự của ông Hồ trong thời
kỳ này.
Sau đây là cuộc phỏng
vấn của đài BBC với Tiến
sĩ Sophie Quinn- Judge
BBC: Cuốn sách của bà
mở đầu bằng hội nghị hòa
bình tại Paris năm 1919 khi lần đầu
tiên ông Hồ chí Minh – mà lúc
này có tên là Nguyễn ái
Quốc – được nhiều người
biết tới. Vậy trước giai
đoạn này chúng ta có biết
gì nhiều về hoạt động của
ông, đặc biệt là việc người
cha của ông có ảnh hưởng
thế nào đến ông không?
Sophie Quinn – Judge : Cha của ông
Hồ là một nhân vật rất đáng
chú ý và tôi hy vọng sẽ có
thêm nghiên cứu tiếng Việt để
hiểu rõ hơn thân thế của người
này. Nhưng rõ ràng là việc người
cha bị thất sũng, không còn là
quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp,
đã có tác động đến
cuộc sống ông Hồ. Bởi khi ông
Nguyễn sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh
Bình Ðịnh, con ông là Nguyễn
tất Thành buộc phải thôi học
ở trường Quốc Học Huế
và trở thành thầy giáo tại
Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và như
mọi người đều biết, ông
đi Pháp năm 1911. Nếu cha ông vẫn
còn tại chức, thì có lẽ
người thanh niên Nguyễn tất Thành
đã tiếp tục đi học ở
Huế và sự nghiệp chống thực
dân của ông có thể đã
ngã sang một hướng khác. Chúng
ta không biết chắc, nhưng những
hoàn cảnh bên ngoài đã buộc
ông phải ra nước ngoài.
BBC: Bà ngụ ý là
ban đầu ông Hồ ra nước
ngoài không phải với mục đích
tìm đường cứu nước
?
Sophie Quinn – Judge: Không, ý
tôi không phải như thế. Dựa
trên tài liệu của pháp nói
về các anh chị em trong gia đình ông
Hồ và những lần họ giúp
đỡ cho Phan bội Châu, tôi nghĩ
gia đình họ tham gia vào các hoạt
động yêu nước chống thực
dân từ sớm. Tôi tin là
ông Hồ chí Minh cũng sẽ tham gia
vào các hoạt động chống thực
dân theo cách này hay cách khác.
Nhưng bởi vì ông không thể
ở lại trường Quốc Học,
nên ông ra nước ngoài để
tìm biện pháp hoặc học thêm để
nghĩ cách chống người Pháp.
BBC: Khi ông Hồ tới
Hội nghị hòa bình Paris 1919, người
ta nhìn ông Hồ như thế nào?
Sophie Quinn – Judge: Ðây là
một điều mà chúng ta rất khó
biết chắc bởi vì có một
khoảng trống lớn trong tiểu sử
của ông Hồ. Chúng ta không biết
trước năm 1919, ông Hồ hoạt
động ở mức độ nào,
chuyện chính trị có phải là
vấn đề bận tâm duy nhất của
ông hay không. Nên khi ông xuất hiện
tại hội nghị Paris tháng Sáu năm
1919, phân phát bản kiến nghị cho
các đại biểu tham dự, mọi
người thấy khó chấp nhận
ông ấy như một nhân vật ngang hàng
với những người nổi
tiếng như Phan chu Trinh hay Phan văn Trường.
BBC: Sau hội nghị ở
Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi
sau đó đi Quảng Ðông. Trong
khoảng thời gian này, vị trí
của ông Hồ trong Quốc tế Cộng
sản như thế nào, bởi vì
một số tác giả cho rằng lúc
này ông Hồ đã được
Quốc tế Cộng sản chú ý nhiều?
Sophie Quinn – Judge : Ðầu tiên
ông Hồ lúc đó không phải
là thành viên của Ðảng Cộng
sản châu Á nào. Ông ấy đang
là thành viên của Ðảng Cộng
sản Pháp. Vì thế, ông chưa có
vị trí vững chắc trong nội bộ
Quốc tế Cộng sản. Ví dụ, ông
không có chân trong ban chấp hành.
Có nhiều nhân vật khác quan trọng
hơn như Mahandra Roy từ Ấn Ðộ
hay Sen Katayama của Nhật. Nhưng Nguyễn ái
Quốc có một thông điệp rất
rõ về việc phong trào Cộng sản
có thể tham gia thế nào trong phong trào
quốc gia tại các thuộc địa. Tôi
nghĩ bởi vì thông điệp này
nên ông ấy được khuyến
khích lên phát biểu tại Ðại
hội lần thứ năm của Quốc
tế Cộng sản năm 1924. Nhưng lúc
ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải
là người phát ngôn hàng
đầu về các vấn đề
thuộc địa trong Quốc tế Cộng
sản. Việc ông Hồ là thành viên
Ðảng Cộng sản Pháp cũng có
thể đã khiến vị trí ông
trở nên phức tạp. Trotsky – đối
thủ chính trị của Stalin thời
bấy giờ – có một ảnh hưởng
đáng kể đối với những
người Cộng sản Pháp. Trong một
bãi mìn chính trị như vậy, ông
Hồ dường như bắt đầu
học cách hợp tác với bất
cứ ai đang nắm quyền lực
và học cách theo đuổi những
quan tâm của riêng mình.
BBC: Một số tác giả
như Jean Lacouture nói rằng ông Hồ
được gửi tới Quảng
Ðông để làm trợ lý
hay thư ký cho Borodin?
Sophie Quinn – Judge : Tôi nghĩ
điều này không chính xác,
bởi vì ông Hồ lúc đó
từ Nga đi Quảng Ðông mà
không mang theo một hướng dẫn rõ
ràng về những gì ông sẽ
làm tại đó. Ban đầu ông
ấy không được cho một vai
trò chính thức. Có lẽ như
người ta đã tìm cho ông
công việc làm người dịch
thuật tại hãng tin của Nga tại đó
để có tiền thực hiện các
hoạt động chính trị của ông.
Chứ còn lúc mới tới
Quảng Ðông, ông Hồ rất vất
vả trong việc có đủ tiền giúp
cho việc giúp đưa các thanh niên
Việt Nam sang Quảng Ðông tham gia các
khóa đào luyện. Như vậy, không
có một kế hoạch, chỉ thị rõ
ràng dành cho ông Hồ và ông
phải tự bương chải, đối
phó với các vấn đề
khi chúng diễn ra.
BBC: Chúng ta có biết
tâm trạng của ông Hồ lúc này
không?
Sophie Quinn – Judge : Tôi nghĩ
ông ấy cảm thấy bức bối
vì thiếu sự giúp đỡ
cụ thể của Quốc tế Cộng sản,
hay người Nga hoặc người Cộng
sản Pháp lúc đó. Trong năm
1924, ông Hồ liên tục gửi thư
yêu cầu các lãnh đạo Quốc
tế Cộng sản chú ý nhiều hơn
đến nhu cầu của phong trào tại
Việt Nam. Cuối cùng thì vào đầu
năm 1927, thông qua một đại biểu
Quốc tế Cộng sản từ Pháp
sang Quảng Ðông, ông Hồ nhận
được một khoản ngân sách.
Nhưng không may là trước khi kế
hoạch được thực hiện thì
xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng
giới Thạch và ông Hồ phải
rời khỏi Quảng Ðông trước
khi các khóa đào tạo mà ông
muốn tiến hành có thể khởi
đầu một cách toàn diện.
BBC: Trong khoảng thời gian
ông Hồ ở tại Quảng Ðông,
có xuất hiện cái tên của bà
Tăng tuyết Minh với những lời
đồn đoán khác nhau. Theo nguồn
tài liệu mà bà có, thì Tăng
tuyết Minh là ai ?
Sophi Quinn – Judge: Gần đây
đã có một chuyên gia Trung Quốc
đề cập đến người
này. Còn theo tài liệu mà tôi
tìm thấy tại Pháp, Tăng tuyết
Minh khi đó là một phụ nữ
trẻ ở Quảng Ðông. Và có
lẽ bà ấy và ông Hồ đã
kết hôn vào tháng Mười
năm 1926. Họ ở với nhau cho đến
khi ông Hồ phải rời Quảng Ðông
vào tháng Năm năm 1927. Như vậy
thời gian sống với nhau kéo
dài khoảng sáu tháng.
BBC: Từ mà bà dùng
– " có lẽ " – ở đây nghĩa
là thế nøo?
Sophie Quinn – Judge : Tôi không
chắc vào thời kỳ đó,
một cuộc hôn nhân được
định nghĩa như thế nào. Ta bắt
gặp những ví dụ khác nhau trong
các văn bản về phong trào Cộng
sản. Ðôi khi một cuộc hôn nhân
diễn ra đơn thuần vì lý do
chính trị. Hai người sống chung
với nhau như một cách ngụy trang
để duy trì các hoạt động
chính trị của họ. Thí dụ, nếu
họ điều hành tòa soạn một
tờ báo, họ sẽ an toàn hơn
khi giả làm hai vợ chồng. Và
tôi không biết trong các phong trào
cách mạng, đâu là các yếu
tố tạo nên một cuộc hôn nhân
có ràng buộc. Những điều
này có vẻ không chặt chẽ, chẳng
hạn nếu ta nhìn sự nghiệp của
Mao trạch Ðông, mà đã nhiều
lần thay đổi người nâng
khăn sửa túi cho mình.
Câu hỏi về Nguyễn
thị Minh Khai
BBC: Sau khi rời khỏi Quảng
Ðông, ông Hồ chí Minh đã
bôn ba nhiều nơi trước khi quay
trở lại Châu Á. Và rồi
chúng ta có sự thành lập Ðảng
Cộng sản Việt Nam, mà sau đó
có tên Ðảng Cộng sản Ðông
dương. Theo quyển sách của bà,
thì Ðảng Cộng sản thành lập
vào tháng Hai năm 1930 và đến
tháng Mười năm đó ông
Hồ chí Minh đã đánh mất
ảnh hưởng của mình trong đảng
?
Sophie Quinn – Judge : Cân nhắc
là ông Hồ đã trải qua một
thời gian ở Thái Lan, rồi sang
Hồng Kông vào mùa Ðông năm
1929. Hồng Kông là nơi mà tháng
Hai năm 1930, một Ðảng Cộng sản
thống nhất của người Việt
Nam ra đời. Cùng lúc này thì
có nhiều sự không rõ ràng
xung quanh việc ai là người ban đầu
được chính thức giao trách
nhiệm thành lập nên đảng. Bởi
vì trước đó Quốc tế
Cộng sản gửi về hai người
là Trần Phú và Ngô đức
Trì. Hai người này đã
học tại Moscow trong khoảng ba năm và
trở về mang theo chỉ thị của Quốc
tế Cộng sản về cách thức
thành lập đảng. Vậy là sau khi
Nguyễn ái Quốc thành lập đảng
cộng sản vào tháng Hai, hai người
này quay về Việt Nam hoạt động.
Cuối cùng đến tháng Mười,
diễn ra Hội Nghị Trung Ương lần
thứ nhất tổ chức tại Hồng
Kông. Ðến lúc này hai người,
mà đặc biệt là Trần Phú
- theo tôi – đã cố gắng ấn
định các chỉ thị mà họ
mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao
gồm đảng phải là tổ chức
của riêng giai cấp lao động, một
chủ trương mà sẽ dẫn đến
việc thanh trừng các thành phần
yêu nước gốc trung lưu trong nội
bộ đảng.
BBC: Cũng khoảng thời
gian này, có một lá thư đề
ngày 12 – 01 – 1931 của Văn Phòng Viễn
Ðông Quốc tế Cộng sản nhắc
ông Nguyễn ái Quốc rằng ông
cần thông báo cho họ về cuộc
hôn nhân của mình hai tháng trước
khi cuộc hôn nhân diễn ra. Ðây
là lúc chúng tôi muốn hỏi
bà, theo bà, thì có cuộc hôn
nhân giữa bà Nguyễn thị Minh
Khai và ông Hồ chí Minh hay không?
Sophia Quinn – Judge: Tôi không
chắc đó có phải là một
cuộc hôn nhân thật sự hay không.
Chúng ta biết là khoảng giữa
năm 1930, bà Nguyễn thị Minh Khai được
giao đến làm việc tại văn phòng
của ông Hồ ở Hồng Kông,
rồi sau đó được giao công
việc liên lạc với Ðảng Cộng
sản Trung Quốc. Vào tháng Hai năm
1931, ông Hồ có nhắc đến
việc vợ của ông đang bận chuẩn
bị cho ngày Tết và chuẩn bị
đón khách từ Việt Nam. Ông
Hồ cũng viết thư cho Quốc Tế
Cộng sản, có vẻ như trong đó
ông đề cập tới một đám
cưới sắp diễn ra. Bởi vì
sau đó Quốc Tế Cộng Sản viết
thư trả lời, nói ông cần
đình hoãn đám cưới
cho đến khi có chỉ thị mới.
Người ta nghi ngờ không biết
liệu ông Hồ có phải đang nói
về việc đám cưới thật
sự hay không bởi trong các thư
từ, họ thường sử dụng
nhiều loại mật mã. Nhưng trong trường
hợp này, có vẻ như lá thư
nói những chuyện thật sự đang
diễn ra bởi vì trong cùng một
lá thư ông Hồ cũng thảo luận
nhiều vấn đề khác một cách
công khai. Và từ những gì
người ta biết vào năm 1934, Nguyễn
ái Quốc có một người vợ
được cử tới đại
hội của Quốc tế Cộng sản ở
Moscow. Và trước khi Minh Khai tới
Moscow, bà ấy có viết thư nói
mình kết hôn với " Lin" – bí
danh của ông Hồ thời bấy giờ.
Vì vậy, người ta có thể
ngờ rằng giữa hai người
có một mối quan hệ vào năm 1931.
BBC: Bà nói mình không
chắc có thể dùng chữ " hôn
nhân " ở đây. Vậy nếu người
ta hỏi liệu đã có một mối
quan hệ tình cảm giữa ông Hồ
chí Minh và bà Nguyễn thị Minh Khai
thì bà sẽ trả lời như
thế nào ?
Sophie Quinn – Judge: Tôi nghĩ
câu trả lời là có, đặc
biệt nếu chúng ta dựa vào một
số chứng liệu khác. Ví dụ
vào năm 1945, trong cuộc nói chuyện
với một phóng viên Mỹ, ông
Hồ chí Minh có nhắc đến chuyện
ông từng có một người
vợ nhưng bà đã qua đời.
Hoặc có những đề cập nói
rằng vào cuối thập niên 1930, khi
Nguyễn thị Minh Khai quay về Việt Nam, bà
đã chia cắt với người
chồng là một nhà cách mạng
lớn tuổi đang ở nước
ngoài. Ðiều này nghe giống như
là một sự miêu tả ông Hồ
chí Minh.
BBC: Nhưng nếu dựa trên
những nguồn tài liệu của Pháp,
ta có khuynh hướng tin là bà
Nguyễn thị Minh Khai có nhiều mối
quan hệ với các đồng chí
khác nhau trong khoảng thời gian từ
1930 đến 1940 – Vậy thì đâu là
thực, đâu là hư ?
Sophie Quinn – Judge : Ðây chính
là điểm làm câu chuyện phúc
tạp. Thông tin tình báo của Pháp
lúc bấy giờ thường đề
cập chuyện bà Minh Khai có mối quan
hệ với nhiều người khác
nhau. Ví dụ, vào năm 1932, mật thám
Pháp tin rằng bà là người
tình của Trần ngọc Danh, em trai ông
Trần Phú. Chúng ta không biết chắc
liệu đây có thuộc về dạng
hôn nhân cách mạng hay không, khi mà
hai người cùng chí hướng
đã giả trang làm người
yêu để dễ đánh lạc hướng
chính quyền đương thời.
Hay còn điều gì hơn thế ! Thật
khó để biết rõ cách thức
hoạt động của những người
hoạt động cách mạng bởi vì
họ có thể xem mình thuộc về một
thế giới khác, vượt khỏi
các khuôn khổ đạo đức
bình thường.
* Mâu thuẫn trong đảng
BBC: Trong quyển sách, bà
viết là đến khi hội nghị Trung
ương đảng Cộng sản Ðông
dương họp tại Sài Gòn ngày
12 – 3 – 1931, mối quan hệ giữa Ban Chấp
Hành Trung Ương với ông Hồ
chí Minh đã xuống dốc rất
nhiều. Vì sao lại như vậy ?
Sophie Quinn – Judge: Thật sự
thì Ban Chấp Hành gồm rất ít
người, người lãnh đạo
chính là ông Trần Phú. Tôi
nghĩ có một sự khó chịu
với nhau từ cả hai phía – ông
Nguyễn ái Quốc ở Hồng Kông
và các ông Trần Phú, Ngô
đức Trì và các lãnh
đạo khác ở Sài Gòn. Than
phiền chính của họ là những
khó khăn trong việc liên lạc với
Quốc Tế Cộng sản, mà đại
diện là văn phòng phương Ðông
tại Thượng Hải. Có nhiều
lý do vì sao việc liên lạc lại
khó khăn. Một trong số đó là
chi nhánh Ðảng Cộng sản Trung Quốc
tại Hồng Kông đã bị người
Anh phát hiện vào khoảng đầu
năm 1931. Nên không còn một cơ
sở hạ tầng cho việc liên lạc
như trước đây. Và dĩ
nhiên lúc đó Ðảng Cộng
sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao
vì những đợt bắt bớ
của người Pháp. Trong hoàn cảnh
khó khăn như vậy, dễ hiểu là
vì sao các bên đổ lỗi cho nhau.
Ông Hồ không nhận được
thông tin từ trong nước, nên
ông yêu cầu ban chấp hành ở
miền Trung và Hà Nội. Ðiều
này làm các lãnh đạo ở
Sài Gòn khó chịu. Vì thế
ông Hồ cảm thấy mình không
được sử dụng đúng
và sau đó đề nghị đảng
cho thôi chức vụ của ông tại
Hồng Kông.
BBC: Nhưng bên cạnh đó,
một lý do khác dường như
là xung dđột trong hệ tư tưởng
giữa các bên phải không?
Sophie Quinn – Judge : Vâng, theo tôi,
ông Hồ lúc đó bị chỉ
trích vì người ta bắt đầu
xem ông là một nhà cải cách
theo xu hướng quốc gia. Ông ấy
coi đảng phải sử dụng những
tình cảm yêu nước để
thu hút nhiều đối tượng.
Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ
đảng đã bắt đầu đi
theo chính sách mới của Quốc
tế Cộng sản, tức là đấu
tranh giai cấp và đảng chỉ là
đảng của người vô sản
mà thôi, sinh viên hay tầng lớp
trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ
trợ.
BBC: Cái vấn đề
là người quốc gia hay Cộng sản
đã được bàn đến
nhiều xung quanh ông Hồ chí Minh. Có
người nói là ngay cả khi xem
ông Hồ là người theo chủ
nghĩa dân tộc, thì thật ra đó
không phải là lý thuyết của
chính ông? Bà nghĩ sao?
Sophie Quinn – Judge: Thật khó
để biết đâu là xu hướng
riêng trong chính sách của ông Hồ
lúc đó, đâu là ông
đi theo chính sách của Quốc tế
Cộng sản thời kỳ thập niên
1920. Nhưng có thể nói xu hướng
của ông Hồ lúc đó phù
hợp với chính sách của
Quốc tế Cộng sản lúc 1920, theo đó,
những người Cộng sản nên
tập trung vào các cuộc cách mạng
dân tộc ở các nước
thuộc địa bởi vì giai cấp
vô sản hay đảng cộng sản ở
những nơi ấy còn rất nhỏ,
tự mình hành động thì không
có lợi. Ông Hồ theo xu hướng
này. Còn ông có những ý
tưởng nào vượt ra khỏi
điều này không thì tôi không
rõ.
BBC: Chúng ta hãy chuyển
sang giai đoạn giữa thập niên 1930
khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như
vị trí của ông trong Quốc tế
Cộng sản lúc này bị lung lay ?
Sophie Quinn – Judge: Stalin lúc này
đã củng cố ảnh hưởng
của mình. Nói chung những ai đã
từng làm việc ở nước
ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư
tưởng tư sản. Những ai trở
về Nga phải tự thú. Có cảm
giác bị coi là kẻ thù ở
mọi nơi. Ðặc biệt những người
như ông Hồ chí Minh đã từng
làm việc với mặt trận thống
nhất ở miền Nam Trung Hoa. Thêm vào
điều đó, lại còn những
vụ bắt giữ người Cộng
sản tại Hồng Kông. Thượng
Hải năm 1930. Cơ sở của Quốc
tế Cộng sản tại Thượng Hải
sụp đổ. Và những người
lãnh đạo Ðảng Cộng sản
tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên
dĩ nhiên diễn ra các vụ điều
tra xem ai có tội, và ông Hồ chắc
chắn trải qua những ngày vất
vả khi đó.
BBC: Sau những vụ thanh trừng
tại Nga vào thời kỳ 1937 – 1938, thì
nhiều người tự hỏi vì
sao ông Hồ chí Minh có thể tồn
tại sau những ngày như thế ?
Sophie Quinn – Judge: Ðó là
câu hỏi mà các chuyên gia nước
ngoài đã tập trung nghiên cứu
từ lâu. Quan điểm trước
đây của họ cho rằng lý do chính
là vì ông Hồ, vào cuối thập
niên 1930, đã trở thành lãnh
tụ của đảng Cộng sản nên
vì thế được Stalin bảo vệ
hay ít nhất cũng là một trong những
người được tin dùng.
Theo tôi, đó là một sự tổng
quát hóa không có cơ sở.
Stalin có thể diệt trừ những
người thân cận nhất của
mình, không có ai là an toàn. Những
nhân vật thân cận như Kalinin, Molotov cũng
là nạn nhân của Stalin. Nên phải
nói ngay từ đầu cái ý
nghĩ bạn có thể an toàn khi ở
cạnh Stalin là điều không có
thật. Và ngoài ra, ông Hồ chí
Minh đã bị rơi vào cái cảnh
gần như bị giáng chức vào
năm 1935 vì cáo buộc ông chịu
trách nhiệm cho những vụ bắt giữ
năm 1931. Nên không thể nói ông
ấy lúc đó là nhân vật
hàng đầu trong Quốc tế Cộng
sản. Kết luận lại, tôi nghĩ lý
do chính là vì ông đã sống
kín đáo, lặng lẽ. Mà thật
sự Việt Nam cũng không phải nằm
trong danh sách kẻ thù chính của Stalin.
Ông ta quan tâm nhiều hơn đến
việc thanh trừng đảng cộng sản
ở các nước láng giềng.
* Nhìn lại
BBC: Theo tường thuật
của bà trong sách, đường
cách mạng của ông Hồ chí Minh
vẫn còn rất gian nan trong thập niên
30. Vậy ông Hồ đã làm thế
nào để có được quyền
lực trong đảng Cộng sản để
rồi sau này dẫn tới cách
mạng năm 1945 ?
Sophie Quinn – Judge: Một trong những
điểm tôi cố gắng làm rõ
trong quyển sách là quá trình dẫn
đến việc nắm quyền lực
năm 1945 của ông Hồ không phải
là một tiến trình có sẵn từ
đầu. Năm 1938, khi ông Hồ quay lại
Trung Quốc, Lê hồng Phong, Hà huy Tập
là thuộc trong số những lãnh
đạo đảng tại Sài Gòn.
Sau đó thì lần lượt từng
lãnh đạo tại Sài Gòn bị
Pháp bắt sau khi Mặt Trận Bình Dân
tại Pháp sụp đổ và người
Pháp một lần nữa đưa ra
chính sách trừ diệt đảng
Cộng sản. Sau đó, tôi nghĩ có
một cuộc khủng hoảng lãnh đạo
trong đảng. Lúc này ông Hồ
đang ở Trung Quốc xây dựng
một nhóm thanh niên Việt Nam theo đuổi
chính sách thống nhất – một chính
sách mà vào lúc này Quốc
tế Cộng sản quay lại sử dụng.
Tôi nghĩ đến đầu thập
niên 40, ông Hồ chí Minh là người
Việt Nam cần lúc đó, có mặt
và sẵn sàng hành động.
BBC: Như bà viết trong sách,
nhiều tác giả – cả Cộng sản
và không Cộng sản – đã phần
nào phóng đại vai trò của ông
Hồ chí Minh. Vì sao?
Sophia Quinn – Judge: Tôi nghĩ
đó là điều mà trong giới
sử học gọi là phát triển
bằng cách viết ngược. Bởi
vì ông Hồ trở thành chủ
tịch nước năm 1945, người
ta đặt ra những tiền đề
nghiễm nhiên về sự nghiệp của
ông. Và thật dễ dàng để
cho rằng ông đã luôn là một
trong những nhân vật hàng đầu
trong Quốc tế Cộng sản. Dĩ nhiên
Ðảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng
chấp nhận suy nghĩ này vì nó
cho họ một uy tín trong phong trào Cộng
sản Quốc tế.
BBC: Nhưng vì sao ngay cả
những người không Cộng sản
cũng có khuynh hướng chấp nhận
điều này ?
Sophie Quinn – Judge : Theo tôi, đó
là vì một chân dung như thế cũng
hợp với những nghị trình
của họ. Họ muốn tin rằng ông
Hồ đã luôn là một người
Cộng sản ẩn đàng sau cái vỏ
dân tộc chủ nghĩa. Tôi nghĩ đây
là vấn đề người ta muốn
tin vào một cái gì.
BBC: Khi đọc về những
bước đầu tiên trong sự
nghiệp của ông Hồ chí Minh, nó
có giúp gì cho người ta hiểu
về phần đời sau này của
ông hay không ?
Sophie Quinn – Judge: Vâng, tôi
nghĩ phần nào đó, những
gì diễn ra trong thập niên 30 cũng
tái lặp trong cuối thập niên 40 đầu
50. Mâu thuẫn trong phong trào Cộng sản
tại Việt Nam và quốc tế không
bao giờ vụt tắt. Một bên muốn
đi tới thật nhanh, xây dựng
điều mà họ gọi là chủ
nghĩa xã hội bằng cách loại
trừ tầng lớp trung lưu. Một
bên lại cho rằng chủ nghĩa Cộng
sản phải được xây dựng
từ từ, trải qua giai đoạn
của chủ nghĩa tư bản. Tôi nghĩ
người ta cần hiểu hai quan điểm
này cứ thay nhau được chấp
nhận, rồi gạt bỏ. Cứ như vậy.
Ðó là một trong những lý
do – tôi nghĩ – vì sao ông Hồ chí
Minh không phải bao giờ cũng duy trì
được vị trí là một
nhà lãnh đạo có thực quyền.
Trích đoạn trong phần
Tổng kết của tác phẩm " Hồ
chí Minh – Những năm chưa biết
đến " của Sophie Quinn – Judge.
" Trong Lời Tựa của
quyển sách, tôi đã đề
cập đến cách thức mà
những thái độ thời chiến
tranh lạnh ảnh hưởng đến
cách hiểu của chúng ta về ông
Hồ chí Minh và những nỗ lực
của ông nhằm phát triển một
đảng Cộng sản tại Việt Nam. Việc
sử dụng các nguồn tài liệu
mang tính tuyên truyền khiến nhiều
tác giả nhìn ông Hồ chí Minh
hoặc như một vị thánh dân tộc
vô cùng quan trọng hoặc như một ông
thần ác. Ông không chỉ là lãnh
tụ tối cao của Bắc Việt – ông
được coi như một nhân vật
Cộng sản nhiều ảnh hưởng
ngay từ khi mới gia nhập Ðảng
Cộng sản Pháp. Tuy vậy, như nghiên
cứu này cố gắng chỉ ra, vị
trí của ông Hồ trong Quốc tế
Cộng sản và phong trào Cộng sản
châu Á trước 1945 không rõ
ràng như nhiều người sau này
vẫn nghĩ. Trong năm 1920 hay 1930, ông không
xuất hiện như một nhà Cộng sản
nhiều ảnh hưởng trên trường
quốc tế, và ông gặp nhiều
khó khăn trong việc thu hút sự
chú ý của Ðảng Cộng sản
Ðông dương trong năm 1939 – 1940. Uy thế
của ông năm 1945 như biểu tượng
của phong trào độc lập Việt Nam
không phải là một tiến trình
nghiễm nhiên có từ đầu..
.. Không thể phủ nhận
việc lý thuyết của Quốc tế
Cộng sản thời kỳ đầu
về các vấn đề dân tộc
và thuộc địa đã là công
cụ tri thức quan trọng cho ông Hồ
chí Minh. Nó cho ông một khung lý thuyết
vững chắc để kết hợp
tình cảm chống thực dân và
khao khát công bằng xã hội. Tuy nhiên,
ý tưởng của Lệ Nin về chủ
nghĩa đế quốc và các vấn
đề thuộc địa không chỉ
là công cụ phân tích – việc ông
Hồ phát hiện và truyền bá
các tư tưởng này còn là
nguồn quan trọng đem lại cho ông sự
chính danh trong phong trào Cộng sản Việt
Nam. Khi những tư tưởng này
bị thay thế bởi khung phân tích
mới thời kỳ 1928 – 1929, sự
lãnh đạo của ông Hồ bị
xem xét lại. Như đã nói trong
Lời Tựa, các đối thủ
cạnh tranh thường xuyên muốn chứng
tỏ họ nắm vững hệ tư tưởng
và đường lối của Quốc
tế Cộng sản hơn ông Hồ. Ðôi
khi, đường lối này chỉ
là những tập hợp ý tưởng
manh mún không ai hiểu, lấy từ
Marx, Plekhanov, Lê Nin, Trotsky, Stalin và những
nhà tư tưởng thời trước
Cộng sản, nhưng nó cũng đủ
để là phương tiện giành
lấy sự chính thống. Như Amo Mayo
nói, " Hệ tư tưởng là nhân
tố quyết định sự thành
công của cách mạng.. Nó gắn
với nhu cầu của một nhóm xã
hội (mới ) muốn thể hiện hình
ảnh của mình." Sự quan trọng của
việc nắm vững lý thuyết để
xác lập tư cách lãnh đạo
cũng có thể liên quan tới truyền
thống Khổng học, vốn trọng khả
năng sáng tác một văn bản chính
thống hơn mọi kỹ năng thực
tế khác.
*Cuộc sống vợ chồng
của ông Hồ chí Minh và bà
Minh Khai ở Nga.
Ðề cập tới
các tài liệu liên quan đến
ông Hồ được Quốc tế
Cộng sản lưu giữ ở Nga, bà
Sophie Quinn – Judge cho biết, " Ðống hồ
sơ này cũng chẳng có được
bao nhiêu, sắp xếp lộn xộn, đôi
khi in lại hoặc đánh máy, cũng
có khi nguyên bản như một lá thư,
một vài tài liệu có chữ
ký của ông Hồ chí Minh hoặc
ký tắt với danh xưng là Quak,
Quac, NAQ hoặc với bí danh là Lee hay
là Lin. Sau này khi tra khảo tới các
hồ sơ lưu trữ về thuộc địa
của Pháp tại Aix-en-provence, tôi thấy
có được lợi ích là
góp phần để sắp đặt
cho các tài liệu về Quốc tế
Cộng sản theo thứ tự hợp
lý hơn là dựa vào các
tài liệu tại hai nơi thường
khi cùng ghi nhận đến các diễn
biến như nhau."
Về quan hệ của ông
Hồ và bà Minh Khai, bà Sophie Quinn – Judge
cho biết thêm :
" Một tiết lộ khác
được khám phá qua các tài
liệu này là có hai sự kiện
liên quan đến thời kỳ hoạt
động của bà Nguyễn thị Minh
Khai chứng tỏ bà là vợ
của ông Hồ chí Minh. Một sự
kiện thể hiện qua lá thư được
viết vào năm 1934 của ông Hà
huy Tập gửi tới Ban Bí Thư
Miền Ðông, nêu tên đại
biểu được cử đi tham
dự Ðại Hội Quốc tế Cộng
sản lần thứ Bảy, trong đó
có một người nói là "
vợ của Quốc ", còn sự kiện
kia là ở một chỗ khác thấy
nói tới danh xưng người đàn
bà đó là bà Vải ( bà
Minh Khai vào thời gian những năm
đầu hoạt động có làm
nghề hàng vải ). Vì trong phái đoàn
chỉ có một phụ nữ cho nên
dĩ nhiên đó phải là có
ý nói tới bà Nguyễn thị
Minh Khai.
" Sau này tại Mạc tư
Khoa, khi phải làm tờ khai lý lịch
cá nhân, khi điền vào câu
hỏi về tình trạng gia đình, bà
đã ghi là có chồng và kể
tên chồng là Lin. Ðó cũng
là danh xưng của ông Hồ tại Mạc
tư Khoa kể từ năm 1934 cho đến
năm 1938.
" Ngược trở lại
vào năm 1931, người ta thấy trong
một lá thư ông Hồ chí Minh có
nói đến bà vợ đang chuẩn
bị để đón khách vào
dịp tết. Ðây có thể là
một cách nói để ám chỉ
bao che cho các hoạt động chính trị,
nhưng nếu xét đến những
điều vào năm 1934 hàm ý là
bà Nguyễn thị Minh Khai, tôi e rằng
quả có thêm phần xác đáng
hơn.
" Vì một vài lý
do nào đó các giới chức
tại Hà Nội vẫn chưa chịu đả
động gì đến những điều
tiết lộ theo đó ông Hồ có
liên hệ tình cảm thực sự
với những người thuộc
phái nữ. Mặc dầu giờ đây
phía Trung Quốc đã trình bày
trước công luận cả một bức
ảnh và một bài viết nói về
việc ông Hồ kết hôn với
một phụ nữ vào tháng Mười
năm 1926 ( Tăng tuyết Minh), nhưng Hà
Nội vẫn chưa chính thức xác
nhận.
" Mặt khác, vào năm
1930, Nguyễn thị Minh Khai đến Hồng
Kông và làm việc trong văn phòng
của ông Hồ. Và khi đó quan
hệ giữa hai người đã
bắt đầu. Trong năm 1931, có một
lá thư của ông Hồ báo cáo
rằng ông sẽ lấy Nguyễn thị
Minh Khai làm vợ. Người ta có
thể coi đó là một cách nói
để giữ bí mật, nhưng toàn
bộ nội dung lá thư cho thấy ông
Hồ nói thẳng về sự kiện
đó. Rồi đến năm 1934, trước
ngày Quốc tế Cộng sản lần
Bảy tổ chức thì trong các tài
liệu về các đại biểu tham gia
đại hội đều nói về Nguyễn
thị Minh Khai là vợ của Quốc
tức Hồ chí Minh. Và trong toàn
bộ thời gian sau đó hai người
sống ở Mạc tư Khoa như vợ
chồng."
* BBC ngày 28 tháng 10 năm
2003
* BBC phỏng vấn nhà sử
học Pháp Pierre Brocheux
Nhà sử học Pháp
Pierre Brocheux có cuộc nói chuyện tại
Toronto, Canada chiều 29/10/2003 về cuốn sách
của ông mang tựa đề " Vietnam expose,
and new biography of Ho chi Minh" . Ban Việt ngữ BBC
hỏi ông muốn trình bày hình
ảnh gì mới về ông Hồ?
Pierre Brocheux : Tôi nghĩ rằng
ông Hồ chí Minh về bản chất
thực ra là một người theo Khổng
giáo. Ông luôn cố gắng kết
hợp những ý tưởng của
Khổng giáo, một truyền thống ý
thức hệ Ðông Á, với
các dòng tư tưởng châu Aâu,
từ Marxism đến Lenism. Tôi bỏ
cách nhìn từ trước đến
nay là tranh luận xem ông Hồ thực
sự là một người Cộng
sản hay một người theo đường
lối dân tộc chủ nghĩa.
Theo tôi, trước sau
ông là một người tốt, một
người Khổng giáo. Những
gì người ta nói về ông
ở Việt Nam hiện nay chỉ đúng
một phần mà thôi. Theo tôi, ông
đã cố gắng đưa vào thực
tế tính nhân đạo và tính
công bằng xã hội theo kiểu của
Khổng giáo.
BBC: Vậy ông nghĩ là
những gì ông tìm ra trong tính
cách của ông Hồ chí Minh có
thể có một tác động nào
đó lên xã hội Việt Nam hiện
nay không?
Pierre Brocheux : Ðúng, trong
xã hội Việt Nam bây giờ, đồng
tiền là quan trọng nhất thì Hồ
chí Minh là một sự lựa chọn
khác cho người ta .
BBC: Ông có nghĩ rằng
theo dòng tư tưởng của ông
Hồ chí Minh thì giả sử vào
thời điểm bây giờ của
Việt Nam, ông Hồ sẽ có quan điểm
như thế nào?
Pierre Brocheux: Tôi nghĩ ông
ấy sẽ giữ cách nhìn của
một người theo Khổng giáo và
một phần theo Lê Nin. Nhưng cũng phải
nói rằng ông Hồ sẽ ủng hộ
các vấn đề như nhân quyền.
BBC: Ông nghĩ nhân quyền
theo quan điểm châu Âu hiện nay à
?
Pierre Brocheux : Không hoàn toàn
như thế. Có thể ông ấy sẽ
thay đổi đôi chút. Nhưng vẫn
là nhân quyền. Ta không nên quên
rằng ông Hồ chí Minh sang Pháp vì
muốn biến tự do, bình đẳng,
bác ái thành sự thật. Chỉ
sau nước Pháp, ông ta mới
sang theo nước Nga Cộng sản.
BBC: Nhưng đối với
nhiều người thì ông Hồ
chí Minh vẫn là người đem
chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam
dù hiện nay các sử gia có nói
gì khác đi nữa.
Pierre Brocheux : Ông ấy đã
đưa chủ nghĩa Cộng sản vào
Việt Nam nhưng con người và tính
cách của ông ấy phức tạp
hơn vậy. Theo nghiên cứu của tôi
thì cả một giai đoạn trước
khi qua đời, ông Hồ bị cách
ly khỏi quyền lực, tức là
không hề có quyền gì. Ông
ấy bị biến thành một biểu tượng.
Vì thế cuốn sách của tôi
còn có một tựa đề nữa
là, " Hồ chí Minh, một nhà cách
mạng biến thành một biểu tượng.
" Ý tôi muốn nói ông bị người
ta biến thành một biểu tượng
không có quyền, một biểu tượng
yếu về quyền lực.
BBC: Cứ cho là ông
Hồ chí Minh có tính cách như
ông nói đi, thì theo ông, ông
Hồ nếu sống đến thập niên
70 thì liệu có cách giải quyết
khác cho miền Nam sau 1975 hay không?
Pierre Brocheux: Tôi tin là khác,
chắc chắn không có cách giải
quyết như các ông Lê Duẩn, Lê
đức Thọ. Hồ chí Minh khác
Lê Duẩn, Lê đức Thọ rất
nhiều. Sẽ không có chuyện bắt
người miền Nam đi cải tạo
hàng loạt hay những điều tương
tự. Sau 56 năm nghiên cứu Hồ
chí Minh, tôi có thể nói rằng
ông Hồ chí Minh là một người
ưa các giải pháp ôn hòa hơn
là cực đoan.
BBC: Vậy vai trò của ông
Hồ chí Minh trong Cải Cách Ruộng Ðất,
rồi vụ Nhân Văn Giai Phẩm ra sao, theo
những gì ông tìm ra?
Pierre Brocheux: Hồ chí Minh bị
coi là phải chịu trách nhiệm về
những sai lầm trong Cải Cách Ruộng
Ðất nhưng tôi tìm thấy nhiều
tài liệu như các báo cáo chính
trị của chính ông, lên án các
vụ đánh người, giết người
trong Cải Cách. Ông gọi làm như
thế là hành xử như " bọn
đế quốc ", rằng đó là
những hành vi tội phạm. Ông nói
tra tấn người là tội ác.
Về Nhân Văn Giai Phẩm thì phải
thấy rằng ông Hồ có viết
và phát biểu đúng một lần,
về phong trào Trăm Hoa Ðua Nở
ở Trung Quốc, ông lên án những
nhà văn bị coi là phái hữu
như Ðinh Linh, nhưng không hề nói
đến tên của bất cứ một
nhà văn hay nghệ sĩ Việt Nam nào.
BBC: Còn về những
người phụ nữ mà người
ta cho là hoặc là vợ hoặc là
người yêu của ông Hồ?
Pierre Brocheux: Tôi tin vào chứng
cớ của một sử gia Trung Quốc,
ông Hoàng Tranh đưa ra là bà
Tăng tuyết Minh là vợ ông Hồ.
Theo tôi, điều mà Bộ Chính trị
Ðảng Cộng sản Việt Nam làm, tức
là che dấu chuyện này, là một
sự kiện rất quan trọng. Ðiều
này chứng tỏ họ có một
chính sách biến ông Hồ thành
một biểu tượng cho họ. Nhưng tôi
không tìm thấy chứng cớ
ông Hồ chí Minh từng có một
bạn gái người Pháp như một
số người nói.
BBC: Xin cám ơn ông.
|